Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của thành phố hà nội theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.69 KB, 101 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TIẾN KHOA

HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA THÀNH
PHỐ HÀ NỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TIẾN KHOA

HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA THÀNH
PHỐ HÀ NỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật kinh tế
Mã số : 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh

Hà Nội, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi, nội
dung cũng như các số liệu trích dẫn trong luận văn hoàn toàn trung thực. Những
kết quả trong luận văn chưa từng được công trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Tiến Khoa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ.................................................................8
1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ..........................................................8
1.2. Pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ..........................................17
1.3 Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của một số quốc gia về hỗ trợ doanh nghiệp

vừa và nhỏ....................................................................................................... 24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY QUA THỰC TIỄN THỰC
HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI..............................................................36
2.1 Thực trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay ..
36

2.2. Thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Thành phố Hà Nội. 42
2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ tại thành phố Hà

Nội...................................................................................................................55

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬTVỀ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY.................................................................................................................78
3.1 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. 78
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.........79
3.3. Một số giải pháp và khuyến nghị hỗ trợ khác..........................................82
KẾT LUẬN.................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH

: Công nghiệp hóa

DN

: Doanh nghiệp

DNVVN

: Doanh nghiệp vừa và nhỏ

EU

: Liên minh Châu Âu

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội


HĐH

: Hiện đại hóa

KTTT

: Kinh tế thị trường

KT-XH

: Kinh tế - xã hội

NSNN

: Ngân sách nhà nước

UBND

: Ủy ban nhân dân

WTO

: Tổ chức Thương mại thế giới

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Tiêu thức xác định DNVVN ở một số nước và vùng lãnh thổ...................8
Bảng 1.2: Tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam.......................8
Bảng 2.1. Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế của Hà Nội (đơn vị tính %)..................40
Bảng 2.2. Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP/người của Hà Nội (2008 2018)…….….41

Bảng 2.3. Số lượng các DNVVN Hà Nội đăng ký kinh doanh................................45
Bảng 2.4. Dư nợ cho vay của các NHTM đối với DNVVN Hà Nội (2012-2016)...54


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế
và xã hội, có vai trò rất quan trọng trong tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động, huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển và đóng góp vào ngân sách
nhà nước. DNVVN có vốn đầu tư ban đầu tuy không lớn nhưng được hình thành và
phát triển rộng khắp ở cả thành thị và nông thôn, ở hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực; là
khu vực khai thác và huy động các nguồn lực, tiềm năng, tạo cơ hội cho đông đảo dân
cư có thể tham gia đầu tư và là nhân tố tạo ra một thị trường cạnh tranh lành mạnh hơn.
Trong chương trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến
việc hình thành, phát triển DNVVN và coi đó là lực lượng chủ lực của phát triển kinh tế
- xã hội (KT-XH) và hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đại hội lần thứ IX của Đảng
đã chỉ rõ “khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển sản xuất
công nghiệp với nhiều quy mô, nhiều trình độ, chú trọng các Doanh nghiệp vừa và nhỏ,
phù hợp với định hướng chung và lợi thế của từng địa phương”. Với sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước, số lượng các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta tăng lên nhanh
chóng và ghi nhận được nhiều thành tựu. Theo kết quả điều tra của Tổng cục thống kê,
hiện nay cả nước có khoảng trên 600 nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm trên 97%
tổng số doanh nghiệp đang hoạt động. Hàng năm, các doanh nghiệp DNVVN đóng góp
khoảng 40% GDP, thu hút 50% lực lượng lao động của cả nước và đóng góp khoảng

gần 30% tổng thu ngân sách nhà nước [71]. Điều này cho thấy các DNVVN có vai trò
rất quan trọng đối với nền kinh tế của nước ta. Do đó, ưu tiên phát triển DNVVN là một
yêu cầu cần thiết và khách quan đối với nền kinh tế đất nước. Sự ra đời của Luật Doanh
nghiệp và Luật Đầu tư đã tác động tích cực đến quá trình phát triển doanh nghiệp Việt
Nam, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng cho tất cả các loại hình doanh
nghiệp (DN). Các DNVVN phát triển ở tất cả các địa phương, ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế, đã huy động được nhiều nguồn lực, tạo nhiều việc làm, tăng thu ngân sách nhà
nước (NSNN), góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa
(CNH), hiện đại hóa (HĐH). Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường
(KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế
giới, các chính sách, công cụ quản lý kinh tế, đặc biệt các giải pháp tài chính, các hỗ trợ
để cho DNVVN tồn tại, phát triển và tăng trưởng luôn được Chính

1


phủ quan tâm hoàn thiện. Tuy nhiên, quá trình vận động, phát triển của nền KTTT và
hội nhập quốc tế luôn nảy sinh những vấn đề mới làm cho các chính sách, giải pháp
luôn có xu hướng lạc hậu, bất cập, đòi hỏi phải thường xuyên được nghiên cứu bổ sung,
hoàn thiện. Các chính sách, giải pháp được Chính phủ sử dụng để quản lý có hiệu quả
nền kinh tế nhằm thúc đẩy các DNVVN phát triển. Tuy nhiên các chính sách, giải pháp
đôi khi chưa thực sự chú ý đến đặc điểm đặc thù của DNVVN mà áp dụng chung cho
mọi loại hình DN, đồng thời do “độ trễ” của chính sách, giải pháp nên trong thực tiễn
quản lý kinh tế tài chính chưa mang lại hiệu quả tương xứng so với mục tiêu và khả
năng của các DNVVN.
Trên địa bàn thành phố Hà Nội Theo thống kê, tính đến tháng 12/2018, có tổng
cộng 254.672 doanh nghiệp, trong đó, số DNVVN chiếm trên 97%, đóng góp hơn 40%
GDP cho thành phố; tạo công ăn việc làm cho hơn 50% lao động [72]. Nhận thức được
tầm quan trọng của việc phát triển DNVVN, trong những năm qua, Hà Nội đã không
ngừng hỗ trợ cho khối doanh nghiệp này. Bên cạnh những thành tựu đạt được, còn

nhiều khó khăn trong quá trình phát triển khối DNVVN như hỗ trợ DNVVN khởi
nghiệp, các chương trình, chính sách chưa thực hiện đồng bộ, việc tiếp cận các nguồn
lực sản xuất kinh doanh như tín dụng, đất đai, thị trường đầu ra…vẫn còn gặp nhiều
khó khăn mất nhiều thời gian và chi phí. Đây là vấn đề mà Hà Nội cần khắc phục [57].
Xuất phát từ những yêu cầu đòi hỏi thực tế của pháp luật về DNVVN nói chung,
đặc biệt về thực tiễn các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội, tác
giả mạnh dạn chọn đề tài " Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của thành phố Hà Nội
theo pháp luật Việt Nam hiện nay" làm luận văn thạc sỹ luật học của mình. Qua việc
nghiên cứu đề tài, tác giả muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nhìn nhận
thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội và đề xuất một
số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, hạn chế và phát huy những ưu thế trong
việc phát triển DNVVN trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến vấn đề hỗ trợ DNVVN, đã có nhiều nghiên cứu của các tổ chức và
cá nhân trong và ngoài nước. Các nghiên cứu ở nước ngoài, có thể kể đến như: “ Small
and medium-sized enterprises in countries in transition/ Economic commission for
Europe" của United Nation - Geneva New York Phân tích tình hình hoạt động của các
DNVVN ở các nước Đang chuyển đổi. Tác giả chỉ rõ đặc điểm, tiêu thức phân loại,
đánh giá sự hoạt động và vai trò của các DNVVN; Báo cáo “Creating an

2


entrepreneurial Europe - The activities of the European Union for small and mediumsized enterprises (DNVVN)”, Commission of the European Communities (2003), báo
cáo đã tổng hợp và phân tích hoạt động của liên minh Châu Âu (EU) nhằm tạo điều
kiện cho DNVVN phát triển, bao gồm thực hiện cải thiện kiến thức kinh doanh cho
DNVVN; nâng cao hiệu quả của cơ quan đại diện. Ngoài ra, báo cáo cũng phân tích
hoạt động trong những lĩnh vực đã được đề ra trong “Hiến chương Châu Âu về doanh
nghiệp nhỏ”[18, tr. 9].
Tại Việt Nam, một số công trình nghiên cứu và phân tích các khía cạnh khác nhau

về DNVVN và chính sách đối với DNVVN của thế giới, từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm hoặc khuyến nghị chính sách cho Việt Nam có thể kể đến như: “Doanh nghiệp
vừa và nhỏ - một loại hình năng động: Kinh nghiệm thế giới và áp dụng ở Việt Nam”
của tác giả Lê Thanh Bình cuốn sách “Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền
kinh tế - Kinh nghiệm trong nước và quốc tế” của Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn - Viện Konrad Adenauer (2005) đã tổng hợp và phân tích những vấn đề lý
luận và thực tiễn về DNVVN ở các nền kinh tế chuyển đổi và ở Việt Nam, kinh nghiệm
phát triển DNVVN ở một số nước và vùng lãnh thổ như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc,
Cộng hòa liên bang (CHLB) Đức, Italia và Đài Loan. Công trình nghiên cứu “Định
hướng chiến lược và chính sách phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đến
năm 2010” của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Dự án US/VIE/95/007 "Hỗ trợ các doanh
nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam" (UNIDO, 2007) đã xây dựng các nội dung,
chương trình hỗ trợ cho các DNVVN. cuốn sách “Phát triển DNVVN: Kinh nghiệm
nước ngoài và phát triển DNVVN ở Việt Nam”, CIEM (2001), lại phân tích những đặc
điểm chung của DNVVN trên thế giới, giới thiệu những kinh nghiệm phát triển
DNVVN ở một số nước như Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan, Đài Loan và Hungary. Việc tham
khảo kinh nghiệm quốc tế, kết hợp với phân tích thực trạng DNVVN của Việt Nam và
các chính sách hỗ trợ, cuốn sách đã đưa ra nhiều đánh giá và kiến nghị nhằm giúp Việt
Nam hỗ trợ loại hình DNVVN tốt hơn trong giai đoạn hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng.
Cuốn sách “Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” (Nguyễn
Cúc, 1997, NXB Chính trị quốc gia) đã nghiên cứu thực trạng một số chính sách hỗ trợ
DNVVN ở Việt Nam (hỗ trợ tài chính, thuế,…) từ đó chỉ ra một số hạn chế trong việc
áp dụng và thực thi các chính sách này, đưa ra giải pháp để phát triển DNVVN trong
thời gian tới. Nghiên cứu của Trịnh Thị Mai Hoa, 2008, “Vấn đề huy động vốn của các

3


Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” theo hướng tiếp cận một chính sách cụ thể. Tác

giả đề cập đến những vấn đề huy động vốn của Việt Nam và những con đường huy
động vốn mang tính thị trường. Trên cơ sở đó khẳng định vai trò của nhà nước trong
việc rà soát các thủ tục hành chính, cơ chế, chính sách để tạo điều kiện cho doanh
nghiệp hoạt động tốt hơn.
Bên cạnh các công trình trên, có một số nghiên cứu độc lập, tập tìm hiểu đặc điểm,
vai trò, thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, từ đó đưa ra các giải
pháp, chính sách hỗ trợ khối doanh nghiệp này như: “Phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế” (Phạm Văn Hồng, 2006); “Doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay” (Lê Việt Đông, 2007); Giải pháp
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam (Vũ Thị Thanh Phương, 2008); Phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ: Kinh nghiệm nước ngoài và phát triển DNVVN ở Việt Nam
(Vương Nhỏ, Hoàng Thu Hà, 2001, Nxb Thống kê); Giải pháp phát triển Doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam (Nguyễn Đình Hương, 2002, NXB Chính trị Quốc gia); Luận án
tiến sỹ của tác giả Lê Quang Mạnh (2011) với đề tài “Phát huy vai trò của Nhà nước trong
phát triển DNVVN ở Việt Nam” Luận án tập trung phân tích thực trạng vai trò của Nhà
nước, những thành tựu và hạn chế phát huy vai trò của Nhà nước trong phát triển DNVVN
ở Việt Nam, từ đó kiến nghị một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của Nhà nước
trong phát triển DNVVN ở Việt Nam.

Các nghiên cứu trong và ngoài nước được đề cập ở trên đã gợi mở ý tưởng và
cung cấp nguồn tư liệu để tác giả nghiên cứu đề tài của mình. Mặc dù các nghiên cứu
về hỗ trợ DNVVN tương đối đa dạng, tuy nhiên các nghiên cứu về hỗ trợ DNVVN trên
địa bàn thành phố Hà Nội theo pháp luật Việt Nam hiện nay chưa được nghiên cứu. Do
vậy có thể nói đây là đề tài đầu tiên và không trùng lắp với các đề tài đã được nghiên
cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích nghiên cứu làm rõ các vấn đề chung về doanh nghiệp vừa
và nhỏ, pháp luật về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, luận văn
đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành

phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra những phương hướng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong thời gian tới.

4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể sau đây:
Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp
vừa và nhỏ;
-

Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở

Việt Nam hiện nay và tại thành phố Hà Nội (trong giai đoạn từ khi mở rộng địa giới
hành chính từ năm 2008 đến nay);
Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan trực
tiếp đến doanh nghiệp vừa và nhỏ, đó là những vấn đề lý luận pháp luật về hỗ trợ doanh
nghiệp vừa và nhỏ; kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của một số quốc gia về hỗ trợ
doanh nghiệp vừa và nhỏ; thực trạng pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Việt Nam trong giai đoạn từ 2008 đến 2018.
Về Không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về doanh

nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình viết và hoàn thiện luận văn này, tác giả đã cố gắng dày công học
hỏi, nghiên cứu, thu thập tài liệu để lấy thông tin và các kiến thức cần thiết giúp cho
việc hoàn thiện đề tài. Và trong khi viết, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu bao gồm:
Phương pháp tổng hợp: Các phương pháp này được sử dụng trong cả ba chương
nhằm mục đích làm rõ quy định của khung pháp luật hiện hành về hỗ trợ doanh nghiệp
vừa và nhỏ, đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong thời gian tới.
Phương pháp so sánh: Luận văn nghiên cứu pháp luật giao kết HĐLĐ có so sánh
các quy định của pháp luật lao về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam so với các nước

5


trên Thế giới để làm rõ các điểm mới của pháp luật về doanh nghiệp vừa và nhỏ qua các
thời kì của xã hội. Trong nghiên cứu đánh giá thực tiễn, luận văn có so sánh giữa các
giai đoạn, thời gian khác nhau để đánh giá sự thay đổi, tính tích cực hoặc hạn chế trong
điều chỉnh pháp luật.
Bên cạnh những phương pháp phân tích ở trên, tác giả cũng đưa ra một số quan
điểm về chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để phân tích, làm rõ hơn cá cơ
sở lý luận về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Nghiên cứu cung cấp kết quả đánh giá việc thực thi và ban hành các chính sách
hỗ trợ DNVVN theo quy định của pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội, tập trung
vào các điểm hạn chế trong ban hành và thực thi từng nhóm chính sách (hỗ trợ tiếp
cận tài chính, nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ, hỗ trợ pháp lý…). Từ đó, trên cơ sở
đánh giá những khó khăn và thách thức trong phát triển DNVVN trên địa bàn thành
phố Hà Nội trong bối cảnh hiện tại, nghiên cứu đưa ra những khuyến nghị nhằm nâng

cao hiệu quả thực hiện các chính sách.
Bằng việc nghiên cứu chính sách hỗ trợ DNVVN tại một địa bàn cụ thể, kết quả
nghiên cứu sẽ có ý nghĩa thực tiễn đối với sự phát triển của những doanh nghiệp đang
và sẽ sản xuất kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đề tài kỳ vọng sẽ là một tài
liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách trong lĩnh
vực hỗ trợ phát triển DNVVN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1 : Những vấn đề lý luận của pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương 2: Thực trạng về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo pháp luật Việt Nam
qua thực tiễn thực hiện tại thành phố Hà Nội.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ
1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thuật ngữ “Doanh nghiệp vừa và nhỏ” được sử dụng phổ biến ở tất cả các nước
trên thế giới và Việt Nam. DNVVN (SMEs: Small and Medium enterprises) là khái
niệm được dùng phổ biến ở Cộng đồng các nước Châu Âu và các Tổ chức quốc tế như
World Bank, United Nation, WTO. Hiện nay, ở các nước khác nhau, khái niệm
DNVVN được hiểu khác nhau, việc phân loại DNVVN phụ thuộc vào loại tiêu thức sử
dụng và giới hạn của từng tiêu thức. Trên thế giới, việc xác định quy mô DNVVN chỉ
mang tính tương đối, bởi nó chịu tác động của trình độ phát triển kinh tế, tính chất

ngành nghề, điều kiện phát triển của mỗi quốc gia hay mục đích phân loại DN trong
từng thời kỳ. Song tựu chung, DNVVN được xác định dựa trên hai tiêu chí định lượng
và định tính:
Tiêu chí định tính: Dựa trên các tiêu thức cơ bản như trình độ chuyên môn hóa,
các nghiệp vụ tài chính, bộ máy quản lý, hình thức tổ chức DN. Các tiêu thức này có
thể phản ánh đúng bản chất nhưng lại khó xác định trên thực tế nên thường được sử
dụng để tham khảo khi phân loại DNVVN.
Tiêu chí định lượng: Được xây dựng trên các chỉ tiêu như số lao động trung bình
trong danh sách hoặc số lao động thường xuyên thực tế hoạt động của DN, tổng giá trị
tài sản hay vốn cố định hoặc giá trị tài sản (vốn) thực có của DN, tổng doanh thu hay lợi
nhuận của DNVVN.
Các tiêu chí định lượng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định quy mô DN.
Song ở các thời điểm khác nhau, các tiêu chí này cũng khác nhau giữa các ngành nghề
mặc dù vẫn có yếu tố chung nhất định. Trong mỗi nước, tiêu thức khái quát quy định về
tiêu thức và lượng hoá các tiêu chuẩn giới hạn các tiêu thức phân loại DNVVN của một
số nước tại Bảng 1.1.

7


Bảng 1.1. Tiêu thức xác định DNVVN ở một số nước và vùng lãnh thổ

Nước và vùng

lãnh thổ

1

Hoa Kỳ


2

Nhật Bản

3

New Zealand

4

Indonesia

5

Philippin

6

Xingapo

7

Thái Lan

8

Mianma

9


Hàn Quốc

10

Đài Loan

Nguồn: 1) Doanh nghiệp vừa và nhỏ, APEC, 1998; 2) Định nghĩa DNVVN,
UN/ECE, 1999; 3) Tổng quan về DNVVN, OECD, 2000.




nước ta, trước tháng 6 năm 1998, việc phân loại DNVVN dựa vào 2 tiêu chí

chủ yếu là lao động và vốn. Theo quy định tại công văn số 681/CP-KTN ngày

8


22/06/1998 của Văn phòng Chính phủ thì: các DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ VND và số
lao động dưới 200 người là DNVVN.
Tại Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển các
DNVVN, Chính phủ đưa ra định nghĩa về DNVVN (Điều 3 Chương 1, Nghị định 90):
“DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật
hiện hành, có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động không quá 300
người”. Việc xác định DNVVN dựa vào quy mô DN chứ không căn cứ vào loại hình sở
hữu. Tuy nhiên, định nghĩa trên chưa phản ánh đầy đủ hết đặc tính của từng ngành, do
đó cần xác định đúng đắn các đặc tính của mỗi ngành khi phân loại quy mô DN theo
yêu cầu của thị trường thì định nghĩa DNVVN sẽ chính xác và phù hợp hơn.
Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát

triển DNVVN, khái niệm DNVVN được điều chỉnh: “DNVVN là cơ sở đã đăng ký
kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo
quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong
Bảng cân đối kế toán của DN) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu
chí ưu tiên)” (Bảng 1.2)
Bảng 1.2: Tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam
Khu vực

I.Nông, lâm nghiệp
và thủy sản
II.Công nghiệp và
xây dựng
III.Thương mại và
dịch vụ

(Nguồn: Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009)
Theo quy định tại điều 4 của Luật Hỗ trợ DNVVN ngày 12/6/2017 và quy định
tại điều 6 Nghị định 39/2018/NĐ-CP, ngày 11/3/2018 quy định chi tiết một số điều của
Luật Hỗ trợ DNVVN thì tiêu chí xác định DNVVN được quy định như sau: DNVVN
bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa, có số lao động
tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và đáp ứng một


9


trong hai tiêu chí sau đây: (i)Tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng;(ii) Tổng doanh
thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng.
Theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ, doanh nghiệp nhỏ và vừa là
cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba

cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương
tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao
động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên) có số lao động trung bình hàng
năm dưới 200 người.
1.1.2 Đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị
trường
* Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Đặc điểm của các DNVVN xuất phát trước hết từ chính quy mô của DN. Cũng
như các DNVVN trên thế giới, với quy mô nhỏ, DNVVN Việt Nam cũng có những đặc
điểm tương tự như ở các quốc gia khác. Ngoài ra, do đặc trưng riêng của nền kinh tế
nên các DNVVN Việt Nam còn có những đặc điểm riêng. Những đặc điểm cơ bản của
các DNVVN Việt Nam thể hiện như sau:
-

Các DNVVN ở Việt Nam thuộc nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức

tổ chức DN, bao gồm từ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp và các công ty tư nhân
đến hợp tác xã. Trong một thời gian dài, các DN thuộc các thành phần khác nhau không
được đối xử bình đẳng, bị phân biệt đối xử. Điều đó ảnh hưởng đến tâm lý, phong cách
kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay, đồng thời cũng tạo ra những điểm xuất phát
về tiếp cận nguồn lực không như nhau (trong giao đất, trong vay vốn ngân hàng…).
-

Là những DN có quy mô vốn và lao động nhỏ, vì vậy DNVVN thường có

điểm mạnh là dễ khởi sự và tính linh hoạt cao, có các lợi thế trong việc duy trì và phát
triển các ngành nghề truyền thống. Tuy nhiên, đây thường là những DN khởi sự thuộc
khu vực kinh tế tư nhân. Đặc điểm này đã làm cho các DNVVN gặp nhiều khó khăn
trong quá trình hoạt động của mình do không có các lợi thế kinh tế theo quy mô. Mặt
khác, do rất dễ khởi nghiệp nên DNVVN cũng phải chịu nhiều loại rủi ro trong kinh

doanh. Kinh nghiệm ở các nước trên thế giới cho thấy, càng nhiều DNVVN ra đời thì
cũng càng có nhiều DNVVN bị phá sản.
-

Khả năng quản lý hạn chế: Do các chủ DN thường là những kỹ sư hoặc kỹ

thuật viên tự đứng ra thành lập và vận hành DN. Họ vừa là người quản lý doanh nghiệp,

10


vừa tham gia trực tiếp vào sản xuất nên mức độ chuyên môn trong quản lý không cao.
Đôi khi, việc tách bạch giữa các bộ phận không rõ ràng, những người quản lý các bộ
phận cũng thường tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Phần lớn những người chủ
DN đều không được đào tạo qua một khóa quản lý chính quy nào, thậm chí chưa qua
một khóa đào tạo nào.
-

Trình độ tay nghề của người lao động thấp: Các chủ DNVVN không đủ khả

năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc thuê những người lao động có tay
nghề cao do hạn chế về tài chính. Bên cạnh đó, định kiến của người lao động cũng như
của những người thân của họ về khu vực này vẫn còn khá lớn. Người lao động ít được
đào tạo, đào tạo lại do kinh phí hạn hẹp vì vậy trình độ thấp và kỹ năng thấp. Ngoài ra,
sự không ổn định khi làm việc cho các DNVVN, cơ hội để phát triển thấp tại các doanh
nghiệp này cũng tác động làm cho nhiều lao động có kỹ năng không muốn làm việc cho
khu vực này. Do vậy, DNVVN hiện nay rất thiếu nguồn lực để thực hiện các ý tưởng
kinh doanh lớn, hoặc các dự án đầu tư lớn, các dự án đầu tư công cộng.
-


Khả năng về công nghệ thấp do không đủ tài chính cho nghiên cứu triển khai.

Nhiều DNVVN có những sáng kiến công nghệ tiên tiến nhưng không đủ tài chính cho
việc nghiên cứu triển khai nên không thể hình thành công nghệ mới hoặc bị các doanh
nghiệp lớn mua với giá rẻ. Tuy nhiên, các DNVVN rất linh hoạt trong việc thay đổi
công nghệ sản xuất do giá trị của dây truyền công nghệ thường thấp và họ thường có
những sáng kiến đổi mới công nghệ phù hợp với quy mô của mình từ những công nghệ
cũ và lạc hậu. Điều này thể hiện tính linh hoạt trong đổi mới công nghệ và tạo nên sự
khác biệt về sản phẩm để các DNVVN có thể tồn tại trên thị trường.
-

Các DNVVN Việt Nam thường sử dụng chính những diện tích đất riêng của

mình làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh và rất khó thuê được các mặt bằng sản xuất. Vì
vậy, các doanh nghiệp này rất khó khăn trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh khi quy
mô của doanh nghiệp được mở rộng. Một số doanh nghiệp thuê được đất thì gặp nhiều
trở ngại trong việc giải phóng mặt bằng và đền bù.
-

Khả năng tiếp cận thị trường kém, đặc biệt đối với thị trường nước ngoài.

Nguyên nhân chủ yếu là do các DNVVN thường là những doanh nghiệp mới hình
thành, khả năng tài chính cho các hoạt động marketing không có và họ cũng chưa có
nhiều khách hàng truyền thống. Thêm vào đó, quy mô thị trường của các doanh nghiệp
này thường bó hẹp trong phạm vi địa phương, việc mở rộng ra các thị trường mới là rất

11


khó khăn. Tuy nhiên, DNVVN lại rất có lợi thế trong việc khai thác các nguồn lực sẵn có

của địa phương, đặc biệt là các ngành sử dụng nhiều lao động, DNVVN có những tác động
tích cực trong việc tạo ra việc làm cũng như nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
dân cư tại địa phương hoặc duy trì và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống. Bên cạnh đó,
việc phát triển DNVVN còn có lợi ích như giảm khoảng cách giữa người giàu và người
nghèo, giảm sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, qua đó góp phần làm giảm tệ nạn xã
hội và giúp Chính phủ giải quyết tốt hơn những vấn đề xã hội khác [50].

*

Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ

Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của các DNVVN trong nền kinh tế có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong việc hoạch định cơ chế, chính sách, cải cách thủ tục hành
chính trong các cơ quan quản lý nhà nước nhằm tạo lập môi trường vĩ mô thuận lợi cho
DNVVN phát triển lành mạnh. DNVVN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng
không thể thiếu trong bức tranh kinh tế thế giới trên cả phương diện kinh tế và xã hội
+

Khía cạnh kinh tế:

DNVVN đóng góp tích cực vào việc tăng trưởng và phát triển kinh tế, làm tăng

giá trị xuất khẩu của cả nước, góp phần vào việc ổn định kinh tế-xã hội Luôn chiếm tỷ
trọng lớn trong nhiều nền kinh tế (tiêu biểu là ở Nhật Bản và Đức với tỷ trọng hơn 99%
tổng số các doanh nghiệp), DNVVN có những đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy tăng
trưởng GDP. Đối với các nền kinh tế ở trình độ thấp, DNVVN thường đạt được tỷ trọng
giá trị gia tăng và GDP lớn. Chẳng hạn như ở Malaysia, tỷ trọng giá trị gia tăng mà
chúng tạo ra là 36,4%. Ở Việt Nam, mỗi năm các DNVVN đóng góp khoảng 40% GDP
của cả nước, trên 30% tổng thu ngân sách nhà nước[71],... Phân bố rộng khắp trong các
vùng, miền, DNVVN còn bảo đảm cho nguồn thu nhập ổn định của một bộ phận lớn

dân cư, góp phần giảm khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các vùng.
+

DNVVN là khu vực thu hút tích cực và có khả năng huy động các nguồn vốn,

nguồn lực của xã hội cho đầu tư phát triển.
+

DNVVN góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Với tính năng

động cao, DNVVN tỏ ra nhạy cảm trước những biến động của nền kinh tế và dễ dàng
chuyển hướng sản xuất, kinh doanh sang những ngành hàng có mức sinh lợi cao. Trong
giai đoạn hiện nay, khi những thành tựu khoa học công nghệ được ứng dụng ngày càng
nhiều vào quá trình tạo ra của cải, dịch vụ cho xã hội, DNVVN với tính linh hoạt cao,
chấp nhận rủi ro, càng có điều kiện đi tiên phong trong việc sử dụng khoa học kỹ thuật

12


tiên tiến nhằm tăng năng suất, đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng thị phần, hoặc sẵn sàng
mạo hiểm để chuyển sang lĩnh vực tạo được nhiều giá trị gia tăng. Phát triển theo
hướng đó, trong khả năng tài chính cho phép, DNVVN dễ dàng rời bỏ những ngành
hàng có hàm lượng lao động cao, vốn thấp, giá trị thấp, lợi nhuận thấp chuyển sang
những lĩnh vực, ngành hàng có hàm lượng công nghệ cao, vốn cao, giá trị cao, lợi
nhuận cao. Đó là một trong những lý do giải thích tỷ trọng cao của DNVVN trong lĩnh
vực thương mại và dịch vụ. Điều này góp phần thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu
để đưa nền kinh tế tiến dần lên trình độ cao hơn. Mặt khác, với đặc trưng là đa số các
doanh nghiệp lớn tập trung ở các vùng đô thị nơi có kết cấu hạ tầng phát triển nên đã
gây ra tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và xã
hội giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền trong một quốc gia thì việc các

DNVVN phát triển và phân bố trên diện rộng đã khai thác được tiềm năng, lợi thế của
các địa phương, phát triển các ngành sản xuất, dịch vụ, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên đã góp phần quan trọng trong
việc tạo lập sự cân đối trong phát triển giữa các vùng, miền và các địa phương.
+

DNVVN góp phần tăng cường và phát triển các mối quan hệ kinh tế, tạo cơ sở

để hình thành các doanh nghiệp lớn: Trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay, để có thể
nâng cao hiệu quả hoạt động của từng doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần phải thực
hiện chuyên môn hóa các hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua hợp tác giữa các
doanh nghiệp nói chung, giữa các doanh nghiệp lớn với các DNVVN nói riêng. Bởi vì,
trong cơ cấu công nghiệp dựa trên lợi ích kinh tế từ quy mô, hiệu quả đạt được nhờ sự
phân chia quá trình sản xuất thành các giai đoạn với sự chuyên môn hóa cao độ. Các
doanh nghiệp có thể hợp tác với nhau dưới nhiều hình thức từ quan hệ đối tác làm ăn
chiến lược, đối tác về công nghệ, quan hệ trong mạng lưới phân phối, hợp đồng thầu
phụ…Các DNVVN có thể bổ trợ cho các doanh nghiệp công nghiệp lớn trong việc
cung cấp nguyên liệu đầu vào, bao bì; gia công, chế biến các bộ phận, phụ tùng và bán
thành phẩm; tiếp thị và phân phối sản phẩm…, góp phần tạo ra sức cạnh tranh cần thiết
để đẩy mạnh quá trình phát triển và nâng cao tính cạnh tranh trên toàn quốc.
Trong buổi ban đầu khi mới hình thành, phần lớn các tập đoàn xuyên quốc gia trên
thế giới đều có xuất phát điểm từ DNVVN và trong toàn bộ lịch sử hoạt động và lớn
mạnh dần họ luôn luôn và đang có sự liên kết chặt chẽ với các DNVVN. Ở Nhật Bản,
sở dĩ các sản phẩm ô tô của Nhật có tính cạnh tranh cao trên thị trường và chiếm ưu thế

13


hơn so với sản phẩm cùng loại của Hoa Kỳ và Tây Âu là do Nhật Bản xây dựng được
hệ thống các nhà cung ứng là các DNVVN.

Bên cạnh những vai trò về kinh tế, DNVVN còn đóng góp cho xã hội thể hiện ở
những khía cạnh sau:
+

DNVVN giúp tạo việc làm cho người lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất

nghiệp, nhất là ở khu vực đô thị: DNVVN là nguồn thu hút lao động lớn nhất, tạo việc
làm cho ít nhất 1/2, thậm chí tới 2/3 lực lượng lao động tùy từng quốc gia. Chẳng hạn, ở
Canada, loại hình doanh nghiệp này cung cấp 42% chỗ làm, ở Đức là 50%, Pháp 47,7%, Đài Loan - 79%, Nhật Bản -80,6% [22]. Ở Việt Nam, hoạt động sản xuất, kinh
doanh dưới các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, DNVVN bảo đảm
cho gần 8 triệu chỗ làm, tức khoảng 26% lực lượng lao động của cả nước, hoặc 79,2%
tổng số lao động phi nông nghiệp, góp phần giảm áp lực của 1 triệu người hàng năm
đến tuổi tham gia vào thị trường lao động. Ngoài ra, để tạo ra một chỗ làm mới, nhóm
doanh nghiệp này chỉ phải chi trung bình khoảng 0,74 triệu đồng (chỉ bằng 3%) so với
mức từ 5 đến 7 triệu đồng của các doanh nghiệp lớn. Ở Việt Nam, tỷ trọng lao động ở
DNVVN chiếm tới hơn 50% lao động của cả nước, trong đó nơi cung cấp nhiều chỗ
làm nhất là ở các tỉnh duyên hải miền Trung (67%), và nơi ít nhất là ở khu vực phía
Nam (44%) [22].
+

DNVVN giúp nâng cao thu nhập của dân cư, góp phần tích cực vào công cuộc

xóa đói giảm nghèo:Với lợi thế sử dụng vốn ít, tận dụng được mọi nguồn lực lao động,
kể cả lao động phổ thông, lao động là người tàn tật, sử dụng mọi nguồn nguyên liệu, kể
cả những nguyên liệu tuy không đáp ứng nhu cầu sản xuất quy mô lớn nhưng lại sẵn có
và có nhiều sản phẩm phụ hoặc phế liệu, phế phẩm của các doanh nghiệp lớn, các sản
phẩm trung gian… DNVVN phát triển rộng khắp trên cả nước, từ thành thị đến nông
thôn, từ những khu vực có điều kiện thuận lợi đến các địa bàn vùng sâu vùng xa. Đặc
điểm này giúp tạo việc làm cho mọi dân cư, tạo điều kiện để người dân có thể nâng cao
thu nhập, góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo của đất nước.

+

DNVVN giúp hình thành đội ngũ doanh nhân năng động, tạo điều kiện phát

triển các tài năng kinh doanh: Do thường xuyên phải thay đổi để thích nghi với những
biến động của môi trường kinh doanh, các DNVVN tồn tại và phát triển được là nhờ
bản lĩnh của chủ doanh nghiệp. Đó là những người dám chấp nhận rủi ro trong việc đầu
tư phát triển sản xuất kinh doanh với những nguồn vốn hạn hẹp, trong một môi trường

14


chưa thể có đầy đủ những điều kiện thuận lợi cho DNVVN hình thành và phát triển.
Song cũng chính những bối cảnh không thuận lợi đó được xem là chất xúc tác đẩy
nhanh quá trình hình thành một đội ngũ doanh nhân biết dựa vào sức mình, biết vận
dụng trình độ học vấn kết hợp với khả năng nhận thức, khả năng thu thập thông tin,
phân tích tình hình thị trường, chủ doanh nghiệp luôn nhanh chóng nắm bắt cơ hội kinh
doanh, có những quyết định mạo hiểm, dám đi đầu trong đổi mới, khám phá những lĩnh
vực mới, tìm ra những hướng phát triển mới cho doanh nghiệp của mình.
+

DNVVN giúp khai thác tiềm năng phong phú của mọi vùng, miền, của cộng

đồng dân cư: Trí tuệ, tay nghề tinh xảo, bí quyết nghề, kinh nghiệm dân gian, làng nghề
truyền thống với những hương ước nghề nghiệp; những cây, con đặc sản, danh lam
thắng cảnh, điều kiện tự nhiên…là những yếu tố cần thiết cho sự phát triển, mở rộng
sản xuất, kinh doanh của DNVVN ở mọi địa phương. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay, khi xu hướng liên kết khu vực và liên kết thế giới đang diễn ra mạnh mẽ, tính dân
tộc, việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc được tôn vinh thì việc bảo tồn và phát triển
các làng nghề truyền thống sẽ là cơ hội để các DNVVN vươn lên, củng cố địa vị và

khuyếch trương thương hiệu của mình.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường

Dù có những đặc trưng cơ bản, nhưng các doanh nghiệp nói chung và DNVVN
nói riêng cũng chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau trong quá trình tồn tại và phát
triển, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.
- Môi trường thể chế cho hoạt động của DNVVN: Đó là chính sách, cơ chế do
các cơ quan quản lý nhà nước hoạch định nhằm quản lý, hỗ trợ, tạo lập môi trường
thuận lợi để phát triển các DNVVN trong mỗi nền kinh tế. Môi trường thể chế thuận lợi
cho phát triển DNVVN bao gồm các chính sách, cơ chế phù hợp hướng tới “ưu tiên”
tháo gỡ khó khăn, trợ giúp cho DNVVN hoạt động, phát triển. Đó là chính sách thuế,
tín dụng “ưu đãi”, tỷ giá linh hoạt, chính sách mặt bằng SXKD và các Quỹ trợ giúp cho
DNVVN phát triển.
- Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: Hội nhập mang lại cơ hội và thách thức cho
phát triển DNVVN, đòi hỏi mỗi DN buộc phải “cải cách và đổi mới” nhằm thích nghi
với biến động của cơ chế thị trường và hội nhập. HNKTQT, các DNVVN được tham
gia cung ứng hàng hóa và cạnh tranh bình đẳng ở cả thị trường trong nước và thế giới.

15


Hội nhập đặt ra yêu cầu buộc mỗi DNVVN phải tự cải cách, hoàn thiện, đổi mới từ bên
trong để thích nghi.
-

Trình độ phát triển KTXH và đặc điểm tâm lý, tập quán, văn hóa của mỗi quốc

gia, vùng, miền ảnh hưởng đến sự phát triển DNVVN: Trình độ phát triển KTXH của
mỗi quốc gia, khu vực càng cao thì điều kiện cho DNVVN càng ổn định, phương
hướng, chiến lược kinh doanh càng rõ ràng, bền vững và DN phát triển càng thuận lợi

và ngược lại. Đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán của mỗi quốc gia, địa phương tác
động đến hành vi kinh doanh của chủ DN và người lao động, từ đó ảnh hưởng đến năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và DN do
đó tác động đến sự phát triển DNVVN.
-

Tình hình và tính chất cạnh tranh trên từng thị trường tác động trực tiếp tới

hoạt động của DNVVN: Tình hình thị trường tốt với môi trường cạnh tranh lành mạnh
có động lực sẽ tạo cơ hội cho DNVVN phát triển và ngược lại. Tính chất cạnh tranh
trên thị trường “cạnh tranh hoàn hảo” hay “cạnh tranh không hoàn hảo” là yếu tố trực
tiếp tác động đến phát triển DNVVN.
- Sự phát triển và khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ của
DNVVN:
Tiến bộ khoa học công nghệ tạo cơ hội cho DNVVN có thể lựa chọn các trang thiết bị
kỹ thuật tiến bộ nhờ đó nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm chi phí
sản xuất để tăng sức cạnh tranh khi tham gia thị trường. Tiến bộ khoa học công nghệ,
đặc biệt công nghệ thông tin còn tạo ra khả năng liên kết chặt chẽ giữa các DN về
phương pháp tổ chức quản lý, điều hành DN, thị trường, tạo cơ hội cho DN tham gia
“chuỗi giá trị” chung. Ngày nay, tiến bộ khoa học công nghệ là nhân tố quyết định trình
độ, tốc độ phát triển của DNVVN.
-

Đội ngũ các nhà sáng lập và quản trị DN: Sự phát triển của DNVVN phụ

thuộc năng lực của người sáng lập và quản trị DN. Các DNVVN thường xuyên phải
thích nghi với môi trường kinh doanh, phản ứng với những tác động bất lợi từ cạnh
tranh của các DN lớn nên đòi hỏi các nhà sáng lập, nhà quản trị DN phải linh hoạt trong
quản lý điều hành, dám nghĩ dám làm, quyết đoán và biết chấp nhận mạo hiểm trong
mọi hoạt động SXKD. Số lượng, chất lượng các nhà sáng lập và quản trị DNVVN sẽ

ảnh hưởng đến sự phát triển DNVVN của mỗi quốc gia.
-

Các nhân tố trên có quan hệ chặt chẽ, tác động tương hỗ cùng ảnh hưởng đến

phát triển của DNVVN. Mỗi doanh nghiệp hoạt động đều phải chịu sự tác động của các

16


nhân tố khác nhau, nhân tố chủ quan từ chính bản thân doanh nghiệp và nhân tố khách
quan xung quanh môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, DNVVN cũng không ngoài
sự tác động này. Có những nhân tố tích cực thúc đẩy doanh nghiệp phát triển nhưng
cũng có những tác động tiêu cực ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của
doanh nghiệp. Điều quan trọng là các DNVVN cần phải chủ động phân tích, nắm bắt
được tình hình để đưa ra những quyết sách phù hợp.
1.2. Pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hoạt động thu hút đầu tư của Nhà nước là một trong những chiến lược để phát
triển KTXH của mỗi quốc gia. Việc tranh thủ nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư
trong nước và nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có vai trò quan trọng trong tiến
trình CNH,HĐH đất nước.Trong thời gian Đảng, Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn
bản pháp luật điều chỉnh về hỗ trợ đối với các DN nói chung trong đó có các DNVVN.
Đây thực chất là những chính sách ưu đãi đặc biệt mà Nhà nước dành cho các nhà đầu
tư nhằm khuyến khích họ đầu tư vào nhưng lĩnh vực, địa bàn mà khả năng thu hút đầu
tư còn hạn chế qua đó nhằm mục đích phát triển kinh tế và cân bằng sự phát triển
KTXH trong những lĩnh vực, địa bàn khác nhau. Trên cơ sở đó, pháp luật về hỗ trợ đầu
tư đối với DNVVN có thể được hiểu như sau: “Pháp luật về hỗ trợ đối với DNVVN là
hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư, sản xuất kinh doanh của các DNVVN”.
1.2.1. Nguyên tắc pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ

Nguyên tắc pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ được quy định tại Điều
5 Luật HTDNVV năm 2017, theo đó, các nguyên tắc đó là:
-

Việc hỗ trợ DNVVN phải tôn trọng quy luật thị trường, phù hợp với điều ước

quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
-

Bảo đảm công khai, minh bạch về nội dung, đối tượng, trình tự, thủ tục, nguồn

lực, mức hỗ trợ và kết quả thực hiện.
-

Nhà nước hỗ trợ DNVVN có trọng tâm, có thời hạn, phù hợp với mục tiêu hỗ

trợ và khả năng cân đối nguồn lực.
-

Việc hỗ trợ DNVVN sử dụng nguồn lực ngoài Nhà nước do các tổ chức, cá

nhân tài trợ được thực hiện theo quy định của tổ chức, cá nhân đó nhưng không được
trái quy định của pháp luật.

17


×