Tải bản đầy đủ (.pdf) (191 trang)

Chính sách kiều hối phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.82 MB, 191 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
----------------000--------------

TRẦN HUY TÙNG
CHÍNH SÁCH KIỀU HỐI PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 9.34.02.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019


MỤC LỤC
Phần mở đầu
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH KIỀU HỐI PHỤC VỤ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỀU HỐI
1.1.1. Sự di cư và dịch chuyển lao động
1.1.2. Khái niệm kiều hối
1.1.3. Phân loại kiều hối
1.2. TÁC ĐỘNG CỦA KIỀU HỐI TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.2.1. Tác động của kiều hối tới phát triển kinh tế qua tích luỹ vốn
1.2.2. Tác động của kiều hối tới phát triển kinh tế thông qua nguồn nhân lực
1.2.3. Tác động của kiều hối tới phát triển kinh tế qua chỉ tiêu năng suất tổng hợp


1.3. CHÍNH SÁCH KIỀU HỐI PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.3.1. Khái niệm chính sách kiều hối phục vụ phát triển kinh tế
1.3.2. Mục tiêu của chính sách kiều hối phục vụ phát triển kinh tế
1.3.3. Nội dung chính sách kiều hối phục vụ phát triển kinh tế
1.3.4. Công cụ thực thi chính sách kiều hối
1.4. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHÍNH SÁCH KIỀU HỐI PHỤC VỤ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
1.4.1. Kinh nghiệm quốc tế về chính sách kiều hối phục vụ phát triển kinh tế
1.4.2. Tổng kết kinh nghiệm quốc tế về chính sách kiều hối phục vụ phát triển
kinh tế Việt Nam
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH KIỀU HỐI PHỤC VỤ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG KIỀU HỐI TẠI VIỆT NAM
2.1.1. Thực trạng kiều hối vào Việt Nam nhìn từ bên cung
2.1.2. Thực trạng kiều hối vào Việt Nam nhìn từ bên trung gian
2.1.3. Thực trạng kiều hối vào Việt Nam nhìn từ bên cầu
2.2. TÁC ĐỘNG CỦA KIỀU HỐI TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
2.2.1. Tác động của kiều hối tới phát triển kinh tế Việt Nam qua mô hình VECM
2.2.2. Tác động của kiều hối tới phát triển kinh tế Việt Nam qua mô hình PSM
2.2.3. Tác động của kiều hối tới phát triển kinh tế Việt Nam qua điều tra khảo sát
2.3. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH KIỀU HỐI TẠI VIỆT NAM
2.3.1. Chính sách kiều hối tại Việt Nam trước năm 1999
2.3.2. Chính sách kiều hối tại Việt Nam giai đoạn 1999-2018
2.4. ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH KIỀU HỐI PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẠI
VIỆT NAM
2.4.1. Những mặt tích cực
2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH KIỀU HỐI PHỤC VỤ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
3.1. QUAN ĐIỂM VỀ CHÍNH SÁCH KIỀU HỐI TẠI VIỆT NAM


Trang
1
30
30
30
31
35
39
40
43
44
46
46
47
49
53
53
53
60
67
67
67
73
78
79
79
87
94
102

102
103
116
116
122
133
133


MỤC LỤC
3.2. MỤC TIÊU CHÍNH SÁCH KIỀU HỐI NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẠI
VIỆT NAM
3.2.1. Hệ thống mục tiêu nhằm tăng nguồn cung kiều hối vào kênh chính thức
3.2.2. Hệ thống mục tiêu nhằm hướng dòng kiều hối vào phát triển kinh tế
3.3. GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH KIỀU HỐI NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VIỆT NAM
3.3.1. Nhóm giải pháp từ phía cung
3.3.2. Nhóm giải pháp cho kênh dịch vụ chuyển tiền
3.3.3. Nhóm giải pháp về phía cầu
3.4. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
3.4.1. Nâng cao công tác thống kê về kiều hối
3.4.2. Tăng cường sự minh bạch thông tin về kiều hối
3.4.3. Tổ chức lại Quỹ bảo hộ công dân và Quỹ quốc gia về việc làm
3.4.4. Tăng cường quản lý hoạt động tín dụng ưu đãi cho xuất khẩu lao động
3.4.5. Xây dựng chính sách cho lao động ngắn hạn theo thời vụ
Tài liệu tham khảo
Danh mục công trình công bố có liên quan
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Phỏng vấn chuyên sâu đối tượng hộ gia đình nhận kiều hối
Phụ lục 2: Phỏng vấn chuyên sâu đối tượng người gửi kiều hối

Phụ lục 3: Phỏng vấn chuyên sâu đối tượng trung gian nhận và chi trả kiều hối
Phụ lục 4: Phỏng vấn chuyên sâu đối tượng các cán bộ của tổ chức trung gian
Phụ lục 5: Phỏng vấn chuyên sâu đối tượng cán bộ hội nông dân
Phụ lục 6: Phỏng vấn chuyên sâu đối tượng cơ quan quản lý
Phụ lục 7: Danh mục điều ước, thỏa thuận về hợp tác lao động từ 2010-2017
Phụ lục 8: Bảng 2.9: Kết quả mô hình VECM
Phụ lục 9: Bảng 2.10: Kết quả mô hình VECM đối với mối quan hệ dài hạn
Phụ lục 10: Bảng 2.11: Kiểm định Wald test đánh giá tác động ngắn hạn
Phụ lục 11: Kiểm định PSTEST
Phụ lục 12: Kết quả mô hình Probit

Trang
135
138
138
139
139
147
151
157
157
158
158
159
159
163
171
172
173
174

175
176
177
178
179
180
181
182
183


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT Từ viết tắt

Nguyên nghĩa tiếng Anh

Nguyên nghĩa tiếng Việt

1

ACH

Automatic Clearing House

Trung tâm thanh toán bù trừ

2

AD


Authorized Dealers

Đại lý

3

AI

Artificial Intelligence

Trí tuệ nhân tạo

4

ARCH

AutoRegressive Conditional
Heteroskedasticity

Hồi quy tương quan có điều kiện

5

ASEAN

Association of Southeast Asian
Nations

Hiệp
hội

các
Đông Nam Á

6

ATT

Average Treatment on Treated

Tác động trung bình đối với nhóm
nhận lợi ích

7

BPM

8

CPI

Balance of Paments and
International Investment Position
Manual
Consumer Price Index

9

DID

Difference in Difference


Khác biệt trong khác biệt

10

EAP

East Asia and the Pacific

Châu Á Thái Bình Dương

11

ECA

Europe and Central Asia

Châu Âu và Trung Á

12

FDI

Foreign Direct Investment

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

13

FEMA


Foreign Exchange Management Act

Luật Quản lý Ngoại hối

14

FFMC

Full-Fledged Money Chargers

Tổ chức đổi tiền toàn diện

15

FI

Financial Inclusion

Tài chính toàn diện

16

GA

Global Average

Trung bình toàn cầu

17


GDI

Gross Disposable Income

Tổng thu nhập khả dụng

18

GDP

Gross Domestic Productivity

Tổng sản phẩm quốc nội

19

GMM

Generalized Methods of Moment

20

GNI

Gross National Income

21

HTA


Home Town Association

22

ICOR

Incremental Capital-Output Ratio

23

IMF

24

IMO

International Monetary Fund
International Migration
Organization

25

KH

26

LAC

Latin America and the Carribean


Châu Mỹ Latinh và Carribe

27

MENA

Middle East and North Africa

Trung Đông và Bắc Phi

28

MTO

Money Transfer Organization

Tổ chức chuyển tiền

29

MTSS

Money Transfer Service Scheme

Cơ chế dịch vụ chuyển tiền

30

MTV


quốc

gia

Hướng dẫn xây dựng cán cân
thanh toán và đầu tư quốc tế
Chỉ số giá tiêu dùng

Tổng thu nhập quốc dân
Các tổ chức đồng hương ở ngoài
nước
Hệ số hiệu quả sử dụng vốn đầu

Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Tổ chức Di cư Quốc tế
Ký hiệu

Một thành viên


TT Từ viết tắt

Nguyên nghĩa tiếng Anh

Nguyên nghĩa tiếng Việt

31

NEFT


National Electronic Funds Transfer

32

NHCSXH

Hệ thống chuyển tiền điện tử
quốc gia
Ngân hàng Chính sách xã hội

33

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

34

NHTM

Ngân hàng thương mại

35

NHTW

Ngân hàng Trung ương

36


OCI

Oversea Citizen India

Công dân Ấn Độ ở nước ngoài

37

ODA

Official Development Assisstance

Vốn hỗ trợ phát triển chính thức

38

OLS

Ordinary Least Square

Bình phương nhỏ nhất

39

PIO

Person of Indian Origin

Người có gốc Ấn Độ


40

PLMA

41

PSM

42

PTTH

43

RDA

Ruppee Drawing Arrangement

Cơ chế rút đồng Ruppee

44

SAR

South Asia Region

Khu vực Nam Á

45


SME

Small-Medium Enterprise

Doanh nghiệp vừa và nhỏ

46

SSA

47

STEM

48

SWIFT

Sub-Sahara Africa
Science – Technology –
Engineering - Maths
Society for Worldwide Interbank
Financial Telecomunication

Châu Phi cận Sahara
Khoa học – Công nghệ - Kỹ thuật
– Toán học
Hiệp hội viễn thông liên ngân
hàng và tài chính quốc tế


49

TCTCVM

Tổ chức tài chính vi mô

50

TCTD

Tổ chức tín dụng

51

TCVM

Tài chính vi mô

52

TFP

53

THCS

Trung học cơ sở

54


TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

55

TPS

Temporary Protected Status

Trạng thái bảo vệ ngắn hạn

56

VAR

Vector Autoregression

Mô hình hồi quy vecto

57

VECM

58

VHLSS

Vector Error Correction Model

Vietnam Household Living
Standard Survey

Mô hình vecto hiệu chỉnh sai số
Cuộc điều tra mức sống dân cư
Việt Nam

Đạo Luật phòng chống rửa tiền
Propensity Score Matching

Kết nối điểm xu hướng
Phổ thông Trung học

Total Factor Productivity

Năng suất tổng hợp


DANH MỤC BẢNG
Tên bảng
Bảng 1.1: Các khoản mục liên quan đến kiều hối quy định trong BPM6
Bảng 1.2: Các khoản mục trên cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia
Bảng 1.3: Phân loại kiều hối theo các tiêu chí
Bảng 1.4: Tác động của kiều hối đối với các đối tượng theo mục đích sử dụng của hộ
gia đình nhận kiều hối
Bảng 1.5: Các đợt phát hành trái phiếu dành riêng cho Ấn kiều
Bảng 1.6: Phân loại các nhóm tổ chức cung ưng dịch vụ kiều hối tại Ấn Độ
Bảng 1.7: Các chính sách kiều hối phục vụ phát triển kinh tế
Bảng 2.1: Các mốc thời gian di cư quốc tế của người Việt Nam
Bảng 2.2: Mô tả kênh chuyển tiền kiều hối vào Việt Nam

Bảng 2.3: Các công ty kiều hối được thành lập bởi các TCTD
Bảng 2.4: Mục đích sử dụng kiều hối của lao động xuất khẩu phân theo quốc gia
Bảng 2.5: Phân tích thống kê mô tả các biến trong mô hình VECM
Bảng 2.6: Kiểm định tính dừng của chuỗi số liệu
Bảng 2.7: Xác định độ trễ thích hợp cho mô hình
Bảng 2.8: Kiểm định đồng liên kết Johansen

Trang
32
33
34
51
55
56
60
67
74
75
78
82
83
83
84

Bảng 2.9: Kết quả mô hình VECM

179

Bảng 2.10: Kết quả mô hình VECM đối với mối quan hệ dài hạn


180

Bảng 2.11: Kiểm định Wald test đánh giá tác động ngắn hạn

181

Bảng 2.12: Giá trị kiều hối và số lượng hộ nhận kiều hối phân theo khu vực
Bảng 2.13: Thống kê mô tả các biến số sử dụng trong mô hình PSM
Bảng 2.14: Kết quả đánh giá tác động mô hình PSM
Bảng 2.15: So sánh tỷ lệ hộ nghèo ở thành thị và nông thôn đối với 2 trường hợp
Bảng 2.16: Tổng hợp mẫu điều tra khảo sát
Bảng 2.17: Khung chính sách kiều hối tại Việt Nam giai đoạn 1999 – 2018
Bảng 2.18: Các văn bản liên quan tới chính sách cho người lao động ở nước ngoài

90
90
91
92
94
104

Bảng 2.19: Các chính sách nhằm bảo vệ quyền lợi của Việt kiều
Bảng 2.20: Một số văn bản liên quan tới quản lý dịch vụ chuyển tiền kiều hối
Bảng 2.21: Các cơ quan liên quan đến kiều hối

108
111
112

Bảng 2.22: Ngân sách cho các chương trình hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước

ngoài giai đoạn 2010 – 2017
Bảng 2.23: Cho vay, thu nợ, dư nợ và nợ đọng cho vay xuất khẩu lao động tại NHCSXH
giai đoạn 2010 – 2017
Bảng 3.1: Các chính sách kiều hối phục vụ phát triển kinh tế chia theo đối tượng
Bảng 3.2: Nội dung cần thiết trong hợp đồng khung

105

119
125
137
141


DANH MỤC SƠ ĐỒ
Tên sơ đồ

Trang

Sơ đồ 1.1: Chuyển tiền kiều hối

31

Sơ đồ 1.2: Các kênh tác động của kiều hối tới phát triển kinh tế

39

Sơ đồ 1.3: Quy trình gửi kiều hối qua các kênh trung gian giữa Ý và Phillipines

64


Sơ đồ 2.1: Thể chế quản lý kiều hối tại Việt Nam

116

Sơ đồ 3.1: Khung mục tiêu cho chính sách kiều hối phục vụ phát triển kinh tế
tại Việt Nam

136

Sơ đồ 3.2: Mối quan hệ giữa quan điểm của người dạy và người học đối với
đổi mới sáng tạo

145

DANH MỤC HÌNH
Tên hình

Trang

Hình 1.1: Tốp 10 quốc gia có lượng người di cư lớn nhất năm 2017

29

Hình 1.2: Tốp 10 quốc gia có lượng người di cư đến nhiều nhất năm 2017

29

Hình 1.3: So sánh chi phí chuyển kiều hối bình quân cho mỗi $200


65

Hình 2.1: Thống kê tình hình người lao động đi làm việc ở nước ngoài

68

Hình 2.2: Tỷ trọng kiều hối vào Việt Nam theo nhóm quốc gia

72

Hình 2.3: Các quốc gia nhận nhiều kiều hối nhất năm 2017 (Tỷ USD)

117

Hình 2.4: Dòng kiều hối vào Việt Nam giai đoạn 2001-2017

118

Hình 2.5: Cơ cấu nhân lực Việt Nam đi lao động theo hợp đồng có thời hạn ở một
số thị trường chủ yếu giai đoạn 2000 - 2016

119

DANH MỤC HỘP
Tên hình

Trang

Hộp 2.1: Tình hình người Việt Nam đi làm ở nước ngoài không theo hợp đồng


69

Hộp 2.2: Cách tuyên truyền cho nội dung lao động đi làm việc ở nước ngoài

128

Hộp 3.1: Cơ chế lao động ngắn hạn giữa Moldova và Slovenia

139

Hộp 3.2: Chương trình “Mi Comunidad”

155


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Tích cực tăng tỷ lệ tiết kiệm trong thời gian trước khi bắt đầu vào thời kỳ ổn
định là chìa khóa cho sự tăng trưởng dài hạn cho một nền kinh tế theo học thuyết của
mô hình Swan-Solow. Các nước đang phát triển, đặc biệt là quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm
nội địa thấp, luôn có nhu cầu rất lớn về nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế và phát
triển bền vững. Tuy nguồn lực trong nước là cơ bản nhưng nguồn lực từ bên ngoài
luôn có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự tăng trưởng bứt phá nhằm đuổi kịp các nền
kinh tế phát triển khác. Để đáp ứng yêu cầu vốn, nhiều quốc gia thường tìm đến thị
trường tài chính trong nước và quốc tế như phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu
quốc tế hay đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhận viện trợ phát triển chính thức
(ODA) mà ít quan tâm đến những khoản tiền của các cá nhân chuyển từ nước ngoài về
cho thân nhân trong nước, đó là dòng tiền kiều hối... Kiều hối đang là nguồn tài chính

giá rẻ (không phải chịu lãi suất) và ngày càng có khuynh hướng quan trọng đối với các
quốc gia có thu nhập trung bình và thấp. Song, tại một số quốc gia, dòng kiều hối hiện
lại bị giới hạn bởi các yếu tố nội tại thuộc các nước tiếp nhận kiều hối như chính sách
quản lý của nhà nước, mức phí chuyển tiền, hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước…
Do đó, đòi hỏi phải cải thiện các chính sách để tối ưu hóa vai trò cũng như các lợi ích
tiềm năng của dòng kiều hối có thể mang lại cho nền kinh tế. Có rất nhiều quốc gia
trên thế giới có nguồn kiều hối lớn hơn và ổn định hơn nguồn FDI rất nhiều và thậm
chí còn lớn hơn cả nguồn ODA. Worldbank (2017) cũng chỉ ra trong điều kiện tiết
kiệm nội địa thấp, chi tiêu chính phủ lớn thì nguồn tài chính từ nước ngoài, đặc biệt là
nguồn chuyển tiền kiều hối là đặc biệt có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế và xóa đói giảm nghèo.
Đối với Việt Nam, kiều hối ngày càng trở nên quan trọng. Từ sau năm 1999,
dòng kiều hối vào Việt Nam tăng cả về số tuyệt đối và tương đối so với GDP. Thống
kê chính thức cho thấy, từ năm 1993 đến 2018, lượng kiều hối đã tăng lên khoảng 100
lần, từ 141 triệu USD lên xấp xỉ 16 tỷ USD (Worldbank Indicator Data); và dòng kiều
hối đang có khuynh hướng gia tăng trong những năm tới do lượng lao động xuất khẩu
của Việt Nam ngày một tăng và môi trường đầu tư trong nước đang được cải thiện
mạnh mẽ…Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính 2008-2009, khi ODA và FDI giảm
nhưng lượng kiều hối đổ vào Việt Nam không những không giảm mà còn liên tục gia


2

tăng. Điều này đã chứng tỏ kiều hối ngày càng trở thành nguồn vốn ổn định và có thể
dần thay thế được các nguồn vốn từ bên ngoài như ODA hay FDI.
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng trên nhiều lĩnh vực, trong đó có
thành công về xóa đói giảm nghèo. Mặc dù chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về
mối quan hệ giữa kiều hối và đói nghèo ở Việt Nam, việc phủ nhận vai trò của kiều
hối trong việc giảm tỷ lệ đói nghèo ở nhiều vùng trên cả nước là chưa chắc chắn. Trên
thực tế, có khá nhiều người nhận tiền trợ giúp của người thân từ nước ngoài và họ đã

thoát khỏi đói nghèo, trẻ em được đến trường; có hộ còn mua thêm tư liệu sản xuất,
mở xưởng sản xuất kinh doanh và thậm chí xuất khẩu hàng hóa (như hàng thủ công
mỹ nghệ, đồ gốm, đồ gỗ…) và như vậy đã tạo ra việc làm…
Bên cạnh những tác động tích cực của dòng kiều đến kinh tế xã hội, không thể
không nói đến những tác động tiêu cực mà nó mang lại, đó là:
(i) Nền kinh tế Việt Nam tỏ ra bị động trước dòng vốn chảy vào quá lớn đột
biến (trong đó có dòng kiều hối): Bản thân nguồn lực tài chính là rất tốt đối với mọi
quốc gia cho tăng trưởng. Tuy nhiên nếu không chủ động và có chính sách phù hợp
cho việc tiếp nhận các dòng vốn quốc tế thì sẽ không tận dụng được những lợi ích của
nguồn lực này mang lại mà trái lại, dòng vốn này có thế gây ra những tác động tiêu
cực đến nền kinh tế nói chung, hệ thống tài chính nói riêng, được biết đến với tên gọi
là “bội thực vốn ngoại”1.
(ii) Tình trạng đô la hóa có thể làm giảm hiệu lực và hiệu quả của chính sách
tiền tệ. Trong điều kiện thị trường ngoại tệ tự do phát triển khá mạnh thì rất có thể là
kiều hối đã góp phần vào tình trạng đô la hóa cao.
(iii) Kiều hối và vấn đề tiêu dùng quá mức: Tuy chưa có nghiên cứu, khảo sát
cụ thể, nhưng cũng có dấu hiệu về biểu hiện tiêu dùng quá mức khi dòng kiều hối chảy
vào gia tăng. Nhiều nghiên cứu cho thấy, trong thời gian kiều hồi về nhiều, thì hàng
nhập khẩu giá trị cao đã tăng lên đáng kể.

Năm 2007, Việt Nam phải đối mặt với khá nhiều vấn đề khi lượng vốn nước ngoài chảy vào quá lớn (trong đó
có khoảng 7 tỷ USD kiều hối). Sự chưa sẵn sàng và chưa thực sự chủ động dẫn đến tình trạng VND lên giá, thị
trường ngoại hối đình đốn vào đầu năm 2008. Để tránh cho VND lên giá, NHNN đã phải mua vào ngoại tệ, đồng
nghĩa với việc phải bơm VND ra và tạo nên áp lực lạm phát. Trong trường hợp các biện pháp trung hòa lượng
VND bơm ra không hiệu quả thì một lượng tiền VND lưu thông quá lớn sẽ gây ra các hiệu ứng tiêu cực lên thị
trường chứng khoán và thị trường nhà đất (bong bóng tài sản).

1



3

(iv) Kiều hối và hoạt động rửa tiền: Các nước kém phát triển thường là điểm
đến của các dòng tiền ẩn sau kiều hối. Việt Nam đã tham gia Điều ước quốc tế về
phòng chống rửa tiền song đó vẫn là vấn đề cần phải quan tâm.
(v) Kiều hối qua kênh phi chính thức vẫn rất khó kiếm soát và phức tạp cả trong
lý luận lẫn thực tiễn: theo thống kê của một đại diện cơ quan quản lý Nhà nước thì
lượng kiều hối qua kênh không chính thức có thể lên tới khoảng 30% tổng lượng kiều
hối chuyển về Việt Nam. Điều này sẽ khiến cho hiệu lực chính sách vĩ mô sẽ gặp
nhiều khó khăn do chưa tính hết được lượng tiền ngoại tệ trong nền kinh tế.
Thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã có các chính sách nới
lỏng đối với dòng kiều hối từ năm 1999. Những thay đổi trong chính sách quản lý
ngoại hối cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các dòng vốn ra, vào nói chung và kiều
hối nói riêng. Song các chính sách liên quan đến kiều hối vẫn còn nhiều bất cập, chưa
thu hút tối đa dòng kiều hối để phát huy những tác động tích cực và có những biện
pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tác động tiêu cực của kiều hối. Chẳng hạn, chính sách
công về khuyến khích sử dụng kiều hối vào kênh phát triển chưa được quan tâm đúng
mức. Các chính sách về khuyến khích các tổ chức trung gian nhận và chi trả kiều hối
chưa được tập trung. Ngoài ra, chưa có chính sách và hành động nhằm thúc đẩy sự
minh bạch trên thị trường dịch vụ kiều hối.
Để tối ưu hóa nguồn vốn kiều hối cho phát triển không những đòi hỏi phải có
một hệ thống chính sách kiều hối đồng bộ và khoa học, từ chính sách công tới chính
sách tư nhân, phù hợp với diễn biến và tình hình mới, mà còn đặt ra vấn đề chính sách
kiều hối trong mối quan hệ với các chính sách khác và trong bối cảnh mới. Do đó, việc
nghiên cứu đề tài: “Chính sách kiều hối phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam” là
cần thiết.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan nghiên cứu nước ngoài
Chủ đề kiều hối đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các tổ chức quốc tế và
các học giả, nhà làm chính sách trên các phạm vi phong phú. Xu hướng nghiên cứu về

kiều hối bắt đầu xuất hiện với tần suất lớn từ sau Chiến tranh Thế giới thứ II khi những
quy định cởi mở hơn về vấn đề di cư, nhập cư được các quốc gia áp dụng. Kể từ đó tới
nay, các nghiên cứu nổi bật về kiều hối có thể được chia thành 3 nội dung chính đó là:
(i) định nghĩa, phương pháp đo lường và dòng kiều hối; (ii) các nhân tố ảnh hưởng tới


4

quyết định gửi kiều hối; (iii) sử dụng và tác động của kiều hối. Phần tiếp theo trình bày
xu hướng những kết quả nghiên cứu cơ bản ở từng nội dung nghiên cứu trên.
2.1.1. Định nghĩa, phương pháp đo lường và dòng kiều hối
Định nghĩa về kiều hối có sự khác nhau giữa các quốc gia dẫn đến sự sai khác
trong cách đo lường kiều hối (Kapur, 2003; Worldbank, 2007). Dù tất cả đều thừa
nhận sự phát triển và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn của kiều hối gửi từ thân nhân ở
nước ngoài, định nghĩa và phương pháp sử dụng để đo lường kiều hối cũng không
giống nhau ở tất cả các quốc gia. Một số nước không công bố hoặc công bố một phần
số liệu về kiều hối chính thức, trong khi đó, một số khác lại chỉ công bố số liệu từ các
công ty chuyển tiền. Sự khác biệt giữa đầu tư và kiều hối cũng tương đối không rõ
ràng. Những sự không nhất quán này dẫn đến vấn đề thống kê và so sánh kiều hối giữa
các quốc gia gặp khó khăn (Worldbank, 2007).
Số liệu kiều hối thường xuyên được sử dụng trong phân tích đó là số trên cán
cân thanh toán cung cấp bởi IMF. Do đó, nhằm mục đích thống kê lượng kiều hối một
cách nhất quán trên toàn cầu, IMF (2009) đã mở rộng khái niệm kiều hối từ “một phần
thu nhập của người di cư chuyển về cho thân nhân tại nước bản xứ” thành “nguồn thu
nhập mà hộ gia đình của một quốc gia nhận được từ một quốc gia khác”. Như vậy,
ngoài nguồn thu nhập có từ thân nhân gửi từ nước ngoài về, hộ gia đình còn nhận được
kiều hối từ phía Chính phủ, các tổ chức hay quỹ từ thiện.
Bên cạnh dữ liệu cung cấp bởi IMF, khảo sát hộ gia đình cũng là một phương
pháp hữu ích trong việc nâng cao số liệu thống kê kiều hối. Đối với các nhà khoa học
xã hội, đại diện cho khảo sát hộ gia đình có giá trị cao trong việc nâng cao chất lượng

đo lường dòng kiều hối. Mặc dù còn có những vấn đề trong cách xác định và đo lường
dòng kiều hối, số liệu về kiều hối ngày càng tăng lên trong một thập kỷ vừa qua.
Không chỉ kiều hối được gửi từ những nước phát triển, ước tính của Ratha và Shaw
(2007) cho thấy có từ 10%-29% kiều hối tới từ các quốc gia đang phát triển.
Một vấn đề khá phổ biến khác là việc ước lượng dòng kiều hối mới chỉ ước
lượng được dòng kiều hối qua kênh chính thức. Kiều hối qua kênh phi chính thức chưa
thể đo lường được, mặc dù con số này có thể bằng lượng kiều hối chính thức theo
đánh giá của Worldbank. Thời gian gần đây chứng kiến nhiều hơn các nghiên cứu cố
gắng đo lường quy mô và tác động của dòng kiều hối phi chính thức (Freund và
Spatafora, 2005; Adams, 2007; Orozoco, 2006; Aggarwal, Demirguc-Kunt và Peria,
2006; Giuliano và Ruiz-Arranz, 2005).


5

Freund và Spatafora (2005) sử dụng lý thuyết kinh tế ngầm để ước tính ra kiều
hối phi thức thức cho 100 quốc gia. Kết quả cho thấy kiều hối phi chính thức chiếm từ
35-75% lượng kiều hối chính thức. Nghiên cứu cũng chỉ ra quy mô kiều hối phi chính
thức khác giữa các vùng miền: kiều hối phi chính thức thường chuyển về khu vực
Đông Âu, Cận Sahara; trong khi đó, kiều hối phi chính thức chuyển về Đông Á và khu
vực Thái Bình Dương thấp hơn.
Một nghiên cứu khác tìm ra đặc điểm của kiều hối phi chính thức theo đối
tượng di cư (Adams, 2007). Theo đó, dựa trên khảo sát hộ gia đình tại Ghana, Adams
(2007) cho rằng đối tượng di cư trong nước chỉ gửi tiền về gia đình qua kênh chính
thức chiếm 1%, còn đối tượng di cư nước ngoài gửi tiền về nước qua kênh chính thức
chiếm 43%. Như vậy, người di cư Ghana chuyển tiền về nước qua kênh phi chính thức
chiếm tới hơn một nửa.
Một lý do quan trọng khiến người di cư gửi kiều hối qua kênh phi chính thức là
chi phí gửi tiền qua kênh chính thức quá cao. Vào năm 2000, chi phí trung bình gửi
kiều hối tới 8 quốc gia Mỹ Latinh là hơn 10% (Orozoco, 2006). Trước năm 2006, chi

phí chuyển tiền tới các quốc gia này đã giảm 5,6% nhưng nó vẫn cao hơn nhiều so với
chi phí chuyển kiều hối qua kênh phi chính thức. Do đó, về khía cạnh chính sách,
Chính phủ luôn cố gắng làm giảm chi phí chuyển tiền qua kênh chính thức xuống
nhằm thu hút lượng kiều hối chuyển về kênh chính thức. Kiều hối gửi qua kênh chính
thức có thể cải thiện sự phát triển của thị trường tài chính thông qua: (i) tăng thêm
nguồn tiền gửi, từ đó tăng thêm nguồn tín dụng; (ii) người nhận kiều hối có thể sử
dụng thêm các sản phẩm, dịch vụ tài chính và (iii) ngân hàng có thể tiếp cận với các
đối tượng chưa được phục vụ bởi ngân hàng (Aggarwal, Demirguc-Kunt & Peria,
2006). Ngoài ra, tại nền kinh tế có thị trường tài chính kém phát triển, kiều hối có thể
giúp mở rộng tín dụng, qua đó, tăng trưởng kinh tế (Giuliano & Ruiz-Arranz, 2005).
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới dòng kiều hối
Về các nhân tố ảnh hưởng tới dòng kiều hối, các nghiên cứu trước đây chia các
nhân tố thành 2 mức độ: vĩ mô và vi mô. Phần tiếp theo trình bày tổng quan nghiên
cứu về các vấn đề theo từng nhóm mức độ.
Xét về mức độ vĩ mô, các nhân tố bao gồm tình hình kinh tế vĩ mô của nước gửi
và nước nhận như lãi suất, tỷ giá, lạm phát,…(Lucas và Stark, 1985). Wahba (1991)
cũng chỉ ra chính sách của chính phủ, sự phát triển các trung gian tài chính, sự khác
biệt về lãi suất giữa 2 quốc gia cũng là những nhân tố vĩ mô tác động đến dòng tiền


6

kiều hối. Đặc biệt, Aydas, Metin-Ozcan, và Neyapti (2005) đã tiến hành nghiên cứu
các nhân tố tác động đến dòng tiền gửi của kiều hối tại Thổ Nhĩ Kỳ trong hai giai đoạn
1965-1993 và 1979-1993. Kết quả chỉ ra rằng các yếu tố vĩ mô tác động đến dòng gửi
của kiều hối gồm: sự khác biệt về mức thu nhập tại 2 quốc gia, lãi suất tại thị trường
đen, mức độ lạm phát và tăng trưởng tại nước nhận tiền gửi và thời kỳ quân sự là
những yếu tố tác động đến dòng gửi của kiều hối.
Xét về mức độ vi mô, các nghiên cứu chỉ ra có 4 nhóm nhân tố chính bao gồm:
(i) văn hoá, (ii) giới tính, (iii) nhân khẩu học và (iv) các tổ chức Hội ở nước ngoài.

a. Nhân tố văn hoá
Các yếu tố liên quan tới văn hoá được các nghiên cứu nhắc đến bao gồm: thời
gian định cư (Jones, 2011; Smith, 2001), tôn giáo (Kurrien, 2008) và sự cam kết
(Tacoli, 1999).
Jones (2011) tìm ra kết quả lượng kiều hối giảm dần theo thời hạn định cư ở
nước ngoài càng dài, số lượng người định cư của gia đình tăng, việc sở hữu nhà đất ở
nước ngoài và tính hợp pháp của các thành viên trong gia đình. Bên cạnh đó, mặc dù
tần suất liên hệ và gặp mặt tăng cùng với thời gian thân nhân sống ở nước ngoài, giá
trị văn hoá trở nên hiện đại trong dài hạn. Smith (2001) nhấn mạnh biện luận này bằng
việc tập trung vào 3 khía cạnh của vấn đề “duy trì mối quan hệ xuyên biên giới”.
Dựa trên phương pháp dân tộc học, Kurrien (2008) quan sát hành vi liên quan
tới việc sử dụng kiều hối tại 3 làng tại Kerala, Ấn Độ - nơi nhận lượng lớn kiều hối từ
Trung Đông. Kết quả là, không giống với những làng theo Đạo Hồi – nơi mà kiều hối
thường được dùng cho chính những thành viên trong cộng đồng, người dân theo Đạo
Hindu chỉ yếu sử dụng kiều hối cho các lễ nghi. Tại các làng có người theo Công giáo,
kiều hối được sử dụng phần lớn cho giáo dục và tích luỹ cho thế hệ sau. Nguyên nhân
của hành vi này được lý giải là trong khi người theo Đạo Hồi hầu như làm tại các khu
vực kinh tế phi chính thức ở Trung Đông, người theo Đạo Hindu và Đạo Thiên Chúa
thường làm trong khu vực chính thức.
Cuối cùng, về sự cam kết, Tacoli (1999) khi nghiên cứu hành vi của những
người di cư Phillipin tại Roma, đã đưa ra kết luận sự cam kết của người phụ nữ hướng
tới quê hương cao hơn so với những người nam giới. Tuy nhiên, khoảng cách địa lý và
sự độc lập về tài chính có thể cung cấp cho người phụ nữ Phillipin cơ hội để theo đuổi
những mục tiêu riêng cho bản thân mình trong khi vẫn giữ tình cảm đối với gia đình ở
nước nguyên xứ.


7

b. Nhân tố giới tính

Với gần 50% người di cư là nữ giới, ngày càng có nhiều nghiên cứu đặt câu hỏi
liệu rằng giới tính đóng vai trò như thế nào đối với dòng kiều hối và tác động tới nước
nguyên xứ ra sao. Pfieffer và cộng sự (2007) đã trình bày tổng quan cả về lý luận lẫn
thực nghiệm về ảnh hưởng của giới tính tới di cư quốc tế và kiều hối. Nhìn chung,
nghiên cứu về nhân tố giới tính ảnh hưởng tới kiều hối có thể được chia thành 2 nhóm
chính: (i) so sánh đặc điểm gửi kiều hối giữa hai giới tính (Osaki, 1999; Abrego, 2009)
và (ii) tác động của giới tính tới hành vi sử dụng kiều hối (Rahman và Fee, 2009; King
và Vullnetari, 2009).
Đối với nhóm thứ nhất, câu hỏi nghiên cứu không nằm ở việc so sánh quy mô
kiều hối gửi về giữa hai giới tính bởi người di cư là nữ giới thường có sức lao động
kém hơn và do đó thu nhập thấp hơn nam giới. Câu hỏi sẽ tập trung vào tỷ trọng gửi
về đối với thu nhập của 2 giới tính. Theo đó, Osaki (1999) khai thác dữ liệu về di cư
của Thái Lan đã chỉ ra rằng nữ giới dành nhiều thu nhập của mình để gửi về gia đình
hơn nam giới. Abrego (2009) cũng tìm ra kết luận tương tự đối với dữ liệu thu thập từ
người El Salvador gửi kiều hối từ Mỹ về nước. Theo đó, Abrego (2009) khẳng định
nam giới dành ít tỷ trọng thu nhập để gửi về nhà hơn nữ giới, đặc biệt, tần suất gửi của
nam giới có sự gián đoạn nhiều hơn so với nữ giới. Ngoài ra, Abrego (2009) còn
phỏng vấn trẻ em tại các gia đình nhận kiều hối tại El Salvador và kết luận tỷ trọng
những đứa trẻ tại gia đình có mẹ đi làm ở nước ngoài chi tiêu có tính kinh tế hơn so
với tỷ trọng những đứa trẻ tại gia đình có cha đi làm ở nước ngoài.
Đối với nhóm thứ hai, câu hỏi nghiên cứu tập trung vào hai vấn đề: (i) liệu rằng
người nhận là nữ giới sẽ sử dụng kiều hối vào chăm sóc sức khoẻ, dinh dưỡng và giáo
dục và (ii) liệu rằng người gửi kiều hối là nữ duy trì mối quan hệ với gia đình ở quê
hương như thế nào – điều này ảnh hưởng tới dòng kiều hối trong tương lai. Rahman và
Fee (2009) tìm ra rằng trong số những người di cư ngắn hạn của Indonesia đến các
quốc gia như Singapore, Malaysia, người nhận kiều hối là nữ thường sử dụng chủ yếu
kiều hối vào tài sản cố định. King và Vullnetari (2009) tuy khẳng định kết quả tương
tự nhưng cung cấp thêm nhận định mặc dù phụ nữ tại Albani gửi tiền về gia đình, họ
lại không có quyền kiểm soát về việc kiều hối sẽ được sử dụng như thế nào.
c. Nhân tố nhân khẩu học

Các nghiên cứu trước đây thường đặt câu hỏi đặc điểm nhân khẩu học nào sẽ
ảnh hưởng tới hành vi gửi kiều hối của người di cư và nhân tố nào sẽ ảnh hưởng tới


8

quy mô kiều hối gửi về nước của họ. Hầu hết các nghiên cứu khẳng định tình trạng
hôn nhân và tuổi ảnh hưởng tới dòng kiều hối gửi về quê hương, các nhân tố khác như
trình độ học vấn, bảo hiểm vẫn còn gây ra nhiều tranh luận.
Về tình trạng hôn nhân và tuổi, Durand và cộng sự (1996) khi phân tích nhân tố
ảnh hưởng của dòng kiều hối giữa hai quốc gia Mỹ và Mexico đã khẳng định tỷ trọng
kiều hối gửi trên tổng thu nhập của người di cư đạt cao nhất nếu người di cư đã lập gia
đình, độ tuổi trung bình là 40 và di cư bằng con đường phi chính thức. Nhóm tác giả
này cũng tìm ra kết quả tỷ lệ kiều hối gửi về trên tổng thu nhập có xu hướng giảm khi
tuổi của người di cư và trình độ học vấn tăng. Xét về quy mô kiều hối gửi về, lượng
kiều hối tỷ lệ thuận với thu nhập, trình độ học vấn và tình trạng sở hữu nhà trong nước.
Cụ thể, cứ mỗi năm được đi học trong trường được tăng lên thì lượng kiều hối gửi về
tăng 4%. Cũng liên quan tới vấn đề tình trạng hôn nhân, nghiên cứu của Naufal (2007)
kiểm định hành vi gửi kiều hối của người di cư tại Mỹ và Costa Rica. Kết quả cho thấy
người di cư không những gửi nhiều kiều hối hơn nếu vợ/chồng còn đang ở nước bản
xứ mà ngay cả khi bố mẹ của họ còn sinh sống ở đó.
Về trình độ học vấn, hai nghiên cứu của Adams (2008) và Faini (2007), thông
qua kết quả khảo sát nhóm các quốc gia đang phát triển, nhận thấy những người di cư
có kỹ năng thường gửi kiều hối về ít hơn so với người di cư có kỹ năng kém hơn.
Nguyên nhân được lý giải bởi những người di cư có trình độ học vấn cao có xu hướng
mang gia đình sang sinh sống cùng và có thời gian ở nước ngoài lâu hơn nên số tiền
kiều hối gửi về quê hương ít hơn. Tuy nhiên, kết quả của Adams (2008) và Faini
(2007) đã được kiểm định lại bởi Bollard và cộng sự (2009). Khảo sát người di cư của
11 quốc gia OECD, Bollard và cộng sự (2009) khẳng định trình độ học vấn có tác
động không rõ ràng tới tỷ lệ gửi kiều hối so với thu nhập của người di cư nhưng trình

độ học vấn chắc chắn có mối quan hệ thuận chiều với quy mô kiều hối. Nói một cách
khác, Bollard và cộng sự (2009) cho rằng người di cư càng có học vấn thì sẽ càng gửi
nhiều kiều hối.
Về nhân tố ảnh hưởng tới dòng kiều hối khác, trong một nghiên cứu thiên về lý
thuyết, de la Briere và cộng sự (2002) sử dụng dữ liệu khảo sát hộ gia đình ở Cộng hoà
Dominica để kiểm định 2 động lực gửi kiều hối, đó là: (i) bảo hiểm – gửi tiền tự
nguyện với mục đích bảo vệ gia đình trong trường hợp rủi ro và (ii) đầu tư – gửi tiền
theo yêu cầu của gia đình nhằm thực hiện hoạt động đầu tư. Kết quả chỉ ra hai động
lực này có sự khác nhau ở nơi đến và giới tính. Theo đó, động lực bảo hiểm xảy ra


9

nhiều ở người di cư là nữ giới tại Mỹ. Họ thường gửi kiều hối nhiều về nhà khi bố mẹ
bị ốm, trong khi đó người di cư là nam giới sẽ không làm điều đó trừ khi cả gia đình
họ chỉ có mỗi mình họ ở làm việc ở nước ngoài.
d. Nhân tố các tổ chức Hội ở nước ngoài
Một trong những nhân tố ảnh hưởng tới kiều hối đó là các tổ chức Hội được
thành lập bởi những người di cư (thường ở cùng địa phương khi ở quê hương) lập ra.
Tuy nhiên, các nghiên cứu về nhân tố này còn chiếm tỷ trọng ít trong các nghiên cứu
về kiều hối. Nhìn chung, các nghiên cứu về các tổ chức Hội được lập bởi người di cư
được chia thành hai nhóm: nhóm thứ nhất tập trung vào mô tả sự hình thành, đặc điểm
văn hoá của Hội (Levvit và Jaworksy, 2007); nhóm thứ hai lại nghiên cứu về tác động
của Hội tới sự phát triển tại địa phương – nơi các thành viên trong Hội sinh ra
(Goldring, 20024; Orozoco và Welle, 2006; Alarcon, 2002).
Về nhóm thứ nhất, Levvit và Jaworksy (2007) phân tích về những thách thức
khi nghiên cứu các tổ chức Hội của người di cư và kiều hối được gửi theo nhóm
(collective remittance). Orozoco và Rouse (2007) nhận định rằng tỷ lệ kiều hối gửi bởi
người di cư là thành viên của các tổ chức Hội không giống nhau xét theo tiêu chí quốc
gia. Chẳng hạn, trung bình chỉ 9% người gửi kiều hối về các nước Latinh từ Mỹ thuộc

các tổ chức Hội. Tuy nhiên, tỷ lệ này có thể cao hơn đối với nhóm người di cư khác.
Việc quyết định gia nhập các tổ chức Hội của người di cư phụ thuộc vào nhiều yếu tố
trong đó có yếu tố về khoảng cách giữa người di cư với cộng đồng đồng hương.
Về nhóm nghiên cứu thứ hai, nổi bật có nghiên cứu của Goldring (2004);
Orozoco và Welle (2006); và Alarcon (2002). Chính phủ các quốc gia nhận kiều hối
quan tâm tới việc thiết lập quan hệ với các tổ chức Hội ở nước ngoài. Ngay từ đầu
những năm 1990, Chính phủ Mexico đã phát triển các chính sách để tiếp cận với các tổ
chức Hội người Mexico ở Mỹ, cung cấp sự hỗ trợ đối với việc thành lập các tổ chức
này, đồng thời khuyến khích kiều hối gửi về nước thông qua chương trình 3 x 1. Mục
đích của chương trình này nhằm tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng ở địa phương nơi có
các thành viên thuộc Hội (Orozoco và Welle, 2006).
Câu hỏi liệu rằng các tổ chức Hội của người di cư có giúp phát triển kinh tế địa
phương của họ ở nước bản xứ hay không được phân tích bởi nhiều học giả. Alarcon
(2002) cho rằng tác động này chưa thực sự rõ ràng. Fox và Bada (2008) tổng hợp các
nghiên cứu về Mexico và kết luận rằng chương trình kết hợp giữa quỹ kiều hối theo
nhóm và ngân sách của địa phương, Chính phủ sẽ phụ thuộc và mức độ gắn kết giữa


10

Nhà nước với các tổ chức Hội. Paul và Gamage (2005) thảo luận một số nhược điểm
của tổ chức Hội của người di cư với bằng chứng từ các tổ chức này của người El
Salvador tại Mỹ. Bài học rút ra chính là cần có các chính sách phù hợp nhằm tăng
lượng kiều hối gửi về qua hình thức các tổ chức Hội người di cư. Những khó khăn về
quản trị, năng lực tổ chức của các tổ chức Hội cần được cải thiện. Tuy nhiên, một câu
hỏi quan trọng là làm thế nào để nâng cao tác động của các tổ chức Hội người di cư ở
nước ngoài và chính sách cụ thể là gì để giảm chi phí chuyển tiền và tăng cường minh
bạch thông tin vẫn chưa được các nghiên cứu giải đáp.
2.1.3. Sử dụng và tác động của kiều hối
a. Kiều hối, tiêu dùng và đầu tư

Hành vi sử dụng kiều hối là câu hỏi tạo ra sự tranh luận cho các học giả nghiên
cứu về kiều hối. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng kiều hối chủ yếu được dùng cho tiêu
dùng và hầu như nó không tác động lên việc cải thiện kinh tế địa phương. Một số khác
cho rằng kiều hối được sử dụng cho đầu tư phát triển như giáo dục, nhà cửa – giúp cải
thiện vốn con người và cơ hội việc làm, phát triển cho con người. Cụ thể, thông qua
giáo dục, trình độ của con người tăng, qua đó, cải thiện cơ hội tìm kiếm việc làm.
Thông qua đầu tư vào xây dựng nhà cửa, người nhận kiều hối hoặc người có thu nhập
từ kiều hối có điều kiện sống tốt hơn, đồng thời, cơ hội về thu nhập, việc làm cho
chính những người công nhân xây dựng tại địa phương.
Quan điểm tiêu cực về kiều hối được sử dụng như thế nào được đề xuất bởi
Chami, Fullenkamp và Jahjah (2003). Theo đó, tác giả cho rằng có 3 mức độ sử dụng
kiều hối: (i) phần lớn kiều hối được sử dụng cho tiêu dùng; (ii) một phần nhỏ được sử
dụng cho tiết kiệm, đầu tư; (iii) cách mà người sử dụng kiều hối đầu tư vào xây nhà,
hay các tài sản tiết kiệm như vàng không nhất thiết là mang lại hiệu quả cho toàn bộ
nền kinh tế. Tuy nhiên, quan điểm này bị phản biện bởi Adams và Cuecuecha (2010)
với dữ liệu từ khảo sát hộ gia đình Guatemala. Tập trung vào hộ gia đình sẽ sử dụng
thu nhập tăng thêm như thế nào, Adams và Cuecuecha (2006) tìm ra các hộ gia đình
nhận kiều hối sẽ sử dụng ít hơn cho những tiêu dùng thiết yếu và nhiều hơn cho giáo
dục, nhà cửa trong so sánh với khi hộ không nhận kiều hối. Những kết quả này đã cho
thấy kiều hối giúp tăng mức độ đầu tư vào con người và những tài sản cố định tại các
quốc gia nhận.
Sử dụng dữ liệu của El Salvador, Edwards và Ureta (2003) cũng tìm ra bằng
chứng về việc các hộ gia đình nhận kiều hối chi tiêu nhiều hơn cho giáo dục. So sánh


11

nguồn thu nhập từ kiều hối với nguồn thu nhập khác, nhóm tác giả chỉ ra tầm ảnh
hưởng lớn hơn của nguồn kiều hối đối với chi tiêu cho giáo dục so với nguồn thu nhập
khác. Tại khu vực thành thị của El Salvador, kiều hối làm giảm nguy cơ trẻ em bỏ học

cấp 2 khoảng 54%.
Minh chứng khác từ Phillipin trong nghiên cứu của Yang (2005) cũng cho thấy
kết quả tương tự nghiên cứu của Edwards và Ureta (2003). Yang (2005) còn phân tích
ảnh hưởng của cú sốc tỷ giá trong giai đoạn khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 đến
hành vi tiêu dùng của hộ nhận kiều hối. Bằng công cụ biến giả để phân tích sự khác
biệt về hành vi của hộ gia đình trước sau năm 1997. Tập trung trả lời câu hỏi về hành
vi sử dụng kiều hối cho giáo dục, Yang (2005) chỉ ra khi độ lệch chuẩn của tỷ giá tăng
lên sẽ dẫn tới 0,4% tăng lên trong khoản chi tiêu đối với giáo dục. Từ đó, Yang (2005)
cũng đưa ra kết luận kiều hối đã khơi dậy chi tiêu cho giáo dục, qua đó, giúp phát triển
nguồn lực con người ở Phillipin.
Bên cạnh những nghiên cứu tìm hiểu về việc sử dụng kiều hối cho giáo dục,
một số nghiên cứu khác tìm hiểu về hành vi sử dụng kiều hối cho đầu tư, phát triển
(Osili, 2004 & 2007; Woodruff và Zenteno, 2007).
Nghiên cứu của Osili (2004) tại Nigieria tìm ra những người di cư lớn tuổi và
những người di cư có thu nhập cao có xu hướng gửi kiều hối về để xây dựng nhà cửa.
Trung bình cứ 10% tăng lên trong thu nhập của người di cư, khoản đầu tư xây dựng
nhà cửa tăng lên 3%. Trên giác độ người di cư, những khoản sử dụng kiều hối cho xây
dựng nhà cửa đã giúp hình thành nên nguồn vốn đầu tư quan trọng vào địa phương.
Liên quan tới hành vi sử dụng kiều hối cho đầu tư và phát triển kinh doanh,
Woodruff và Zenteno (2007) tìm ra sự di cư quốc tế (giữa Mỹ và Mexico) làm tăng
35-40% mức độ đầu tư. Đặc biệt, nhóm tác giả tìm ra thông qua kiều hối, hộ gia đình
nhận kiều hối có thể có vốn để phát triển kinh doanh với mô hình doanh nghiệp nhỏ
(dưới 15 người lao động).
Cuối cùng, Osili (2007) đã kiểm nghiệm mức độ kiều hối và tiết kiệm tại
Nigiria chịu ảnh hưởng bởi yếu tố tình cảm, động cơ bảo hiểm. Tác giả đã chỉ ra rằng
kiều hối vào Nigiria được thúc đẩy bởi yếu tố tình cảm khi nguồn kiều hối tăng khi tài
sản của hộ gia đình (đất đai) giảm. Tuy nhiên, tiết kiệm tại Nigieria được quyết định
phần lớn bởi động lực đầu tư bởi vì tiết kiệm có mối quan hệ tích cực với tài sản của
hộ gia đình.



12

Tóm lại, xu hướng các nghiên cứu đã chỉ ra ngay cả hộ nhận hay không nhận
kiều hối cũng đều chi tiêu phần lớn thu nhập cho các hàng hoá thiết yếu (thực phẩm).
Tuy nhiên, nếu nghiên cứu ở mức độ “tăng thêm”, các nghiên cứu đều cho thấy kiều
hối có tác động tới phát triển kinh tế.
b. Kiều hối và tăng trưởng kinh tế
Các nghiên cứu về tác động của kiều hối tới tăng trưởng kinh tế qua kênh tiêu
dùng, đầu tư có thể chia thành 2 nhóm, trong đó nhóm thứ nhất tập trung vào nghiên
cứu ở phạm vi đa quốc gia, nhóm còn lại nghiên cứu trên phạm vi một quốc gia. Trong
khi các nghiên cứu về tác động của kiều hối tới tăng trưởng kinh tế trên phạm vi đa
quốc gia thường sử dụng mô hình GMM, các nghiên cứu về kiều hối tác động tới tăng
trưởng kinh tế trên phạm vi một quốc gia sử dụng mô hình VAR và VECM. Phạm vi,
phương pháp và kết quả của các nghiên cứu này được tóm tắt trong 2 bảng dưới.
Một số nghiên cứu về tác động của kiều hối tới tăng trưởng kinh tế trên phạm vi
đa quốc gia
TT
1

Tác giả

Dữ liệu và mô hình

Kết quả

Upadhyaya, Gyan và

39 nước đang phát triển


Kiều hối có tác động tích cực tới

Upadhyaya (2008)

1980 – 2004;

tăng trưởng kinh tế

Hiệu ứng cố định
2

Fayissa và Nsiah

37 nước Châu Phi

Kiều hối tăng 10% à Mức tăng

(2008)

1980-2004;

0,3% GDP bình quân đầu người

GMM
3

4

Lartey, Mandelman và


109 nước đang phát triển

Hiệu ứng Hà Lan trong tác động

Acosta (2008)

và chuyển đổi

của kiều hối tới các quốc gia

1990-2003;

đang phát triển

Barajas và cộng sự

84 nước1970-2004

Kiều hối đóng góp rất ít hoặc

(2009)

OLS với biến công cụ và

thậm chí làm giảm tăng trưởng

mô hình tác động cố định

Nguồn: tổng hợp của tác giả
Một số nghiên cứu về tác động của kiều hối tới tăng trưởng kinh tế trên phạm vi

một quốc gia
TT
1

Tác giả
Uprety (2017)

Dữ liệu và Mô hình

Kết quả

Nepal (1976- 2013)

Tồn tại mối quan hệ kết hợp giữa các biến

Kiểm định Johansen

trong mô hình và cho thấy sự tăng lên

và VECM

trong kiều hối làm giảm GDP đầu người
tại Nepal


13

TT
2


Tác giả

Dữ liệu và Mô hình

Kết quả

Belmimoun và

Algeria (1970-2010)

1% tăng lên trong kiều hối sẽ làm giảm

cộng sự (2014)

VECM

0,02% GDP đầu người trong ngắn hạn và
giảm 0,006% trong dài hạn

3

Ahmed và

Togo (1974-2015)

Quan hệ nhân quả Granger hai chiều trong

Hakim (2017)

Thử nghiệm


dài hạn giữa kiều hối và tăng trưởng kinh

Johansen, VECM,

tế ở Togo. Không có mối quan hệ nhân

kiểm định Wald

quả ngắn hạn tồn tại giữa kiều hối và tăng
trưởng kinh tế.

4

Munir và cộng

Pakistan (1980 –

Tác động tích cực về lâu dài của kiều hối

sự (2016)

2014); VECM

tới tăng trưởng kinh tế

Nguồn: tổng hợp của tác giả
c. Kiều hối và hệ số nhân tác động
Nghiên cứu phạm vi tác động của kiều hối tới các biến số khác trong nền kinh
tế là một chủ đề quan trọng nhằm xác định tầm ảnh hưởng của kiều hối.

Glytsos (1993) đã đánh giá ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của kiều hối đối với
sản xuất, nhập khẩu và tình trạng việc làm của hộ gia đình ở nền kinh tế Hy Lạp vào
năm 1971. Tác giả đã tìm ra kiều hối đã tạo ra hệ số nhân 1,7 đối với tổng sản phẩm
được tạo ra. Một cách phân tích khác, cứ 1 triệu đô la kiều hối tạo ra sản lượng 1,7
triệu đô la. Kiều hối cũng dẫn đến sự gia tăng các hàng hoá nhập khẩu nhưng những
hàng hoá này chỉ chiếm 5% tổng giá trị nhập khẩu của Hy Lạp. Trên cơ sở đó, Glytsos
(1993) nhấn mạnh rằng kiều hối sử dụng cho nhập khẩu hàng hoá không có tác động
lớn tới thâm hụt thương mại.
Trong một nghiên cứu về dữ liệu vi mô tại khu vực nông thôn, Taylor (1995)
kiểm định tác động trực tiếp và gián tiếp của dòng kiều hối tới một làng tại Mexico.
Tác giả tìm thấy kiều hối có hiệu ứng nhân bằng 1,6, nghĩa là cứ 1 triệu đô la kiều hối
gửi về làng sẽ tạo ra 1,6 triệu đô la sản phẩm tăng thêm. Trong một nghiên cứu khác
tại Mexico, Taylor và Dyer (2009) sử dụng mô hình cân bằng tổng thể để kiểm định
tác động trực tiếp và gián tiếp của di cư quốc tế tới giá, lương và đầu tư tại khu vực
nông thôn Mexico. Kết quả, tác động trực tiếp yếu hơn tác động gián tiếp. Trong ngắn
hạn, cứ 10% tăng lên của số người di cư về nước dẫn đến 5% tăng lên về tiền lương ở
khu vực nông thôn và 52% tăng lên khoản đầu tư cho giáo dục. Trong dài hạn, cứ 10%
tăng thêm của người di cư về nước dẫn đến 1% tăng lên của thu nhập ở nông thôn,
52% tăng lên khoản đầu tư cho giáo dục và 15% tăng lên khoản đầu tư về nhà ở.


14

d. Kiều hối, đói nghèo và bất bình đẳng
Một số nghiên cứu đã bàn về mối quan hệ giữa kiều hối, đói nghèo và bất bình
đẳng. Hầu hết các nghiên cứu đã chỉ ra kiều hối có tác dụng làm giảm nghèo đói ở các
quốc gia đang phát triển (Adams và Page, 2005; Acosta và cộng sự, 2006; Loksin và
cộng sự, 2007; Adams, 2006). Trái lại, mối quan hệ giữa kiều hối và bất bình đẳng thu
nhập vẫn còn gây tranh cãi. Nhiều nghiên cứu chỉ ra kiều hối chỉ có tác động làm tăng
bất bình đẳng thu nhập rất nhỏ (Barham và Boucher, 1998; Adams, 2006), tuy nhiên,

một số cũng khẳng định điều ngược lại (McKenzie và Rapport, 2007; Jones, 1998).
Trong khi đó, Brown và Jimenez (2008) chỉ ra mối quan hệ giữa kiều hối và bất bình
đẳng là chưa rõ ràng.
Về mối quan hệ giữa kiều hối và đói nghèo, đã có nhiều nghiên cứu chứng
minh cho mối quan hệ ngược chiều giữa hai vấn đề này, điển hình có Adams và Page
(2005); Acosta và cộng sự (2006) và Loksin và cộng sự (2007). Sử dụng kết quả khảo
sát hộ gia đình từ 71 quốc gia đang phát triển, Adams và Page (2005) đưa biến công cụ
vào mô hình để kiểm soát yếu tố nội sinh giữa các biến số. Kết quả, cứ 10% tăng lên
của kiều hối vào quốc gia đang phát triển sẽ dẫn đến 3,5% giảm tỷ lệ nghèo. Nghiên
cứu cũng tìm ra cứ 10% tăng lên trong tỷ trọng của kiều hối vào quốc gia đang phát
triển, nghèo đói cũng được giảm đi 2,1%. Trong một nghiên cứu khác với dữ liệu từ
10 quốc gia Mỹ Latinh, Acosta và cộng sự (2006) ước tính cứ mỗi điểm phần trăm
tăng lên của kiều hối so với GDP, đói nghèo ở khu vực Mỹ Latinh được giảm 0,4%. Ở
cấp độ quốc gia, một số nghiên cứu được thực hiện bởi Lokshin, Bontch-Osmolovski
và Glinskaya (2007) tại Nepal và Adams (2006) tại Ghana cũng tìm ra bằng chứng
kiều hối có tác động tích cực tới giảm nghèo. Bằng phương pháp ước lượng hợp lý tối
đa, Lokshin, Bontch-Osmolovski và Glinskaya (2007) tìm ra 20% giảm nghèo tại
Nepal có thể được gây ra bởi di cư nội địa và quốc tế. Tương tự tại Ghana, Adams
(2006) tìm thấy cả kiều hối nội địa lẫn quốc tế đều có tác động ngược chiều với mức
độ, chất lượng của nghèo đói.
Về mối quan hệ giữa kiều hối và bất bình đẳng, nhiều nghiên cứu chỉ ra kiều
hối tăng khiến bất bình đẳng thu nhập tăng. Nguyên nhân được chỉ ra bao gồm chi phí
di cư ra nước ngoài có xu hướng tăng, người di cư có xu hướng dịch chuyển từ nhóm
thu nhập trung bình sang nhóm thu nhập cao. Minh chứng điển hình cung cấp bởi dữ
liệu khảo sát hộ gia đình nhỏ tại Nicaragua, Barham và Boucher (1998) đã tìm ra hệ số
Gini tăng từ 12-15%. Cũng sử dụng phương pháp như của Barham và Boucher (1998),


15


Adams (2006) chỉ ra khi kiều hối được bao gồm trong nguồn thu nhập của hộ gia đình,
chỉ số Gini tăng 3%: từ mức 0,402 lên mức 0,413.
Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu của Barham và Boucher (1998), Adams
(2006) trái ngược với kết quả của McKenzie và Rapport (2007) và Jones (1998). Theo
McKenzie và Rapport (2007), tại Mexico, địa phương có lượng người di cư thấp, tác
động ban đầu của người di cư lên bất bình đẳng thu nhập tăng lên nhưng khi mức độ
người di cư tăng lên, di cư quốc tế lại có xu hướng làm giảm bất bình đẳng thu nhập.
Tương tự, Jones (1998) cũng tìm thấy mối liên hệ ngược chiều giữa di cư quốc tế và
bất bình đẳng thu nhập, cụ thể, sự phân bổ thu nhập tại khu vực nông thôn tăng lên so
với thành thị trong khi kiều hối lại chủ yếu được gửi về khu vực nông thôn.
e. Kiều hối và phát triển tài chính
Mối quan hệ giữa kiều hối, tăng mức độ tiếp cận tài chính và phát triển tài chính
tại các quốc gia cũng được nhiều nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, kiều hối tác động
lên phát triển tài chính như thế nào vẫn là một câu hỏi thách thức các học giả. Các
nghiên cứu trước đây chủ yếu mô tả liên hệ giữa kiều hối và phát triển tài chính, đồng
thời đưa ra nhận định kiều hối sẽ đóng vai trò là chất xúc tác để phát triển tài chính khi
giúp các hộ nhận kiều hối tiếp cận với các sản phẩm tài chính, tín dụng. Bên cạnh đó,
kiều hối có thể tác động lên sự sẵn sàng của các ngân hàng trong việc cho vay các hộ
hay các khu vực nhận nhiều kiều hối.
Các nghiên cứu gần đây cố gắng đo lường mối quan hệ giữa kiều hối và phát
triển tài chính bằng chiến lược cơ sở dữ liệu. Aggrawal, Demirguc-Kunt và Peria
(2006) tìm thấy kiều hối có thể thúc đẩy phát triển tài chính ở phần lớn các quốc gia
đang phát triển trong mẫu nghiên cứu. Nhóm tác giả nhấn mạnh các kênh tác động
tiềm năng của kiều hối tới phát triển tài chính. Chẳng hạn, người nhận kiều hối thường
có nhu cầu cao hơn đối với dịch vụ, sản phẩm tài chính chính thức như sản phẩm tiết
kiệm. Một kênh khác là, kiều hối có thể cung cấp cho ngân hàng thông tin về người
nhận kiều hối – đối tượng trước đây chưa nhận được sự quan tâm của ngân hàng. Từ
đó, ngân hàng có thể mở rộng cơ hội cung cấp tín dụng và các sản phẩm tài chính khác
cho đối tượng này. Mối liên hệ giữa kiều hối và phát triển tài chính còn được thể hiện
qua kênh tín dụng khi Brown và Carmignani (2015) chỉ ra tác động của kiều hối lên tín

dụng có dạng chữ U ngược với ngưỡng là tỷ lệ kiều hối so với GDP bằng 2,5%.
Bên cạnh các nghiên cứu tìm ra tác động tích cực giữa kiều hối và phát triển
kinh tế, một số khác chỉ ra những hạn chế của kiều hối đối với phát triển kinh tế. Cụ


16

thể, tồn tại sự nghi ngờ rằng trong một quốc gia có thị trường tài chính rất kém phát
triển, kiều hối sẽ được chuyển về chủ yếu qua kênh phi chính thức. Tuy nhiên, nghiên
cứu của Gupta, Pattillo và Wagh (2017) tìm ra có sự ảnh hưởng tích cực của kiều hối
tới sự phát triển tài chính tại khu vực cận Sahara – nơi hầu hết các giao dịch tài chính
được thực hiện qua kênh phi chính thức. Cuối cùng, một giả thuyết được đưa ra rằng
một khi có dòng kiều hối, nhu cầu vay vốn hay mua bảo hiểm sẽ ít đi (Guiliano và
Ruiz, 2005). Tuy nhiên, do hạn chế về mặt dữ liệu nên giả thuyết này chưa được kiểm
chứng một cách toàn diện.
2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Kiều hối đã và đang đóng một vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt
là ở các nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Không chỉ đóng vai trò
trong việc bù đắp sự thâm hụt của cán cân vãng lai, kiều hối còn là một nguồn cung
cấp ngoại tệ quan trọng cho nền kinh tế, tạo ra một nguồn lực tài chính cho đất nước,
làm tăng sức đề kháng của Việt Nam trước những chuyến biến phức tạp của nền kinh
tế thế giới. Đây là một nguồn lực tài chính được huy động từ chính người dân Việt
Nam (cho dù họ đang định cư hay chỉ tạm thời sang làm việc và học tập tại nước
ngoài), mang tính nội lực tài chính của quốc gia nên nó ổn định hơn những nguồn
ngoại tệ khác như vốn vay, tiền viện trợ…giúp quốc gia giảm thiểu nhiều rủi ro trong
quá trình huy động vốn, giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài.
Từ năm 1999, sự tăng trưởng khá mạnh của nguồn kiều hối về Việt Nam khiến
những vấn đề liên quan đến nguồn vốn này ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm
của giới nghiên cứu. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu điển hình về vấn đề
kiều hối như Lê Minh Tâm và Nguyễn Đức Vinh (1999), Nguyễn Anh Dũng và cộng

sự (2005), Đặng Nguyên Anh (2005), Hernández-Coss (2005), Sakr (2006), Pfau &
Giang Thanh Long (2006), Nguyễn Thị Thùy Linh (2006), Nguyễn Đức Thành (2007),
Đỗ Thị Đức Minh (2007), Đoàn Đình Trọng (2015); Đỗ Thị Kim Hảo và các cộng sự
(2013), Nguyễn Kim Anh và các cộng sự (2017). Các nghiên cứu này có thể phân loại
thành 2 nhóm chính gồm: (i) các nghiên cứu thống kê mô tả; (ii) các nghiên cứu sử
dụng mô hình định lượng.
2.2.1. Các nghiên cứu thống kê mô tả
Nghiên cứu của Lê Minh Tâm và Nguyễn Đức Vinh (1999) là nghiên cứu có
tính gợi mở về tiền gửi về (bao gồm trong nước và từ nước ngoài) và đã có phát hiện
rằng, dân Việt di cư thường có thói quen gửi tiền để hỗ trợ gia đình, người thân của


17

mình về chi phí sinh hoạt, chữa bệnh, chi phí học hành và đầu tư kinh doanh; lượng
kiều hối (tiền chuyển từ nước ngoài về) hàng năm, trong những năm 1990 ước khoảng
1 tỷ USD tương đương 5% GDP (theo thời điểm đó). Về hạn chế của công trình, nhóm
tác giả chỉ mới có cơ hội đánh giá mối quan hệ giữa tiền gửi về và thu nhập mà chưa
có điều kiện nghiên cứu về kiều hối và các biến số khác như đầu tư, kiều hối và xóa
đói giảm nghèo và đặc biệt chưa có nghiên cứu nào về kiều hối và chính sách tiền tệ,
tài chính ngân hàng: như kiều hối và tỷ giá; kiều hối và hệ thống dịch vụ ngân hàng,
hệ thống thanh toán; kiều hối và nhập khẩu...
Nguyễn Anh Dũng và cộng sự (2005) đã nghiên cứu định tính về thực trạng thu
hút vốn đầu tư về nước của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài trên hai
khía cạnh: (i) thứ nhất, đánh giá khung pháp lý và chính sách hiện hành của nhà nước
đối với cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài; (ii) thứ hai, các tác giả tập
trung đánh giá thực trạng đầu tư về nước của cộng đồng Việt kiều. Bài nghiên cứu đã
chỉ ra rằng hoạt động đầu tư về nước của cộng đồng Việt kiều là ít về số lượng dự án
và số vốn đầu tư (so với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài khác), hạn chế trong
lĩnh vực đầu tư. Ngoài ra, các dự án của Việt Kiều được thực hiện chủ yếu tại các địa

phương có hạ tầng tốt, trình độ dân trí cao, có thị trường và thuận lợi về giao thông.
Tuy nhiên, nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở phương pháp tổng hợp chứ chưa có sự đánh
giá thông qua dữ liệu hệ thống.
Đặng Nguyên Anh (2005) đã đánh giá vai trò của nguồn kiều hối thông qua
hoạt động đầu tư dự án, chuyển giao công nghệ đối với sự phát triển kinh tế của Việt
Nam. Nghiên cứu này cho rằng, bên cạnh những cơ hội hấp dẫn từ một nền kinh tế
đang phát triển nhanh và ngày càng được tự do hoá, các chính sách của Chính phủ
nhằm khuyến khích việc nhận và sử dụng kiều hối là nguyên nhân chính khiến dòng
kiều hối tăng vọt trong những năm qua. Tuy nhiên, cũng giống như Nguyễn Anh Dũng
và cộng sự (2005), nghiên cứu của Đặng Nguyên Anh (2005) gặp hạn chế về dữ liệu
nghiên cứu dẫn đến các kết luận còn mang tính phỏng đoán.
Hernández-Coss (2005) đã có một nghiên cứu tổng kết khá đầy đủ về các kênh
chuyển kiều hối từ Canada về Việt Nam, cả chính thức và không chính thức. Theo
nghiên cứu này, hệ thống chuyển tiền không chính thức đã và đang đóng một vai trò
quan trọng, và nhờ “uy tín đã được thừa nhận rộng rãi, mức phí hợp lý, tốc độ và tính
gần gũi về văn hoá”, hệ thống này có thể cạnh trạnh hiệu quả với hệ thống chuyển tiền


18

chính thức mới chỉ bắt đầu phát triển mạnh gần đây. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu
của Hernández-Coss (2005) đã không còn tính cập nhật hiện nay.
Trong thời gian gần đây, các nghiên cứu mang thiên hướng lý thuyết của Đinh
Anh Tuấn (2016), Hoàng Thị Thu Hà (2016), Đào Văn Thanh và cộng sự (2016) tập
trung phân tích hoạt động đầu tư của Việt kiều tại Việt Nam. Qua đó, các nghiên cứu
đề xuất các nhóm giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư, thu hút nguồn đầu tư từ
Việt kiều. Sự xuất hiện của các nghiên cứu này mở ra khoảng trống nghiên cứu cho
các nghiên cứu tiếp theo trong việc kiểm định tác động của kiều hối đối với đầu tư tư
nhân ở Việt Nam.
2.2.2. Các nghiên cứu sử dụng mô hình định lượng

Các nghiên cứu về kiều hối ở Việt Nam áp dụng mô hình định lượng có thể
chia thành 2 nhóm chính: một nhóm các nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp và nhóm
còn lại sử dụng dữ liệu sơ cấp thông qua khảo sát điều tra qua bảng hỏi.
a. Nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp
Khaled Sakr (2006) đã sử dụng một mô hình hồi quy đơn giản OLS để ước
lượng những nhân tố chi phối lượng kiều hối chảy về Việt Nam. Trong mô hình này,
biến phụ thuộc chính là lượng kiều hối chảy vào Việt Nam, biến độc lập bao gồm thu
nhập bình quân đầu người của Việt Nam, thu nhập bình quân đầu người của Mĩ (đại
diện cho thu nhập của Việt Kiều), lượng vốn FDI vào Việt Nam, và 2 biến giả (D1996
và D2000). Số liệu được sử dụng trong mô hình được thu thập theo năm trong giai
đoạn 1991-2005, số liệu năm 2005 là số liệu dự tính. Kết quả hồi quy cho thấy kiều
hối có khuynh hướng tăng lên khi điều kiện kinh tế trong nước và môi trường đầu tư
được cải thiện (thể hiện qua mức GDP trên đầu người và lượng vốn FDI). Ngoài ra, sự
cởi mở hơn về các điều kiện thể chế từ nửa sau thập kỷ 1990 cũng là một nhân tố quan
trọng trong việc thu hút luồng kiều hối.
Nghiên cứu của Pfau và Long (2006) cung cấp nhiều thống kê mô tả hữu ích về
vấn đề kiều hối ở Việt Nam thông qua các bộ số liệu VHLSS. Nghiên cứu này cho
thấy sự dịch chuyển trong phân phối của kiều hối trong thời gian gần đây: từ thành thị
dịch dần sang nông thôn, từ vùng đồng bằng sông Hồng và Đông Nam bộ dịch dần
sang vùng Bắc Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, 2 tác giả còn tập
trung vào tìm hiểu mục đích sử dụng của các nguồn kiều hối này. Số liệu thống kê cho
thấy, 73% lượng kiều hối được phân bổ cho tiêu dùng trực tiếp, trong khi 14% được


×