Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT HỌC PHẦN VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.37 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT

KHOA VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU

NAM

SỐ

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Trình độ: Đại học

Ngành: Văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT HỌC PHẦN
1. Tên học phần: VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
VIỆT NAM
2. Số đơn vị học trình: 3 ( 45 TIẾT )
3. Trình độ Sinh viên năm thứ 3
4. Phân bổ thời gian
- Lên lớp: 40 tiếT
- Thực tập, thực hành, thực địa… 5 tiết
5. Điều kiện tiên quyết: Đã được học về dân tộc học, văn hóa dân gian (do
vậy môn này cần bố trí học cuối học kỳ 2 năm thứ 3).
6. Mục tiêu của học phần
6.1. Kiến thức : Sinh viên nắm được các kiến thức cơ bản về phân loại văn
học dân gian; Đặc trưng, nội dung, nghệ thuật của các thể loại văn học dân
gian các dân tộc thiểu số; Vai trò của văn học dân gian các dân tộc thiểu số


trong đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam.
6.2. Kỹ năng:
- Hình thành phương pháp tiếp cận, nghiên cứu văn học dân gian từ góc
độ văn hóa học – tiếp cận văn hóa học từ văn học dân gian.
- Hình thành và phát triển các kỹ năng: viết, đánh giá, bình luận, so sánh.
6.3. Thái độ:


- Nhận thức được những giá trị của văn học dân gian đối với văn học Việt
Nam nói chung và đối với vốn văn nghệ dân gian, văn hóa truyền thống của
các tộc người thiểu số Việt Nam nói riêng.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu mến và trân trọng văn học dân gian, từ đó có ý
thức sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị của văn học dân gian các DTTS sau
khi ra trường, về làm công tác văn hóa tại vùng đồng bào DTTS.
7. Mô tả tóm tắt nội dung học phần:
Học phần gồm những nội dung : Các khái niệm cơ bản liên quan đến
VHDG; Phương pháp tiếp cận văn học dân gian các dân tộc thiểu số ; Các
thể loại văn học dân gian các dân tộc thiểu số ; Vai trò của văn học dân gian
các dân tộc thiểu số trong đời sống của họ xưa và nay.
8. Nhiệm vụ của sinh viên
- Dự lớp, nghe giảng đủ số giờ quy định.
- Tham gia thảo luận Xemina trong lớp ( hoặc tổ ).
- Làm bài tập về nhà
- Tìm đọc giáo trình, sách tham khảo
9. Tài liệu học tập
9.1. Tài liệu chính :
1. Nguyễn Bích Hà (2010), Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, Nxb
ĐHSP, 310 tr (dùng cho SV Việt Nam học)
2. Trần Hoàng (2008), Giáo trình văn học dân gian, Nxb Đại học Sư
phạm, 183tr (Dành cho sinh viên hệ đào tạo từ xa, ĐH Huế)

3. Phan Thị Hiền Thu (2009), Bài giảng VHDG VN, Nxb Lao động, 195
tr (dành cho SV trường CĐ Du lịch VN)
4. Phạm Thu Yến (2009), Giáo trình Văn học dân gian, Nxb Đại học Sư
phạm, 247tr
9.2. Tài liệu tham khảo:
1. Cao Huy Đỉnh (1976). Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam.
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


2. Hồ Quốc Hùng (2005). Truyền thuyết Việt Nam và vấn đề thể loại. Nxb
Trẻ TP. Hồ Chí Minh.
3. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên (1990). Văn học dân gian. Nxb Đại
học và giáo dục chuyên nghiệp.
4. Vũ Ngọc Khánh - Phạm Minh Thảo - Nguyễn Thị Huế: Kho tàng thần
thoại Việt Nam. Nxb Văn hoá thông tin, H, 1995.
5. Đặng Văn Lung (2004). Lịch sử và văn học dân gian. Nxb Văn học.
Hà Nội.
6. Bùi Văn Nguyên (1993). Việt Nam thần thoại và truyền thuyết. Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Phan Đăng Nhật (1981). Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (trước
Cách mạng tháng Tám 1945). Nxb Văn hoá. Hà Nội.
8. Phan Đăng Nhật (1999). Vùng sử thi Tây Nguyên. Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
9. Võ Quang Nhơn (1983). Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt
Nam. Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp.
10. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên 2002). Tổng tập văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam (4 tập). Nxb Đà Nẵng.
10. Tiêu chuẩn đánh giá sinh viên
- Hoàn thành các bài tập cá nhân và nhóm
- Hoàn thành kiển tra giữa kỳ

- Hoàn thành bài thi hết học phần
11.Thang điểm:
- Điểm chuyên cần: 1 điểm
- Điểm điều kiện: 2 điểm
- Điểm thi: 7 điểm
12. Nội dung chi tiết của học phần


Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ VIỆT NAM ( 10 tiết )
1.1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Folklore
Thuật ngữ này được nhà nhân chủng học người Anh là Wiliam Thoms (bút
danh Mectơn) đưa ra lần đầu tiên trong bài báo Folklore (đăng trên tạp chí
Atheneum số 982 ngày 22 tháng 8 năm 1846) dùng để chỉ những di tích của
nền văn hoá vật chất và chủ yếu là những di tích văn hoá tinh thần của nhân
dân có liên quan với nền văn hoá vật chất như: "phong tục, đạo đức, việc
cúng tế, dị đoan, ca dao, cách ngôn... của các thời đại trước". Do được ghép
bới 2 từ: folk (dân chúng, dân gian) và lore (trí tuệ) nên khi thuật ngữ này lan
toả ra khỏi biên giới nước Anh, nó được các nhà khoa học của những ngành
tiệm cận như dân tộc học, văn hoá học, văn học dân gian... sử dụng và giải
thích theo quan điểm riêng của mình. Theo GS. Đinh Gia Khánh, cho tới nay,
có 3 khuynh hướng giải thích thuật ngữ này với những nội hàm khác nhau.
Thứ nhất: Khuynh hướng nhân loại học Anh- Mỹ
Khuynh hướng này hiểu Folklore theo nghĩa rộng và không phân biệt
rạch ròi giữa nghiên cứu Folkore với dân tộc học hoặc nhân học. Các đại
diện như: Harthland, Lang, Frazer, Botkin... đều cho rằng: Folklore là một
khoa học về truyền thống nói chung của nhân loại ở khắp nơi trên thế giới.
Cách hiểu này cho thấy khái niệm Foklore sẽ bao gồm toàn bộ đời

sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân chúng, tương đương với thuật
ngữ Folk - culture.
Thứ hai: Khuynh hướng xã hội học phương Tây (Pháp)


Đây cũng là một khuynh hướng hiểu khái niệm Folklore theo nghĩa
rộng: là truyền thống của các tầng lớp dân chúng. Tuy nhiên khuynh hướng
này đã nhấn mạnh sự khác nhau giữa dân tộc học và Foklore khi khu biệt
rằng: trong xã hội có giai cấp, dân tộc học nghiên cứu mọi hiện tượng được
lưu truyền qua chữ viết, còn Foklore nghiên cứu mọi hiện tượng văn hoá lưu
truyền qua cửa miệng (truyền khẩu) của các giai cấp, các nhóm xã hội khác
nhau.
Cũng theo xu hướng này, Folklore là sản phẩm của số đông, tức là tầng
lớp nhân dân lao động để phân biệt với số ít, là tầng lớp thượng lưu phong kiến.
Đại diện tiêu biểu là các học giả: Saintyves, Marinus, Espinoza...
Nhược điểm của quan niệm rất rộng này là không phân định được
ranh giới rõ rệt giữa các ngành khoa học gần gũi nhau.
Thứ ba: Khuynh hướng ngữ văn học Nga
Khuynh hướng này lại đi theo hướng đối lập với hai khuynh hướng
trên khi thu rất hẹp nội hàm khái niệm Folklore, coi Folklore là nghệ thuật
ngôn ngữ của dân chúng. Quan điểm này có cơ sở từ thực tế nghiên cứu văn
bản những tác phẩm Folklore nổi tiếng của những quốc gia có chữ viết ra
đời sớm. Khi được văn bản hoá, những tác phẩm Folklore bị tách khỏi phần
diễn xướng của nó để chỉ còn là ngôn ngữ thuần tuý.
Tuy nhiên, vào cuối những năm 60, nhiều học giả Liên xô đã vượt lên
quan điểm ngữ văn học truyền thống để gắn ngôn ngữ với các thành tố khác
trong một chỉnh thể văn hoá dân gian. Cho dù nặng về nghiên cứu ngôn ngữ
song rõ ràng khuynh hướng này đã khắc phục được nhược điểm của hai
khuynh hướng trên khi khẳng định Folklore là một nghệ thuật. Khẳng định
đặc trưng này, Folklore đã không giống với dân tộc học song cũng không thể



hoàn toàn giống với nghệ thuật ngữ văn.
Sách Bách khoa toàn thư Xô - viết xuất bản năm 1971 nhận định:
"Folklore là sáng tác dân gian, là hoạt động nghệ thuật của nhân dân lao
động. Đó là thơ ca, âm nhạc, múa hát, kiến trúc, nghệ thuật trang trí thực
hành, hội hoạ, được nhân dân sáng tạo ra và sống trong nhân dân".
Quan điểm này thực sự đã khắc phục được sự khu biệt quá hẹp và quá
khô cứng của trường phái ngữ văn học, đồng thời phân định đựơc đối tượng
độc lập của Folklore qua việc khẳng định tính nghệ thuật như một đặc trưng
tiêu biểu1.
Như vậy, thuật ngữ Folklore đã từng được dịch sang tiếng Việt là văn
học dân gian (mang dấu ấn của trường phái nghiên cứu ngữ văn học Nga),
văn nghệ dân gian (mang dấu ấn của trường phái xã hội học Tây Âu), và
hiện nay là văn hoá dân gian (theo cách quan niệm của khuynh hướng nhân
loại học Anh - Mỹ). Thực tế, khái niệm văn học dân gian có liên hệ mật thiết
với thuật ngữ folklore nhưng không phải là đồng nhất.
1.1.1.2. Văn học dân gian
Đây là thuật ngữ bao gồm hai vế: văn học và dân gian.
Văn học chỉ bộ phận sáng tạo nghệ thuật bằng chất liệu ngôn từ. Trên
phương diện này, văn học dân gian và văn học thành văn có sự tương đồng.
Theo Từ điển tiếng Việt:
- Văn học là Nghệ thuật dùng ngôn ngữ và hình tượng để thể hiện đời
sống và xã hội con người (Tr.1079).
- Ngôn ngữ là:
1. Hệ thống những âm, những từ và những quy tắc kết hợp chúng mà
những người cùng một cộng đồng dùng làm phương tiện để giao tiếp
1

Đinh Gia Khánh: Trên đường tìm hiểu văn hoá dân gian. NXB Khoa học xã hội, H



với nhau. Ví dụ: Tiếng Nga và tiếng Việt là hai ngôn ngữ rất khác nhau.
2. Hệ thống ký hiệu dùng làm phương tiện để diễn đạt, thông báo. Ví
dụ: Ngôn ngữ điện ảnh. Ngôn ngữ hội hoạ. Ngôn ngữ của loài ong. 3.
Cách thức, nghệ thuật hay trình độ sử dụng ngôn ngữ có tính riêng. Ví
dụ: Ngôn ngữ Nguyễn Du. Ngôn ngữ trẻ em. Ngôn ngữ báo chí
(Tr.683).
- Hình tượng là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ
thuật dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình,
nhận thức trực tiếp bằng cảm tính. Ví dụ: Hình tượng nghệ thuật
(Tr.443).
- Ngôn từ là ngôn ngữ được nói hay viết thành văn (nói khái quát). Ví
dụ: Ngôn từ trong sáng, giản dị (Tr.683).
Dân gian đóng vai trò như là tính từ chỉ tính chất, đặc trưng loại biệt
của loại văn học này.
Thuật ngữ văn học dân gian ở Việt Nam mới xuất hiện khoảng những
năm thuộc nửa sau thế kỷ XX.
Đến nay, nội hàm của thuật ngữ văn học dân gian vẫn chưa được xác
định rõ ràng.
Có một thời, dòng văn học này còn được gọi là văn chương bình dân,
văn học truyền miệng. Các nhà nghiên cứu (trong đó đa số là các nhà giáo ở
các trường trung học) thường bóc tách cái lõi nghệ thuật ngôn từ để làm đối
tượng nghiên cứu, phân tích, giảng giải. Sự phân biệt giữa những tác phẩm
này với các sáng tác thành văn chỉ là ở chỗ tính khiếm khuyết tên tác giả
(khuyết danh). Cách nhận thức này về cơ bản đặt văn học dân gian trong sự
chi phối của quỹ đạo văn học thành văn và rõ ràng là xa lạ với bản chất
nguyên hợp của văn học dân gian.
Từ khi thành lập Hội Văn nghệ dân gian (22/11/1966) và Viện Văn hoá



dân gian Việt Nam (9/9/1983), bộ phận ngôn từ đã được nghiên cứu trong
mối quan hệ tổng hoà với các loại hình nghệ thuật khác như âm nhạc, vũ
đạo, võ đạo, tạo hình và môi trường diễn xướng (lễ hội). Do vậy, có thể hiểu
về văn học dân gian như sau:
Văn học dân gian là thuật ngữ dùng để chỉ những thể loại sáng tác
dân gian trong đó thành phần nghệ thuật ngôn từ (tức thành phần văn
học) chiếm vị trí quan trọng, song bao giờ cũng có mối quan hệ hữu cơ
với các thành phần nghệ thuật và phi nghệ thuật khác.
Tuy vậy, cần chú ý: Tỷ lệ và vai trò của thành phần ngôn từ trong từng
thể loại không phải là đồng đều như nhau trong tương quan với các thành
phần nghệ thuật và phi nghệ thuật khác. Như diễn xướng trong truyện cổ tích
thì thành phần ngôn từ đóng vai trò chủ yếu, nhưng trong dân ca nghi lễ thì
tỷ lệ và vai trò của các loại hình nghệ thuật khác như vũ đạo, âm nhạc, tạo
hình và các yếu tố nghi lễ, phong tục, tín ngưỡng... tham gia nhiều hơn. Mặt
khác, các yếu tố phi ngôn từ và phi nghệ thuật bằng cách này hay cách khác
cũng thấm sâu vào cấu trúc của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ (ví dụ: cấu trúc
đối đáp, lối so sánh ví von, lối gieo vần, ngắt nhịp trong ca dao có thể hình
dung được phương thức sinh hoạt và cả môi trường diễn xướng của nó).
Khởi thuỷ, văn học dân gian hình thành và tồn tại trong tổng thể văn
hoá dân gian. Trong quá trình phát triển, bộ phận nghệ thuật ngôn từ đóng
vai trò quan trọng với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện
thực đời sống thông qua sự hư cấu nghệ thuật.
Ở bất kỳ một dân tộc, một quốc gia nào, khi chưa có văn học viết thì
văn học dân gian là bộ phận chính của nền văn học và văn hoá của mỗi dân
tộc. Khi văn học viết xuất hiện thì văn học dân gian không phải vì thế mà bị
triệt tiêu. Hai dòng văn học này vẫn tồn tại và phát triển song hành, có sự tác
động tương hỗ. Trong xã hội hiện đại, văn học dân gian vẫn giữ nguyên sức



sống. Với các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, văn học dân gian hầu như là toàn
bộ phần chủ yếu trong toàn bộ giá trị sáng tạo văn học của họ.
Với bất kì một nền văn học nào, một quốc gia, một dân tộc nào, văn học
dân gian cũng là một công trình sáng tạo để đời. Văn học dân gian là một
thành tố quan trọng cấu tạo văn hoá, là một phức hợp giá trị văn hoá văn học
- lịch sử - triết học ngôn ngữ - tôn giáo - đạo đức của mối dân tộc.
Văn học dân gian được sáng tạo ra theo quy trình sáng tạo văn hoá và
lại là cơ sở chuyển tải các giá trị văn hoá, là phương tiện lưu giữ các giá trị
văn hoá. Với mỗi dân tộc, văn học dân gian là tấm gương soi hình bóng của
dân tộc mình. Từ đây có thể khám phá ra tính cách dân tộc, những đặc điểm
về tâm lý, tình cảm, tâm thức dân tộc.
1.1.2. Đặc trưng của Văn học dân gian
Là một thành tố cơ bản của văn hoá dân gian nên ngoài những đặc
điểm riêng mang tính phân biệt với các thành tố khác, văn học dân gian thể
hiện rất rõ những đặc trưng cơ bản của văn hoá dân gian. Những đặc trưng
chung đó là: tính nguyên hợp, tính diễn xướng và tính tập thể.
1.1.2.1. Tính nguyên hợp
Là tính chất cổ xưa của các hình thức khoa học và nghệ thuật chưa
được phân hóa.
- Theo Từ điển bách khoa toàn thư về văn học. M 1987, tr.380 bản
tiếng Nga: Tính nguyên hợp là “sự dính liền nhau ngay từ ban đầu của các
loại hình khác nhau trong sáng tạo văn hoá...”.
- Hoặc giải thích như phó giáo sư Chu Xuân Diên “có sự hoà lẫn, trộn
lẫn với nhau một cách tự nhiên vốn có của nhiều yếu tố khác nhau ở dạng
những yếu tố này chưa từng bị phân hoá” (Đinh Gia Khánh – Chu Xuân


Diên Văn học dân gian, tập 1, Nxb ĐH và THCN, Hà Nội, 1972, tr24).
Tính nguyên hợp về loại hình nghệ thuật của văn học dân gian được thể
hiện trên ba phương diện

a) Sự chưa tách rời giữa hoạt động thực tiễn với sinh hoạt văn học
dân gian
Trong đại đa số các hiện tượng văn hoá dân gian, chúng ta đều nhìn thấy
mối quan hệ này. Nếu tách khỏi cơ sở xuất phát là tính thực tiễn, nhiều hiện
tượng văn hoá dân gian sẽ mất đi giá trị đích thực của nó, bởi lẽ, nếu chỉ
thuần tuý xét trên góc độ nghệ thuật, chúng ta khó có thể đánh giá công bằng
giá trị của hiện tượng văn hoá dân gian trong tương quan với một loại hình
nghệ thuật chuyên nghiệp khác.
Trong Văn học dân gian, mối quan hệ này được hiểu là sự gắn liền tác
phẩm văn học dân gian với mọi mặt sinh hoạt của nhân dân và tham gia vào
sinh hoạt đó với tư cách là một thành phần, một nhân tố cấu thành tổng thể.
Các câu chuyện thần thoại, truyền thuyết có vẻ như xa lạ với tính ích
dụng hơn khi nó hoàn toàn mang dáng dấp của những tác phẩm văn học.
Một tác phẩm văn học thì yêu cầu thẩm mỹ nghệ thuật thường được nhìn
nhận và đánh giá cao hơn những yêu cầu khác, song thần thoại, truyền
thuyết dân gian lại không xuất phát từ thông lệ chung này. Đó trước hết
không phải là sáng tạo nghệ thuật của dân gian mà là nơi bộc lộ những khám
phá của người xưa về thế giới. Trong quá trình tác động vào thực tiễn, người
xưa đã giải thích các hiện tượng tự nhiên xung quanh bằng tư duy cảm tính
của mình. Giải thích bằng cách đó tuy không tìm ra bản chất các hiện tượng
một cách khoa học nhưng lại tạo ra sự huyền ảo lung linh kỳ diệu. Đó là giá
trị nghệ thuật vốn có không phải là mục đích đầu tiên phải thực hiện của


người xưa.
Ví dụ:
“Đẻ đất đẻ nước” ban đầu không phải được viết thành sách, kể thành
chuyện mà do các Thầy mo hát bên thi hài người chết, giúp cho hồn người
chết ôn lại sự việc ở trần gian từ khi khai thiên lập địa cho đến lúc bản
mường được ổn định, chế độ xã hội được hình thành. Như vậy diễn xướng

mo là một bộ phận hữu cơ trong lễ thức tang ma của người Mường. Ở đây,
tác phẩm văn học dân gian (Mo) và sinh hoạt đời sống (đám tang) gắn chặt
với nhau.
b) Mối quan hệ giữa các thời đại khác nhau và các địa phương khác
nhau trong sáng tạo văn hoá dân gian
Do đặc thù của quy trình sáng tạo và tiếp nhận văn hoá dân gian là
mang tính tập thể nên các hiện tượng văn hoá dân gian không thể bất biến.
Hiện tượng văn hoá dân gian có thể được tập thể này chấp nhận nhưng chưa
chắc đã phù hợp với quan điểm sáng tạo và tiếp nhận của nhóm người khác,
trong những môi trường không gian và thời gian khác nhau. Mỗi thời đại có
những vấn đề nổi bật, đó chính là trung tâm chú ý và chi phối sáng tạo tập
thể. Tương tự, mỗi vùng không gian, do đặc điểm địa văn hoá khác nhau
cũng góp phần làm nên những yêu cầu khác nhau trong sáng tạo và hưởng
thụ văn hoá. Đây là nguyên nhân căn bản khiến cho sự tái tạo không ngừng
diễn ra, qua mỗi thời đại, mỗi vùng địa văn hoá, sự tái tạo lại được hình
dung giống như quá trình bồi tụ của các lớp phù sa lên bề mặt cơ tầng văn
hoá cốt lõi. Sự bồi tụ này diễn ra một cách tự nhiên, không nhằm phủ định
người trước mà chỉ thuần tuý là thoả mãn những quan điểm của tập thể về
hiện tượng văn hoá mà họ quan tâm. Sự bồi tụ này phải được gọi là sự kết
hợp mang tính nguyên hợp, tức là sự kết hợp một cách nguyên sơ, không


chủ định giữa dấu ấn không gian và thời gian lên một hiện tượng văn hoá
dân gian.
Ví dụ:
Tìm hiểu tục thờ Bà Chúa kho trong thế giới hiện tại sẽ thấy rất rõ dấu
ấn của từng chặng thời gian lên hiện tượng văn hoá dân gian rất phổ biến
hiện nay này.
Tục thờ Bà Chúa kho hiện nay được hiểu là thờ bà chúa kho tiền khi
người ta tìm đến nơi đây để vay xin hoặc trả nợ. Đây là vấn đề được quan

tâm đặc biệt trong thời đại của kinh tế thị trường. Ở thời đại này, do vòng
quay khắc nghiệt của cơ chế kinh tế mới, đồng tiền ngày càng chi phối nhiều
mặt xã hội. Đồng tiền trong thời kỳ kinh tế thị trường lại có những biến đổi
mạnh mẽ đến mức người ta tin rằng có một lực lượng siêu phàm đã đứng sau
để điều tiết sự ảnh hưởng của nó. Những biến đổi đột ngột về kinh tế theo cả
hướng tích cực lẫn tiêu cực được một số người giải thích bằng thái độ
thưởng công hay trách tội của bà chúa cai quản kho tiền. Lực lượng siêu
nhiên này đã được tìm thấy trong một biểu tượng của quá khứ: bà Chúa kho
lương thực. Đây là nhân vật nữ nổi tiếng của thời kỳ phong kiến gắn với
nhiệm vụ nặng nề và vinh quang là coi sóc phần quan trọng nhất của cuộc
sống con người thời đó. Trong bối cảnh mà người ta luôn phải đối diện với cái
đói thì vấn đề lương thực lại nổi lên hàng đầu, đặc biệt là trong điều kiện
chiến tranh. Bóc tiếp lớp văn hoá sớm hơn, người ta tìm thấy tục thờ này có
cơ sở từ tục thờ Mẫu vốn rất phổ biến trong tâm thức người Việt. Xa hơn, tục
thờ Bà Chúa kho lương đã có thể có chung gốc từ tục thờ Mẹ Lúa vốn không
phải chỉ là sinh hoạt tín ngưỡng của riêng người Việt mà còn là của chung cư
dân gốc Indonêsia bản địa.
Điều này cho thấy, mỗi hiện tượng văn hoá dân gian còn lưu truyền


tới đời sau đều đã trải qua một số phận lịch sử riêng để in dấu ấn thời gian rõ
nét. Giải mã các hiện tượng văn hoá dân gian là bóc tách cho được những
lớp văn hoá đã trùm lên cái lõi truyền thống ấy.
Những giá trị thẩm mỹ của văn hoá dân gian còn được lưu truyền từ
địa phương này sang địa phương khác. Tác phẩm văn hoá dân gian có thể và
cần thay đổi để thích ứng được với môi trường xã hội, một môi trường luôn
biến đổi và hướng lên phía trước. Quá trình chọn lựa, mài giũa tác phẩm dân
gian khi nó lưu hành trong không gian cũng tương tự như quá trình diễn ra
trong thời gian. Nếu như tác phẩm dân gian được tái tạo để thích nghi với
từng thời đại thì nó cũng được tái tạo để thích nghi với từng địa phương.

Cũng với tục thờ Bà Chúa Kho như đã nói ở trên. Tục thờ Bà Chúa
Kho hiện vẫn còn phổ biến ở cả Bắc Ninh và Hà Nội. Điều thú vị chính là ở
chỗ nếu đền thờ ở Bắc Ninh mang ý nghĩa như thờ một Bà Chúa kho tiền
như đã phân tích thì ở làng Giảng Võ (Hà Nội ) người ta vẫn thờ bà nguyên
nghĩa là một vị Thành hoàng với nhiệm vụ thiêng liêng là che chở và định
đoạt phúc hoạ cho cả làng.
Tính chất nguyên hợp của tác phẩm dân gian thể hiện ở chỗ trong tác
phẩm dân gian, những sáng tạo của nhiều người thậm chí của nhiều thời đại,
của nhiều địa phương đã kết hợp với nhau một cách tự nhiên theo những quy
luật của sự tiếp biến văn hoá (acculturation). Và như vậy, phân tích sâu sắc
tác phẩm thì có thể tách bóc nhiều tầng lớp văn hoá chồng chất lên nhau
hoặc kết dính với nhau, ở đó có cả dấu ấn của thời gian, cả không gian và
thường là sự kết hợp của cả hai yếu tố này.
Chú ý: Tìm ví dụ lien hệ trong văn học dân gian
c) Sự gắn bó hữu cơ giữa các loại hình nghệ thuật trong một tác
phẩm văn học dân gian- nghĩa là bộ phận nghệ thuật ngôn từ gắn bó chặt chẽ


với các loại hình nghệ thuật khác như vũ đạo, âm nhạc, tạo hình…

1.1.2.2. Tính đa chức năng
Từ tính nguyên hợp dẫn đến tính đa chức năng của văn học dân gian. Nói về
văn học dân gian thời “thượng cổ”, Gorki cho rằng “sáng tác nghệ thuật
truyền khẩu của nhân dân lao động là yếu tố duy nhất tổ chức kinh nghiệm
của họ lại, thể hiện các tư tưởng của họ thành hình tượng và thúc đẩy năng
lực lao động của tập thể”. Vào những giai đoạn phát triển đầu tiên của văn
học dân gian, thì văn học dân gian vừa là nghệ thuật lại vừa không phải là
nghệ thuật. Thực tế là trong nền văn hóa dân gian, có thể có những hình thức
phức tạp hoặc mang tính chất quá độ, khó mà đem xếp dứt khát vào một
hình thái ý thức xã hội nhất định để mà nghiên cứu một cách riêng biệt.

Trong văn học dân gian, chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức
năng thẩm mỹ và chức năng sinh hoạt hợp thành một thể thống nhất. Không
phải không có lý do mà văn học dân gian đã trở thành đối tượng nghiên cứu
của nhiều ngành khoa học khác nhau. Các nhà nghiên cứu triết học tìm thấy
trong thần thoại, trong tục ngữ… những vấn đề về nhận thức luận của người
xưa. Các nhà nông học, y học tìm thấy trong đó những kinh nghiệm sản
xuất, dưỡng sinh và chữa bệnh. Các nhà xã hội học tìm thấy ở cổ tích, ca dao
những bài học về cách ứng xử giữa người với người. Chúng ta cũng không
lấy làm lạ vì sao thần thoại ở nước này là đối tượng nghiên cứu của văn học
dân gian, ở nước khác lại đặt vào khoa dân tộc học hoặc có nước coi nghiên
cứu thần thoại là một khoa học riêng tách rời khỏi văn học dân gian và dân
tộc học. Chính là tính đa chức năng của văn học dân gian dẫn đến tình trạng
đó. Nói như Pôn Laphac (Nga), văn học dân gian là “Bộ bách khoa toàn thư
về… kiến thức…tôn giáo…triết học” của nhân dân.


1.1.2.3. Tính tập thể
Đây là đặc trưng xã hội của văn học dân gian, là đặc điểm nổi bật của
văn học dân gian với tư cách là văn học truyền miệng, là tính chất đặc thù
trong sáng tạo và lưu truyền VHDG.
Nhiều tác phẩm VHDG là sáng tạo của tập thể theo nghĩa đen của của
khái niệm này. Người ta sang tác khi cùng chèo đò, kéo gỗ, giã gạo, đi hội,
hoặc lao động trên một cánh đồng…Có thể một người hát lên một câu,
những người khác thêm vào những câu khác để cuối cùng thành một bài ca
hoàn chỉnh. Nếu sang tác đó hay, nó được mỗi người trong tập thể nhớ và
truyền lại cho những người khác khi sinh hoạt tập thể. Không ai còn nhớ nó
bắt đầu như thế nào và không ai là tác giá chính thức của những sáng tác đó.
Nói đến tính tập thể không có nghĩa là phủ nhận vai trò cá nhân.
Không phải tất các các tác phẩm VHDG đều do tập thể sáng tạo. Có nhiều
sáng tác lúc đầu

1.1.2.4. Tính truyền miệng
1.1.2.5. Tính diễn xướng
1.2. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.2.1. Những tiền đề văn hóa xã hội ảnh hưởng đến văn học dân gian các dân
tộc thiểu số Việt Nam
1.2.1.1. Sự đa dạng về ngôn ngữ
1.2.1.2. Sự đa dạng về các loại hình văn hóa
1.2.1.3. Tính thống nhất
1.2.2. Hệ thống thể loại văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam
Giống như văn học dân gian của tất cả các khu vực khác, văn học dân
gian Việt Nam nói chung và văn học dân gian các dân tộc thiểu số nói riêng
không tồn tại dưới dạng một sự vật đơn nhất mà bao giờ cũng tồn tại ở dạng
tác phẩm thuộc thể loại này hay thể loại khác. Các tiêu chí phân loại văn học


dân gian cũng rất phong phú, đa dạng và đều có những ưu nhược điểm nhất
định. Việc phân loại văn học dân gian khó khăn chính là bởi tính nguyên hợp
điển hình của nó. Trong quá trình hình thành và phát triển, các hình thức
sáng tạo văn học dân gian không được chủ định định hình từ trước, nên ranh
giới khác biệt giữa chúng là do các nhà nghiên cứu sau này muốn tách riêng
để so sánh và đánh giá. Việc phân biệt tuyệt đối chính xác ranh giới các thể
loại là không thể thực hiện được với văn học dân gian. Ở đây, chúng tôi sử
dụng quan điểm phân loại của tác giả Chu Xuân Diên trong cuốn Văn học
dân gian, xuất bản năm 1992. Theo chúng tôi, đây là quan điểm phân loại
hợp lý hơn cả. Tuy nhiên, ngay cả sự phân chia này cũng phải chấp nhận sự
giao thoa rất mạnh giữa các thể loại văn văn học dân gian.
Hệ thống thể loại văn học dân gian nói chung, văn học dân gian các
dân tộc thiểu số nói riêng sẽ được gọi thành các danh pháp khác nhau theo 3
cấp: loại, nhóm thể loại và thể loại. Dưới các thể loại còn có các biến thể của
thể loại, các tiểu loại. Điều này sẽ được làm rõ trong quá trình đi sâu vào

từng thể loại cụ thể.
Dưới cấp độ phân chia rộng nhất là LOẠI, văn học dân gian có thể
chia thành 3 loại, ứng với 3 phương thức phản ánh cuộc sống của ngôn từ
là:tự sự, trữ tình và kịch. Phương thức tự sự sẽ bao gồm các hình thức truyện
kể, thơ ca kể, các câu chuyện và lời nói vần vè... Phương thức trữ tình sẽ bao
gồm các hình thức ca dao, dân ca. Phương thức phản ánh cuộc sống dưới
hình thức kịch sẽ bao gồm ca kịch và các trò diễn dân gian.
Ở cấp độ hẹp, các loại sẽ được thể hiện qua các NHÓM THỂ LOẠI.
Loại tự sự sẽ bao gồm 3 nhóm thể loại là: a) Văn xuôi tự sự, b) Thơ ca tự sự,
c) Câu nói vần vè. Loại trữ tình bao gồm: a) Thơ ca trữ tình nghi lễ, b) Thơ
ca trữ tình phi nghi lễ. Loại phương thức kịch thì sẽ được tồn tại dưới các
dạng thể loại cụ thể do tính chất khá riêng biệt giữa chúng với nhau (điều


này có thể hiểu là do dạng thức kịch được hình thành muộn hơn, tính chất
tổng hợp đã khá rõ để tách dần ranh giới thể loại, khác với các hình thức
phản ánh cuộc sống ban đầu, mang đậm tính nguyên hợp hơn).
Ở cấp độ hẹp hơn nữa, các nhóm thể loại sẽ được phân chia thành các
THỂ LOẠI, tương ứng với các danh pháp khác nhau. Nhóm thể loại văn
xuôi tự sự sẽ gồm: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện
cười. Nhóm thơ ca tự sự sẽ gồm: các dạng thức vè (vè lịch sử, vè thế sự, vè
than thân...), sử thi, truyện thơ. Nhóm câu nói vần vè gồm các thể loại: tục
ngữ, câu đố, câu phù chú. Nhóm thơ ca trữ tình nghi lễ sẽ chia thành các thể
loại: bài ca nghi lễ lao động (lịch tiết, khẩn nguyện, xuống đồng...), bài ca
nghi lễ sinh hoạt (hôn lễ, tang lễ...), bài ca nghi lễ tế thần. Nhóm thơ ca trữ
tình phi nghi lễ cũng sẽ gồm: bài ca lao động (hò), bài ca sinh hoạt (gia đình,
xã hội), bài ca giao duyên.
Phương thức kịch sẽ bao gồm các thể loại có mức độ phát triển khá
cao như: chèo, tuồng, những trò diễn có tích truyện khác...
Phân chia hệ thống thể loại như vậy, chúng tôi muốn chi tiết hoá các

dạng thức phản ánh cuộc sống, làm rõ sự phong phú của văn học dân gian.
Tuy nhiên, khi đi sâu phân tích từng thể loại, trong một chừng mực nhất
định, chúng tôi vẫn phải gộp chúng lại để đặt chúng trong một sự so sánh
hẹp.Ví dụ: khi tìm hiểu về dân ca, chúng tôi sẽ chỉ phân chia chúng thành
các nhóm dân ca như: dân ca lao động, dân ca nghi lễ, dân ca giao duyên..
nhưng khi phân tích ca dao lao động có thể sẽ nhắc tới những bài ca nghi lễ
trong lao động, khi nói tới dân ca trong hôn lễ (dân ca nghi lễ), chúng tôi lại
đặt nó trong quan hệ với phần hát giao duyên của đám cưới... Điều này lại
một lần nữa nhấn mạnh sự giao thoa giữa các thể loại trong văn học dân
gian.
Hệ thống thể loại trong văn học dân gian nói chung, văn học dân gian


các dân tộc thiểu số nói riêng có thể được hình dung đầy đủ theo bảng phân
loại sau đây:
CẤP

DANH PHÁP

LOẠI

Tự sự

Trữ tình

Kịch

(truyện kể, thơ ca kể, lời nói vần vè..)

(ca dao, dân ca)


(ca kịch,
trò diễn)

Nhóm Văn xuôi tự
thể

sự (kể)

Thơ ca tự

Câu nói

Thơ ca trữ Thơ ca

sự (ca)

vần vè

tình nghi

trữ tình

lễ

phi nghi

loại
Thể


Thần thoại

Vè lịch sử

Tục ngữ

Nghi lễ

lễ
Bài ca lao Chèo

loại

Sử thi

Sử thi

Câu đố

lao động

động

Tuồng đồ

Truyềnthuyết

Vè thế sự

Câu phù


Nghi lễ

Bài ca

Những trò

Cổ tích

Vè than

chú

sinh hoạt

sinh hoạt

diễn có

Ngụ ngôn

thân

Nghi lễ tế

Bài ca

tích truyện

Truyện cười


Vè trẻ em

thần

giao

Truyện thơ

duyên

Việc phân chia ranh giới các thể loại văn học dân gian như trên chủ
yếu giúp người đọc hình dung đầy đủ về tổng thể văn học dân gian. Một số
thể loại tuy được đặt trong hệ thống phân loại nhưng khi cần nhấn mạnh hơn
để làm rõ, chúng tôi cũng sẽ tách riêng để đi sâu. Mặt khác, cũng là định
danh tên gọi như vậy nhưng có thể thể loại này rất phát triển trong văn học
dân gian người Việt lại khó phát triển trong văn học dân gian các dân tộc
thiểu số và ngược lại, nên chúng tôi chỉ đi sâu vào những thể loại khá phát
triển và có ảnh hưởng sâu đến đời sống văn hoá của đồng bào. Trường hợp
Truyền thuyết - Sử thi, Ca dao - Dân ca là những ví dụ tiêu biểu.
**


Trên cơ sở những tiền đề văn hoá xã hội đặc thù, văn học dân gian các
dân tộc thiểu số Việt Nam đã ra đời. Trải qua quá trình rất dài phản ánh lịch
sử và tâm hồn dân tộc, văn học dân gian các dân tộc thiểu số đã góp phần
không nhỏ vào việc hình thành bản sắc văn hoá Việt Nam. Có thể nói một
cách khách quan rằng: văn học dân gian các dân tộc thiểu số đã chứng minh
được giá trị, sự phong phú đa dạng của mình, trong một chừng mực nhất
định, còn góp phần giới thiệu văn hoá Việt Nam với thế giới nhiều hơn văn

học dân gian của người Việt. Thực tế này có nguyên nhân từ chính cuộc
sống ít bị xâm lấn bởi các nền văn minh khác. Tất nhiên, điều đó cũng là
một hạn chế trong cuộc sống và văn hoá của đồng bào dân tộc thiểu số
nhưng nó chính là môi trường bảo lưu quan trọng để chúng ta còn có thể có
được một kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số khá phong phú.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Trình bày hiểu biết của anh chị về tính nguyên hợp của văn hoá dân
gian nói chung, sự thể hiện của nó trong văn học dân gian nói riêng.
2. Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian
3. Sự đa dạng về ngôn ngữ có tác động như thế nào đối với văn học dân
gian các dân tộc thiểu số Việt Nam.
4. Sự đa dạng các hình thái xã hội có tác động như thế nào đến văn học
dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam.
1.2.3. Công tác sưu tầm, nghiên cứu Văn học dân gian các dân tộc thiểu số
1.2.4. Hướng sưu tầm, khai thác, vận dụng Văn học dân gian các dân tộc
thiểu số hiện nay
Chương 2. CÁC THỂ LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ VIỆT NAM (26 tiết)


2.1. THẦN THOẠI
2.1.1. Định nghĩa
Thần thoại là gì? Thần thoại theo Mác nói đó là vẻ đẹp “một đi không
trở lại” của loài người khi xã hội nguyên thuỷ kết thúc. Sự thực thì trên thế
giới, bất cứ dân tộc nào cũng có thần thoại.
E.M.Mêlêtinxki đã định nghĩa thần thoại như sau: “Thần thoại có
nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, nghĩa đen là truyền thuyết, huyền thoại. Thường
người ta hiểu đó là những truyện về các vị thần, các nhân vật được sùng bái
hoặc có quan hệ nguồn gốc với các vị thần, về các thế hệ xuất hiện trong
thời gian ban đầu tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc tạo lập thế giới

cũng như vào việc tạo lập nên những nhân tố của nó – thiên nhiên và văn
hoá”.
Thần thoại là hình thức sáng tác của con người thời đại xa xưa, nó thể
hiện ý thức muốn tìm hiểu vũ trụ, lý giải vũ trụ và chinh phục thế giới tự
nhiên của con người. Luôn tiếp xúc với thiên nhiên kỳ vĩ, bí ẩn, con người
đã hình dung, lý giải thiên nhiên bằng trí tưởng tượng của mình, tạo ra cho
các hiện tượng xung quanh mình những hình ảnh sáng tạo, những câu
chuyện phong phú, hình dung ra các vị thần lớn lao, những lực lượng siêu
nhiên, hữu linh. Bằng cách đó, con người đã làm ra thần thoại.
2.1.2. Đặc trưng cơ bản của thể loại
2.1.2.1. Điều kiện xã hội của thần thoại (Đặc trưng phát sinh thần thoại)
2.1.3. Nội dung phản ánh
2.1.3.1. Thần thoại kể về nguồn gốc vũ trụ và các hiện tượng tự nhiên
2.1.3.2. Thần thoại kể về nguồn gốc muôn loài
2.1.3.3. Thần thoại về nguồn gốc loài người và vấn đề dân tộc
2.1.3.4. Thần thoại kể về sự chinh phục thiên nhiên và sáng tạo văn hoá


2.1.4. Nghệ thuật của thần thoại
2.1.4.1. Kết cấu và cốt truyện
2.1.4.2. Nhân vật
2.1.4.3. Các biện pháp nghệ thuật
2.2. TRUYỀN THUYẾT
2.2.1.Định nghĩa
2.2.2 Đặc trưng cơ bản của thể loại
2.2.3. Nội dung phản ánh của truyền thuyết
2.2.3.1. Nhóm truyền thuyết giải thích địa danh, phong tục
2.2.3.2. Nhóm truyền thuyết lý giải lịch sử, các nhân vật lịch sử
2.2.3.3. Nhóm truyền thuyết về sự thiên di của một số dân tộc
2.2.4. Nghệ thuật của truyền thuyết

2.2.4.1. Kết cấu
2.2.4.2. Nhân vật
2.3. TRUYỆN CỔ TÍCH
2.3.1. Định nghĩa
2.3.2. Đặc trưng cơ bản của thể loại
2.3.3. Phân loại truyện cổ tích
2.3.3.1. Truyện cổ tích về loài vật
2.3.3.2. Truyện cổ tích thần kỳ
2.3.3.3. Truyện cổ tích sinh hoạt
2.3.4. Nội dung phản ánh của truyện cổ tích
2.3.4.1. Cuộc sống lao động vất vả, bị áp bức
2.3.4.2. Những mâu thuẫn và đấu tranh xã hội
2.3.4.3. Khát vọng thay đổi cuộc đời
2.3.4. Nghệ thuật truyện cổ tích
2.3.4.1. Môtip chủ đề


2.3.4.2. Cốt truyện và kết cấu
2.3.4.3.Yếu tố thần kỳ trong truyện cổ tích
2.3.4.4. Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện cổ tích
2.4. SỬ THI
2.4.1. Định nghĩa
2.4.2. Những đặc trưng cơ bản của Sử thi
2.4.3. Phân loại
2.4.3.1. Sử thi sáng tạo thế giới
2.4.3.2 Sử thi thiết chế xã hội
2.4.4. Nội dung chính của sử thi
2.4.5. Đặc điểm nghệ thuật của Sử thi
2.5. TRUYỆN THƠ
2.5.1. Định nghĩa

2.5.2. Đặc trưng cơ bản của thể loại
2.5.3. Phân loại
2.5.3.1. Truyện thơ về đề tài tình yêu
2.5.3.2. Truyện thơ về đề tài người nghèo khổ
2.5.4. Nội dung cơ bản của truyện thơ
2.5.4.1. Số phận những người nghèo khổ
2.5.4.2. Khát vọng tự do yêu đương và hạnh phúc lứa đôi
2.5.5. Đặc điểm nghệ thuật
2.5.5.1. Kết cấu
2.5.5.2. Nhân vật
2.6. DÂN CA
2.6.1. Định nghĩa
2.6.2. Đặc trưng cơ bản của thể loại
2.6.3. Phân loại


2.6.4. Nội dung dân ca
2.6.4.1. Các bài ca ngi lễ - phong tục
2.6.4.2. Những bài ca lao động
2.6.4.3. Bài ca về sinh hoạt gia đình
2.6.4.4. Những bài ca dao duyên
2.6.5. Đặc điểm nghệ thuật
2.6.5.1. Kết cấu
2.6.5.2. Thể thơ, nhịp thơ
2.6.5.3. Ngôn ngữ nghệ thuật
2.7. TỤC NGỮ, CÂU ĐỐ
2.7.1. Định nghĩa
2.7.2. Đặc trưng thể loại
2.7.3. Nội dung phản ánh
2.7.4. Đặc điểm nghệ thuật

13. Câu hỏi ôn tập và thi
5.

Trình bày hiểu biết của anh chị về tính nguyên hợp của văn hoá dân

gian nói chung, sự thể hiện của nó trong văn học dân gian nói riêng.
6.

Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian

7.

Sự đa dạng về ngôn ngữ có tác động như thế nào đối với văn học dân

gian các dân tộc thiểu số Việt Nam.
8.

Sự đa dạng các hình thái xã hội có tác động như thế nào đến văn học

dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam.
9.

Trình bày cơ sở hình thành và lưu truyền thần thoại?

10.

Trình bày nội dung thần thoại suy nguyên về vũ trụ và tự nhiên?

11.


Hình tượng những nhân vật thần trong thần thoại có những đặc điểm

gì? Những biện pháp nghệ thuật nào được các tác giả dân gian sử dụng để
xây dựng hình tượng các nhân vật này?


12.

Nêu vị trí, vai trò và ảnh hưởng của thần thoại đối với văn học nghệ

thuật và các ngành khoa học xã hội khác?
13.

Trình bày cơ sở hình thành và lưu truyền truyền thuyết?

14.

Trình bày nội dung nhóm truyền thuyết lý giải lịch sử, các nhân vật lịch

sử?
15.

Phân biệt sự khác nhau giữa truyện cổ tích với thần thoại và truyền

thuyết?
16.

Vấn đề phân loại truyện cổ tích? Trình bày nội dung các tiểu loại

truyện cổ tích: Truyện cổ tích loài vật, truyện cổ tích thần kỳ, truyện cổ tích

sinh hoạt?. Nêu ví dụ thông qua các tác phẩm truyện cổ tích các dân tộc?
17.

Hình tượng “chàng trai khoẻ” trong truyện cổ tích các dân tộc Việt

Nam? Motif tài năng và sức khoẻ phi thường có ý nghĩa như thế nào trong
việc xây dựng hình tượng nhân vật này?
18.

Nhân vật “người bất hạnh” trong truyện cổ tích luôn là những người

em, người mồ côi, người con riêng … Hãy chứng minh bằng những tác
phẩm cụ thể và nêu ý nghĩa xã hội của những hình tượng nhân vật này?
19.

Làm rõ hơn ranh giới khái niệm sử thi, truyện thơ, truyền thuyết và

cổ tích..
20.

Mối quan hệ giữa sử thi Mường với thần thoại về họ Hồng Bàng của

người Việt và những dấu ấn địa văn hoá.
21.

So sánh những nét khác nhau trong hình ảnh người anh hùng của các

sử thi vùng dân tộc thiểu số.
22.


Những đặc điểm cơ bản của truyện thơ

23.

Phân tích sự ảnh hưởng của cơ sở xã hội đến nội dung truyện

thơ các dân tộc thiểu số.
24.

Sự tương đồng và khác biệt của truyện thơ các dân tộc thiểu số

với truyện Nôm của người Việt.


25.

Những đặc điểm cơ bản của dân ca.

26.

So sánh dân ca của các dân tộc thiểu số với dân ca của người Việt.

27.

Vai trò của dân ca trong cuộc sống hiện nay.

Người phê duyệt

Người biên soạn


TS. Phạm Việt Long
ThS. Đỗ Thị Kiều Nga


×