Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Khoá luận tốt nghiệp hình tượng nghệ thuật trong truyện ngắn của i bunin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (869.7 KB, 57 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===o0o===

NGUYỄN THỊ THÁI UYÊN

HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA I. BUNIN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài

HÀ NỘI - 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===o0o===

NGUYỄN THỊ THÁI UYÊN

HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA I. BUNIN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. Lê Thị Thu Hiền

HÀ NỘI - 2019



LỜI CẢM ƠN
Khóa luận đƣợc hoàn thành với sự hƣớng dẫn và giúp đỡ tận tình của cô
giáo - tiến sĩ Lê Thị Thu Hiền. Qua đây, tôi muốn bày tỏ lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc đến cô - ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn, khuyến khích và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn tất cả các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn
trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội 2 đã dạy tôi những kiến thức hữu ích trong
suốt 4 năm học tập.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, dù đã rất cố gắng song do điều kiện
về thời gian cũng nhƣ năng lực có hạn nên khóa luận không tránh khỏi sai sót.
Tôi hy vọng sẽ nhận đƣợc những phản hồi từ các thầy cô và các bạn để khóa
luận này hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Thái Uyên


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi thực hiện dƣới sự
hƣớng dẫn của cô giáo - tiến sĩ Lê Thị Thu Hiền. Kết quả thu đƣợc trong đề
tài là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm về nội dung khoa học của công trình này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Thái Uyên


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
6. Bố cục......................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT CHÍNH TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA I. BUNIN ................................................................... 6
1.1. Thuật ngữ “Hình tƣợng nghệ thuật” ....................................................... 6
1.1.1. Khái niệm hình tƣợng nghệ thuật ..................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của hình tƣợng nghệ thuật ................................................ 6
1.2. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ Nga ................................................................ 8
1.3. Hình tƣợng ngƣời nông dân .................................................................. 17
1.4. Hình tƣợng những con ngƣời nhỏ bé .................................................... 19
1.5. Hình tƣợng quý tộc nhỏ sa sút .............................................................. 21
1.6. Hình tƣợng thiên nhiên ........................................................................ 23
1.6.1. Sự trù phú của vùng quê nay chỉ còn trong kí ức ........................... 23
1.6.2. Sự tiêu điều xơ xác ........................................................................ 26
CHƢƠNG 2. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƢỢNG TRONG
TRUYỆN NGẮN I. BUNIN ........................................................................... 29
2.1. Nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật ................................................ 29
2.2. Nghệ thuật miêu tả thế giới nội tâm nhân vật ....................................... 31
2.2.1. Miêu tả thế giới nội tâm qua dòng hồi tƣởng của nhân vật “tôi” ... 31
2.2.2. Thế giới nội tâm qua độc thoại ....................................................... 31
2.3. Không gian và thời gian nghệ thuật đƣợc sử dụng để thể hiện
hình tƣợng ..................................................................................................... 34
2.3.1. Không gian nghệ thuật .................................................................... 34
2.3.2.Thời gian nghệ thuật ........................................................................ 43
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 49

TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nhắc đến nƣớc Nga, mọi ngƣời không chỉ nhớ đến những khu rừng bạch
dƣơng rực rỡ, mà mọi ngƣời còn nhớ đến một nền văn học đồ sộ với những
tên tuổi vĩ đại, trong đó có I. Bunin. Ivan Alekseyevick Bunin (1870 - 1953)
sinh ra trong một gia đình quý tộc lâu đời ở nƣớc Nga nhƣng đã suy tàn. Ông
là một nhà văn có cuộc đời nhiều uẩn khúc với sự nghiệp văn chƣơng phong
phú và tài năng ở nhiều mặt. Ông là nhà văn Nga đầu tiên nhận giải Nobel về
văn học, là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Nga vào cuối
thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
Ông không chỉ sáng tác thơ ca và tiểu luận, mà ông còn sáng tác truyện
ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết. Đặc biệt trong lĩnh vực truyện ngắn, ông đƣợc
đánh giá cao và Những lối đi dưới hàng cây tăm tối là tuyển tập tổng hợp
những truyện ngắn của ông, đƣợc sáng tác trong khoảng thời gian ông bị lƣu
đày tại Pháp. Lúc đó, Bunin đã ngoài 60 tuổi và bị dằn vặt vì nghèo đói và
hoài niệm về quê hƣơng. Xa quê hƣơng nhƣng những kí ức về đất nƣớc và
nhân dân Nga luôn in đậm trong tâm trí, tình cảm qua từng trang truyện của
ông. Với tình hình nhƣ vậy, phong cảnh Nga, tâm hồn con ngƣời Nga đã xuất
hiện phong phú hơn, sống động hơn qua những trang văn của ông. Có thể
thấy đó chính là hình ảnh của Nga thông qua sự hồi tƣởng của Bunin. Ông
đến với văn học bắt đầu từ thể loại thơ và trong các tác phẩm ông để lại, có 3
tập thơ đƣợc sáng tác ở các giai đoạn khác nhau. Có nhiều ý kiến cho rằng:
“Sau Sêkhôp thì bậc thầy truyện ngắn trong văn học Nga là Bunin”. Do đó có
thể giải thích tại sao truyện của Bunin lại đƣợc gọi là những “bài ca văn
xuôi”.
Những hình tƣợng chính trong truyện ngắn của Bunin là thiên nhiên Nga
mang hơi thở của bốn mùa; những thảo nguyên rộng lớn, cánh đồng, ánh

trăng và những ngôi sao sáng trên bầu trời. Bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên,
chúng ta còn thấy sự xuất hiện của con ngƣời, đó là hình tƣợng ngƣời phụ nữ
với khao khát tình yêu đến cháy bỏng. Những con ngƣời Bunin xây dựng
mang đến cho độc giả cảm giác nhẹ nhàng, thƣ thái. Ông không đi vào bi kịch
tinh thần, mà chỉ bắt lấy những ký ức, hồi tƣởng và suy nghĩ. Điều đó không
có nghĩa là hình tƣợng trong những trang văn của ông mờ nhạt.
1


Viết về thiên nhiên, viết về ngƣời phụ nữ, tầng lớp quý tộc sa sút hay
ngƣời nông dân không phải là vấn đề mới mẻ trong văn học. Các tác phẩm
của Bunin xoay quanh chủ đề: thiên nhiên, con ngƣời và tình yêu. Đó là
những chủ đề không còn xa lạ đối với mỗi chúng ta, nhƣng bằng tài năng với
phong cách viết độc đáo của riêng mình, nhà văn đã khẳng định đƣợc giá trị
của mình.Viết về thiên nhiên để nhìn thấy đƣợc vẻ đẹp bốn mùa của đất nƣớc
mình, viết về hình tƣợng ngƣời phụ nữ với những nét đẹp khác nhau, chúng ta
thấy hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học cổ đại và bây giờ luôn là biểu
tƣợng cao nhất của cái đẹp. Ngoài những hình tƣợng chính, còn có hình tƣợng
ngƣời nông dân chăm chỉ hay những tầng lớp quý tộc nhỏ sa sút phải bán đi
cả mảnh đất quê hƣơng cha ông để lại để sinh tồn. Tất cả đã tạo ra một nét
độc đáo trong những truyện ngắn của Bunin.
Do đó, chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài “Hình tượng nghệ thuật
trong truyện ngắn của I. Bunin” để hiểu rõ hơn về Bunin và các hình tƣợng
nghệ thuật trong truyện ngắn của ông cũng nhƣ nghệ thuật mà ông đã sử dụng
để xây dựng hình tƣợng trong những truyện ngắn của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Bunin nói : “Đất nƣớc và con ngƣời bao giờ cũng khiến tôi rung động”
[4-tr.8]. Bunin viết văn và làm thơ từ rất sớm, ông nổi tiếng từ khi còn rất trẻ.
Tuy nhiên, ông đƣợc biết đến khá muộn so với các nhà văn khác do những
hiểu lầm về Cách mạng tháng Mƣời bởi Bunin luôn mang trong mình tinh

thần phản đối nhà cầm quyền Liên Xô. Điều đó đã tạo nên khoảng cách giữa
ông và độc giả thời đó ngày càng xa hơn. Ông đã phát biểu tại lễ trao giải
Nobel rằng mình là một nhà văn lƣu vong, một nhà văn không có đất nƣớc.
Mãi đến năm 1950, sau khi Bunin qua đời, một số tác phẩm của ông mới
đƣợc xuất bản. Kể từ đó, các tác phẩm của ông ngày càng trở nên phổ biến
không chỉ ở Liên Xô mà trên toàn thế giới.
Trong những năm 60 - 70, tác phẩm của Bunin đã đƣợc chào đón. Năm
1961 xuất bản một số tác phẩm. Vào các năm 1965, 1966, 1967 Nhà xuất bản
Văn học Nghệ thuật Matxcơva xuất bản tuyển tập 9 tập của Bunin, trong đó
chỉ có một cuốn tiểu thuyết, phần còn lại chủ yếu là truyện ngắn, truyện vừa
và thơ
Bên ngoài nƣớc Nga, các tác phẩm của Bunin đƣợc các nhà khoa học
2


quan tâm và đƣa vào chƣơng trình giảng dạy đại học ở Mỹ, Canada và Tây
Âu. Ở Việt Nam, mặc dù độc giả chỉ biết đến những truyện ngắn của Bunin
thông qua những bản dịch nhƣng hầu hết bạn đọc đều yêu thích nhà văn này,
yêu thích những câu chuyện lãng mạn nhƣng man mác buồn mà ông thể hiện
trong các tác phẩm của mình. Những câu chuyện của ông có sức mê hoặc lạ
lùng đối với những ngƣời đã từng sống trên đất nƣớc Nga và từng đƣợc chứng
kiến mùa thu vàng trên mảnh đất này. Bằng tài năng của mình, Bunin đã tái
hiện tài tình những bức tranh phong cảnh và những chuyển biến trong tâm
hồn con ngƣời khiến ngay cả những ngƣời chƣa từng đƣợc đặt chân tới mảnh
đất nƣớc Nga cũng có cảm giác nhƣ đang đắm chìm vào cuộc sống của những
con ngƣời nơi đó, không hề có chút xa lạ
Do những hạn chế về ngoại ngữ và tài liệu tham khảo, chúng tôi chỉ khảo
sát đƣợc 30 truyện ngắn đã đƣợc dịch sang tiếng Việ. Ở đây, có thể kể tên một
số tài liệu bằng tiếng Việt có đề cập tới Bunin và những tác phẩm của ông mà
chúng tôi đã tham khảo trong quá trình nghiên cứu: Những lối đi dưới hàng

cây tăm tối (Hà Ngọc dịch), Hơi thở nhẹ (Phan Hồng Giang dịch). Từ điển
Văn học (bộ mới) do Nguyễn Huệ Chi, Trần Hữu Tá chủ biên. Trên trang
Vnca.cand.com.vn cũng có bài viết về Bunin: Một cuộc đời buồn và đẹp. Bài
viết đã khái quát khá đầy đủ, chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của Bunin,
trong đó nhà văn đặc biệt nhắc lại mối tình cuối đời với một cô gái trẻ, nó nhƣ
một minh chứng chứng minh cho khát khao về tình yêu của Bunin.
Chúng ta có thể kể đến một vài nhận xét của giới sáng tác, phê bình thế
giới đối với những tác phẩm của Bunin cũng nhƣ những nhận xét về ông :
“Hiểu và yêu thiên nhiên nhƣ Bunin, ít có ai sánh bằng. Nhờ tình yêu đó
mà cái nhìn của ông thật rộng rãi và tinh tƣờng, những ấn tƣợng đầy âm
thanh, màu sắc mà ông tạo ra thật phong phú” - A.Blok [7-tr.171].
“Bunin viết hay đến nỗi cả Turghenhiev cũng không viết đƣợc nhƣ thế
chứ đừng nói gì tôi” - Lev Tolstoy [4-tr. 9]
Những năm gần đây, những trang văn đặc sắc với tên tuổi Bunin đã trở
thành đối tƣợng nghiên cứu cho một vài luận văn thạc sĩ:
Luận văn thạc sĩ của Đặng Thu Hƣơng ( Đại học khoa học Xã hội và
Nhân văn-2008) với đề tài “ Các mô hình tƣợng trƣng trong văn xuôi Ivan
Bunin” cho ta thấy truyện ngắn của Bunin mang đậm màu sắc tƣợng trƣng và
3


những đặc điểm cấu trúc cũng nhƣ bản chất của các mô hình tƣợng trƣng ấy
Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Nhung ( Đại học khoa học Xã hội và
Nhân văn- 2014) với đề tài “ Dấu ấn của chủ nghĩa hiện đại trong văn xuôi
I.Bunin” cho thấy những biểu hiện của chủ nghĩa hiện đại, nguồn gốc và lí do
sự xâm nhập của chủ nghĩa hiện đại vào trong các tác phẩm của ông.
Qua quá trình thống kê, chúng tôi nhận thấy đã có khá nhiều bài viết về
Bunin. Với đề tài này, hình tƣợng nghệ thuật trong các truyện ngắn của
Bunin sẽ đƣợc đi sâu vào khám phá, phân tích. Hi vọng rằng, những tìm hiểu
của chúng tôi sẽ góp phần giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về bức tranh thiên

nhiên, về cuộc sống nông thôn và tình yêu của những ngƣời phụ nữ trên đất
nƣớc Nga.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Khóa luận hƣớng đến phân tích những hình tƣợng
nghệ thuật trong truyện ngắn của Bunin.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ những hình tƣợng nghệ thuật và nghệ
thuật xây dựng hình tƣợng trong truyện ngắn của I.Bunin, để đạt đƣợc mục
đích đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu các nội dung sau:
+ Một số hình tƣợng nghệ thuật chính trong truyện ngắn của I. Bunin
+ Nghệ thuật xây dựng hình tƣợng trong truyện ngắn của I.Bunin
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Hình tƣợng nghệ thuật trong truyện ngắn của
I. Bunin.
Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của khóa luận này là 30 truyện
ngắn của I. Bunin đã đƣợc dịch sang tiếng Việt. Ở Việt Nam, những tác phẩm
của Bunin đƣợc dịch không nhiều và cũng đƣợc dịch khá muộn, mở đầu là
Tuyển truyện Bunin do Hà Ngọc dịch, Nxb Văn học xuất bản năm 1987;
những truyện ngắn nhƣ Say nắng, Hơi thở nhẹ,... Gần đây những bản dịch cũ
đƣợc tái bản thành 2 tập truyện: Hơi thở nhẹ (Phan Hồng Giang dịch), Những
lối đi dưới hàng cây tăm tối (Hà Ngọc dịch), Nxb Văn học, 2016. Những
truyện ngắn đã đƣợc dịch này đều là những tác phẩm rất đặc sắc, điển hình
cho phong cách của nhà văn cũng nhƣ khái quát đƣợc những hình tƣợng nghệ
thuật trong truyện ngắn của ông.
Tuy nhiên chúng tôi không đi vào phân tích mọi vấn đề của các tác phẩm
4


mà chỉ chọn đề tài là hình tƣợng nghệ thuật để có thể đi sâu nghiên cứu đề tài.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để chỉ ra và phân tích đƣợc những hình tƣợng nghệ thuật trong truyện

ngắn của Bunin, khóa luận sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp
- Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống
- Phƣơng pháp thống kê - phân loại để khảo sát những hình tƣợng nghệ
thuật qua mỗi truyện ngắn
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2
chƣơng:
Chƣơng 1: Một số hình tƣợng nghệ thuật chính trong truyện ngắn của I.Bunin
Chƣơng 2: Nghệ thuật xây dựng hình tƣợng trong truyện ngắn I.Bunin

5


CHƢƠNG 1. MỘT SỐ HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT CHÍNH
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA I. BUNIN
1.1. Thuật ngữ “Hình tƣợng nghệ thuật”
1.1.1. Khái niệm hình tượng nghệ thuật
Nếu khoa học thƣờng sử dụng khái niệm, định nghĩa; tôn giáo dùng các
biểu tƣợng thì nghệ thuật lại dùng hình tƣợng để diễn tả, tái hiện nội dung. Từ
lâu, khái niệm hình tƣợng nghệ thuật đã không còn xa lạ đối với mỗi chúng ta.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Hình tƣợng nghệ thuật chính là các
khách thể đời sống đƣợc nghệ sĩ tái hiện bằng tƣởng tƣợng sáng tạo trong
những tác phẩm nghệ thuật. Giá trị trực quan độc lập là đặc điểm quan trọng
của hình tƣợng nghệ thuật. Bằng chất liệu cụ thể, nó làm cho ngƣời ta có thể
ngắm nghía, thƣởng ngoạn, tƣởng tƣợng” [12-tr.147].
“Hình tƣợng nghệ thuật tái hiện đời sống, nhƣng không phải sao chép y
nguyên những hiện tƣợng có thật, mà là tái hiện có chọn lọc, sáng tạo thông
qua trí tƣởng tƣợng và tài năng của nghệ sĩ, sao cho các hình tƣợng truyền lại
đƣợc ấn tƣợng sâu sắc, từng làm cho nghệ sĩ day dứt, trăn trở cho ngƣời khác”

[12-tr.147].
Qua đó, có thể thấy hình tƣợng nghệ thuật nói chung chính là phƣơng
tiện đặc thù của nghệ thuật nhằm phản ánh cuộc sống. Các hình tƣợng này trở
về với cuộc sống, tác động vào tình cảm và thức tỉnh tƣ duy, giúp con ngƣời ý
thức đƣợc chính mình, ý thức đƣợc mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể, cá
nhân với xã hội. Nhƣ vậy, hình tƣợng nghệ thuật chính là điều kiện đầu tiên
để tạo nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật.
1.1.2. Đặc điểm của hình tượng nghệ thuật
Theo Lí luận văn học tập 1, hình tƣợng nghệ thuật mang năm đặc
điểm cơ bản:
Thứ nhất, hình tƣợng nghệ thuật nhƣ một khách thể tinh thần đặc thù:
“Gọi là khách thể bởi vì đó là thế giới tinh thần đã đƣợc khách thể hóa
thành một hiện tƣợng xã hội tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của ngƣời sáng tạo hay ngƣời thƣởng thức nữa, cũng không
gắn liền với quá trình tâm lý, thần kinh của tác giả nhƣ trong quá trình sáng
tạo” [14-tr.67].
Thứ hai , hình tƣợng nghệ thuật với tính tạo hình và biểu hiện:
6


“Tạo hình là việc làm cho khách thể có đƣợc một tồn tại cụ thể cảm tính
bên ngoài qua chất liệu, là phú cho thế giới những hình tƣợng khái quát một
thể xác, hình hài. Nó bao gồm tạo cho hình tƣợng một không gian, thời gian,
những sự kiện và những quan hệ, và rất quan trong là tạo dựng đƣợc những
con ngƣời có nội tâm, ngoại hình, hành động, ngôn ngữ” [14-tr.69-70].
“Biểu hiện là khả năng bộc lộ cái bên trong, cái bản chất của sự vật, hé
mở những nỗi niềm thầm kín trong tâm hồn. Biểu hiện gợi lên sự toàn vẹn,
đầy đặn của hình tƣợng, và nhất là thể hiện khuynh hƣớng tƣ tƣởng tình cảm
của con ngƣời, của tác giả trƣớc các hiện tƣợng đời sống” [14-tr.70].
Thứ ba, hình tƣợng nghệ thuật là một loại kí hiệu đặc biệt: “Hình tƣợng

nghệ thuật vừa là sự phản ánh, nhận thức đời sống, lại vừa là một hiện tƣợng
kí hiệu giao tiếp. Bản chất của hiện tƣợng ký hiệu có xu hƣớng cố định hóa,
trở thành công thức, sáo mòn. Bản chất sự phản ánh nhận thức có xu hƣớng
tìm tòi cái mới, phát hiện ra cái độc đáo. Từ đó diễn ra quá trình thƣờng
xuyên đổi mới và cắt nghĩa lại kí hiệu, sáng tạo ký hiệu mới” [14-tr.73-74].
Thứ tƣ, hình tƣợng nghệ thuật là một quan hệ xã hội - thẩm mỹ: “Trƣớc
hết là quan hệ giữa thế giới nghệ thuật với hiện tại mà nó phản ánh, thứ đến,
quan hệ của tác giả đối với cuộc sống trong tác phẩm, quan hệ tác giả với
ngƣời đọc, quan hệ hình tƣợng với ngôn ngữ của một nền văn hóa, cuối cùng,
quan hệ của các yếu tố của bức tranh đời sống. Chính cái phức hợp quan hệ
tạo thành hạt nhân cấu trúc của tác phẩm” [14-tr.74].
Thứ năm, tính nghệ thuật của hình tƣợng: “Tính nghệ thuật làm tích cực
hóa khả năng cảm thụ của con ngƣời, nâng họ lên hàng nghệ sĩ, khẳng định
vai trò chủ thể của con ngƣời trƣớc thế giới (...) Tính nghệ thuật đa dạng nhƣ
bản thân nghệ thuật. Tiêu chuẩn cuối cùng của nó là sự thống nhất hoàn mỹ
của nội dung và hình thức nghệ thuât, là sức gây ấn tƣợng mang tính tƣ tƣởng
của hiện thực đời sống, phản ánh đƣợc hiện thực nhiều mặt và vận dụng biến
hóa không ngừng” [14-tr.78-79].
Nếu không có hình tƣợng thì sẽ không có nghệ thuật. Hình tƣợng đối với
một tác phẩm văn học có vai trò quan trọng, nó không chỉ tái hiện thế giới
khách quan, góp phần truyền tải thông điệp của tác giả tới mọi ngƣời. Không
những thế, nó còn là tâm hồn, là bản ngã của ngƣời nghệ sĩ, là cái tôi, là
phong cách của ngƣời nghệ sĩ.
7


1.2. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ Nga
Trong những năm gần đây, hình tƣợng ngƣời phụ nữ đã đƣợc xây dựng
khá toàn diện bởi các nhà văn, nhà thơ. Ngƣời phụ nữ xuất hiện với hai nét
nổi bật: phụ nữ là hiện thân của sắc đẹp và ngƣời phụ nữ cũng là hiện thân

cho những số phận bất hạnh. Đọc truyện ngắn của Bunin, ta thƣờng nghĩ ngay
tới thế giới nhân vật của ông. Thế giới nhân vật của Bunin xuất hiện nhiều
những con ngƣời bình thƣờng, họ chỉ xuất hiện trong một vài dòng hoặc xuất
hiện trong một vài trang truyện và hầu hết độc giả ấn tƣợng với ngƣời phụ nữ.
Khi viết về ngƣời phụ nữ, đó là một hành trình khám phá những bí ẩn trong
thế giới nội tâm của các nhân vật. Trong văn học, ngƣời phụ nữ vừa là chủ thể
sáng tác, vừa là trung tâm của đối tƣợng miêu tả. Mỗi ngƣời phụ nữ đều mang
trong mình những nét đẹp riêng, không trùng lặp với bất kì ai.Vẻ đẹp của
những ngƣời phụ nữ trong những trang văn của ông đƣợc nhìn qua đôi mắt
của những chàng trai trẻ và thƣờng gắn liền với tình yêu. Qua đó, ngƣời nghệ
sĩ có thể viết nên những trang truyện độc đáo mà qua việc đọc các tác phẩm ,
ngƣời đọc có thể thấy đƣợc hình tƣợng những ngƣời phụ nữ với những nét
đẹp về ngoại hình cũng nhƣ những nét đẹp trong tính cách của họ. Trong các
tác phẩm của mình, Bunin đã viết rất nhiều về ngƣời phụ nữ. Qua khảo sát,
chúng ta có thể đề cập đến những truyện ngắn đặc biệt viết về ngƣời phụ nữ,
cụ thể nhƣ sau: “Hơi thở nhẹ, Say nắng, Natali, Một chuyện tình nho nhỏ,
Cuộc đời tươi đẹp, Ruxia, Những tấm danh thiếp,..”.
Trong truyện ngắn Ruxia, vẻ đẹp của Ruxia tƣợng trƣng cho nét mỏng
manh, trong trắng và trẻ trung của ngƣời con gái. Nàng xuất hiện với ngoại
hình: “Cô ta tết đuôi sam dài sau lƣng, mặt ngăm đen lấm tấm những nốt ruồi
đen, mũi dọc dừa thanh thanh, mắt đen, lông mày đen... Mái tóc khô cứng, hơi
quăn” [4-tr.239]; “Cả mắt cá chân và bàn chân cô ta đều gày gò trong đôi giày
bện, với những khớp xƣơng trồi lên dƣới làn da mỏng ngăm đen” [4-tr.240].
Và trong mắt chàng trai đang yêu, những đặc điểm ấy thật đáng yêu. Bên
cạnh đó, nhà văn cũng viết về trang phục của nàng: “Nàng đi đôi giày mềm,
không có đế, nên toàn thân nàng phập phồng trong tấm xiêm áo dài cụt tay
màu vàng ấy. Tấm xiêm rộng, nhẹ nhàng, nên tấm thân thanh nữ thon mảnh
của nàng đƣợc thoải mái xiết bao” [4-tr.241]. Ngoài những nét đẹp về ngoại
hình, vẻ đẹp của Ruxia còn đƣợc thể hiện qua việc miêu tả tình yêu của chàng
8



trai dành cho Ruxia. Trong “một hôm dầm mƣa ƣớt cả chân, nàng từ ngoài
vƣờn chạy vào phòng khách, chàng thấy vậy bèn chạy vội đến cởi giày cho
nàng và hôn lên đôi bàn chân bé nhỏ, ƣớt át của nàng và cảm thấy suốt đời
mình chƣa bao giờ có đƣợc niềm hạnh phúc nhƣ thế” [4-tr.241]. Ruxia còn
giúp ngƣời đọc thấy đƣợc sự ngại ngùng và bối rối của cô: “Lúc đầu nàng
luôn chăm chú nhìn chàng, mỗi khi chàng bắt chuyện thì nàng đỏ mặt một
cách kín đáo và lúng búng đáp lại với vẻ giễu cợt” [4-tr.242]. Vẻ e thẹn, nhút
nhát này của Ruxia là nét đẹp thƣờng thấy của mỗi ngƣời con gái trong tình
yêu. Trong con mắt tràn đầy tình yêu của chàng khi ấy: “Trong không gian
bóng tối lờ mờ xuất hiện, cặp mắt đen và mái tóc kết thành bím của nàng thật
tuyệt diệu. Chàng chẳng dám đụng vào ngƣời nàng nữa, chỉ hôn đôi tay nàng
và im lặng vì sung sƣớng vô biên” [4-tr.248]. “Và chàng lại áp môi mình lên
tay nàng, đôi khi hôn lên bô ngực lạnh ngắt của nàng nhƣ hôn một vật gì
thiêng liêng vậy” [4-tr.248]. Khi đang trò chuyện với chàng, Ruxia bỗng hét
lên sợ hãi, kéo váy lên đến tận đầu gối, giậm chân hét “Rắn! Rắn”. Chính nỗi
sợ hãi của nàng khiến cho chàng cảm thấy choáng váng, ngây ngất và chàng
nghĩ rằng nàng còn trẻ con quá. Phụ nữ vốn là phái yếu và sự sợ hãi của
Ruxia khiến cho chàng có mong muốn đƣợc bảo vệ và che chở cho nàng.
Tình yêu của Ruxia đến một cách tự nhiên và trong sáng. Nàng cũng là ngƣời
con gái chủ động và bạo dạn trong tình yêu, điều đó đƣợc thể hiện qua chi tiết
nàng chủ động rủ chàng trai hôm nào đó đi bơi thuyền và mạnh dạn hỏi chàng
trai “Anh có yêu em không?” [4-tr.246]. Nàng cũng thừa nhận rằng mình
cũng yêu chàng trai và giải thích ban đầu nàng cũng ghét anh, đƣợc thể hiện
qua chi tiết: “Cả em cũng thế, - nàng nói. - Mà không đâu, mới đầu em ghét
anh đấy, em ngỡ là anh chẳng chú ý gì đến em cả. Nhƣng, ơn Chúa, tất cả
những cái đó đều đã qua rồi” [4-tr.246]. Qua đó cho thấy nàng là ngƣời phụ
nữ chủ động, say đắm trong tình yêu.
Ruxia còn đƣợc tái hiện nhƣ một thiên thần qua chi tiết : “Mọi chuyện

mùa hè năm ấy đều dị thƣờng. Thật lạ lùng rằng chúng chỉ cho mỗi mình
nàng lại gần, cúi cong cái cổ dài thanh thanh, từ phía trên nhìn xuống nàng
với vẻ rất nghiêm nghị nhƣng đầy tò mò hiền lành, khi nàng nhẹ nhàng thanh
thoát chạy đến bên chúng, chân đi hài sặc sỡ. Bất thần, nàng ngồi xổm trƣớc
đôi sếu, tấm váy xaraphan màu vàng xòe ra trên bãi cỏ xanh ven đầm ẩm ƣớt,
9


ấm áp; với vẻ say sƣa thơ trẻ nàng nhìn vào đôi mắt đẹp đen dữ tợn của
chúng, đôi mắt lọt vào giữa mép vòng viền màu xám sẫm”[2- tr.32].
Tất cả những vẻ đẹp trên cho thấy Ruxia là một cô gái hiền từ và thật đặc
biệt đƣợc thể hiện qua chi tiết chỉ có cô mới có thể lại gần những con sếu.
Ruxia là một cô gái trẻ trung, ngây thơ, trong sáng, là biểu tƣợng cho khát
vọng tình yêu, khát vọng đƣợc yêu thƣơng. Trong truyện ngắn này, Bunin đã
xây dựng hình tƣợng Ruxia với những nét đẹp tự nhiên, trong sáng, thánh
thiện với khát vọng yêu thƣơng bởi tình yêu của nàng với chàng trai trong câu
chuyện không thành, họ yêu nhau nhƣng không đến đƣợc với nhau do sự ngăn
cản của mẹ Ruxia. Bà ta coi chàng trai là thằng đểu và không cho phép chàng
trai ấy lấy con gái bà và bà đã đe dọa dùng cái chết nếu nhƣ Ruxia bỏ nhà
theo chàng trai. Tình yêu là thứ tình cảm luôn tồn tại song song trong cuộc
sống của mỗi con ngƣời, nhƣng thay vì lựa chọn tình yêu với chàng gia sƣ thì
Ruxia đã chọn chữ “hiếu” thay vì chữ “tình”. Với Ruxia trong câu chuyện
này, chữ “hiếu” nặng hơn chữ “tình”. Nàng chấp nhận hi sinh hạnh phúc của
mình để ở bên cạnh và chăm sóc mẹ bởi nếu cô bỏ đi lấy chồng, mẹ cô sẽ phát
điên và không thể chịu nổi. Mặc dù yêu nhau nhƣng không đến đƣợc với
nhau, nhƣng trong trái tim chàng gia sƣ kia, nàng mãi mãi là mối tình duy
nhất của cuộc đời mình.
Bunin biết khơi dậy trong mỗi nhân vật sự say đắm của tình yêu lứa
đôi, khiến cho mỗi nhân vật đều mang trong mình những khát vọng yêu
thƣơng và một tình yêu đẹp, thuỷ chung nhƣng không kém phần mãnh liệt.

Nhƣng bên cạnh đó, cũng phải nói đến những cái dang dở của tình yêu, thể
hiện ở việc Ruxia và chàng gia sƣ yêu nhau nhƣng không đến đƣợc với nhau.
Nhƣ trong câu thơ của Xuân Diệu - ông hoàng thơ tình của văn học Việt Nam
đã viết : “Yêu là chết trong lòng một ít” và chúng ta thấy “tình chỉ đẹp khi còn
dang dở” nên nhân vật trong truyện ngắn của Bunhin, cụ thể là nàng Ruxia
đến với tình yêu mãnh liệt bao nhiêu thì thời gian hạnh phúc và giây phút chia
tay càng ngắn ngủi bấy nhiêu. Đến cuối cùng, thay vì chọn tình yêu, nàng đã
chọn ngƣời mẹ điên và cô gái này đã ám ảnh chàng suốt cả cuộc đời khiến
ngƣời vợ phát ghen bởi Ruxia chính là ngƣời đầu tiên mang đến cho anh ta
hạnh phúc của một tình yêu hồn nhiên và trong sáng.
Trong truyện ngắn Hơi thở nhẹ, I.Bunin đã xây dựng nhân vật Olia
10


Meserskaia là nhân vật trẻ tuổi nhất, xinh đẹp, ngây thơ và vui tƣơi nhƣ một
bông hoa rực rỡ trong nắng mai, vẻ đẹp của nàng tƣợng trƣng cho sự thuần
khiết, tự nhiên và đầy sức sống của cô gái đang sống trong những năm tháng
thanh xuân tƣơi đẹp. Olia xinh đẹp, đầy sức sống, nhƣng nàng lại có cuộc đời
bất hạnh. Nhà văn đã khéo léo sử dụng nhiều tính từ để miêu tả vẻ đẹp của cô,
trong đó đôi mắt đƣợc miêu tả rất nhiều lần và sức thu hút của Olia đƣợc khắc
họa thành công: “Đôi mắt đầy vui sƣớng và vô cùng linh lợi”; “ánh mắt sáng
long lanh”; “cặp mắt sáng tinh lợi”; “ánh mắt trong sáng”. Vẻ đẹp của nàng là
vẻ đẹp không cần chải chuốt mà đó là vẻ đẹp tự nhiên sẵn có. Vẻ đẹp của Olia
khiến nhiều ngƣời si mê. Nét đẹp tự nhiên, sẵn có ấy đƣợc thể hiện ở chi tiết :
“Olia thì chẳng e sợ gì, kệ cho có vết mực dây ra ngón tay, kệ cho mặt đỏ gay
gắt, đầu tóc rối bù, và khi chạy ngã chân hở ra quá đầu gối cô cũng mặc. Tuy
chẳng phải chăm sóc hay cố gắng đặc biệt gì, trong hai năm qua tất cả những
gì đã khiến cô nổi bật lên trong trƣờng dƣờng nhƣ đã cũng đến với cô một
cách hết sức tự nhiên: nào là duyên dáng, thanh lịch, yểu điệu và cặp mắt sáng
long lanh”[4-tr.192]. Olia là hiện thân của vẻ đẹp tự nhiên, đằm thắm, quyến

rũ nhƣng vô cùng trong sáng và đầy sức sống.
Chân dung của Olia đƣợc Bunin xây dựng trên phông nền đám đông khi
cô hòa mình vào đám nữ sinh mặc đồng phục, khi thì nổi bật lên trong vũ hội,
trên sân băng bởi: “Trong các cuộc vũ hội chẳng ai nhảy đẹp bằng Olia, chẳng
ai trƣợt băng nhanh nhƣ cô, trong vũ hội cũng chẳng ai đƣợc săn đón nhiều
nhƣ cô, và cũng chẳng hiểu vì sao chẳng ai đƣợc các lớp dƣới yêu chuộng
bằng cô”[4-tr.192]. Xinh đẹp, quyến rũ nhƣng cũng có nhiều tiếng xì xào bàn
tán nàng nông nổi và không thể sống thiếu những chàng trai dành tình cảm
mến mộ cho mình. Bên cạnh đó, hình ảnh Olia còn đƣợc Bunin. khắc họa
trong khung cảnh khu vƣờn, trong không gian cứng nhắc, đầy khuôn phép của
căn phòng bà hiệu trƣởng. Bằng tài năng của mình, tác giả đã tạo nên sự hòa
quyện giữa con ngƣời với thiên nhiên. Bunin đã vẽ nên không khí trong lành,
tƣơi mát của khu vƣờn sau cơn mƣa, sự tƣơi mát ấy phù hợp với sự trẻ trung,
hạnh phúc của Olia và nàng cảm thấy thế giới này chỉ có một mình nàng.
Không khí tƣơi mát của khu vƣờn trái ngƣợc với căn phòng cứng nhắc, đầy
khuôn phép của bà hiệu trƣởng: “sạch nhƣ ly nhƣ lau” với “đƣờng ngôi đều
đặn”, “mái tóc uốn rất khéo của bà hiệu trƣởng”, với những lời nhắc nhở
11


nghiêm khắc, mỉa mai của bà. Những chi tiết xung quanh ngoại hình và tính
cách của bà hiệu trƣởng càng làm nổi bật lên sự trẻ trung, hồn nhiên, ngây thơ
và ngời sáng của Olia. Dƣờng nhƣ nhân vật là sự hòa hợp giữa con ngƣời với
thiên nhiên đất trời, bởi những bƣớc ngoặt trong cuộc đời của Olia đều có sự
xuất hiện của thiên nhiên. Những rung động đầu đời của nàng thiếu nữ Olia
cũng diễn ra trong khung cảnh thiên nhiên trữ tình, mộng mơ. Nàng đã trao
thân cho một ngƣời đàn ông lịch lãm đã từng trải qua bao sóng gió cuộc đời
tại cái khung cảnh thiên nhiên trữ tình ấy. Là ngƣời có sắc đẹp, nàng tự cho
mình cái quyền đƣợc đùa cợt tình cảm với ngƣời khác. Và rồi, nàng đã chết
dƣới họng súng của Kazak, cái chết diễn ra bất ngờ nhƣng có lẽ cô gái ấy sẽ

không hối hận vì bản thân đã đƣợc sống thật với cảm xúc của mình.Vào mùa
đông cuối cùng của Olia “có tuyết rơi, có nắng đẹp”. Nhƣ vậy, có thể thấy
cuộc sống cũng nhƣ cái chết của Olia đều có sự xuất hiện của thiên nhiên nhƣ
để minh chứng cho một tâm hồn ngƣời thiếu nữ trong sáng, tƣơi vui và tràn
ngập sự sống. Thậm chí ngay cả trong bức chân dung trên mộ Olia, ánh mắt
trong trẻo, vui tƣơi của Olia dƣờng nhƣ đã làm lu mờ, xua đi sự ảm đạm của
những tấm bia đá trong nghĩa trang vào những ngày mùa đông lạnh lẽo.
Hình ảnh hơi thở nhẹ kết thúc câu chuyện, một câu kết thúc rất gợi hình:
“Giờ đây cái hơi thở nhẹ ấy lại một lần nữa lan đi trong thế gian này, trong
bầu trời đầy mây này, trong làn gió xuân giá lạnh này”[4-tr.201]. Hình ảnh
Olia đã trở thành yếu tố cân bằng, khẳng định sức sống bất diệt, vƣợt qua cái
chết của tuổi trẻ. Olia là hiện thân cho vẻ đẹp của tuổi thanh xuân, với những
vẻ đẹp trong trẻo, hồn nhiên, vui tƣơi, ngời sáng, tràn đầy sức sống và thánh
thiện. Không ai có thể ngờ rằng, sự thẳng thắn, mạnh mẽ, bồng bột của một
cô gái đang còn ở lứa tuổi học trò lại có thể trở thành lí tƣởng sống cho bà
giáo viên chủ nhiệm của nàng. Những vẻ đẹp ấy lại có thể mang đến ý nghĩa
lớn lao, mang đến sức sống cho tất cả mọi ngƣời.
Khác với những nhân vật nữ trong các truyện ngắn khác, nhân vật Naxtia
trong truyện ngắn Cuộc đời tươi đẹp hiện lên là một ngƣời con gái có ngoại
hình đẹp, nhƣng khác biệt ở chỗ đó là vẻ đẹp tháo vát, chất phác, đầy sức
sống của một cô gái nghèo bị chèn ép, không có nơi bấu víu. Với hoàn cảnh
khó khăn, không biết nƣơng tựa bấu víu vào ai, Naxtia phải tìm cách để đứng
vững, để sống sót và tự bảo vệ mình trƣớc cuộc sống đói nghèo. Ở truyện
12


ngắn này, ngƣời phụ nữ đã xƣng “tôi” và kể lại cuộc đời mình. Bunin đã cho
ngƣời đọc tự hình dung về ngƣời phụ nữ qua ngôn ngữ, hành động, những
biến cố trong cuộc đời nàng và qua những diễn biến tâm trạng của nàng. Sau
khi chứng kiến bố bị bắt đi đày, nàng đã nghĩ: “Rõ ràng là sống với lẽ phải là

không đƣợc rồi, và rõ ràng là phải tính toán thận trọng mới đƣợc” [4-tr.52].
Nàng đã suy nghĩ tới việc phải mau mau lấy chồng, nàng thích một ngƣời, rất
thích, nhƣng anh ta nghèo chẳng kém gì nàng và cuối cùng nàng đã quyết
định từ bỏ ngƣời mình thích để lấy một ngƣời bạn của bố trong thành phố:
“Tôi nghĩ đi nghĩ lại rồi bằng lòng, mặc dù dĩ nhiên tôi biết là ông ta đã luống
tuổi, rƣợu chè, tính hay nóng nảy, nó quả đáng là một ông ăn cƣớp..”[4-tr.52].
Nàng lấy chồng và trở thành một thị dân trong thành phố. Với nàng, tiền là
thứ duy nhất đáng đƣợc chú ý, nhƣng cuộc sống với ông chồng ấy khiến nàng
khổ sở, mang tiếng là thị dân nhƣng lại nghèo chẳng hơn gì nông dân. “Ờ,
may mờ trời cũng còn thƣơng tôi, đem ông ấy đi”[4-tr.53] sau 9 năm khổ sở.
Cuộc đời Naxtia là những chuỗi ngày khó khăn và đầy biến động, cha bị đi
đày, mất cả ruộng bắp cải sắp đến mùa thu hoạch. Sau khi cha bị đi đày, nàng
quyết định lấy một ông chồng đã luống tuổi, tƣởng nhƣ sẽ đƣợc hƣởng hạnh
phúc với cuộc sống giàu sang. Thực chất lại không phải nhƣ vậy, ngƣời nàng
lấy là một ngƣời đàn ông mê rƣợu chè, tính nóng nảy, nghèo. Ngƣời đàn ông
ấy đã đeo bám ngƣời phụ nữ này suốt 9 năm trời. Tên truyện ngắn là Cuộc
đời tươi đẹp, chính nhân vật cũng tự nhận cuộc đời mình tƣơi đẹp và xƣng
“tôi” kể lại, nhƣng thực chất đó là cuộc sống khổ sở, đầy nỗi đau. Trong
truyện hiện lên là nàng Naxtia bản lĩnh, tháo vát nhƣng khá tàn nhẫn: Nàng đã
làm ngơ trƣớc tình yêu của cậu công tử tàn tật mới qua tuổi 14, tên là Nikanor
Matvêits, làm ngơ trƣớc lời van xin của chàng trai đó. Chàng công tử đó mê
Naxtia, thậm chí còn cho Naxtia số tiền mà mẹ cậu cho bao năm qua với điều
kiện cô hôn chàng một cái. Nàng tàn nhẫn tới mức bình thản trƣớc lời đe dọa
sẽ tự tử của cậu và nàng vẫn rời khỏi nhà chủ, mở quán rƣợu và xây dựng một
cuộc sống mới. Naxtia còn ngăn cản con trai bà yêu Phenka - một cô gái theo
bà nghĩ đó là “con đĩ trăm thằng”. Sau đó, Naxtia đƣợc làm mối cho một ông
góa vợ nhƣng ông này yêu cầu bà phải từ bỏ đứa con trai của mình và Naxtia
đã nhẫn tâm đuổi con trai của mình là Vania đi để có thể thực hiện cuộc hôn
nhân này. Đằng sau cái giọng kể lạnh lùng ấy chỉ là vỏ bọc để giấu đi sự khổ
13



đau của cuộc đời ngƣời phụ nữ. Đuổi con đi để cƣới một ngƣời đàn ông góa
vợ có điều kiện, nhƣng Naxtia vẫn là ngƣời mẹ đầy yêu thƣơng dành cho
con của mình. Điều đó đƣợc thể hiện qua chi tiết: “còn tôi, tuy vốn không
phải ngƣời mau nƣớc mắt mà đã phải tuôn trào nƣớc mắt. Ngày hôm trƣớc
khóc, ngày hôm sau khóc, cứ nghĩ làm sao nó có thể nói với mình những lời
lẽ nhƣ vậy, thế là lại không cầm đƣợc nƣớc mắt” [3- tr.95]; “Tôi nhìn, nhìn
mãi, nghe ngóng rồi đi ra. Và một nỗi buồn khôn tả xâm chiếm lòng tôi! Tôi
cố ăn cho xong bữa chiều, dọn dẹp bàn ăn, tắt đèn...Tôi không sao ngủ đƣợc
và cứ mãi nhƣ thế, nằm mà toàn thân rung lên”; “Thế nhƣng đôi lúc tôi cũng
thấy nhức nhối trong tim(...) cũng lại có lúc tôi buồn nhớ đến thằng Vania”
[3-tr.98]. Mặc dù Naxtia đuổi con đi để thực hiện cuộc hôn nhân đầy toan
tính với ông chồng khá giả, nhƣng trong bà vẫn có tình yêu thƣơng con da
diết, khi một mình lại chan chứa nƣớc mắt khóc thầm, do hoàn cảnh đã bắt
bà phải lựa chọn từ bỏ đứa con của mình. Chính cuộc sống khắc nghiệt,
nghèo khổ đã đẩy ngƣời phụ nữ ấy tới sự lạnh lùng, tới những lựa chọn,
những mong cuộc sống tốt đẹp hơn.
Nói đến Bunin, nói đến ngƣời phụ nữ, chúng ta không thể không kể đến
truyện ngắn Natali. Trong truyện ngắn này, nhà văn đã xây dựng thành công
hình tƣợng hai nhân vật nữ: Natali và Xônhia. Bên cạnh đó, nhà văn cũng
khắc họa thành công nhân vật “tôi” trong mối quan hệ tình cảm với hai nhân
vật nữ. Những cảm xúc tình yêu hay những dục vọng xác thịt đều đƣợc tái
hiện qua mùa hè năm ấy. Xônhia hiện lên là một ngƣời quyết liệt chiếm giữ
tình cảm của chàng trai. Đối lập với Xônhia lại là hình ảnh cô nàng Natali
xinh đẹp, nhẹ nhàng và dịu dàng. Ở nhân vật “tôi” đối với hai ngƣời con gái
này lại có những cảm xúc hoàn toàn khác nhau. Đối với Xônhia chỉ xuất hiện
tình yêu xác thịt, đắm đuối và mệt nhọc mỗi đêm nhƣng đối với Natali thì
khác, nhân vật “ tôi” dành sự quan tâm của mình đối với Natali, theo dõi từng
cử chỉ cũng nhƣ từng bƣớc đi của Natali và giữa họ tồn tại tình yêu trong sáng

nhƣng cũng rất đau đớn, bởi Natali biết đƣợc ngƣời con trai mình yêu đang
trong mối quan hệ song song với một ngƣời con gái khác. Ở nhân vật “tôi”
này xuất hiện thứ ý nghĩ muốn đƣợc kết hôn với Natali, nhƣng hằng đêm
nhân vật “tôi” này vẫn chìm đắm trong những ân ái xác thịt với Xônhia. Nhà
văn đã tạo nên thành công cho tác phẩm khi xây dựng đƣợc những nhân vật
14


đều đẹp và hết sức quyến rũ, họ là những cô gái trẻ trung và rất thu hút ánh
nhìn, sự để tâm của mọi ngƣời xung quanh.
Hầu hết trong các truyện ngắn của mình , Bunin đã xây dựng những
ngƣời phụ nữ luôn bị đẩy vào những thái cực cảm xúc trái ngƣợc nên họ có
những hành động khó hiểu. Cụ thể, trong truyện ngắn Say nắng hiện lên một
thiếu phụ mà ở nàng mọi nét đều rất có duyên. Truyện ngắn này kể về câu
chuyện tình yêu ngắn ngủi nhƣng tự nhiên giữa chàng trung úy với ngƣời
thiếu phụ. Câu chuyện tình yêu này diễn ra và kết thúc rất nhanh chóng, chỉ
vỏn vẹn trong vòng một ngày, từ trƣa ngày hôm trƣớc và kết thúc vào sáng
ngày hôm sau. Nàng đã tình nguyện tiến tới cuộc tình chốc lát với chàng trung
úy trẻ, để rồi hôm sau lại quay trở về với cuộc sống thƣờng ngày của mình mà
không để lại cho chàng trung úy ngay cả cái tên và nàng tự gọi đùa mình là
một “ngƣời đẹp không quen biết”. Ban đầu, họ chỉ tình cờ gặp nhau và giữa
họ chỉ xuất hiện những đam mê về thể xác chứ không hề có tình yêu. Dƣờng
nhƣ họ chỉ coi đó là giải trí, ngƣời phụ nữ còn không hiểu tại sao mình lại có
thể đi theo chàng trai và ở cùng chàng trai một đêm. Nhƣng sau đó tình yêu
bất ngờ trỗi dậy - ngƣời ta gọi đó là say nắng, nhƣng chính cái say nắng ấy lại
ám ảnh anh sĩ quan trẻ tuổi. Chàng trung úy ấy đã yêu ngƣời thiếu phụ, yêu
một cách si mê, say đắm. Chính sự ra đi của ngƣời thiếu phụ ấy đã khiến trái
tim chàng trai tan nát, để lại chàng trung úy một trái tim đầy đau khổ với
những thiếu hụt và trống trải trong tâm hồn. Dƣờng nhƣ, sự gặp gỡ tình cờ
giữa chàng trung úy và ngƣời thiếu phụ, phải chăng chỉ là cái cớ để Bunin

diễn tả sự phong phú trong thế giới nội tâm của con ngƣời. Có lẽ Say nắng
chính là truyện tình ấn tƣợng và bất ngờ nhất của Bunin, ở đó ngƣời đọc ngạc
nhiên, bàng hoàng về một tình yêu trỗi dậy chỉ sau một lần gặp gỡ và ra đi sau
một đêm gần gũi.
Hay hình tƣợng một ngƣời phụ nữ nghèo nàn, chất phác trong truyện
ngắn Những tấm danh thiếp. Nàng đã có chồng, là một ngƣời hiền lành, tốt
bụng nhƣng không thú vị và nàng không hề yêu chồng mình. Khi nàng trò
chuyện với nhà văn lừng danh, nàng đã châm thuốc hút một cách dũng cảm,
rít những hơi nhanh theo kiểu phụ nữ. Do tác dụng của rƣợu, khuôn mặt nàng
đỏ ửng lên, đôi môi cũng hồng hào, cặp mắt mơ màng. Nàng đã đón nhận tình
yêu của nhà văn trẻ.Tình yêu của họ đã nảy sinh trên một chuyến tàu tốc
15


hành, ban đầu chỉ là những đam mê thấp hèn, sự đùa cợt, nhƣng đến khoảnh
khắc phải chia li, chàng đã nhận ra tình cảm của mình.
Trong truyện ngắn Ngày thứ hai chay tịnh, Bunin cũng khắc họa thành
công hình tƣợng về một cô tiểu thƣ giàu có đã dứt khoát gạt bỏ về câu chuyện
tƣơng lai, nàng luôn dửng dƣng, lạnh lùng với anh chàng bảnh trai ấy. Dƣờng
nhƣ nàng là một cô gái chẳng thiết cái gì cả, bởi những lần chàng trai tặng cô
hoa, socola và những quyển sách thì nàng chỉ chìa tay ra cho chàng trai hôn
rồi nói cám ơn. Nàng đƣợc xây dựng với vẻ đẹp: “khuôn mặt nàng ngăm
ngăm màu hổ phách, mớ tóc nàng đẹp tuyệt vời mà lại có phần dữ dội vì vừa
đen lại vừa rậm, đôi hàng lông mày của nàng vừa mềm mại vừa bóng lên, đôi
mắt đen, miệng nàng quyến rũ với đôi môi đỏ thắm mịn màng” [4-tr.266].
Xuyên suốt truyện ngắn này là hình tƣợng của ngƣời phụ nữ với tình yêu
mỏng manh, thoáng chốc có thể tan vỡ và biến mất. Nhà văn đã xây dựng lên
hình tƣợng một cô tiểu thƣ giàu có luôn dửng dƣng, lạnh lùng để rồi lại bất
ngờ chấp nhận hiến dâng cho chàng trai ấy với cuộc ái ân chớp nhoáng trong
một đêm và từ đó về sau không bao giờ gặp lại anh ta nữa

Bunin đã xây dựng hình tƣợng những ngƣời phụ nữ không muốn xƣng
tên nhƣ “ngƣời thiếu phụ vô danh nhỏ nhắn”, “là ngƣời đẹp không quen biết”
nhƣ trong Say nắng. Trong truyện ngắn Ngày thứ hai chay tịnh, nhân vật
ngƣời phụ nữ cũng đƣợc gọi là “nàng” mà không hề có tên. Những ngƣời phụ
nữ trong truyện ngắn của Bunin còn rất đặc biệt, họ luôn có những tính cách
và những hành động khó lí giải, mỗi ngƣời đều có dấu ấn và cách sống riêng
nhƣng đều là điển hình cho phụ nữ Nga với tâm hồn nhạy cảm, giàu lòng
thƣơng yêu và tràn đầy sức sống nhƣng cũng đầy bản lĩnh. Viết về ngƣời phụ
nữ, Bunin luôn dành cho họ những tình cảm chân thành và thái độ trân trọng
qua những số phận và tính cách của mỗi nhân vật. Kết thúc truyện thƣờng là
nỗi buồn man mác, nhƣng trong truyện ngắn của Bunin, cái buồn ở đây là cái
buồn của tình yêu không trọn vẹn. Tình yêu và hạnh phúc trong truyện ngắn
của Bunin không bao giờ trọn vẹn, nó luôn bị khiếm khuyết, thậm chí là rơi
vào bi kịch, nhƣng điều nhà văn hƣớng tới đôi khi không phải một cái kết có
hậu mà là những khoảnh khắc hạnh phúc đƣợc sống, đƣợc yêu. Nhân vật
trong truyện ngắn của I. Bunin thƣờng đến với nhau một cách tình cờ và say
mê, chìm đắm trong tình yêu nhƣng lại nhanh chóng rời đi, trở về cuộc sống
16


thƣờng ngày của mình một cách lí trí, thậm chí có phần lạnh lùng. Mặc dù chỉ
là những cơn say nắng, những tình yêu đến bất chợt, nhƣng lại để lại trong
trái tim họ những kí ức về tình yêu thật đẹp đẽ, ngọt ngào và để lại dấu ấn đặc
biệt trong tâm trí ngƣời đọc.
Xuyên suốt các truyện ngắn của Bunin là những câu chuyện tình yêu với
khát khao về một tình yêu đẹp, khát khao hạnh phúc cháy bỏng.Vì thế, giai
điệu tình yêu trở thành âm thanh chủ đạo trong truyện ngắn của Bunin, có sự
cộng hƣởng và lan tỏa mạnh mẽ. Nhà văn biết làm thế nào để khơi dậy trong
nhân vật của mình sự say mê tình yêu, ham muốn tình yêu và một tình yêu
mãnh liệt, chung thủy. Đồng thời, nhà văn cũng đau lòng khi nói đến những

điều còn dang dở, buồn, thậm chí là bi kịch của tình yêu. Đắm chìm trong
những truyện ngắn về tình yêu của Bunin là nỗi buồn và sự chia ly. Mỗi câu
chuyện lại mang trong mình những sắc thái tình yêu khác nhau. Chẳng hạn
nhƣ cuộc tình thoáng qua trong truyện ngắn Những tấm danh thiếp; mối tình
thực dụng trong Chiếc cốc đời, Những lối đi dưới hàng cây tăm tối; bên cạnh
đó cũng có một tình yêu ngây ngất nhƣ Hơi thở nhẹ. Những khoảnh khắc
hạnh phúc trong tình yêu của các nhân vật thƣờng rất ngắn ngủi và hầu hết
quãng đời còn lại của họ chỉ sống trong nỗi nhớ của những kí ức cũ. Với họ,
hạnh phúc trong tình yêu là điều quan trọng nhất. Bởi vậy, ngƣời phụ nữ trong
truyện ngắn của Bunin luôn mang trong mình khát khao hạnh phúc đến cháy
bỏng.
Bên cạnh những khát khao về hạnh phúc ấy, Bunin cũng xây dựng nên
những nhân vật mang trong mình những nỗi buồn không tên với những nỗi u
sầu mà chỉ đọc tác phẩm mới có thể cảm nhận đƣợc. Tóm lại, Bunin đã thể
hiện đƣợc cái nhìn chiều sâu về con ngƣời, đó là những con ngƣời thiên về
cảm xúc, thƣờng đứng trƣớc nhiều tình huống cảm xúc bất chợt khiến ngƣời
đọc cũng nhƣ nhân vật rơi vào trạng thái ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Ngƣời phụ
nữ đƣợc hiện lên với tất cả những điều chân thật nhất. Nhà văn đã nắm bắt
đƣợc tâm lí của ngƣời phụ nữ nên những nhân vật nữ trong truyện ngắn của
ông đều gắn với tình yêu, dƣới con mắt của những chàng trai, để họ tự bộc lộ
đƣợc những vẻ đẹp cũng nhƣ góc khuất trong tâm hồn mình.
1.3. Hình tƣợng ngƣời nông dân
Không phải ngẫu nhiên mà ngƣời đọc gọi Bunin là nhà văn của nông
17


thôn Nga. Nếu nhƣ Êxênhin đƣợc mệnh danh là “nhà thơ cuối cùng của đồng
ruộng Nga” thì Bunin lại thành công khi viết về thể loại truyện ngắn . Vốn
sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Nga tƣơi đẹp, hẳn Bunin phải là ngƣời am
hiểu rất rõ về đời sống, con ngƣời Nga, trong đó phải kể tới những ngƣời

nông dân nghèo nhƣng hiền lành, chất phác.
Với truyện ngắn Meliton, nhà văn đã phác thảo đƣợc chân dung của
ngƣời nông dân Nga độc thân, cô đơn trong khu rừng già với “đôi mắt màu
xanh lam mờ nhạt, vóc ngƣời bác to cao, thân hình bác gày gò, xƣơng xẩu.
Cặp lông mày rậm, xám, và cả bộ ria màu xám tua tủa lan ra cả hai bên má
giống nhƣ ngƣời để râu quai nón, tất cả đều khiến bác có vẻ khắc nghiệt” [4tr.40]. Nhƣng cuộc sống của bác lại là cuộc sống hiền lành, ẩn dật đƣợc thể
hiện qua chi tiết: “ Thế nhƣng cái đầu hói, cặp mắt màu ngọc lam và chiếc áo
sơ mi nông dân sạch sẽ của bác thƣờng xuyên cho thấy bất kỳ lúc nào bác
cũng sẵn sàng lăn mình “dƣới các tƣợng thánh” [4-tr. 40]. Ngay từ ngoại hình
đã khiến ngƣời đọc thấy đƣợc sự cô đơn, khổ cực của một ngƣời đàn ông
không vợ, không con cái. Cô đơn cùng cực là thế, nhƣng lúc nào bác cũng tỏ
ra bình thản để cố giấu nỗi buồn và ngƣời nông dân ấy đã sống một cuộc đời
thanh bạch, giản dị, nghèo nàn.
Khác với truyện ngắn Meliton, truyện ngắn Cỏ gày đã thể hiện đƣợc đời
sống nội tâm phong phú và những khát vọng của nhân vật. Ngay từ những
dòng mở đầu, Bunin đã khắc họa đƣợc hình ảnh một ngƣời nông dân nghèo
khổ, phải đi làm thuê làm mƣớn ngay cả khi ốm đau bệnh tật. Vẻ khắc khổ
đƣợc thể hiện ngay từ ngoại hình : “rất khẳng khiu, tay dài, khung xƣơng nói
chung to nhƣng đôi vai thì lại hẹp, vì chúng xuôi xuống và trông bề ngoài có
vẻ yếu ớt”; “đầu bác không to, đã bắt đầu hói ở đằng trán, mớ tóc dài nhƣng
thƣa, bộ mặt bác phờ phạc, mũi thanh, xƣơng xƣơng, đôi mắt xanh lơ, ƣơn
ƣớt, bộ râu đang ngả bạc và nhỏ nhắn của bác không che nổi chiếc quai hàm
gày rộc” [4-tr.116]. Trong khi đấu tranh để giành giật sự sống, bác nông dân
Averki đã trôi dòng kí ức: “Ở lƣng trời trong vắt, một vằng trăng khuyết mảnh
nhƣ sợi chỉ lung linh trên khoảng đồng bằng thoai thoải đen ngòm bên kia
sông. Ở thôn xóm xa xa, các cô gái đang véo von, ngân dài giọng hát một bài
ca tán tụng cổ xƣa” [4-tr.124]. Tất cả đã làm tăng nghị lực sống của bác nông
dân yếu ớt đang phải đối mặt với cái chết.
18



Nhƣ vậy có thể thấy, Bunin đã khắc họa thành công những ngƣời nông
dân nghèo khổ nhƣng hồn nhiên và đôn hậu. Hai nhân vật Meliton và Averki
qua ngòi bút của Bunin đã trở nên sống động trong trí tƣởng tƣợng của ngƣời
đọc, họ biểu tƣợng cho con ngƣời Nga, tâm hồn Nga.
1.4. Hình tƣợng những con ngƣời nhỏ bé
Con ngƣời nhỏ bé là tầng lớp dƣới đáy xã hội, là sản phẩm, đồng thời là
nạn nhân của xã hội mà chế độ phong kiến bị chủ nghĩa tƣ bản lấn át. Viết về
hình tƣợng những con ngƣời nhỏ bé không còn là điều xa lạ đối với Bunin.
Trong nền văn học Nga, không chỉ có Bunin, mà Puskin, A. Chekhov cũng
dành sự quan tâm của mình đối với hình tƣợng những con ngƣời nhỏ bé.
Bunin viết về những thân phận nhỏ bé, yếu ớt và ít có tiếng nói trong xã hội.
Mặc dù ông dành cho họ sự nâng niu, trân trọng, xót xa, nhƣng đó không phải
sự thƣơng xót đơn thuần. Nhà văn không chỉ nhận thấy đƣợc những thiệt thòi,
khổ đau của nhân vật mà còn thấy đƣợc vẻ đẹp ẩn giấu sau vẻ ngoài xù xì,
lặng lẽ của họ.
Trong truyện ngắn Meliton, nhà văn đã xây dựng nên một con ngƣời
buồn bã, cô đơn, lặng lẽ và đáng thƣơng: “Bác làm ngay ra vẻ bình thản,
dƣờng nhƣ để cố giấu nỗi buồn thƣờng có trong đôi mắt xanh lam mờ nhạt
của mình”[4-tr.40]. Nỗi đau của bác Meliton là nỗi đau của một kẻ cô đơn khi
sống một mình. Nỗi đau ấy đƣợc thể hiện qua “đôi gò má nhăn nheo”, “đôi mí
mắt sụp xuống” và nỗi đau ấy còn ẩn giấu qua tiếng thở dài, trong hình ảnh
“đầu cúi xuống, từ tốn vò dúm thuốc lá”, trong giọng hát “nghe buồn rƣợi”
của nhân vật. Bác là một ngƣời cô đơn, cả cuộc đời chỉ quẩn quanh chăm sóc
mảnh rừng cho điền chủ với sự lễ phép và cung phụng. Nhà văn không đi sâu
vào cuộc sống, vào thân phận nghèo hèn của bác, mà nhà văn hƣớng ngƣời
đọc về quá khứ, thấy đƣợc thời gian trong quá khứ cũng nhƣ sự hoài niệm của
nhân vật qua những lời kể đứt đoạn, bình thản của nhân vật về quá khứ:
“Trƣớc cũng có vợ, nhƣng lâu rồi, chả nhớ đƣợc ; “Cũng có cả con cái nữa
đấy ạ, mà Chúa cũng đã đem chúng đi từ hồi nào ấy rồi..”[4-tr.41]. Quãng

thời gian trong quá khứ của bác Meliton còn đƣợc thể hiện qua lời hát than
thở về những khu vƣờn xanh tƣơi, về mối tình xƣa, những vòng hoa tết không
biết để cho ai. Những chi tiết trên đã hé mở cuộc sống trong quá khứ của bác
Meliton, hé mở cho ngƣời đọc thấy đƣợc đời sống nội tâm phong phú của
19


nhân vật ẩn dƣới lớp vỏ lặng lẽ, đơn giản của bác. Chỉ với những chi tiết đó
thôi cũng đủ thấy phải có một trái tim biết trân trọng những giá trị tâm hồn
mới khơi ra đƣợc những vẻ đẹp ẩn giấu nơi những kiếp ngƣời nhỏ bé nhƣ bác
Meliton trong truyện ngắn cùng tên.
Với Cỏ gày, đọc truyện ngắn này, ta thấy hình tƣợng con ngƣời nhỏ bé là
hình tƣợng duy nhất và xuyên suốt truyện. Ngay tiêu đề và đề từ đã cho ta
phần nào thấy đƣợc dụng ý của nhà văn: “Cỏ gày thì bay khỏi bãi”. Từ những
dòng mở đầu truyện, nhà văn đã khắc họa hình ảnh bác Averki - một ngƣời
nông dân nghèo khổ, sức khỏe không tốt nhƣng vẫn phải đi làm thuê. Vẻ khắc
khổ đƣợc thể hiện ngay ở ngoại hình nhân vật: “Ngƣời bác to cao và cục
mịch: rất khẳng khiu, tay dài, khung xƣơng nói chung to nhƣng đôi vai thì lại
hẹp, vì chúng xuôi xuống và trông bề ngoài có vẻ yếu ớt” [4-tr.116]; “Đầu bác
không to, đã bắt đầu hói ở đằng trán, mớ tóc dài nhƣng thƣa, bộ mặt bác phờ
phạc, mũi thanh, xƣơng xƣơng, đôi mắt xanh lơ, ƣơn ƣớt, bộ râu ngả bạc và
nhỏ nhắn của bác không che nổi chiếc quai hàm gày guộc” [4- tr.116]. Ngay
từ vẻ bề ngoài đã cho thấy cái nghèo khổ của ngƣời nông dân lam lũ, ốm đau
bệnh tật nhƣng vẫn phải đi làm thuê làm mƣớn kiếm sống. Qua đó cũng cho
thấy vẻ yếu ớt, bạc nhƣợc xuất phát từ thân phận những con ngƣời nhỏ bé
không có tiếng nói trong xã hội. Tại sao lại có sự trái ngƣợc trong ngoại hình
của bác Averki: “cái vẻ cục mịch nơi đồng ruộng ấy lại đƣợc kết hợp với cái
vẻ đáng mến của bác”[4- tr.116]. Tất nhiên, đó không phải là Bunin vô tình
nhấn mạnh mà đó là dụng ý của nhà văn. Cách hành xử của nhân vật cũng có
sự mâu thuẫn ai bảo gì cũng làm mặc dù bản thân có ý kiến riêng của mình.

Điều đó có nghĩa dƣờng nhƣ chính thân phận cơ cực, nghèo khổ đã đẩy bác
đến chỗ nhẫn nhục và bất lực , bởi bác sinh ra vốn không hề bạc nhƣợc, yếu
hèn, chính hoàn cảnh đã thay đổi bác nông dân ấy.
Cảm giác của ngƣời đọc từ đầu tới cuối truyện là sự xót xa. Những ngày
tháng ốm đau bệnh tật lại là thời gian để bác nhìn lại cuộc đời mình, nghĩ về
những ngƣời thân yêu nhất. Cuộc đời của bác cũng dần đƣợc hé mở. Một số kỉ
niệm đẹp cũng xuất hiện với mật độ thƣa thớt nhƣng nó không đủ xoa dịu thực
tế cay đắng mà nó nhƣ nhấn sâu thêm thực tế cay đắng cũng nhƣ dài liên miên
trong những ngày vất vả của cuộc đời. Những kỉ niệm đẹp đó dƣờng nhƣ đã trở
thành những thứ đồ quý hiếm mà bác nâng niu, trân trọng và lặp đi lặp lại trong
20


×