Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Ba i tie u lua n

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.12 KB, 27 trang )

QUAN HỆ VIỆT-LÀO NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỈ XXI
(2001-2018)

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử quan hệ quốc tế,mối quan hệ của các nước láng giềng, cùng nét
tương đồng văn hóa luôn là một trong các mối quan hệ quan trọng nhưng đồng thời cũng
khá phức tạp và rất nhạy cảm. Giữa các nước láng giềng với nhau thì ngoài việc chia se
những giá trị chung trong cùng khu vực địa lý, sự gần gũi nhau về văn hóa truyền thống
cũng như về trai trò địa chiến lược…, thì cũng vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà cũng
thường tồn tại, nảy sinh một số va chạm hoặc thậm chí mâu thuẫn về lợi ích của các quốc
gia láng giềng với nhau như: biên giới lãnh thổ, lãnh hải hay các nguồn tài nguyên thiên
nhiên cũng như một số vấn đề về sắc tộc tôn giáo… Vì lí do đó mà các quốc gia dù lớn
hay nhỏ cũng đều đặc biệt quan tâm đến việc giữ gìn và phát huy mối quan hệ tốt đẹp
giữa các nước láng giềng và trong khu vực.
Để có được môi trường quốc tế hòa bình và ổn định, đáp ứng được đầy đủ những
nhu cầu phát triển của đất nước thì vấn đề được đặt ra hết sức quan trọng đối với các
nước trước tiên là phải xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng xung
quanh. Nhận thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng ta trong khi khởi xướng công
cuộc đổi mới đã ngày càng chủ động và đổi mới tư duy trong quan hệ đối ngoài nhằm
hoạch định tốt cũng như triển khai thực hiện chính sách mở rộng để củng cố, phát triển
quan hệ với các nước láng giềng cũng như các quốc gia khác trong khu vực và trên toàn
thế giới. Trong suốt hơn 30 năm đổi mới vừa qua, quan hệ đối ngoại của Việt Nam đã
không ngừng được mở rộng, vị thế đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc
tế.
Củng cố và phát triển mối quan hệ hợp tác hữu nghị tốt đẹp giữa ba nước Đông
Dương luôn là sự ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với các
nước láng giềng. Trong quan hệ với Lào, Việt Nam triển khai hợp tác một cách toàn diện,
giúp bạn phát triển kinh tế – xã hội, góp phần duy trì ổn định chính trị – xã hội, an ninh



của Lào. Quan hệ hợp tác với “Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào” (CHDCND Lào) là một
trong những mối quan hệ đối ngoại hàng đầu của nước ta.
Bước vào thế kỉ XXI, tình hình môi trường an ninh, kinh tế thế giới và khu vực
đang có những diễn biến hết sức phức tạp, đặt quan hệ Việt – Lào trước những cơ hội và
thách thức mới. Tuy nhiên, nhờ những sự nỗ lực và quyết tâm cao của hai Đảng và hai
Nhà nước, quan hệ đặc biệt Việt – Lào vẫn luôn được duy trì và phát triển tốt đẹp. Trong
những năm sắp tới, quan hệ giữa hai quốc gia có thể se phải đối diện với nhiều thách thức
lớn hơn nữa do sự chuyển giao thế hệ lãnh đạo của cả hai nước. Trong bối cảnh đó, rất
cần những bài viết, những bài báo cáo hay những công trình nghiên cứu sâu về mối quan
hệ Việt – Lào những năm đầu thế kỉ XXI để nhằm khẳng định một cách đầy đủ nhất về
những thành tựu đạt được, chỉ ra những cái hạn chế và tìm hiểu nguyên nhân từ đó tìm
kiếm và đưa ra các biện pháp khắc phục ưu việt nhất.
Ngoài ra tôi đang theo học môn Lịch sử Đông Nam Á cận hiện đại tại trường Đại
học Thủ Dầu Một và cần làm đề tài kết thúc môn học
Với lý do trên tôi chọn đề tài “Quan hệ Việt – Lào những năm đầu thế kỉ XXI”
làm đề tài tiểu luận kết thúc môn học Lịch sử Đông Nam Á cận hiện đại
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kể từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, các nhà nghiên cứu
trong nước ngày càng quan tâm nhiều hơn những vấn đề chung của thế giới, sự khởi sắc
trong lĩnh vực nghiên cứu này đã đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng định hướng
chiến lược đối ngoại của đất nước ta. Nhiều công trình được nghiên cứu đã cung cấp khối
lượng tri thức phong phú và đa dạng trong đó có một số nội dung liên quan đến chính
sách và quan hệ Việt Nam với các quốc gia láng giềng.
Sau đây tôi xin trình bày một số công trình nghiên cứu trước đây mà tôi tìm hiểu
được về vấn đề này như: Giao lưu và hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các nước láng
giềng của tác giả Bùi Danh Lưu (Nxbb. Giao thông, Hà Nội, 2003); Ba mươi năm quan
hệ hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào (1977-2007) của Nguyễn Hào Hùng (T/c Nghiên cứu
Đông Nam Á, 8-2007); Tổng quan hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và Lào
(1991-2001) của Nguyễn Hoàng Giáp (T/c Những vấn đề kinh tế thế giới, 4/2001)…



Nhìn chung, các công trình trên đã phần nào phác họa được bức tranh tổng thể, đa dạng
về đường lối cũng như chính sách ngoại giao và quan hệ quốc tế của Việt Nam thời ky
đổi mới. Có nhiều công trình đi sâu vào một số khía cạnh chính sách của Việt Nam đối
với Lao và các quốc gia ASEAN khác. Đây chính là những tài liệu hết sức quan trọng và
hữu ích để tôi có thể tham khảo, kế thừa và khai thác trong quá trình nghiên cứu về nội
dung của đề tài này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài làm rõ thực trạng quan hệ giữa Việt Nam và Lào trên một số lĩnh vực:
Chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế… từ năm 2001 đến năm 2018 và hoàn thành bài
tiểu luận kết thúc môn học Lịch sử quan hệ quốc tế
4. Đối tượng nghiên cứu
Quan hệ giữa Việt Nam và Lào trên một số lĩnh vực: Chính trị, an ninh, quốc
phòng, kinh tế… từ năm 2001 đến năm 2018
5. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: giới hạn nghiên cứu của đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu về
quan hệ Việt Nam và Lào trên một số lĩnh vực như: Chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh
tế…
- Về thời gian: Giới hạn nghiên cứu của đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu từ năm
2001-2018
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp lịch sử: Vấn đề được trình bày theo tiến trình không gian và thời
gian từ đó cho thấy sự vận động thay đổi và phát triển từ thấp đến cao, từ quá khứ đến
hiện tại của mối quan hệ này.
Phương pháp logic: Đề tài đi vào nghiên cứu từng vấn đề trong từng mối quan hệ
để từ đó hiểu được bản chất, tính cần thiết cho sự phát triển mối quan hệ này trong thời
gian tới.



Phương pháp thu thập thông tin: Thông tin phục vụ nghiên cứu được thu thập qua các
sách tham khảo, giáo trình, tạp chí chuyên ngành, các trang nghiên cứu trên mạng thông tin,
Internet, trên các thư viện,…; từ các kết quả nghiên cứu trong các công trình của các tác giả
đi trước, kết hợp với kết quả quan sát và tổng hợp của tác giả.
7. Ý nghĩa của đề tài
Góp phần làm rõ thêm những quan điểm cơ bản trong chính sách của Đảng và Nhà
nước ta, quan điểm của Đảng nhân dân cách mạng Lào và thực trạng quan hệ của hai
quốc gia Việt-Lào những năm đầu thế kỉ XXI (2001-2018). Ngoài ra đề tài còn là bài kết
thúc môn Lịch sử Đông Nam Á cận hiện đại.


B. NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT - LÀO TƯ
NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2018
1.1 Khái quát tình hình thế giới, khu vực
Đầu thế kỉ XXI, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, xu thế
cạnh tranh quyền lực giữa một số nước lớn ngày càng mạnh lên so với xu thế hòa dịu và
hợp tác trong thập niên 90 của thế kỉ XX. Nhiều nhân tố mới chi phối tình hình thế giới
và khu vực ảnh hưởng trực tiếp tới mối quan hệ Việt-Lào trong giai đoạn này.
Bước sang thế kỉ XXI, Trung Quốc ngày càng phát triển mạnh me đã trở thành
một cường quốc kinh tế lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ. Sự trỗi dậy của Trung Quốc
cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng và chi phối không nhỏ đến tình hình thế giới
và tình hình khu vực. Tiếp thêm là sau khoảng thời gian suy yếu vào những năm 90 của
thế kỉ XX, nước Nga thời kì này cũng đã phục hưng. Sự phục hưng của Nga cộng thêm
sự trỗi dậy của Trung Quốc khiến cho các quốc gia trên thế giới lo ngại sự cạnh tranh
ngày càng gay gắt giữa Trung - Mỹ, Mỹ - Nga.
Trước sự biến động phức tạp của tình hình thế giới và từ nhu cầu thực tiễn,
ASEAN đã quyết định đưa hợp tác của tổ chức này lên một tầm cao mới, làm cho việc
hội nhập của khu vực Đông Nam Á sâu sắc hơn thông qua việc thành lập Cộng đồng
ASEAN gọi tắt là AC. Việc nâng tầm hợp tác của ASEAN cũng như nhiều những cơ chế

hợp tác khu vực mới ra đời đã mở ra nhiều kênh hợp tác mới hơn cho Việt Nam và Lào,
tạo ra nhiều cơ hội lớn cho việc hợp tác Việt - Lào phát triển. Ngoài ra, những năm 90
của thế kỷ trước, Mỹ là một siêu cường quốc đã không chú ý đến khu vực Đông Nam Á
nên đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc phát huy ảnh hưởng của mình tại
đây. Đứng trước tình hình đó, các quốc gia Đông Nam Á đã không ngừng kêu gọi Mỹ
quay trở lại để cân bằng ảnh hưởng với Trung Quốc tại khu vực này, điều này cũng đã tác
động không nhỏ đến quan hệ Việt – Lào.


Toàn cầu hóa kinh tế phát triển mạnh me ngày càng lôi cuốn nhiều các quốc gia
tham gia. Trong xu thế toàn cầu hóa, các nền kinh tế dựa vào nhau, liên kết với nhau
khiến cho tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng. Tại khu vực
châu Á-Thái Bình Dương và khu vực Đông Nam Á việc hợp tác diễn ra sôi động trên
nhiều mức độ khác nhau từ liên khu vực đến hợp tác theo các nhóm nước hoặc hợp tác
song phương giữa các quốc gia, chủ yếu từ lĩnh vực kinh tế rồi mở rộng ra là các lĩnh vực
khác như: chính trị, an ninh, giáo dục… Bên cạnh đó, sự cạnh tranh sức ảnh hưởng giữa
các nước lớn diễn ra ngày càng gay gắt, kiềm chế lẫn nhau. Tuy nhiên, tình hình khu vực
cũng diễn biến hết sức phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định như: tranh chấp
về biên giới lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên hay tranh chấp sự ảnh hưởng và quyền lực
của các quốc gia cùng với sự bất ổn về tình hình chính trị, xã hội, kinh tế ở một số quốc
gia.
1.2 Khái quát lịch sử quan hệ Việt – Lào từ năm 1930 đến năm 2000
1.2.1. Giai đoạn 1930 - 1945
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đã đánh dấu một bước
ngoặt trọng đại của cách mạng Việt Nam. Ngay khi mới thành lập, Đảng đã ban hành
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, trong đó đã xác
định rõ con đường giải phóng của dân tộc Việt Nam là làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Đảng đóng vai trò lãnh đạo cách mạng, là
đội tiên phong của giai cấp vô sản.
Hai quốc gia Việt Nam và Lào đều cùng một kẻ thù chung đó là thực dân Pháp, có

cùng một mục tiêu, một khát vọng là độc lập, tự do nên con đường giải phóng dân tộc
Việt Nam theo tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc cũng phù hợp đối với công cuộc giải phóng
đất nước của Lào. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là tiền thân của Đảng Cộng sản
Đông Dương chính là sự mở đầu của những trang sử vẻ vang và hào hùng của mối quan
hệ đặc biệt Việt - Lào.


Từ giữa năm 1930, phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam bùng nổ, lan rộng
khắp cả nước mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ – Tĩnh đã nhanh chóng tác động và ảnh hưởng
đến phong trào đấu tranh của nhân dân các dân tộc Lào. Nhân dân Lào đã tiến hành nhiều
cuộc đấu tranh với nhiều hình thức khác nhau như: đòi tăng lương, giảm giờ làm, phản
đối một số chủ mỏ sa thải công nhân, giảm thuế… Tiêu biểu là các cuộc đấu tranh của
công nhân bến tàu Viêng Chăn, công nhân mỏ Bò Nèng (tỉnh Khăm Muộn). Trong các
cuộc đấu tranh đó, những người Việt sinh sống ở Lào đã tích cực cùng tham gia, cùng sát
cánh với nhân dân Lào để đứng lên đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ.
Trên cơ sở phát triển của tổ chức Đảng ở Lào, Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời
Ai Lao (tức Xứ uỷ lâm thời Ai Lao) được thành lập vào tháng 9 năm 1934 đã đánh dấu
một cột mốc quan trọng trong lịch sử đấu tranh yêu nước của nhân dân Lào, khẳng định
cái vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với cách mạng Lào cũng như
bước tạo nên một bước phát triển mới trong quan hệ giữa hai nước là Việt Nam và Lào.
Đại hội Đại biểu lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương diễn ra vào tháng 3
năm 1935 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hợp tác các dân tộc Đông Dương để
cùng nhau chống lại kẻ thù chung trên nguyên tắc chân thật, tự do và bình đẳng cách
mạng làm căn bản. Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ nhất đã thúc đẩy nhân
dân Việt – Lào đoàn két cùng đấu tranh chống chế độ thuộc địa của bọn thực dân nói
chung và thực dân Pháp nói riêng.
Trong những năm 1930 – 1939, dưới sự lạnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương, cac cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và Lào đã ảnh hưỡng lẫn nhau vô
cùng mạnh me, góp phần phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh của mỗi
dân tộc đồng thời tăng cường hơn mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân 2 nước, là cơ sở để

nhân dân 2 nước là Việt Nam và Lào cùng phối hợp, gắn bó với nhau để tiến lên trong sự
nghiệp chống thực dân Pháp.
Từ tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ. Ở các nước Đông
Dương, chính quyền thuộc địa ra sức đàn áp các phong trào đấu tranh cách mạng của


nhân dân và vơ vét sức người, sức của để phục vụ cho chính quốc. Trước tình hình đó,
Đảng Cộng sản Đông Dương và đứng đầu là Nguyễn Ái Quốc đã họp và đưa ra quyết
định giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng quốc gia. Những chủ trương đúng
đắn của Đảng đã dẫn đường cho nhân dân Việt Nam và Lào phát huy mạnh me tinh thần
đoàn kết đấu tranh giành độc lập và đồng thời tăng cương hơn mối liên hệ mật thiết giữa
nhân dân 2 nước trong sự nghiệp giành độc lập, tự chủ.
Trong khi phong trào đấu tranh của nhân dân 2 nước Việt Nam và Lào đang phát
triển vô cùng mạnh me thì tại Việt Nam, Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp lấy thời cơ
và giành thắng lợi, giải phóng đất nước khỏi sự đô hộ và thống trị của bọn phát xít Nhật
và thực dân Pháp tháng 8 năm 1945. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam năm 1945 đã tạo
điều kiện thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Lào lúc bấy giờ.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của mối quan hệ Việt - Lào , chủ tịch Hồ Chí Minh ngày
càng nhấn mạnh hơn về uy tín, quyết tâm, tạo thêm chất keo dính nhằm gắn kết chặt che
hơn tình cảm của đồng bào 2 nước.
1.2.2. Giai đoạn 1945 - 1954
Sau khi giành lại được chính quyền nhân dân 2 nước Việt - Lào luôn mong muốn
được sống trong hòa bình, hợp tác, cùng nhau bảo vệ nền độc lập của đất nước mình.
Chình phủ hai nước đã ký Hiệp ước tương trợ Lào – Việt 1 và Hiệp định về tổ chức Liên
quân Lào- Việt2, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự hợp tác giúp đỡ và liên minh chiến đấu
chống kẻ thù chung của hai quốc gia Việt - Lào.
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, Pháp bắt đầu quay lại xâm lược Đông Dương mà mở
đầu là thành phố Sài Gòn. Đứng trước sự tồn vong nền độc lập dân tộc của ba nước Đông
Dương là Việt Nam - Lào – Campichia, Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác lập và định
hướng liên minh chiến đấu của ba nước Đông Dương. Theo tinh thần đó, quân và dân của

Việt - Lào cùng phối hợp đánh quân Pháp, tiêu biểu cho sự liên minh chiến đấu và tình
1 Ký ngày 16-10-1945
2 Ký ngày 30-10-1945


đoàn kết của nhân dân Lào - Việt là trận chiến đấu bảo vệ Thà Khẹc ngày 21 tháng 3 năm
1946. Tinh thần chiến đấu mạnh me và sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ liên quân
Lào- Việt trong đó có chiến sĩ Việt Nam Lê Thiệu Huy đã “nhắc nhở cho thanh niên Lào,
cho nhân dân Lào, luôn luôn bền bỉ chiến đấu để giết đế quốc xâm lăng và giành độc lập
thực sự cho đất nước”3
Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương họp vào tháng 2 năm 1951 tại Tuyên Quang
(Việt Nam) đã mở ra chặng đường phát triển mới của quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa
nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia ngoài ra còn tạo cơ sở nâng cao quan hệ
đoàn kết và phối hợp chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông Dương.
Những thắng lợi vang dội của nhân dân ba nước Đông Dương trong Đông Xuân
1953 - 1954, đỉnh điểm là chiến thắng Điện Biên Phủ, nước Pháp phải đồng ý ký kết hiệp
định Giơ-ne-vơ vào ngày 21 tháng 7 năm 1954 qua đó Pháp và các nước tham gia hội
nghị cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước
Đông Dương4. Chiến thắng Điện Biên Phủ cùng với ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ đã thể
hiện được tinh thần đoàn kết của nhân dân ba nước Đông Dương nói chung và mối quan
hệ mật thiết giữa Việt Nam và Lào nói riêng.
1.2.3. Giai đoạn 1954 - 1975
Mỹ là thành phần tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ tuy nhiên lại không ký kết vào hiệp
định, vẫn từng bước thực hiện âm mưu xâm lược miền Nam Việt Nam và Lào. Trên tình
thần đó, việc thành lập Đảng Nhân dân Lào tháng 4 năm 1955 đã tạo cơ sở vững chắc
nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào kháng chiến ở Lào đồng thời
đây cũng là nhân tổ có ý nghĩa quyết định sự thúc đẩy quan hệ đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau
giữa hai nước Việt - Lào.
Trước sự can thiệp trắng trợn của đế quốc Mỹ đối với Lào, lãnh đạo cấp cao của
Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào đã tích cực xây dựng và phát triển lực

3 Thư của Hoàng thân Xu-pha-na-vông gửi cụ Lê Thước đề ngày 7 tháng 11 năm 1951. Phòng tư liệu viện nghiên
cứu Đông Nam Á
4 Mỹ là thành phần tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ nhưng không ký vào Hiệp định


lượng mọi mặt để sẵn sàng chuyển sang hoạt động quân sự rộng rãi trên cả nước. Sau
nhiều thất nặng nề của Mỹ buộc phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1962 đã cho thấy sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản, sự đấu tranh mạnh me của dân và quân Lào cũng
như sự đoàn kết gắn bó giữa hai dân tộc Việt - Lào như đồng chí Cay-xỏn-phôm-vi-hản
đã phát biểu trong cuộc hội đàm giữa Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao động Việt Nam
(12/1968) đã nhấn mạnh: “Sự giúp đỡ của Việt Nam cho cách mạng Lào hết sức tận tình
và vô tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật chất và xương máu. Xương máu của nhân dân Việt
Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất nước Lào vì nền độc lập của Lào… Sự giúp đỡ của
Việt Nam đối với Lào đã xây dựng nên mối quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận
dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản”5
Những chiến thắng to lớn dưới sự liên minh giữa hai dân dân tộc Việt - Lào từ
năm 1968 đến 1973 về nhiều mặt như: quân sự, chính trị, ngoại giao, lĩnh vực xây dựng
kinh tế, phát triển văn hóa đã góp phần buộc chính phủ Viêng Chăn phải ký kết Hiệp định
“lập lại hoà bình và thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào” (21/2/1973), mở ra cơ hội mới cho
liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào đẩy mạnh đấu tranh giành thắng lợi hoàn toàn. Từ
năm 1973 đến năm 1974, dưới sự phối hợp chặt che và hiệu quả giữa Việt Nam và Lào đã
làm cho thế và lực của cách mạng Lào ngày càng lớn mạnh vượt bậc buộc Chính phủ liên
hiệp Lào phải chấp nhận Cương lĩnh chính trị 18 điểm và Chương trình hành động 10
điểm do Mặt trận Lào yêu nước đưa ra (12/1974). Trước thắng lợi to lớn của nhân dân
Việt Nam, Campuchia, Bộ Chính trị Đảng nhân dân cách mạng Lào quyết định phát động
cả nước nổi dậy đoạt lấy chính quyền và đã giành thắng lợi hoàn toàn.
Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời (12/1975) chính là thắng lợi to lớn
của nhân dân Lào và đồng thời đây cũng là thắng lợi của quan hệ hai quốc gia Việt - Lào,
giúp cho mối quan hệ giữa hai nước càng trở nên khắng khít hơn, sâu đậm hơn, gắn bó
keo sơn hơn nữa.

1.2.4. Giai đoạn 1975 – 1986
5 Dẫn theo Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930 – 2007, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự
thật, Hà Nội, 2001, tr.439


Sau năm 1975, quan hệ Việt - Lào đã có nhiều sự thay đổi theo chiều hướng tốt
đẹp hơn. Cả hai nước từ cùng chiến đấu đánh đuổi chung một kẻ thù để giành độc lập thì
giờ đây nhân dân hai nước đã bước sang giai đoạn mới - giai đoạn tăng cường quan hệ
hợp tác toàn diện về chính trị, quốc phòng an ninh, kinh tế, văn hóa, giáo dục… Tuy
nhiên, mối quan hệ Việt - Lào sau thắng lợi kháng chiến chống Mỹ cũng đối diện với
nhiều khó khăn, thử thách không hề nhỏ: cả hai nước đều phải ra sức khắc phục hậu quả
chiến tranh nặng nề, nền kinh tế của cả hai nước về cơ bản đều là nền kinh tế nông
nghiệp có trình độ canh tác và năng suất thấp, tư duy lãnh đạo còn mang nặng tính tập
trung bao cấp… Ngoài ra tình hình quốc tế cũng ảnh hưởng không nhỏ đến mối quan hệ
của hai nước: Liên Xô và các nước Đông Âu là những quốc gia theo hệ thống xã hội chủ
nghĩa đang lâm vào khủng hoảng, trì trệ từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX, các thế lực
thù địch trong và ngoài nước của cả Việt Nam và Lào luôn tìm cách phá hoại và chia re
quan hệ Việt - Lào. Năm 1977, trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và lợi ích
sống còn của hai dân tộc, hai nước chính thức ký kết các hiệp ước: Hiệp ước hữu nghị và
hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào;
Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Trên cơ sở các hiệp ước đã ký giữa Việt - Lào, nhân nhân dân hai nước đều ra sức
nỗ lực phấn đấu và đạt được những thành quả to lớn trên nhiều lĩnh vực: chính trị và đối
ngoại, quốc phòng - an ninh, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, ngoài ra còn có sự hợp
tác giữa các địa phương và ngoại giao nhân dân.
1.2.5. Giai đoạn 1986 – 2000
Trong 10 năm khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh (1976 - 1985), mô
hình kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp vẫn được duy trì làm cho cả hai nước lâm vào
tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng. Trong khi đó, tình hình thế giới và

khu vực cũng có những biến đổi to lớn, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa tiếp tục tác
động sâu sắc đến mọi quốc gia. Trước tình trên, Đảng Nhân dân cách mạng Lào tổ chức
đại hội lần thứ IV (11/1986) và Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức đại hội lần thứ VI đã


thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo công cuộc xây dựng đất
nước và đề ra những đường lối mới xây dựng đất nước trong giai đoạn quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Việc xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn của Việt Nam và Lào
đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện Việt – Lào bước sang giai
đoạn phát triển mới, phát triển cao hơn nữa. Hiệp định hợp tác giữa hai Chính phủ được
ký trong năm 1992 đã đề ra Chiến lược hợp tác về kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật
giữa Việt Nam và Lào. Chiến lược này chính là cơ sở, là nền tảng để hai bên phối hợp
xây dựng và quyết định các chương trình và dự án kế hoạch hợp tác cùng phát triển đến
năm 2000.


Chương 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ VIỆT - LÀO TƯ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2018
Bước vào thế kỷ XXI, trong bối cảnh khôi phục kinh tế sau khủng hoảng tài chínhtiền tệ châu Á năm 1997 và sự dịch chuyển đầu tư và trao đổi thương mại ở khu vực châu
Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng, quan hệ hợp tác Việt - Lào
chuyển sang giai đoạn mới, chịu sự tác động trực tiếp của quá trình hội nhập quốc tế và
khu vực mà trọng tâm là tự do hóa thương mại.
Việt Nam và Lào tuy đều là những thành viên mới của ASEAN 6, tuy nhiên đã sớm
nắm bắt được tình hình và thông qua ASEAN cả hai nước chủ động tham gia vào các
chương trình hợp tác Đông Á, đồng thời tích cực hưởng ứng các phương thức hợp tác
ASEAN+1, ASEAN+3,… trên cơ sở sự mở rộng của khu vực thương mại tự do ASEAN
(AFTA), những nỗ lực của các nước ASEAN trong xây dựng Cộng đồng kể từ cuối 2015 7
Với những điều kiện mới của bối cảnh quốc tế và khu vực, Việt Nam và Lào có cơ
hội khai thác vị trí địa lý, tiềm năng và lợi thế của riêng mỗi nước nhằm bổ sung cho
nhau cùng phát triển vì vậy cả hai nước cùng ký Thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế,

văn hóa, khoa học - kỹ thuật giai đoạn 2001-2010 và Sáu chương trình hợp tác trọng
điểm giai đoạn 2006-20108.
2.1. Trên lĩnh vực chính trị và dối ngoại

6 Tháng 7 năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN; hai năm sau (tháng 7 năm 1997), đến lượt
Lào gia nhập chính thức tổ chức này.
7 Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 27 tổ chức tại Kuala Lumpur ngày 22-11-2015 đã ra Tuyên bố chung về thành
lập Cộng đồng ASEAN từ ngày 31-12-2015.
8 Sáu chương trình hợp tác trọng điểm giai đoạn 2006-2010 gồm: Chương trình 1: Hợp tác giáo dục - đào tạo và
nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực; Chương trình 2: Hợp tác phát triển bền vững vùng biên hai nước;
Chương trình 3: Hợp tác thông tin, văn hóa, tư tưởng; Chương trình 4: Phát triển thương mại, đầu tư; Chương trình
5: Hợp tác kết nối mạng cơ sở hạ tầng, dịch vụ, du lịch giữa hai nước; và Chương trình 6: Duy trì hoạt động và nâng
cao năng lực các chương trình, dự án phục vụ hợp tác giữa hai nước.


Quan hệ hợp tác chính trị: Xác định chủ trương chiến lược đa dạng hóa quan hệ
quốc tế nhằm thúc đẩy nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam và Lào, ngoài việc mở rộng
quan hệ với các nước khác trong khu vực và thế giới, lĩnh vực quan hệ đối ngoại, hợp tác
Việt Nam - Lào được đẩy mạnh toàn diện trên cả ba kênh: đối ngoại Đảng, ngoại giao
Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Cả hai nước đều chủ trương tăng cường quan hệ hợp
tác về chính trị, duy trì các cuộc gặp hằng năm giữa lãnh đạo cấp cao của hai Đảng, trung
bình mỗi năm có khoảng hơn 200 đoàn qua lại trao đổi, thăm viếng lẫn nhau. Hai bên
thống nhất nhanh chóng xây dựng Định hướng chiến lược hợp tác đến năm 2020 và
Chương trình hợp tác từ năm 2001 đến 2010.
Hai bên nhất trí phối hợp cùng nghiên cứu biên soạn Công trình “Lịch sử quan hệ
đặc biệt và liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930 - 2007” nhằm đúc
kết các bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc xây dung, vun đắp và phát triển quan hệ
đặc Biệt Việt- Lào lên một tầm cao mới. Ngoài ra còn hoàn thành Công trình biên soạn
Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào (1930 -2007) nhằm tuyên truyền về mối quan

hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào
Về mặt ngoại giao: Việt Nam và Lào đã phối hợp triển khai thực hiện hiệu quả cơ
chế tham vấn cấp Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương và Bộ trưởng Ngoại giao. Việt Nam
hỗ trợ tích cực để Lào lần đầu tiên với vai trò nước chủ nhà tổ chức thành công Hội nghị
Cấp cao Á - Âu (ASEM9 9) vào năm 2012, ủng hộ Lào gia nhập vào WTO 10, hỗ trợ cho
Lào trong vai trò Chủ tịch ASEAN 2016 và tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN
vào tháng 9 năm 2016.
Hai bên thường xuyên gặp gỡ và trao đỗi về các vấn đề đáng quan tâm cả trong
khu vực và quốc tế như: môi trường chiến lược tại châu Á – Thái Bình Dương, hợp tác
trong ASEAN, tiểu vùng sông Mê Công, vấn đề Biển Đông, … nhất trí tiếp tục phối hợp
9 ASEM viết từ The Asia-Europe Meeting (Hội nghị thượng đỉnh Á – Âu hay Diễn đàn hợp tác Á–Âu) chính thức
thành lập vào năm 1996.
10 WTO viết tắt World Trade Organization (Tổ chức Thương mại Thế giới) chính thức được thành lập vào năm
1995.


chặt che tại các diễn đàn khu vực và quốc tế nhằm góp phần nâng cao vị thế quốc tế của
mỗi nước.
Ngoài hoạt động đối ngoại của chỉnh phủ hai bên thì hoạt động đối ngoại nhân dân
là kênh đối ngoại được cũng được hai nước quan tâm thường xuyên. Hai bên đã tổ chức
nhiều cuộc mít tinh, nhiều hoạt động giao lưu văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao 11.
Trong các cuộc viếng thăm, gặp gỡ giữa các địa phương khu vực giáp biên, cả hai thường
trao đổi với nhau về tư tưởng, lý luận, công tác dân vận,… góp phần làm cho mối quan
hệ đó ngày càng đi vào chiều sâu với nội dung thiết thực và có hiệu quả.
Lĩnh vực quan hệ đối ngoại giữa Viêt Nam và Lào từ năm 2001 trở đi tiếp tục tăng
cường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đem lại nhiều kết quả rất khả quan. Cả Việt Nam
và Lào đều hết sức coi trọng mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước, cam kết giữ vững và
không ngừng phát triển truyền thống tốt đẹp đó.
2.2. Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh
Việt Nam và Lào tiếp tục khẳng định hợp tác trong lĩnh vực quốc – an ninh là một

trong những cột trụ hết sức quan trọng trong quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Điểm nổi bật
trong thời gian này là công tác phòng thủ an ninh của các lực lượng an ninh và quân đội
hai nước chống lại lực lượng phản động lưu vong tìm cách chống phá cách mạng Lào và
Việt Nam đạt hiệu quả khá cao. Điển hình là trong những năm 2000-2007, một số phần tử
phản động trong nước Lào được các thế lực thù địch bên ngoài hỗ trợ đã gây ra một số vụ
nổ, phục kích ở một vài địa phương nhưng đều bị lực lượng an ninh Lào phối hợp chặt
che với lực lượng an ninh Việt Nam ngăn chặn kịp thời như: vụ đánh cửa khẩu Văng Tàu
(Chămpaxắc, 7/2000); vụ gây rối trật tự an ninh ở Viêng Chăn (7/2000); vụ bạo loạn vũ
trang ở Hủa Phăn (2003); vụ gây rối ở Bò Kẹo (7/2007). Sự hợp tác có hiệu quả giữa Việt
11 Triển lãm “Sách báo – Mùa xuân hữu nghị Việt Lào” tháng 4 năm 2012; Hội diễn văn nghệ quần chúng người
Việt Nam tại Lào tháng 5 - 2012; Liên hoan hữu nghị nhân dân Việt Nam – Lào lần thứ 3 tại Việt Nam tháng 7 2012; tổ chức nhiều cuộc nói chuyện tại các cơ quan trung ương và địa phương nhằm tuyên truyền sâu rộng mối
quan hệ hai nước; tổ chức cuộc thi tìm hiểu ‘Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt – Lào, Lào – Việt Nam với số lượng
người tham gia đông đảo. Chuyến thăm hữu nghị nước CHDCND Lào tháng 4-2017 của Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc được coi là hoạt động chính thức mở đầu cho các hoạt động lớn kỷ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại
giao và 40 năm Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam – Lào trong năm 2017.


Nam và Lào đã làm tăng cường hơn nữa sự tin cậy, hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai
Nhà nước, nhân dân và Quân đội hai nước.
Hai bên phối hợp thực hiện tốt việc hợp tác xây dựng tuyến biên giới Việt Nam–
Lào ổn định và phát triển bền vững, hoàn thành Dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc
quốc giới Việt Nam – Lào12, ký các văn kiện mang tính pháp lý quan trọng là “Nghị định
thư về đường biên giới và mốc giới Việt Nam - Lào” và “Hiệp định về quy chế quản lý
biên giới và cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam - Lào” (16/3/2016); phối hợp triển
khai thực hiện Thỏa thuận cấp cao Chính phủ về giải quyết vấn đề người di cư tự do và
kết hôn ngoài giá thú trong khu vực biên giới hai nước 13. Việc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ
cũng được hai Bộ Quốc phòng tích cực phối hợp thực hiện. Chỉ trong giai đoạn 2011 –
2016, các đội quy tập mộ liệt sĩ của Việt Nam được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhân dân
Lào đã đưa về nước 2.504 hài cốt liệt sĩ. Việt Nam cũng đã quy tập được 6 hài cốt quân
nhân và lưu học sinh Lào hy sinh hoặc mất trong thời gian học tập, công tác tại Việt Nam

và đưa vào Nghĩa trang liệt sĩ Đồng Tâm, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa14
Sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa Việt Nam và Lào trên lĩnh vực quốc phòng - an
ninh đã tạo ra một trong những nhân tố cơ bản thường xuyên bảo đảm lợi ích trực tiếp về
an ninh và phát triển của mỗi nước, không chỉ tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh
và khả năng phòng thủ của mỗi bên, mà còn làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống
phá của các thế lực thù địch, đồng thời góp phần không nhỏ vào sự nghiệp đổi mới ở hai
nước.
2.3. Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ
Dựa trên cơ sở “Thỏa thuận Chiến lược về Hợp tác Kinh tế, Văn hóa, Giáo dục,
Khoa học kỹ thuật giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ
12 Hai bên đã tôn tạo, cắm mới 905 vị trí, tương đương 1.002 cột mốc và cọc dấu, trong đó cắm bổ sung 168 cọc
dấu.
13 Hiện có 1.632 người Lào, 5.836 người Việt Nam di cư tự do và kết hôn ngoài giá thú đang sinh sống tại vùng
biên mỗi nước.
14 Báo Quân đội nhân dân ngày 8-6-2012, Báo điện tử VTV.vn ngày 6-6-2016.


Nhân dân Lào giai đoạn 2011 - 2020” được ký tại Hà Nội tháng 9 năm 2011, hai bên
cùng tiến hành sữa đổi, bổ sung các văn bản thỏa thuận, cùng phối hợp xây dựng các cơ
chế, chính sách mới phù hợp với luật pháp và tình hình thực tế của mỗi nước trong bối
cảnh hội nhập quốc tế. Chính phủ Việt Nam và Lào khuyến khích các tổ chức, địa
phương hai bên hợp tác và giúp đỡ trên các lĩnh vực là thế mạnh của mình để cùng nhau
phát triển. Ngày 15 tháng 5 năm 2016, trong cuộc hội đàm, Thủ tướng Việt Nam là
Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Lào là Thoonglun Xixulít đã nhất trí và đạt được nhiều
mục tiêu quan trọng trong Chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ
thuật Việt - Lào giai đoạn 2011-2020. Đặc biệt, Hiệp định về hợp tác giữa Chính phủ Việt
Nam và Lào giai đoạn 2011- 2015 đã được triển khai và hoàn thành tốt như mong đợi. Cả
hai Thủ tướng đều khẳng định se phối hợp để tổ chức thực hiện tốt các thoả thuận về tăng
cường quan hệ chính trị, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cũng như các lĩnh vực kinh tế,
thương mại, đầu tư; triển khai Kế hoạch hợp tác giữa hai Chính phủ năm 2016 và Hiệp

định hợp tác song phương Việt Nam- Lào giai đoạn 2016 – 2020.
Hợp tác về đầu tư giữa Việt Nam và Lao trong giai đoạn này cũng có bước tiến
triển mới, thiết thực và đem lại nhiều hiệu quả nhờ vào sự đổi mới quy hoạch cũng như
chất lượng của các chương trình hơp tác hay dự án đầu tư. Sự kiến đánh dâu sự chuyển
biến về hợp tác đầu tư là tháng 12 năm 2012, tại tỉnh Vĩnh Phúc (Việt Nam), Việt Nam và
Lào đã ký Thỏa thuận giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước
CHDCND Lào về Chiến lược hợp tác Việt Nam – Lào tại hai tỉnh Hủa Phăn và Xiêng
Khoảng, nước CHDCND Lào đến năm 2020. Thỏa thuận này đã giúp cho việc hợp tác
đầu tư của hai bên ngày càng dễ dàng hơn, quy mô ngày càng lớn hơn và góp phần đưa
sự hợp tác đầu tư của hai nước có nhiều bước phát triển mới góp phần củng cố và tăng
cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước.
Hợp tác về thương mai Việt - Lào: hai bên cùng thống nhất tiếp tục đề án phát triển
thương mại giữa hai nước, tạo thuận lợi cho việc tổ chức Hội chợ thương mại Việt NamLào nhiều năm tiếp theo.


Kim ngạch hai chiều năm 2011 đạt 734 triệu USD, thì đến năm 2015 đạt 890 triệu
USD; năm 2016 đạt 823,4 triệu USD (Việt Nam nhập khẩu từ Lào 345,4 triệu USD, Xuất
khẩu sang Lào 478 triệu USD), điều này đã cho ta thấy sự hợp tác về thương mai giữa hai
nước Việt - Lào đã và đang phát triển như thế nào. Ngoài ra hai nước cũng tiến hành phối
hợp nghiên cứu và xây dựng “Đề án Tổng thể phát triển Thương mại Việt Nam – Lào
giai đoạn 10 năm (2017 – 2026)” nhằm tìm kím những giải pháp thúc đẩy tăng trưởng
kim ngạch xuất nhậu khẩu giữa hai nước.
Về giao thông vận tải: Cả Việt Nam và Lào đều có sự quan tâm đặc biệt tới sự đảm
bảo kết nối giao thông đường bộ ở các tuyến đường huyết mạch qua biên giới và các trục
đường nối liền với các cảng biển của Việt Nam nhằm phục vụ cho đầu tư, thương mại của
hai nước. Phối hợp xem xét việc bổ sung tuyến đưởng 8 vào Hiệp định GMS - CBTA 15.
Ngoài ra còn nhanh chóng đẩy nhanh tiến trình làm thủ tục cần thiết để mở tuyến đường
từ Hà Tĩnh đi Khăm Muộn (Lào) đến Nakhon Phanôm (Thái Lan) và ngược lại.
Việt Nam và Lào cùng nhau phối hợp chặt che với nhau và với các nước thuộc
Tiểu vùng sông Mê Công nhằm quả lý, khai thác có hiệu quả, lâu dài nguồn nước sông

Mê Công.
Hợp tác về giáo dục - đào tạo: công tác đào tạo đội ngũ cán bộ cho Lào ngày càng
được tăng cường về số lượng cũng như chất lượng, đáp ứng được yêu cầu đổi mới của
Lào; các cơ sở đào tạo lưu học sinh Lào tại Việt Nam được đầu tư nâng cấp cũng như
chất lượng học tập lưu học sinh Lào theo diện Hiệp định có chuyển biến tốt.
Việt - Lào tiếp tục triển khai Đề án “Nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác
Việt- Lào trong lĩnh vực giáo dục và phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011 - 2020”,
thúc đẩy việc giảng dạy tiếng Việt tại Lào và ngược lại.
Hợp tác trong các lĩnh vực khoa học- công nghệ, thông tin truyền thông, lao động,
văn hóa nghệ thuật, thể thao du lịch được hai bên quan tâm và thực hiện. Việt Nam đã tổ
15 GMS – CBTA viết tắt của Greater Mekong Subregion - Cross Border Transport Agreement (Hiệp định vận tải
qua lại biên giới của các nước tiểu vùng Mê Kông mở rộng)


chức động thổ xây dựng bệnh viện hữu nghị tại tỉnh Hủa Phăn trị giá khoảng 20 triệu
USD và bệnh viện tại tỉnh Xiêng Khoảng trị giá khoảng 17 triệu USD. Việt - Lào đã ký
thỏa thuận hợp tác nghiên cứu và đào tạo về khoa học xã hội và nhân văn nhằm góp phần
tăng cường thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của hai nước.
2.4. Hợp tác giữa các địa phương và hợp tác biên giới
Hợp tác giữa các địa phương: các hoạt động trao đổi kinh nghiệm, giao lưu học
hỏi lẫn nhau nhằm phát triển hợp tác toàn diện trên nhiều lĩnh vực như: kinh tế, thương
mai, đầu tư, du lịch, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, y tế, quốc phòng - an ninh… giữa các
tỉnh biên giới Việt - Lào tiếp tục phát triển và mang lại nhiều hiệu quả. Hợp tác giữa các
địa phương vừa là phát triển kinh tế - xã hội mỗi địa phương, vừa củng cố thêm nền tảng
quan hệ đặc biệt Việt - Lào trên mọi phương diện.
Hợp tác phát triển bền vững biên giới: Nhà nước cũng như chính quyền địa
phương ở các tỉnh giáp biên giới của cả hai nước đều chú trọng xây dựng tuyến biên giới
Việt- Lào ổn định và phát triển toàn diện. Luôn kiên quyết đấu tranh phòng ngừa và ngăn
chăn kịp thời các hoạt động của các thế lực thù địch trong và ngoài của mỗi nước lợi
dùng các vấn đề như tôn giáo, dân tộc, nhân quyền để chống phá, chia re mối quan hệ

giữa hai nước.
Việc tăng cường kiểm tra các tuyến biên giới, các cửa khẩu nhằm phòng chống tội
phạm xuyên quốc gia, nạn buôn lậu, vận chuyển ma túy và một số vấn đề tiêu cực khác
ngày càng đẩy mạnh. Khẩn trương hoàn thành các thủ tục để thực hiện hai văn kiện pháp
lý được ký tại Hà Nội vào tháng 3 năm 2006 là Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới
và cửa khẩu biên giới Việt Nam – Lào và Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc
giới Việt Nam – Lào.


TIỂU KẾT
Quan hệ đặc biệt Việt - Lào từ năm 2001 đến nay đã có được những bước tiến dài
và nhiều thành quả vô cùng to lớn. Bằng quyết tâm của Đảng, Nhà nước cùng với sự nỗ
lực phấn đấu của các cấp, các địa phương và nhân dân hai nước, quan hệ hợp tác toàn
diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt ngày càng phát triển hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu
trên nhiều lĩnh vực từ hợp tác về chính trị, ngoại giao, quốc phòng - an ninh đến hợp tác
văn hóa, khoa học - kỹ thuật … góp phần thúc đẩy một cách mạnh me công cuộc xây
dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc ở mỗi nước.
Trong giai đoạn từ năm 2001 đến nay, quan hệ Việt - Lào luôn có những bước thay
đổi theo chiều hướng tích cực, hai nước luôn xác định tập trung vào những lĩnh vực thế
mạnh và điều kiện thuận lợi căn bản của riêng mỗi nước nhưng luôn có sự ưu đãi cho
nhau, phù hợp với khả năng của mỗi nước. Các thỏa thuận, hiệp định được ký kết của hai
nước tào thành một hệ thống cơ chế hợp tác và khung pháp lý quan trọng để cả hai nước
đều áp dụng được, nhờ đó tính hiệu quả của quan hệ Việt - Lào được chú trọng và nâng
lên rõ rệt, góp phần làm nâng cao vị thể của cả hai Đảng, hai nhà nước, đóng góp một
cách tích cực cho nền hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển ở trong khu vực nói
riêng và trên thế giới nói chung.
Chặng đường hơn 85 năm bảo vệ và phát triển mối quan hệ Việt - Lào đã đạt được
những thành tựu cực ky to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử vô cùng sâu sắc. Chặng
đường đó cũng chính là quãng thời gian thử thách mối quan hệ Việt - Lào keo sơn, bền
lâu và vững chắc. Cả hai nước Việt Nam và Lào đều dành cho nhau những ưu tiên cao

nhất trong mối quan hệ của hai nước, đồng thời bảo đảm tôn trọng tính pháp lý của nhau


và những thông lệ quốc tế. Chính điều đó lại càng khẵng định mối quan hệ Việt - Lào là
tài sản chung vô giá của hai Đảng, hai dân tộc, hai quốc gia, là quy luật tồn tại và
phát triển, là quan hệ sống còn và là nguồn lực quan trọng nhất đối với sự nghiệp
bảo vệ, phát triển ở mỗi nước.
Chương 3: NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VÀ KHUYẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ VIỆT - LÀO
3.1. Những thuận lợi của quan hệ Việt - Lào
Vị trí địa lý: Việt Nam và Lào là hai quốc gia thuộc bán đảo Đông Dương và cùng
dựa lưng vào dãy núi Trường Sơn với biên giới hơn hơn 2300km, trải dài qua 10 tỉnh ở
mỗi nước. Với đường biên giới dài như vậy có thể nói đây là điều kiện thuận lợi quan
trọng giúp cho việc liên minh chống giặc ngoại xâm ở giai đoạn trước và giao thương
buôn bán ở giai đoạn sau giữa hai nước phát triển hơn.
Giai đoạn 1930 - 1945, cách mạng của Việt Nam - Lào đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Đông Dương, nhân dân cả hai nước cùng sát cánh, đoàn kết đấu tranh
chống thực dân Pháp và giành độc lập cho dân tộc mình. Nhân dân Việt - Lào chớp thời
cơ và giành chiến thắng trong khởi ngĩa tháng 8 năm 1945. Chiến thắng tháng 8 năm
1945 chính là ky tích của mối quan hệ Việt - Lào, đồng thời củng góp phần nâng cao tầm
quan hệ giữa hai nước.
Giai đoạn 1945 – 1975, sự liên minh Việt - Lào đấu tranh chống thực dân Pháp
sang xâm lược lần hai cũng như chống thực dân Mỹ đã thể hiện rõ nét hơn về mối quan
hệ keo sơn, gắn bó quyết tâm giành độc dân tộc của hai nước. Với thắng lợi vĩ đại của hai
dân tộc Việt - Lào diễn ra vào năm 1975, kết thúc hoàn toàn cuộc chiến đấu chống thực
dân xâm lược.
Đường Trường Sơn trong các giai đoạn đấu tranh chống thực dân (1930 - 1975) là
tuyến đường huyết mạch, là tuyến đường vận chuyển người và của từ Bắc Việt Nam chi
viện cho chiến trường ba nước Đông Dương, ngoài ra dãy Trường Sơn còn là nơi thiết lập



căn cứ hậu cần khổng lồ và là nơi cung cấp vũ khí, hàng quân dụng, dân dụng cho các
tiền tuyến.
Giai đoạn sau giải phóng (1976 - 2018), Do có đường biên giới dài nên việc giao
thương giữa Việt - Lào cũng dễ dàng hơn, có nhiều cửa khẩu quốc tế như: Na Mèo
(Thanh Hóa), Lao Bảo (Quảng Trị), Bờ Y (Kon Tum), … Việc nhân dân vùng biên giới
hai nước thường xuyên trao đổi, buôn bán cũng góp phần không nhỏ cho việc thúc đẩy
mối quan hệ Việt - Lào ngày một phát triển hơn.
Văn hóa: có nét tương đồng giữa hai nước là giàu lòng nhân ái và yêu thương con
người, cả hai đều là những quốc gia đa dân tộc, có lịch sử phát triển lâu đời trên bán đảo
đông dương. Sự tương đồng giữa văn hóa làng - nước của người Việt và văn hóa bảnmường của người Lào bắt nguồn từ chính nền tảng chung của văn minh nông nghiệp lúa
nước ở Đông Nam Á. Tuy Việt Nam và Lào có tiếng nói, văn tự khác nhau, lựa chọn nền
văn hóa và sáng tạo khác nhau những nét tương đồng thì vẫn thấy phổ biến trong nhiều
mặt đời sống hàng ngày của cư dân Việt - Lào. Các nền văn hóa nghệ thuật truyền thống
của Việt Nam và Lào dễ dàng tìm thấy sự đồng cảm lẫn nhau, chia sẻ tâm hồn chung về
các giá trị cộng đồng, coi trọng luật tục, tôn kính người già…
3.2. Những khó khăn của quan hệ Việt - Lào
Trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Lào thì ngoài những điều kiện thuận lợi như:
vị trí địa lý, chung một kẻ thù, tương đồng văn hóa củng có những khó khăn hạn chế nhất
định.
Việt Nam và Lào đều là những nước đang phát triển, thiếu trầm trọng nguồn lực
cho sự phát triển: Việt Nam và Lào đều là những nước thuộc địa nữa phong kiến, sau khi
giành được độc lập thì điểm xuất phát của cả hai nước đều rất thấp. Bản thân Việt Nam
củng như Lào đang gặp khá nhiều khó khăn về vốn, khoa học - công nghệ, thị trường
xuất khẩu, nguồn lao động có chất lượng… Ngoài ra, cả Việt Nam và Lào đều là những
nước mới chuyển đổi sang xây dựng nền kinh tế thị trường, bước đầu hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới nên còn thiếu kinh nghiệm, khó khăn trong việc tìm kím lợi thế. Một


nhân tố khác cũng gây ảnh hưởng không nhỏ trong quan hệ Việt - Lào đó là Lào là một

nước dựa nhiều vào nguồn viện trợ và đầu tư bên ngoài. Sự hỗ trợ của các nước bao trùm
lên nhiều lĩnh vực khác nhau của Lào từ cơ sở hạ tầng, giáo dục đến y tế và phát triển
nguồn nhân lực… Vì vậy việc lựa chọn nội dung hợp tác giữa Việt - Lào phải làm sao
cho phù hợp, tránh tình trạng chồng chéo với các chương trình hợp tác giữa Lào với các
nước khác.
Cơ sở hạ tầng yếu kém: Việt - Lào có chung đường biên giới khá dài (hơn
2300km) có điều kiện thuạn lợi để đẩy mạnh giao lưu, buôn bán… Tuy nhiên, sự phát
triển cơ sở hạ tầng mà trước tiên là hạ tầng giao thông còn khá nhiều hạn chế ở cả Việt
Nam và Lào. Mặc dù trong những năm qua, cả hai nước đều đầu tư cải tạo và xây dựng
mới hệ thống giao thông giữa hai nước, nhưng do nguồn vốn còn hạn chế nên nhìn chung
hệ thống giao thông nối liền hai nước vẫn còn yếu. Sự yếu kém của cơ sở hạ tầng làm cho
chi phí trao đổi hàng hóa giữa hai nước tăng cao, hiệu quả hợp tác còn thấp. Đây cũng là
nguyên nhân gây nhiều khó khăn trong việc triển khai hợp tác giữa hai nước.
Cơ chế hợp tác cả hai nước còn nhiều bất cập: cả Việt Nam và Lào đều có hệ
thống pháp luật vẫn chưa thật hợp lý, còn nhiều sơ hở, thủ tục hành chính còn rườm rà, ỷ
lại do chịu sự ảnh hưởng của chế độ quan liêu, bao cấp kéo dài trước đây. Yếu tố này
cũng là một trong những nguyên nhân gây cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
nước và cản trở quá trình hợp tác giữa hai nước.
Tác động tiêu cực từ các nhân tố bên ngoài: Hiện nay các thế lực thù địch vẫn
muốn phá hoại quan hệ hợp tác hữu tốt đẹp Việt - Lào. Một mặt thực hiện các chiêu bài
của chiến lược “diễn biến hòa bình” (sử dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, sắc tộc, tôn
giáo…), mặt khác tìm mọi cách xuyên tạc, chống phá mối quan hệ giữa hai nước một
cách trực tiếp như xúi giục nhân dân gây rối trật tự an ninh ở Viêng Chăn (7/2000), xúi
giục nhân dân gây bạo loạn vũ trang ở Hủa Phăn (2003)… Ngoài ra còn phải kể đến sự
can dự của các nước lớn đến vấn đề khu vực, quan hệ giữa hai nước.
3.3 Khuyến nghị một số giải pháp nhằm tăng cường quan hệ Việt - Lào


Về chính trị: Tăng cường quan hệ hợp tác ở mọi cấp độ, duy trì các cuộc gặp cấp
cao của hai Đảng, hai nhà nước hàng năm. Tăng cường tiếp xúc, trao đổi các đoàn của

Đảng, chính quyền với các đoàn thể nhân dân địa phương một cách hiệu quả. Tiếp tục
phát huy các cuộc giao lưu giữa các đoàn thể hai nước để đánh giá kết quả hợp tác cũng
như trao đổi kinh nghiệm phối hợp, kịp thời khắc phục những thiếu sót còn tồn tại và
những vấn đề mới nảy sinh.
Các vấn đề quốc tế có liên quan: Tiếp tục đẩy mạnh sự hợp tác, phối hợp giữa hai
nước trên các diễn đàn khu vực và quốc tế. Thường xuyên thực hiện các hoạt động đối
ngoại trên tinh thần tôn trọng chủ quyền, độc lập, tự chủ theo đường lối của mỗi Đảng,
mỗi nhà nước. Phối hợp chặt che trong việc thực hiện các cam kết và có sự đồng thuận
trong các khuôn khổ hợp tác đa phương đối với những vấn đề có liên quan đến hai nước.
Về quốc phòng - an ninh: Hai nước cần chú trọng giúp nhau đào Žạ ovà bồi dưỡng
cán bộ, tạo ra sự phối hợp chiến lược phòng thủ quốc giai, bảo vệ biên giới, ngăn chặn
các thế lực thù địch, thế lực phản động, ngăn chặn các hoạt động tội phạm nhất là buôn
ma túy và buôn lậu.
Về kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ: Quan tâm đặc biệt tới cơ sở hạ tầng mà
nhất là việc bảo đảm kết nối giao thông đường bộ giữa hai nước. Chủ động mở rộng hợp
tác trên các lĩnh vực mà hai bên có điều kiện, có khả năng và có nhu cầu. Hai nước cần
tăng cường hợp tác giúp đỡ nhau trên tinh thần ưu tiên, ưu đãi lẫn nhau nhằm tận dụng và
phát huy tối đa những lợi thế vốn có của hai nước. Phải tận dụng triệt để nguồn vốn quốc
tế nhằm nhanh chóng đưa nền kinh tế của hai nước đi lên góp phần thúc đẩy quan hệ giữa
hai nước ngày càng gắn chặt hơn.
Về luật pháp: Cả hai nước cố gắng sữa đổi, bổ sung các điều luật, giảm bớt sự
rườm ra của thủ tục hành chính và ngày càng xóa bỏ sự ảnh hưởng của thời kì tập trung
quan lieu bao cấp.
Về hội nhập kinh tế quốc tế: Hỗ trợ nhau thu hút vốn đầu tư nước ngoài, làm tăng
khả năng xuất khẩu các mặt hàng của nhau. Việt Nam và Lào cần phối hợp chặt che hơn


nữa để có tiếng nói, quan điểm chung tại các diễn đàn khu vực và quốc tế như: ASEAN,
APEC, Liên hợp quốc…


KẾT LUẬN
Quan hệ Việt - Lào nảy sinh và phát triển trong sự trùng hợp mục tiêu cách mạng
và tình nghĩa của hai dân tộc láng giềng ruột thịt là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, bình đẳng, hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau. Điều đó đã trở thành động lực mạnh me, là
cội nguồn sáng tạo và niềm tin tất thắng, biến sức mạnh tổng thể của cả hai dân tộc trở
thành một sức mạnh to lớn để giải phóng và phát triển đất nước từ nô lệ, bị chia cắt,
nghèo nàn, lạc hậu trở thành những dân tộc độc lập, tự do, thống nhất, có vị trí xứng đáng
trong khu vực và quốc tế.
Trong thế chiến thứ hai, Việt Nam và Lào tuy đã giành được độc lập, nhưng ngay
sau đó lại bị quân đội Pháp kéo tới xâm lược lần hai và sau đó là Mỹ nhưng với sức
mạnh đoàn kết dân tộc, đoàn kết Việt Nam – Lào đã đập tan mưu đồ xâm lược và phá
hoại của các thế lực thù địch, góp phần tạo lập môi trường hoà bình, hợp tác, hữu nghị
giữa các quốc gia Đông Nam Á.
Trong lịch sử thế giới từ xưa tới nay, đã xuất hiện rất nhiều hình thức liên minh,
đồng minh, hợp tác hoặc hình thành các cộng động quốc gia. Nhưng xét về mọi phương
diện, chỉ có mối quan hệ Việt - Lào là mang đầy đủ các yếu tố ưu việt về cách mạng và
nhân văn dựa trên cơ sở lý luận đúng đắn và nguyên tắc, phương pháp hợp lý về xây
dựng phát triển mối quan hệ quốc gia - quốc tế, được sự lãnh đạo của hai Đảng,hai Nhà
nước và nhân dân hai nước đồng thuận và cùng chung sức thực hiện, mang lại những
thành tựu to lớn và tiến bộ vượt bậc về mọi mặt cho cả hai dân tộc.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×