Tải bản đầy đủ (.docx) (157 trang)

Nghiên cứu biến động địa hình trong mối quan hệ với các hệ sinh thái vùng ven biển tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở ứng dụng công nghệ viễn thám và gis

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (21.5 MB, 157 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Văn Thảo

1


LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành luận án, tác giả xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối
với PGS. TS. Đặng Văn Bào và TS. Trần Đình Lân, các thầy hướng dẫn vì những
chỉ dẫn rất quí báu. Tác giả cũng nhận được sự giúp đỡ về mặt khoa học của các
thầy cô giáo và đồng nghiệp, sự giúp đỡ, động viên về mặt tinh thần và vật chất của
lãnh đạo nhiều cơ quan và bạn bè. Tác giả xin bày tỏ lòng cám ơn lãnh đạo, các thầy
cô giáo và đồng nghiệp ở khoa Địa lý, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Viện Tài nguyên và Môi trường biển, các cơ quan, ban ngành tỉnh
Quảng Ninh. Đồng thời tác giả cũng xin chân thành cám ơn PGS. TS. Vũ Văn Phái,
PGS. TS. Nguyễn Hiệu, PGS. TS. Trần Đức Thạnh, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thạch
và PGS. TS. Uông Đình Khanh đã có những góp ý khoa học và cung cấp tài liệu
cho luận án. Tác giả cũng xin chân thành cám ơn TS. Đinh Văn Huy, TS. Nguyễn
Đức Cự, TS. Đàm Đức Tiến, Th.S. Nguyễn Đắc Vệ và ThS. Vũ Duy Vĩnh đã có
những góp ý khoa học cho luận án. Tác giả xin chân thành cám ơn đề tài cấp nhà
nước “Nghiên cứu các phương pháp phân tích, đánh giá và giám sát chất lượng
nước ven bờ bằng tư liệu viễn thám độ phân giải cao và độ phân giải trung bình, đa
thời gian; Áp dụng thử nghiệm cho ảnh của vệ tinh VNREDSat-1” mã số VT/CB01/14-15 đã hỗ trợ kinh phí.

Tác giả



Nguyễn Văn Thảo

2


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
ALOS

Vệ tinh quan sát trái đất của Nhật Bản phóng năm 2006

ARCGIS

Phần mềm GIS do công ty ESRI của Mỹ sản xuất

ASTER

Ảnh vệ tinh do vệ tinh TERRA của Mỹ thu nhận

AVNIR

Ảnh vệ tinh do vệ tinh quan sát trái đất ALOS của Nhật Bản thu nhận

CSDL

Cơ sở dữ liệu

ENVISAT


Ảnh vệ tinh do vệ tinh quan sát trái đất của châu Âu thu nhận

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

GIS

Hệ thông tin địa lý

IKONOS

Vệ tinh quan sát trái đất của Mỹ do công ty Lockheed quản lý

IUCN

Liên minh bảo tồn thiên nhiên quốc tế

LANDSAT

Vệ tinh quan sát trái đất của Mỹ do cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ quản lý

LHQ

Liên hợp quốc

MOSS-1

Vệ tinh quan sát trái đất của Nhật Bản phóng năm 1986


RADASAT

Ảnh vệ tinh do vệ tinh quan trắc trái đất của Canada thu nhận

3


SPOT

Vệ tinh quan sát trái đất của Pháp

TB

Tây bắc

TN

Tây nam

VBB

Vùng bờ biển

VBVB

Vùng biển ven bờ

VVB


Vùng ven biển

RAMSAR

Công ước quốc tế về đất ngập nước

RNM

Rừng ngập mặn



Hải đồ

TSS

Hàm lượng chất lơ lửng trong nước

CRS

Hàng số tốc độ cung cấp (Constant Rate of Supply)

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 1.1. Mô tả mối quan hệ giữa địa hình và hệ sinh thái vùng ven biển
20
Bảng 2.1. Đặc điểm một số con sông chính đổ ra vùng ven biển Quảng Ninh
54
Bảng 2.2. Các nhà máy xi măng trong khu vực nghiên cứu

64
Bảng 2.3. Cấu trúc thành phần loài động vật đáy trong rừng ngập mặn vùng ven
biển Quảng Ninh
75
Bảng 2.4. Kết quả phân tích mẫu động vật đáy bãi triều cát Trà Cổ (2012-2013)
77

4


79
Bảng 2.6. Kết quả phân tích hàm lượng Cacbonnat khu vực bãi Trà Cổ
86
Bảng 3.1.Biến động đường bờ biển Quảng Ninh giai đoạn 1975 đến 1990
89
Bảng 3.2. Biến động đường bờ biển Quảng Ninh giai đoạn 1990 đến 2013
91
Bảng 3.3. Biến động diện tích khai thác than và trầm tích bề mặt vùng ven biển Hạ
Long - Cửa Ông giai đoạn 1975 đến 1990
104
Bảng 3.4. Biến động diện tích khai thác than và trầm tích bề mặt vùng ven biển Hạ
Long - Cửa Ông giai đoạn 1990 đến 2013
104
Bảng 3.5. Tốc độ lắng đọng trầm tích (cm/năm) trên bãi triều Đầm Hà
110
Bảng 3.6. Biến động diện tích phân bố các hệ sinh thái giai đoạn 1975 đến 1990
113
Bảng 3.7. Biến động diện tích phân bố các hệ sinh thái giai đoạn 1990 đến 2013
114
Bảng 3.8. Ma trận biến động phân bố hệ sinh thái vùng triều Quảng Ninh giai đoạn

1975 đến 1990
121
Bảng 3.9. Ma trận biến động phân bố hệ sinh thái vùng triều Quảng Ninh giai đoạn
1990 đến 2013
122
Bảng 3.10. Ma trận phân vùng biến đổi địa hình và các hệ sinh thái vùng ven biển
Quảng Ninh
126
Bảng 3.11. Tổng hợp đề xuất định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên vùng ven biển
Quảng Ninh
137

5


DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Hình 1.1. Sơ đồ phạm vi không gian vùng nghiên cứu
Hình 1.2. Sơ đồ phạm vi không gian của vùng ven biển theo quan điểm Leontyev О.
K.(1961)
Hình 1.3. Sơ đồ mô tả đặc trưng địa mạo vùng ven biển theo quan điểm động lực
ngoại sinh của quá trình địa mạo
Hình 1.4. Sơ đồ mô tả vai trò của địa hình với hệ sinh thái
Hình 1.5. Sơ đồ mô tả vai trò của sinh vật đối với địa hình
Hình 1.6. Đường bờ biển khu vực xói lở trên ảnh vệ tinh AVNIR 2 tổ hợp mầu giả
khu vực Phù Long-Cát Hải
Hình 1.7. Đường bờ biển khu vực cửa sông, bãi triều thấp trên ảnh vệ tinh AVNIR 2
tổ hợp mầu giả khu vực Đại Dân-Quảng Yên
Hình 1.8. Đường bờ biển khu vực bãi cát biển trên ảnh vệ tinh AVNIR 2 tổ hợp mầu
giả khu vực Trà Cổ-Móng Cái

Hình 1.9. Đường bờ biển khu vực núi đá vôi trên ảnh vệ tinh Landsat TM tổ hợp mầu
giả khu vực Quang Hanh-Cẩm Phả
Hình 1.10. Đường bờ biển khu san lấp mặt bằng trên ảnh vệ tinh SPOT 5 tổ hợp mầu
giả khu vực Cẩm Thạch-Cẩm Phả
Hình 1.11. Phân bố các hệ sinh thái trên ảnh vệ tinh Landsat TM tổ hợp mầu giả khu
vực Hà An-Quảng Yên
Hình 1.12. Phân bố khu vực khai thác than lộ thiên trên ảnh vệ tinh Landsat TM tổ
hợp mầu giả khu vực Cẩm Phả
Hình 1.13. Khu vực khai thác đất sét trên ảnh vệ tinh AVNIR 2 khu vực Giếng ĐáyHạ Long
Hình 1.14. Khu vực khai thác đá vôi trên ảnh vệ tinh Landsat TM khu vực Đại DânQuảng Yên
Hình 1.15. Phân bố bùn bột và cát nhỏ trên ảnh vệ tinh AVNIR 2 tổ hợp giả mầu khu
vực vịnh Tiên Yên-Hà Cối
Hình 1.16. Phân bố cát trung trên ảnh vệ tinh Landsat TM tổ hợp giả mầu khu vực
Quảng Minh-Hải Hà
Hình 1.17. Phân bố cát lớn trên ảnh vệ tinh Landsat TM khu vực Quảng Phong-Hải

Hình 1.18. Phân bố trầm tích có phủ bụi than trên ảnh vệ tinh AVNIR 2 khu vực cửa
suối Lộ Phong-Hạ Long
Hình 1.19. Mô hình phân tích không gian trong GIS

6

Trang
6
13
15
18
20
31
32

32
33
33
34
34
35
35
36
37
37
38
40


Hình 1.20. Sơ đồ quy trình nghiên cứu
Hình 2.1. Sơ đồ địa chất vùng ven biển Quảng Ninh
Hình 2.2. Sơ đồ tân kiến tạo và kiến tạo hiện đại vùng ven biển Quảng Ninh
Hình 2.3. Sơ đồ phân bố trầm tích tầng mặt vùng triều Quảng Ninh
Hình 2.4. Sơ đồ hoa gió trong nhiều năm tại khu vực Bãi Cháy
Hình 2.5. Sơ đồ phân bố nhiệt độ năm 2006, 2007 và 2008 khu vực Bãi Cháy
Hình 2.6. Sơ đồ phân bố lượng mưa năm 2006, 2007 và 2008 khu vực Bãi Cháy
Hình 2.7. Sơ đồ dao động mực nước khu vực Bãi Cháy tháng 9 năm 2008
Hình 2.8. Sơ đồ dao động mực nước khu vực Bãi Cháy tháng 12 năm 2008
Hình 2.9. Sơ đồ dòng chảy tổng hợp mùa mưa khu vực vịnh Hạ Long và Bái Tử Long
năm 2008
Hình 2.10. Sơ đồ dòng chảy tổng hợp mùa mưa khu vực vịnh Hạ Long và Bái Tử
Long năm 2008
Hình 2.11. Một số hình ảnh hoạt động khai thác than ở Quảng Ninh
Hình 2.12. Một số hình ảnh khai thác vật liệu xây dựng trong vùng nghiên cứu
Hình 2.13. Sơ đồ san lấp mặt bằng khu vực Tuần Châu-Cái Rồng giai đoạn 19902013

Hình 2.14. Khu đô thị mới phường Cao Xanh, thành phố Hạ Long
Hình 2.15. Khu nuôi trồng thủy sản thị xã Quảng Yên
Hình 2.16. Sơ đồ địa mạo vùng ven biển Quảng Ninh
Hình 2.17. Sơ đồ phân vùng địa mạo vùng ven biển Quảng Ninh
Hình 2.18. Rừng ngập mặn khu vực xã Tiền Phong, TX. Quảng Yên
Hình 2.19. Bãi triều bùn - cát khu vực xã Hà An TX. Quảng Yên
Hình 2.20. Bãi cát biển khu trực Trà Cổ, thành phố Móng Cái
Hình 2.21. Phân bố cỏ biển tại vụng Đầm Hà
Hình 2.22. Sơ đồ phân bố các hệ sinh thái tiêu biểu vùng triều Quảng Ninh năm 2013
Hình 2.23. Sơ đồ quan hệ giữa động vật đáy với trầm tích tầng mặt vùng triều Quảng
Ninh
Hình 2.24. Mặt cắt ngang điển hình RNM ở khu vực Đồng Rui
Hình 2.25. Sơ đồ địa mạo - sinh vật vùng ven biển Quảng Ninh
Hình 3.1. Biến động đường bờ biển giai đoạn 1990-2013 khu vực Cẩm Phả
Hình 3.2. Sơ đồ vị trí biến động đường bờ Quảng Ninh giai đoạn 1975-1990
Hình 3.3. Sơ đồ vị trí biến động đường bờ Quảng Ninh giai đoạn 1990-2013
Hình 3.4. Sơ đồ biến động đường bờ khu vực Hạ Long - Cẩm Phả giai đoạn19902013
Hình 3.5. Sơ đồ biến động đường bờ khu vực Hải Hà - Móng Cái giai đoạn 1990 2013
Hình 3.6. Tỷ lệ phần trăm vai trò của các tác nhân gây biến động đường bờ biển tính
theo diện tích biến động giai đoạn 1975-1990
Hình 3.7. Tỷ lệ phần trăm vai trò của các tác nhân gây biến động đường bờ biển tính
theo chiều dài đoạn bờ biến động giai đoạn 1975 - 1990
Hình 3.8. Tỷ lệ phần trăm vai trò của các tác nhân gây biến động đường bờ biển tính
theo diện tích biến động giai đoạn 1990-2013
Hình 3.9. Tỷ lệ phần trăm vai trò của các tác nhân gây biến động đường bờ biển tính
7

44
48
49

50
52
53
53
56
56
57
58
61
63
65
65
66
72
73
74
76
77
78
81
82
84
88
95
96
97
98
99
100
100

101
101


theo chiều dài đoạn bờ biến động giai đoạn 1990-2013
Hình 3.10. Bãi đổ đất đá khi khai thác than lộ thiên ở Cẩm Phả
Hình 3.11. Bãi đổ đất đá khi khai thác than lộ thiên ở Hạ Long
Hình 3.12. Sơ đồ biến động địa hình vùng ven biển Quảng Ninh do khai thác than
giai đoạn 1975-1990
Hình 3.13. Sơ đồ biến động địa hình vùng ven biển Quảng Ninh do khai thác than
giai đoạn 1990-2013
Hình 3.14. Sơ đồ mô phỏng tốc độ lắng đọng trầm tích mùa khô năm 2012 khu vực
Bạch Đằng-Cửa Ông
Hình 3.15. Sơ đồ mô phỏng tốc độ lắng đọng trầm tích mùa mưa năm 2012 khu vực
Bạch Đằng -Cửa Ông
Hình 3.16. Sơ đồ vị trí lỗ khoan
Hình 3.17. Sơ đồ vị trí các mặt cắt địa hình bãi Trà Cổ
Hình 3.18. Mặt cắt địa hình MC1 bãi Trà Cổ
Hình 3.19. Mặt cắt địa hình MC2 bãi Trà Cổ
Hình 3.20. Mặt cắt địa hình MC3 bãi Trà Cổ
Hình 3.21. Sơ đồ biến động các hệ sinh thái tiêu biểu vùng triều Quảng Ninh giai
đoạn 1975-1990
Hình 3.22. Sơ đồ biến động các hệ sinh thái tiêu biểu vùng triều Quảng Yên giai đoạn
1975-1990
Hình 3.23. Sơ đồ biến động các hệ sinh thái tiêu biểu vùng triều Quảng Ninh giai
đoạn 1990-2013
Hình 3.24. Sơ đồ biến động các hệ sinh thái tiêu biểu vùng triều Hạ Long - Cẩm Phả
giai đoạn 1990-2013
Hình 3.25. Sơ đồ định hướng sử dụng tài nguyên vùng ven biển Quảng Ninh


8

103
103
106
107
108
109
110
111
112
112
113
117
118
119
120
139


MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Địa hình mặt đất là một yếu tố tự nhiên, một thực thể vật chất tồn tại khách
quan và là một hợp phần không thể thiếu của các tổng thể tự nhiên. Địa hình mặt
đất và hệ sinh thái có quan hệ mật thiết với nhau. Về mặt sinh thái, địa hình được
xem là nền tảng rắn để các hệ sinh thái phát triển, là yếu tố quyết định tính phân dị
lãnh thổ của các hệ sinh thái, ngược lại lớp phủ sinh vật của hệ sinh thái đóng một
vai trò khá lớn vào quá trình địa mạo để hình thành bề mặt địa hình. Theo dòng
lịch sử, địa mạo học chủ yếu nghiên cứu các quá trình nội sinh và ngoại sinh tạo ra
địa hình mà rất ít quan tâm tới vai trò của sinh vật vào quá trình địa mạo. Đến cuối

thế kỷ XIX vấn đề này mới được đưa vào văn liệu khoa học. Mặc dù vậy, gần đây
hướng nghiên cứu này mới được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm và được
gọi là địa mạo sinh thái. Các kết quả nghiên cứu theo hướng địa mạo sinh thái là
một trong những cơ sở khoa học theo hướng liên ngành phục vụ cho quản lý tài
nguyên và môi trường. Vùng ven biển (VVB) là vùng nằm giữa lục địa và biển
chính vì vậy vùng này chịu nhiều yếu tố tác động lên quá trình địa mạo và tạo ra
nhiều dạng địa hình khác nhau, trên mỗi dạng địa hình tồn tại một hoặc nhiều hệ
sinh thái đi kèm đặc trưng. VVB còn là trọng tâm của nhiều ngành kinh tế quốc
gia, là nơi mà phần lớn các hoạt động về kinh tế - xã hội diễn ra và cũng là nơi mà
tác động của các hoạt động này nhiều nhất. Đối với những nước có vùng ven biển,
hơn một nửa dân số sống tại đây và tầm quan trọng của vùng này còn tăng trong
tương lai do sự gia tăng không ngừng của việc di dân từ các vùng sâu trong lãnh
thổ tới đây. Do vậy, không ngạc nhiên khi có sự xung đột sâu sắc giữa nhu cầu sử
dụngtài nguyên hiện nay và việc đảm bảo cho việc tiêu thụ tài nguyên đó trong
tương lai. Rất nhiều hoạt động phát triển đô thị, công nghiệp và nông nghiệp nằm
trong vùng đất ngập nước ven biển đang làm biến đổi địa hình ảnh hưởng lớn đến
các hệ sinh thái.
Về mặt tự nhiên, VVB tỉnh Quảng Ninh bao gồm 2 vùng địa hình: Đồng bằng
hẹp ven biển, thực chất là các đồng bằng và thềm biển cổ được khai phá từ lâu đời.
Mặc dù chiếm một diện tích không lớn nhưng lại có ý nghĩa rất lớn về mặt dân sinh
và kinh tế. Đây là nơi tập trung phần lớn dân cư với các đô thị lớn của tỉnh như các
thành phố Uông Bí, Hạ Long, Cẩm Phả và Móng Cái. Vùng triều là nơi có các hệ
sinh thái cửa sông ven biển khá phong phú và đa dạng, trong đó có các hệ sinh thái
đặc trưng như hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển, bãi triều bùn - cát và bãi cát biển,
v.v. Về mặt hành chính, VVB tỉnh Quảng Ninh bao gồm 10 huyện, thị và thành phố:
Thành phố Móng Cái, Hạ Long và Cẩm Phả, huyện Hải Hà, Đầm Hà, Tiên Yên,
Hoành Bồ và thị xã Quảng Yên, huyện đảo Vân Đồ và Cô Tô. Trong những năm gần
đây, kinh tế của tỉnh Quảng Ninh đã phát triển nhanh chóng, từ năm 2006 đã trở
thành một trong 10 tỉnh, thành có mức thu ngân sách lớn nhất của cả nước. Thành tựu
này có sự đóng góp rất lớn từ các hoạt động kinh tế tại khu vực VVB như khai thác

và chế biến than, công nghiệp, cảng và giao thông thủy, du lịch - dịch vụ, nuôi trồng,
9


khai thác và chế biến thủy sản, v.v. Tuy nhiên, việc khai thác, sử dụng tài nguyên
thiên nhiên vùng nhằm phát triển kinh tế -xã hội, xóa đói giảm nghèo đã làm biến
động mạnh địa hình vùng ven biển, gây ra nhiều rủi ro và hiểm họa như: sự xâm nhập
nước biển sâu vào đất liền, trượt lở, xói lở bờ biển và sa bồi, bão lũ, ô nhiễm môi
trường, đặc biệt là mất dần diện phân bố của các hệ sinh thái. Chính vì vậy, vấn đề
khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường VVB Quảng Ninh được
đặt ra hết sức cấp bách, đòi hỏi phải có những nghiên cứu khoa học để đề xuất những
định hướng, giải pháp và biện pháp với các cơ quan quản lý của tỉnh nhằm giảm thiểu
suy thoái tài nguyên và bảo vệ môi trường.Nghiên cứu biến động địa hình trong mối
quan hệ với các hệ sinh thái VVB Quảng Ninh được tiếp cận theo hướng địa mạo
sinh thái sẽ góp phần làm rõ thêm đặc điểm địa hình, quá trình địạ mạo và các hệ sinh
thái đặc trưng đi kèm, định lượng biến động địa hình tác động đến hệ sinh thái và vai
trò của hệ sinh thái đối với địa hình. Kết quả nghiên cứu là nguồn dữ liệu quan trọng
để xây dựng cơ sở khoa học nhằm điều chỉnh các qui hoạch phát triển và bảo vệ môi
trường, là căn cứ khoa học bảo vệ bờ biển, chống bồi lấp luồng lạch, bảo tồn và phục
hồi các hệ sinh thái VVB Quảng Ninh. Công nghệ viễn thám và hệ thông tin địa lý là
công cụ hữu ích trong nghiên cứu địa mạo, sinh thái VVB bởi những lợi thế của
chúng mà các công cụ khác không có được như đồng nhất thông tin của một vùng
hay toàn lãnh thổ trong cùng một thời gian, tính đa thời gian, đa phổ với các dải phổ
ngày càng mở rộng và độ phân giải không gian rất đa dạng, thời gian xử lý thông tin
nhanh và đảm bảo độ chính xác, đặc biệt là giá thành rẻ.
Mục tiêu
Đánh giá được biến động địa hình trong mối quan hệ với các hệ sinh thái làm
cơ sở đề xuất định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên vùng ven biển Quảng Ninh.
Nội dung nghiên cứu
1) Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của biến động địa hình trong mối

quan hệ với các hệ sinh thái vùng ven biển.
2) Nghiên cứu đặc điểm địa mạo, các hệ sinh thái và mối quan hệ của chúng
tại vùng ven biển Quảng Ninh.
3) Nghiên cứu biến động địa hình tác động đến các hệ sinh thái trên cơ sở sử
dụng công nghệ viễn thám và công cụ GIS theo các giai đọan khác nhau.
4) Nghiên cứu đề xuất định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên vùng ven biển
Quảng Ninh trên cơ sở đặc điểm địa mạo - sinh thái và biến động địa hình - hệ
sinh thái.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Nghiên cứu được thực hiện trong phạm vi VVB Quảng
Ninh, từ cửa sông Ka Long đến cửa sông Bạch Đằng. Giới hạn phía lục địa là ranh
giới các vùng đồng bằng ven biển, về phía biển đến mực triều thấp nhất trung bình
(0mHĐ) không bao gồm các đảo. Vì các hoạt động khai thác khoáng sản than và vật
10


liệu xây dựng gây ra biến động địa hình rất mạnh ở hai thành phố Hạ Long và Cẩm
Phả, nên phạm vi nghiên cứu lấy hết địa giới hành chính của hai thành phố này
(hình 1.1).
Vấn đề nghiên cứu: mối quan hệ giữa địa mạo với hệ sinh thái, biến động địa
hình và lớp phủ sinh vật của hệ sinh thái.
Đối tượng nghiên cứu: các dạng địa hình, các hệ sinh thái và các nhân tố tác
động đến biến động địa hình và hệ sinh thái.
Cơ sở tài liệu thực hiện luận án
Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước (10 đề tài), bộ, tỉnh và hợp tác
quốc tế (8 đề tài) do nghiên cứu sinh tham gia hoặc chủ trì trong gần 20 năm qua.
Kết quả của một số nghiên cứu được công bố trên tạp chí khoa học, các ấn phẩm
trong và ngoài nước, trong các hội nghị, hội thảo quốc gia và quốc tế. Cụ thể là:
Các đề tài dự án cấp nhà nước:
+ Điều tra khảo sát đất ngập nước triều vùng ven biển và các đảo đông bắc

Việt Nam, 1995 - 1996.
+ Điều tra khảo sát chất lượng môi trường và động thái dinh dưỡng vùng cửa
sông châu thổ sông Hồng, 1996 - 1997.
+ Nghiên cứu nguyên nhân và đề xuất các giải pháp phòng chống sạt lở biển
biển Bắc Bộ, 1998 - 2000
+ Nghiên cứu xây dựng phương án quản lý tổng hợp vùng biển Việt Nam, góp
phần bảo đảm an toàn môi trường và phát triển bền vững, 1996 - 2000.
+ Thiết lập, sử dụng cơ sở dữ liệu hệ thông tin địa lý và kết hợp ứng dụng viễn
thám phục vụ qui hoạch môi trường bền vững các tỉnh ven biển Hải Phòng - Quảng
Ninh, 2000 - 2002.
+ Dự án số 14. Điều tra cơ bản và đánh giá tài nguyên vị thế, kỳ quan sinh
thái, địa chất vùng biển và các đảo Việt Nam, 2007-2010.
+ Điều tra đặc điểm địa chất, địa động lực, địa chất khoáng sản, địa chất môi
trường và dự báo tai biến địa chất các vùng biển Việt Nam, 2007 -2010.
+ Lập luận chứng khoa học kỹ thuật về mô hình quản lý tổng hợp và phát triển
bền vững dải ven biển Tây vịnh bắc Bộ, 2008 - 2010.
+ Nghiên cứu, đánh giá tác động của các công trình hồ chứa thượng nguồn đến
diễn biến hình thái và tài nguyên - môi trường vùng cửa sông ven biển đồng bằng
Bắc Bộ, 2009 - 2011.
+ Đánh giá mức độ suy thoái các hệ sinh thái vùng ven bờ biển Việt Nam và đề
xuất các giải pháp quản lý bền vững, 2009 - 2011.
11


Các đề tài dự án cấp Bộ, tỉnh và hợp tác quốc tế:
+ Ứng dựng viễn thám để đánh giá tác động của khai hoang lấn biển đến tiến
hóa dải ven biển châu thổ sông Hồng, 1999 - 2000.
+ Tác động của các đập thuỷ điện lớn trên lưu vực sông Hồng đối với tài
nguyên, môi trường vùng cửa sông và ven biển, 2004 - 2005.
+ Xây dựng hệ thống cơ sở khoa học hỗ trợ quản lý đới bờ biển để bảo tồn

đa dạng sinh học và tài nguyên biển, 2004 -2005.
+ Xây dựng mô hình lan truyền chất ô nhiễm vịnh Hạ Long - Bái Tử Long,
2006 - 2007.
+ Đánh giá sức tải môi trường vịnh Hạ Long - Bái Tử Long, 2008 - 2009.
+ Nghiên cứu khả năng phục hồi hệ sinh thái rạn san hô và triển khai mô hình
quản lý cộng đồng tại quần đảo Cô Tô, 2008 - 2010.
+ Nghiên cứu sự biến đổi của quá trình địa mạo và xu thế phát triển địa hình
bờ biển Đông Bắc bộ (từ Móng Cái đến Ninh Bình) do sự dâng lên hiện nay của
mực nước biển Đông, 2010 - 2011.
+ Xây dựng kế hoạch hành động đa dạng sinh học tỉnh Quảng Ninh đến năm
2020, 2011 - 2012.
Các nguồn tài liệu khác:
Các nguồn tài liệu khác liên quan đến vùng nghiên cứu do Viện Tài nguyên và
Môi trường biển và các cơ quan chuyên ngành khác thực hiện cũng được khai thác,
bao gồm:
+ Các ảnh Landsat TM, SPOT, AVNIR-2 thu năm 1973, 1975, 1990, 1996,
1998, 2000, 2004, 2008 và 2013 khu vực ven biển Quảng Ninh.
+ Các bản đồ địa hình, hải đồ tỷ lệ 1:50000 và nhỏ hơn, bản đồ địa chất và
khoáng sản Việt Nam tỷ lệ 1:200000.
+ Các số liệu khảo sát, đo đạc về điều kiện tự nhiên, tài nguyên, môi trường và
sinh thái liên quan đến vùng nghiên cứu.
+ Các số liệu thống kê về kinh tế - xã hội và qui hoạch phát triển của khu vực
nghiên cứu.
Các luận điểm bảo vệ
Luận điểm 1: Đa dạng địa hình tạo ra bởi quá trình địa mạo là cơ sở cho phát
triển các hệ sinh thái của vùng ven biển Quảng Ninh tiêu biểu như rừng ngập mặn,
cỏ biển, bãi triều bùn - cát, bãi cát biển và các hệ sinh thái nhân sinh.
Luận điểm 2: Trong giai đoạn hiện đại, địa hình và hệ sinh thái vùng ven
biển Quảng Ninh có sự biến động mạnh mà nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động
nhân sinh.

12


Những điểm mới của luận án
- Làm rõ được mối quan hệ giữa đặc điểm địa mạo và các hệ sinh thái, bước
đầu lượng hóa được vai trò của sinh vật với địa mạo tại VVB Quảng Ninh.
- Đánh giá được biến động địa hình tác động đến các hệ sinh thái vùng ven
biển Quảng Ninh theo các giai đoạn 1975 - 1990 và 1990 - 2013 trên cơ sở ứng
dụng công nghệ viễn thám và GIS.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học:
- Nghiên cứu góp phần làm rõ thêm mối quan hệ giữa địa mạo với sinh vật tại
VVB Quảng Ninh.
- Nghiên cứu chỉ rõ các đặc trưng, giai đoạn và nguyên nhân làm biến động địa
hình và các hệ sinh thái VVB Quảng Ninh.
- Đóng góp vào việc phát triển các công cụ và sử dụng tư liệu không gian trong
nghiên cứu lượng hóa những biến động tài nguyên và môi trường VVB.
Ý nghĩa thực tiễn:
Góp phần trong việc xây dựng cơ sở khoa học điều chỉnh các qui hoạch phát
triển và bảo vệ môi trường phù hợp với đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh
Quảng Ninh. Kết quả nghiên cứu sẽ hỗ trợ công tác quản lý và khai thác hiệu quả
tài nguyên vùng ven biển, định hướng cho chiến lược phát triển bền vững của tỉnh
Quảng Ninh về quy hoạch và phát triển kinh tế - xã hội như các khu công nghiệp,
vùng kinh tế trọng điểm, khu du lịch, khu nuôi trồng thủy sản, khu bảo tồn hệ sinh
thái và an ninh quốc phòng.
Cấu trúc của luận án
Luận án được trình bày trong 3 chương, ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến
nghị và tài liệu tham khảo.
Chương 1: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Đặc điểm địa mạo và các hệ sinh thái vùng ven biển Quảng Ninh.

Chương 3: Đánh giá biến động địa hình và các hệ sinh thái vùng ven biển
Quảng Ninh.

13


14


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Tổng quan nghiên cứu biến động địa hình trong mối quan hệ với hệ sinh
thái vùng ven biển
• Ngoài nước
Nghiên cứu biến động địa hình trong mối quan hệ với hệ sinh thái thực ra là
nội dung chính của địa mạo - sinh vật. Đó là nghiên cứu quá trình địa mạo và các
dạng địa hình tạo ra các lớp phủ sinh vật và ngược lại vai trò của sinh vật đối với
quá trình địa mạo. Theo J. Anthony Stallins (2006) tương tác giữa quá trình địa mạo
và sinh vật là một vòng tròn đan quyện vào nhau, nghĩa là sự tương tác này thuộc
dạng mối quan hệ tương hỗ. Trong hơn hai thập kỷ qua, địa mạo - sinh vật đã phát
triển giống như những nghiên cứu tại hiện trường để đánh giá mối quan hệ giữa các
tổ chức sinh vật và quá trình địa mạo trong một sự đa dạng của môi trường cả trên
biển và lục địa [103]. Địa mạo - sinh vật vùng ven biển nghiên cứu mối tương tác
giữa các tổ chức sinh vật vùng ven biển với quá trình địa mạo của vùng này [103].
Địa mạo sinh vật nghiên cứu sự tương tác không chỉ của các vi sinh vật, thực vật,
động vật bậc cao và kể cả con người với quá trình địa mạo. Sự tương tác này là yếu
tố rất quan trọng trong sự tiến hóa của môi trường giống như quá trình phát triển
của các đầm lầy muối, thực vật ngập mặn và các kiểu loại tài nguyên khác của vùng
ven biển cũng như quá trình bồi tụ - xói lở bờ biển [108]. Có ba quá trình chính liên
quan đến địa mạo - sinh vật vùng ven biển là quá trình xói lở sinh vật (bioerosion),

bảo vệ sinh vật (bioprotection) và xây dựng sinh vât (bioconstruction) [103]. Quá
trình xói lở sinh vật được gắn với sự xói lở chất đáy của đới bờ biển bởi đời sống
của các tổ chức sinh vật. Quá trình bảo vệ sinh vật được hiểu như là sự bảo vệ chất
đáy từ các dạng xói lở khác nhau bởi vai trò của các tổ chức sinh vật (như vai trò
của thực vật ngập mặn và san hô chống lại sự xói lở bờ biển trong điều kiện của
sóng, dòng chảy và đặc biệt khi có bão). Quá trình xây dựng sinh vật được hiểu như
là quá trình xây dựng các yếu tố vật lý của cấu trúc sinh thái lên chất đáy của đới bờ
bởi sinh vật [103]. Các tổ chức sinh vật vùng ven bờ tương tác với quá trình địa
mạo bởi xây dựng các kết cấu chất đáy, tích lũy trầm tích cabonat, đẩy nhanh sự xói
lở bởi sự khoan đào hoặc khuấy đục chất đáy, và đời sống của các thực vật biển góp
phần bảo vệ bờ biển [84]. Sự tương tác giữa sinh vật vùng triều với quá trình địa
mạo là rất quan trọng để bảo vệ bờ biển, đặc biệt là những vùng có bờ biển được
cấu tạo bởi sự gắn kết yếu như kiểu bờ tích tụ. Sinh vật đáy, thực vật phù du cũng
như động vật hai mảnh vỏ đóng gói và giữa chặt trầm tích dưới tác động của sóng
và dòng chảy tại vùng triều. Nếu các hoạt động của con người như đánh bắt sinh vật
hai mảnh vỏ, lạo vét luồng lạch hoặc dùng hóa chất đánh bắt hải sản sẽ làm cho môi
trường suy thoái nhanh dẫn đến các tổ chức sinh vật bị chết hoặc chúng phải di
chuyển đến nơi khác lúc đó xói lở sẽ diễn ra cũng như sự phá hủy của sóng đối với
vùng bờ tăng lên [84].
15


Trước những năm 1970, nghiên cứu biến động địa hình và các hệ sinh thái
vùng ven biển đã được thực hiện ở nhiều quốc gia như Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan,
Ấn Độ, Nhật Bản và các nước châu Âu. Phương pháp nghiên cứu biến động địa
hình vùng ven biển chủ yếu sử dụng các phương pháp địa mạo truyền thống, đó là
sử dụng các số liệu quan trắc ở các trạm cố định, khảo sát đo đạc tại thực địa và kết
hợp với xử lý ảnh máy bay để tính toán chiều dài, tốc độ và diện tích bồi tụ - xói lở
bờ biển, hướng di chuyển của các cồn cát, bãi ngầm, biến động phân bố các hệ sinh
thái. Vì vùng ven biển chịu nhiều tác động từ nội sinh, ngoại sinh và đặc biệt là các

tác động từ hoạt động khai thác tài nguyên của con người nên địa hình và hệ sinh
thái của vùng biến động khá nhanh, ít theo qui luật. Các tài liệu về địa chất, địa hình
và ảnh máy bay không được thường xuyên cập nhật vì chi phí rất lớn, điều này gây
ảnh hưởng lớn đến công tác nghiên cứu về tài nguyên và môi trường nói chung và
địa hình và hệ sinh thái nói riêng tại vùng ven biển. Chính vì vậy, để cập nhật những
số liệu mới về địa hình và các hệ sinh thái vùng ven biển phục vụ các nghiên cứu và
quản lý tài nguyên môi trường vùng ven biển cần phải thường xuyên tổ chức khảo
sát thực địa. Điều này thường gây tốn công sức, tài chính và thời gian. Đồng thời,
kết quả nghiên cứu đưa ra thiếu tính đồng bộ nếu khu vực nghiên cứu có diện tích
lớn và biến động nhanh vì rất khó quan trắc đồng thời dẫn đến kết quả tính toán
không đồng nhất và thiếu tính thuyết phục. Từ 1970 đến nay việc các vệ tinh quan
trắc tài nguyên môi trường trái đất lần lượt được phóng như Landsat, SPOT,
RADASAT, ENVISAT, ALOS, v.v đã cung cấp những dữ liệu viễn thám rất quan
trọng trong nghiên cứu biến động địa hình vùng ven biển nói riêng và tài nguyên
môi trường đới bờ biển nói chung. Công nghệ viễn thám cho phép cung cấp cái nhìn
khái quát và toàn cầu của môi trường biển và lục địa cả về không gian và thời gian.
Ảnh vệ tinh khi được kết hợp với dữ liệu mặt đất có thể lấp vào các phần trống quan
trọng của hệ thống cơ sở dữ liệu. Các thông tin thu nhận từ dữ liệu vệ tinh và được
kết hợp với GIS cung cấp nguồn thông tin với hiệu quả và nhanh hơn từ các nguồn
truyền thống. Cùng với sử dụng công nghệ viễn thám, GIS cung cấp và một công cụ
tiềm năng đáng lưu ý cho qui hoạch và quản lý vùng ven biển. Các ảnh vệ tinh được
sử dụng để giám sát biến động bồi tụ - xói lở bờ sông, bờ biển, các bãi cát ngầm,
các hệ sinh thái theo chu kỳ rất ngắn và trong mọi điều kiện thời tiết, đặc biệt có ý
nghĩa khi giám sát bằng dữ liệu vệ tinh có thể đạt đến tỷ lệ 1:5000 phục vụ đắc lực
cho thiết kế thi công các công trình kinh tế lớn. Thêm nữa, sử dụng dữ liệu ảnh vệ
tinh trong nghiên cứu biến đổi địa hình vùng cửa sông ven biển bởi dữ liệu đồng
nhất về thời gian, giá thành thấp, thời gian xử lý dữ liệu rút ngắn và độ chính xác
khá cao.
Các nghiên cứu sử dụng dữ liệu viễn thám và công cụ GIS nghiên cứu biến
động địa hình tập trung vào các kiểu biến đổi cụ thể của địa hình như trượt lở đất,

xói lở - bồi tụ bờ sông, bờ biển, biến đổi hình thái địa hình sau thảm họa động đất
và núi lửa, sự di chuyển của các cồn cát ngầm, bãi ngầm vùng cửa sông ven biển.
Ngoài ra, còn rất nhiều nghiên cứu sử dụng tư liệu viễn thám đánh giá biến động
phân bố các hệ sinh thái ven biển như rừng ngập mặn, cỏ biển, san hô, bãi triều bùncát, vùng đất ngập nước triều, v.v. Đã có nhiều nghiên cứu điển hình trên thế giới sử
16


dụng dữ liệu ảnh vệ tinh Landsat, SPOT, RADASAT, ENVISAT, AVNIR, IKONOS,
ASTER, v.v. nghiên cứu biến động địa hình và các hệ sinh thái vùng ven biển tiêu
biểu như nghiên cứu của Roland Doerffer, 1989; Yiman Wang, 1995; E.Ghanavati,
1999; Kevin White, 1999; Won, J.S, 1999; Xiaoge Zhu, 2001; Shailesh Nayak,
2001; Thomas E. Dahl, 2004; Chalabi, 2006; Charles Galdies, 2006; Alesheikh,
2007; W. Wu, 2007; Sergey Victorov, 2007; Behara Satyanarayana, 2011 tiến hành
tại Mỹ, Iran, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Ấn Độ, Tanzania, Malaysia, Thái Lan,
Banglades, v.v. Những nghiên cứu trên đều đánh giá rất cao hiệu quả sử dụng tư liệu
viễn thám kết hợp với công cụ GIS.
• Trong nước
Tại Việt Nam, nghiên cứu địa mạo - sinh vật nói chung và địa mạo sinh vật
vùng ven biển nói riêng còn khá mới mẻ, chưa được quan tâm nghiên cứu đúng
mức. Các công trình nghiên cứu về vai trò của sinh vật đối với quá trình địa mạo
chưa đặt trong khuôn khổ của địa mạo - sinh vật mà thường nghiêng về sinh thái
học nên kết quả nghiên cứu chưa đánh giá được hết vai trò, quá trình tương tác giữa
sinh vật và quá trình địa mạo. Đã có một số công trình nghiên cứu về vai trò của
thực vật ngập mặn đối với việc giảm năng lượng của sóng, bảo vệ bờ biển và lưu
giữ trầm tích [41, 42, 43]. Hay vai trò của san hô đối với việc bảo vệ bờ biển [71,
75, 76, 77]. Vai trò của cỏ biển đối với bảo vệ chất đáy [13, 68]. Các nghiên cứu về
vai trò của các loài sinh vật khác như sinh vật đáy, thực vật phù du đối với quá trình
địa mạo còn rất hạn chế và chủ yếu nghiêng về nghiên cứu sinh thái học nhiều hơn.
Đối với vai trò của con người với quá trình địa mạo vùng ven biển cũng còn rất hạn
chế, các nghiên cứu chưa định lượng được các tác động của con người lên biến đổi

địa hình và các hệ sinh thái mà chỉ mang tính định tính. Nghiên cứu của Nguyễn
Đức Cự (2011) về tác động của các công trình hồ chứa thượng nguồn đến diễn biến
hình thái và tài nguyên - môi trường vùng cửa sông ven biển đồng bằng Bắc Bộ,
hay nghiên cứu của Trần Đức Thạnh (2000) về đánh giá tác động của khai hoang
lấn biển đến tiến hóa dải ven biển châu thổ sông Hồng mới chỉ đưa ra kết luận định
tính về vai trò của con người đối với biến động hình thái địa hình vùng ven biển
Bắc Bộ.
Các nghiên cứu về địa mạo sinh vật vùng ven biển trên thế giới và tại Việt
Nam đã góp phần làm sáng tỏ thêm vai trò của sinh vật đối với quá trình địa mạo
của vùng ven bờ và ngược lại quá trình địa mạo tác động lên các tổ chức sinh vật.
Tuy nhiên, các tương tác giữa quá trình địa mạo và sinh vật tại vùng bờ biển là cả
một quá trình diễn ra liên tục, kéo dài và kết quả ít gây đột biến. Ngược lại, tác động
của con người đối với quá trình địa mạo diễn ra mạnh mẽ, kết quả sẽ gây ra biến
động mạnh về địa hình và các hệ sinh thái trong một thời gian ngắn. Chính vì vậy
cần phải kết hợp nghiên cứu cả vai trò của con người và sinh vật đối với quá trình
địa mạo vùng ven biển, có như vậy mới đánh giá được hết sự tương tác này. Hiện
nay, dưới sức ép về dân số, đô thị hóa, cũng như nhu cầu sử dụng các dạng tài
nguyên để phát triển kinh tế - xã hội thì vai trò của con người đối với quá trình địa
mạo ngày càng lớn. Vì vậy, nghiên cứu về địa mạo - sinh vật vùng ven biển càng có
17


ý nghĩa trong việc định hướng khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên vùng ven
biển, hạn chế tác động tiêu cực từ quá trình địa mạo lên đời sống con người.
Các nghiên cứu về bồi tụ xói lở, biến động các hệ sinh thái ở vùng ven biển sử
dụng dữ liệu vệ tinh đã được các Viện nghiên cứu thuộc Viện Hàn lâm Khoa học
Việt Nam như Viện Địa lý, Viện Tài nguyên và Môi trường biển; Khoa Địa lý trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Trung tâm Viễn thám, v.v, tiến hành từ những
năm 1990. Cho đến nay, công nghệ viễn thám và GIS đã được sử dụng rộng rãi để
nghiên cứu tài nguyên môi trường nói chung, nghiên cứu biến động địa hình và hệ
sinh thái vùng ven biển nói riêng tại nhiều Viện nghiên cứu, trường đại học, trung

tâm nghiên cứu, các cơ quan quản lý nhà nước, v.v. Đã có nhiều nghiên cứu về ứng
dụng công nghệ viễn thám và GIS đánh giá biến động địa hình và các hệ sinh thái
vùng ven biển được công bố trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo và hội nghị trong và
ngoài nước, các báo cáo tổng kết đề tài, dự án lưu tại các Viện nghiên cứu, trung
tâm nghiên cứu, trường đại học và các cơ quan quản lý nhà nước. Một số nghiên
cứu tiêu biểu như nghiên cứu của Nguyễn Đức Cự (1996) đã sử dụng ảnh máy bay
kết hợp với khảo sát thực địa để kiểm kê, đánh giá biến động đất ngập nước ven
biển Bắc Bộ. Tô Quang Thịnh (1996) về ứng dụng công nghệ viễn thám thành lập
bản đồ nhậy cảm ven biển Việt Nam tỷ lệ 1:100000. Nguyễn Tứ Dần (2000) sử
dụng dữ liệu lịch sử kết hợp với dữ liệu vệ tinh để xác định các đê cổ và đánh giá
tiến hóa vùng cửa sông châu thổ sông Hồng. Trần Đức Thạnh (2000) sử dụng dữ
liệu vệ tinh để đánh giá tác động của khai hoang lấn biển đến tiến hóa dải ven biển
châu thổ sông Hồng. Trần Văn Điện (2003) sử dụng các bản đồ địa hình những năm
1930 và 1965 kết hợp với dữ liệu vệ tinh để đánh giá biến động bồi tụ xói lở biển
biển Bắc Bộ. Trần Đức Thạnh (2004) đã sử dụng dữ liệu viễn thám đánh giá tổng
quan tiềm năng sử dụng, quản lý đất ngập nước ven biển Hải Phòng. Trần Đức
Thạnh (2005) nghiên cứu về tác động của các đập thuỷ điện lớn trên lưu vực sông
Hồng đối với tài nguyên, môi trường vùng cửa sông và ven biển đã sử dụng ảnh vệ
tinh để lập bản đồ phân bố độ đục, các cồn cát ngầm vùng cửa sông ven biển.
Nguyễn Ngọc Thạch (2007) nghiên cứu tính nhạy cảm của các hệ sinh thái khu vực
ven biển Hải Phòng trên cơ sở ứng dụng dữ liệu viễn thám và GIS. Trương Thị Hòa
Bình (2008) sử dụng dữ liệu vệ tinh để nghiêu cứu quản lý hệ sinh thái rừng ngập
mặn Bắc Bộ phục vụ các qui hoạch phát triển và phòng chống thiên tai. Gần đây,
Nguyễn Văn Thảo (2009) đã xây dựng các bản đồ biến động bồi tụ xói lở, sử dụng
đất vùng cửa sông ven biển Bắc Bộ giai đoạn 1998 đến 2008 sử dụng dữ liệu vệ
tinh. Nguyễn Văn Thảo (2013) giám sát biến động bờ biển châu thổ sông Hồng
bằng tư liệu viễn thám. Ngoài ra còn có nghiên cứu của Trần Thị Vân và Trịnh Thị
Bình (2009) ứng dụng tư liệu viễn thám đánh giá biến động đường bờ khu vực châu
thổ sông Mê Kông. Vũ Thị Thu Thủy (2012) ứng dụng công nghệ viễn thám và GIS
nghiên cứu tai biến xói lở, bồi tụ đới ven biển Hải Phòng, v.v. Các nghiên cứu trên

đã khẳng định dữ liệu viễn thám là rất quan trong trong nghiên cứu thay đổi địa
hình vùng cửa sông ven biển bởi tính không gian rộng, chu kỳ lặp lại ngắn, thời
gian xử lý dữ liệu nhanh và đảm bảo độ chính xác so với phương pháp truyền thống.
18


• Tại vùng ven biển Quảng Ninh
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến biến động địa hình và các hệ
sinh thái tại vùng ven biển Quảng Ninh. Các nghiên cứu trước đã chỉ ra được các đặc
điểm cơ bản về điều kiện tự nhiên bao gồm địa chất, địa hình, tài nguyên khoáng sản,
khí hậu, hải văn, thủy văn, thực vật và động vật và thổ nhưỡng của vùng ven biển tỉnh
Quảng Ninh [6, 7, 20, 34, 44, 52, 55]. Tuy nhiên, đây không phải là mục tiêu chính
của các nghiên cứu này, đó chỉ là các yếu tố đầu vào để đánh giá những vấn đề cụ thể
như xói lở bồi tụ bờ biển, biến động luồng lạch, v.v. Một vài nghiên cứu đã đề cập
đến các nhân tố chính tác động đến biến đổi địa hình và các hệ sinh thái ở vùng ven
biển Quảng Ninh nhưng ở mức độ định tính, không phải là kết quả nghiên cứu chính
[47, 62, 69]. Cũng có một số kết quả nghiên cứu chỉ ra được tốc độ bồi lắng trầm tích
đối với vùng triều và đáy các vịnh Hạ Long và Bái Tư Long dưới dạng định lượng
[55]. Các nghiên cứu về địa mạo và biến đổi địa hình chỉ mang tính chất cục bộ, chưa
bao phủ hết vùng ven bờ Quảng Ninh hoặc chỉ nghiên cứu ở vùng biển ven bờ. Thêm
nữa, các nghiên cứu về địa mạo và biến đổi địa hình thường ở tỷ lệ nhỏ, không có ý
nghĩa nhiều cho quản lý tài nguyên [46, 62]. Đối với các nghiên cứu về phân bố và
biến động hệ sinh thái vùng ven biển Quảng Ninh đã cung cấp một bức tranh khá đầy
đủ về các hệ sinh thái, các nguyên nhân tác động đến các hệ sinh thái. Tuy nhiên, kết
quả các nghiên cứu này vẫn nặng về định tính, hoặc phạm vi nghiên cứu rộng do đó
các kết quả nghiên cứu chưa thuyết phục [14, 34]. Đối với vùng ven biển Quảng
Ninh, các nghiên cứu về biến động địa hình và các hệ sinh thái sử dụng công nghệ
viễn thám và GIS công bố trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo trong và ngoài nước còn
hạn chế. Nổi bật hơn cả có nghiên cứu của Nguyễn Văn Thảo (2009) về đánh giá biến
động đất ngập triều ven bờ bắc bộ giai đoạn 1998 - 2008 bằng tư liệu viễn thám trong

đó bao gồm cả vùng Quảng Ninh. Gần đây có nghiên cứu của Nguyễn Văn Thảo
(2013) về biến động các hệ sinh thái tiêu biểu vùng ven biển Quảng Ninh trên cơ sở
xử lý dữ liệu viễn thám và công cụ GIS.
Nghiên cứu biến động địa hình vùng ven biển với mục đích là đánh giá và tìm ra
đặc trưng của các dạng biến động địa hình vùng ven biển như bồi tụ xói lở bờ biển,
biến động các hệ sinh thái, thay đổi luồng lạch, xâm nhập mặn, phân bố các cồn cát
ngầm, v.v. Các nghiên cứu trước đây ở vùng ven biển Quảng Ninh chủ yếu tập trung
vào giải quyết một vấn đề cụ thể như bồi tụ - xói lở bờ biển hoặc biến động các hệ
sinh thái hoặc phân bố các đê cát cổ, biến động các bãi cát ngầm, v.v trên cơ sở sử
dụng dữ liệu viễn thám và công nghệ GIS. Vì vậy, bức tranh tổng thể về biến đổi địa
hình vùng ven biển của các nghiên cứu này chưa đầy đủ. Thêm nữa, các nghiên cứu
trước chưa lượng hóa được các thay đổi địa hình vùng ven biển do các hoạt động của
con người như đắp đập ở thượng nguồn, khai hoang lấn biển, nuôi trồng thủy sản, san
lấp mặt bằng, v.v. Đây chính những dữ liệu quan trọng để xác định các giai đoạn biến
động cũng như đặc trưng của mỗi giai đoạn làm cơ sở giúp cho các nhà hoạch định
chính sách, quản lý, sử dụng vùng đất xây dựng qui hoạch phát triển vùng, ngành và
địa phương. Mặc khác, trong nghiên cứu về bồi tụ xói lở bờ biển sử dụng dữ liệu viễn
thám, việc xác định đường bờ biển trên ảnh vệ tinh là rất khó và phức tạp đối với
19


những vùng có dao động mực triều lớn, bãi triều rộng và khá bằng phẳng. Các nghiên
cứu trước chưa tính đến mực nước lúc thu ảnh dẫn đến việc xác định đường bờ biển
còn thiếu thuyết phục. Thêm nữa, việc sử dụng các loại dữ liệu vệ tinh có độ phân
giải không gian khác nhau để phân tích biến đồng đường bờ biển phải có phương
pháp xử lý ảnh để qui về cùng một độ phân giải, có như vậy mới tăng được độ chính
xác. Tuy nhiên, điều này ít được chú trọng trong các nghiên cứu dẫn đến kết quả có
độ tin cây chưa cao.
Một hạn chế rất lớn của các nghiên cứu trước về biến động địa hình và hệ sinh
thái vùng ven biển Quảng Ninh là chưa làm rõ được đặc điểm mối quan hệ giữa địa

hình và các hệ sinh thái cũng như sự biến động địa hình trong mối quan hệ với các hệ
sinh thái, tức là chưa đánh giá được tác động của biến động địa hình đến các hệ sinh
thái và ngược lại.
1.1.2. Biến động địa hình trong mối quan hệ với hệ sinh thái
1.1.2.1. Đới bờ biển và vùng ven biển
• Quan niệm về đới bờ biển, vùng ven biển và đường bờ biển
Hiện nay có nhiều quan niệm về phạm vi không gian đới bờ biển (Coastal
zone) và vùng ven biển (Coastal land) của các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học
trong và ngoài nước, trong các văn bản hành chính quản lý. Nhìn chung, các quan
điểm đều thống nhất, đới bờ biển là vùng giao hội giữa đất liền và biển, vùng ven
biển là vùng đất tiếp giáp với biển và nằm trong đới bờ biển. Phạm vi không gian
của đới bờ biển và vùng ven biển phụ thuộc vào các mục đích nghiên cứu, quản lý
và sử dụng tài nguyên. Theo IUCN (1986) đới bờ biển là vùng ở đó đất và biển
tương tác với nhau, trong đó ranh giới về đất liền được xác định bởi giới hạn các
ảnh hưởng của biển đến đất liền và ranh giới về biển được xác định bởi giới hạn các
ảnh hưởng của đất và nước ngọt đến biển. Nguyễn Chu Hồi (2000, 2006) cho rằng
đới bờ biển là vùng giao hội của biển và đất liền. Đó là nơi các quá trình sinh thái
phụ thuộc vào sự tương tác lẫn nhau khá phức tạp giữa đất liền và biển. Đới bờ biển
bao gồm hai phần: vùng đất ven biển và vùng biển ven bờ. Phạm vi lớn nhỏ của
vùng bờ tuỳ thuộc vào nhu cầu và khả năng quản lý. Đới bờ biển là một dải tiếp
giáp giữa đất liền và biển, diện tích không lớn lắm, có bản chất độc đáo tạo nên một
phần lớp vỏ cảnh quan trái đất và là nơi xảy ra mối tương tác rất phức tạp giữa các
quyển của trái đất: thủy quyển, thạch quyển, khí quyển và sinh quyển, mà trong đó
có vai trò của con người. Trong đới bờ biển các tác động tương hỗ giữa các quyển
diễn ra quá trình địa mạo rất phức tạp và mạnh mẽ, làm biến đổi địa hình và vật chất
của thạch quyển, đây chính là quan điểm của Lê Xuân Hồng (2007). Theo nghị định
25 của Chính phủ về Quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải
đảo ban hành ngày 6/3/2009 đã chỉ rõ: “đới bờ biển là vùng chuyển tiếp giữa lục địa
và biển, bao gồm vùng biển ven bờ và vùng đất ven biển (vùng ven biển) được xác
định theo ranh giới hành chính để quản lý”.

Nhiều nhà địa mạo học quan điểm rằng đới bờ biển nằm trong miền bờ biển,
nó bao gồm 04 phụ đới là phụ đới vùng bờ cổ được nâng lên, bờ cao, bờ thấp và
20


sườn bờ ngầm. Vùng ven biển nằm trong đới bờ biển bao gồm phụ đới vùng bờ cổ
được nâng lên, bờ cao và bờ thấp (hình 1.2). Vùng bờ cổ được nâng lên được tạo ra
bởi sự nâng nên của bề mặt địa đình đã từng ngập chìm trong nước biển, bao gồm
các dạng địa hình dạng thềm tích tụ, đồi núi thấp, v.v. Bờ cao là các dạng địa hình
tích tụ trẻ như đồng bằng ven biển, cồn cát, bãi cát, v.v. Bờ thấp chính là địa hình
dạng vùng triều gồm bãi triều, vùng cửa sông, đầm lầy nước mặn, đầm phá, rừng
ngập mặn, v.v. Đây cũng chính là quan điểm của Leontyev О. К.(1961), Nguyễn
Hũu Xuân và Phan Thái Lê, (2010). Với quan điểm này thì phạm vị không gian của
đới bờ biển và vùng ven biển đã mô tả được các dạng địa hình và quá trình địa mạo
của chúng.
Đường bờ biển là ranh giới tiếp xúc giữa biển và đất liền. Đường này luôn dịch
chuyển theo sự dao động của mực nước biển theo chu kỳ ngắn (thủy triều), chu kỳ
dài (chu kỳ thiên văn) hoặc không theo chu kỳ. Trong thực tế, người ta thường lấy
đường bờ biển là mực nước triều trung bình nhiều năm. Tuy nhiên để nghiên cứu
biến động đường bờ biển cần phải xác định rõ 2 đường bờ: đường bờ trong và
đường bờ ngoài. Đường bờ trong (coastline) là ranh giới tác động cao nhất của sóng
trong năm (thường là sóng bão) với đất liền; hoặc đơn giản hơn, là đường ranh giới
giữa bờ và bãi, hoặc giữa đất và nước. Đường bờ ngoài (shoreline) là đường giao
nhau giữa mặt nước với bãi biển nằm ở vị trí mực nước cao trung bình [90].
Hình 1.2. Sơ đồ
phạm vi không gian
của vùng ven biển
theo quan điểm
Leontyev О. К.
(1961)

Nghiên
cứu
này sử dụng quan
niệm của Leontyev
О. К(1961) về
phạm vi không gian
vùng ven biển trong xác định phạm vi vùng nghiên cứu, quan niệm đường bờ biển
của Eric Bird (2008) để đánh giá biến động địa hình bờ biển.
• Đặc trưng của đới bờ biển và vùng ven biển
Đới bờ biển là một đới động lực và thường xuyên biến đổi, vì vậy nghiên cứu
đới bờ biển bắt buộc phải dựa trên các đặc thù của nó. Có như vậy các dữ liệu thu
được mới phản ánh đầy đủ bản chất tự nhiên và đặc thù tài nguyên của vùng này
để có đủ cứ liệu phù hợp phục vụ hoạch định các giải pháp sử dụng hợp lý tài
nguyên của vùng này. Đới bờ biển là một khu vực nhạy cảm với các tác động của
tự nhiên cũng như các tác động của con người tại chỗ và trên lưu vực và ngoài
21


biển. Mọi hoạt động ngoài biển cũng như trên các lưu vực trong chừng mực nhất
định đều tác động trực tiếp hay gián tiếp tới đới bờ biển. Đới này là nơi tiếp nhận
nguồn thải từ lục địa và từ biển (khoảng 75 - 90% tổng nguồn thải vào biển và đại
dương). Trong đới bờ biển có sự hiện diện đa dạng của các hệ sinh thái như rừng
ngập mặn, cỏ biển, rạn san hô, cửa sông, bãi triều, đầm phá, v.v. Chúng là các hệ
thống tự nhiên cấp nhỏ hơn đới bờ biển, có quan hệ tương hỗ lẫn nhau, một trong
các hệ bị tác động sẽ ảnh hưởng đến hệ còn lại. Đây cũng là nơi dự trữ đa dạng
sinh học, nguồn lợi sinh vật và giá trị du lịch sinh thái cho các quốc gia có biển.
Đới này chỉ chiếm khoảng 8% diện tích bề mặt trái đất nhưng cung cấp 26% tổng
sản phẩm sinh học trên trái đất, ba phần tư tổng năng suất sinh học sơ cấp có được
từ các hệ sinh thái của đới bờ biển, số ít ỏi còn lại thuộc về thềm lục địa và đại
dương rộng lớn. Ở vùng lục địa ven biển (vùng ven biển), trong phạm vi 60km

cách đường bờ biển có 60% của 5,5 tỷ người (1990) sinh sống và dự tính sẽ có
khoảng 75% trên 11 tỷ người sống ở vùng này vào năm 2100. Đồng thời nơi đây
cũng tập trung các hoạt động kinh tế đa dạng như cảng, hàng hải, du lịch - giải trí,
nghề cá, nuôi trồng thuỷ sản, nông nghiệp ven biển, công nghiệp ven biển, khai
mỏ, đô thị hoá, v.v. [20, 21, 22].
1.1.2.2. Đặc trưng địa mạo vùng ven biển
Quá trình địa mạo của một vùng lãnh thổ được chi phối bởi rất nhiều yếu tố
động lực [1, 2]. Các yếu tố động lực được phân vào hai nhóm chính là quá trình
động lực nội sinh và ngoại sinh. Quá trình địa mạo vùng ven biển cũng chịu chi
phối của 2 quá trình động lực trên. Các hoạt động tân kiến tạo và kiến tạo hiện đại
(chuyển động của các khối kiến trúc) cũng như cấu tạo địa chất (cấu trúc địa chất và
thành phần thạch học) là những yếu tố động lực nội sinh chính tham gia vào quá
trình địa mạo. Các nhân tố ngoại sinh như điều kiện khí hậu, thủy văn, hải văn, lớp
phủ sinh vật và hoạt động nhân sinh là những yếu tố động lực ngoại sinh chủ yếu
tác động lên quá trình địa mạo vùng ven biển. Các yếu tố động lực nội sinh nói
chung nếu không có những hoạt động bất thường (động đất, hoạt động của núi lửa,
trượt lở đất, sụt lún kiến tạo, v.v.) thì trong khoảng thời gian ngắn tác động của nó
lên quá trình địa mạo là không lớn. Chính vì vậy, quá trình địa mạo vùng ven biển
dưới tác động của các yếu tố động lực ngoại sinh đóng vai trò rất quan trọng. Tại
mỗi vùng ven biển khác nhau thì vai trò của mỗi yếu tố động lực ngoại sinh tác
động lên quá trình địa mạo cũng sẽ khác nhau, có những yếu tố tác động mạnh và
có những yếu tố động lực tác động yếu. Trên cơ sở quan điểm về động lực - hình
thái, quá trình địa mạo vùng ven biển do yếu tố động lực ngoại sinh tác động được
phân chia theo nhân tố động lực chiếm ưu thế: vùng có động lực sóng thống trị
(vùng Đại Lãnh - Cà Ná), vùng do sông thống trị (vùng cửa sông châu thổ sông
Hồng, sông Mê Kông), vùng do thủy triều thống trị (vùng Móng Cái - Đồ Sơn),
vùng do sinh vật thống trị (vùng Tiên Yên - Hà Cối nơi có diện tích rừng ngập mặn
nhất miền Bắc) [37, 50]. Thêm nữa các hoạt động nhân sinh ngày càng lớn như mở
rộng đô thị, phát triển cảng biển, khai thác khoáng sản, khai hoang nông nghiệp,
nuôi trồng thủy sản, v.v. cũng đóng một vai trò rất lớn đến quá trình địa mạo vùng

22


ven biển. Địa hình là sản phẩm của quá trình địa mạo, vì vậy các dạng địa hình
được hình thành và phát triển phụ thuộc vào quá trình địa mạo. Tại vùng ven biển,
các dạng địa hình được hình thành và phát triển trên cơ sở các yếu tố động lực ngoại
sinh là chủ yếu nếu không có các yếu tố động lực nội sinh đột biến. Theo đó, các
dạng địa hình vùng ven biển được phân thành các nhóm theo các yếu tố động lực
ngoại sinh (hình 1.3). Đây chính là quan điểm của nghiên cứu sinh sử dụng để
nghiên cứu đặc điểm địa mạo vùng ven biển Quảng Ninh.

Hình 1.3. Sơ đồ mô tả đặc trưng địa mạo vùng ven biển theo quan điểm động lực
ngoại sinh của quá trình địa mạo
1.1.2.3. Các hệ sinh thái vùng ven biển
Tập hợp các sinh vật, cùng với các mối quan hệ khác nhau giữa các sinh vật và
các mối tác động tương hỗ giữa chúng với môi trường, với các yếu tố vô sinh, tạo
thành một hệ thống sinh thái, gọi tắt là hệ sinh thái. Hệ sinh thái là hệ chức năng
gồm có quần xã, các cơ thể sống và môi trường của nó dưới tác động của năng
lượng mặt trời. Hệ sinh thái là một hệ thống tác động qua lại giữa thực vật, động vật
và con người với môi trường vật lý bao xung quanh chúng thể hiện qua dòng năng
lượng từ đó tạo nên chu trình vật chất [119]. Một hệ sinh thái bao gồm có 2 thành
phần chính: Thành phần vô sinh, đó là các yếu tố vật lý để tạo nguồn năng lượng
như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, dòng chảy, v.v. Các yếu tố vô cơ gồm những
nguyên tố và hợp chất hóa học cần thiết cho tổng hợp chất sống. Các chất vô cơ có
thể ở dạng khí (O2, CO2, N2), thể lỏng (nước), dạng chất khoáng (Ca, PO 43-, Fe, v.v.)
tham gia vào chu trình tuần hoàn vật chất. Các yếu tố hữu cơ gồm các chất mùn,
acid amin, protein, lipid, glucid đóng vai trò làm cầu nối giữa thành phần vô sinh và
hữu sinh, chúng là sản phẩm của quá trình trao đổi vật chất giữa 2 thành phần vô
sinh và hữu sinh của môi trường. Thành phần hữu sinh đó là các tập đoàn sinh vật
[16, 89, 125].

Theo Đỗ Công Thung (2004) vùng ven biển Việt Nam bị chia cắt bởi nhiều
kiểu sinh cảnh khác nhau đã tạo ra nhiều hệ sinh thái đặc thù của một vùng ven biển

23


nhiệt đới. Về mặt địa lý cảnh quan có thể chia vùng ven biển thành hai kiểu hệ sinh
thái lớn: lục địa ven bờ và vùng triều. Kiểu hệ sinh thái lục địa ven bờ gồm các hệ
sinh thái tiêu biểu như đồng ruộng, đô thị, rừng. Kiểu hệ sinh thái vùng triều có
rừng ngập mặn, bãi triều bùn - cát, cỏ biển, bãi cát biển, v.v.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn: Là hệ sinh thái đặc trưng cho vùng biển nhiệt đới
và cận nhiệt đới, được hình thành trên nền các thực vật vùng triều với tổ hợp động,
thực vật đặc trưng. Trong hệ sinh thái này, các động, thực vật, vi sinh vật trong đất
và môi trường tự nhiên được liên kết với nhau thông qua quá trình trao đổi chất và
đồng hóa năng lượng. Rừng ngập mặn phân bố chủ yếu trong các vùng cửa sông,
ven biển nhiệt đới và cận nhiệt đới hai bên đường Xích đạo (từ 25 0 Bắc đến 250
Nam) [18, 19]. Môi trường thuận lợi cho hệ sinh thái rừng ngập mặn phát triển là
đất ngập nước, nguồn khoáng vô cơ được bổ sung cho hệ sinh thái thông qua quá
trình trao đổi nước từ sông và biển, và quá trình phân hủy chất vô cơ do vi sinh vật
và các loài động vật. Các quần xã rừng ngập mặn có nhiều lợi ích trong hệ sinh thái
lớn hơn nơi chúng sống. Điểm nổi bật nhất là sản xuất ra một lượng lớn sinh khối
và các chất mùn bã hữu cơ làm giàu cho môi trường ven biển. Những mảnh vụn này
sẽ là nguồn thức ăn cho nhiều loài động vật. Hệ sinh thái rừng ngập mặn còn là nơi
trú ẩn và phát triển của các loài động vật trên cạn và dưới nước, là lá chắn sóng, bão
cho vùng đất liền, là “cỗ máy” lọc nước khổng lồ và có tác dụng lớn trong việc cân
bằng môi trường nước ven biển và khả năng bảo vệ nền đáy [42, 43].
Hệ sinh thái cỏ biển: thành phần chính là cỏ biển, nhóm thực vật bậc cao sống
trong môi trường nước biển và nước lợ. Cỏ biển phân bố rộng ở nhiều vùng ven
biển nhiệt đới và ôn đới ở độ sâu không lớn. nền nước nông, nước trong và không
có sóng mạnh. Cỏ biển ít gặp ở những vùng biển có năng lượng sóng mạnh đặc biệt

là trong và gần vùng biển có sóng cồn, sóng vỡ hoặc vùng cửa sông nhập lưu của
nhiều dòng sông lớn có mang theo nhiều bùn cát [42, 67, 68]. Cũng giống như hệ
sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái cỏ biển cũng tập trung phần lớn ở vùng nhiệt
đới và ôn đới. Vai trò của của quần xã cỏ biển trong hệ sinh thái ven biển là cung
cấp môi trường sống cho nhiều loài cá, động vật không xương sống và các động vật
khác, cung cấp nguồn thức ăn cho các sinh vật định cư vĩnh viễn hoặc tạm thời ở đó
[67, 68].
Hệ sinh thái bãi triều bùn- cát: Vùng triều là vùng không ngập nước một
khoảng thời gian trong ngày theo chu kỳ thủy triều, với các yếu tố tự nhiên thay đổi
do nước và không khí chi phối. Quần xã sinh vật thích nghi môi trường này và sự
liên kết giữa sinh vật và môi trường tạo nên hệ sinh thái bãi thủy triều. Bãi thuỷ
triều là vùng không có thực vật vì thuỷ triều lên xuống theo chu kỳ bao gồm nhật
triều, bán nhật triều và hỗn hợp triều. Thủy triều là yếu tố quan trọng nhất tác động
lên các sinh vật vùng triều. Vùng này có thể là bãi bùn, bùn - cát tuỳ thuộc vào kích
thước hạt trầm tích. Quần xã sinh vật đáy thường động vật đáy [42, 43].
Hệ sinh thái bãi cát biển: Hệ sinh thái này đa dạng từ bãi cuội, sỏi và cát
chiếm ưu thế với số lượng hạn chế thực vật và động vật. Năng suất sinh học của hệ
24


sinh thái này không cao do hạn chế số lượng vi sinh vật sinh sống. Đây là vùng đặc
biệt có ý nghĩa cho các loài rùa biển, nhạn biển, v.v. [42].
1.1.2.4. Quan hệ giữa địa hình và hệ sinh thái
• Vai trò của địa hình đối với hệ sinh thái
Địa hình là sản phẩm của mối tác động tương hỗ phức tạp, lâu dài giữa các
quá trình nội, ngoại sinh. Sự phát sinh, phát triển của chúng có mối liên hệ cụ thể
và chặt chẽ với đặc điểm của môi trường mà nó tồn tại. Địa hình được xem như là
một hợp phần của môi trường vốn có khả năng tự điều chỉnh, nghĩa là nó luôn có
quan hệ tương hỗ và quan hệ chi phối nhân - quả với những hợp phần khác [2]. Bề
mặt Trái Đất chính là trường hoạt động của các lực đối lập nhau, nhưng tác động

của chúng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chúng thường xuyên thay đổi và
làm cho địa hình mặt đất cũng biến đổi không ngừng: có sinh ra, phát triển và bị
mất đi, nghĩa là biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác. Ở mỗi thời điểm và
không gian cụ thể, địa hình mặt đất có một trạng thái nhất định phụ thuộc vào mối
quan hệ giữa các nhân tố động lực [2]. Nói cách khác, chúng lại là chủ thể định
hướng và chịu động lực của các quá trình ngoại sinh hiện đại. Địa hình mặt đất là
một yếu tố tự nhiên, một thực thể vật chất tồn tại khách quan và là một hợp phần
không thể thiếu của các tổng thể tự nhiên; địa hình là một thành phần quan trọng
của môi trường và là một nhân tố không thể thiếu trong các hệ sinh thái cả trên
cạn lẫn dưới nước.
Địa hình mặt đất hiện nay là kết quả tác động tương hỗ của hàng loạt nhân tố
như quá trình địa chất tạo ra độ bền vững của đất đá khác nhau đối với tác động
ngoại sinh (gió, nhiệt độ, dòng chảy, sóng), cấu trúc kiến tạo và chuyển động nâng hạ làm biến động độ cao, hình thái và phân tách địa hình. Khí hậu tạo ra chế độ
mưa, nhiệt độ, gió, v.v. tác động trực tiếp đến lớp đất đá bề mặt và làm biến
độnghình thái bề mặtđịa hình (tích tụ và xói mòn bề mặt địa hình). Chế độ thủy văn
và hải văn với động lực là lưu lượng nước bề mặt,dòng chảy, sóng, thủy triều, v.v.
tác động đến lớp trầm tích bề mặt tạo ra các lạch triều và bãi tích tụ ven biển, v.v.
Hệ sinh vật với mức độ che phủ khác nhau là nguồn cung cấp vật liệu trầm tích tại
chỗ cho bề mặt địa hình cũng như chống lại các ngoại lực tác động lên bề mặt địa
hình. Tác động của con người như làm đường giao thông, đào kênh, san lấp mặt
bằng, phá rừng, khai thác khoáng sản, v.v. làm thay đổi mạnh hình thái địa hình.
Như vậy, địa hình luôn nằm trong trạng thái cân bằng động, rất mong manh, dễ bị
thay đổi do tác động của các nhân tố trên. Về mặt môi trường, địa hình được xem
xét là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng của tự nhiên. Về mặt sinh thái,
địa hình được xem là nền tảng rắn của các hệ sinh thái quyết định sự phân bố năng
lượng và vật chất ra - vào đối với hệ [33, 34, 97].

25



×