Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Bài Tập Lớn Môn Chủ Nghĩa Mác Lênin Khủng Hoảng Kinh Tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.87 KB, 44 trang )

MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 2
NỘI DUNG .......................................................................................................................... 3
I. PHẦN LÝ THUYẾT ...................................................................................................... 3
1. Khái niệm khủng hoảng kinh tế và những quan niệm về khủng hoảng kinh tế,
khủng hoảng kinh tế thế giới ...................................................................................... 3
1.1. Thế nào là khủng hoảng kinh tế............................................................................ 3
1.2. Một số quan niệm về khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng kinh tế thế giới ..... 3
1.2.1. Quan điểm về khủng hoảng kinh tế trong hệ thống lý luận mácxit .............. 3
1.2.2. Khủng hoảng kinh tế dưới góc nhìn của các nhà kinh tế học phương Tây .. 4
1.2.3. Quan điểm hiện nay về khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng kinh tế thế giới 4
2. Các loại khủng hoảng kinh tế ..................................................................................... 7
2.1. Khủng hoảng thừa ................................................................................................. 7
2.2. Khủng hoảng thiếu ................................................................................................. 7
2.3. Khủng hoảng nợ ..................................................................................................... 7
3. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản ............................... 8
4. Bản chất và nguyên nhân của khủng kinh tế - nhìn từ học thuyết kinh tế của
C.Mác ............................................................................................................................ 9
4.1. Bản chất của khủng hoảng kinh tế dưới cách nhìn của C.Mác .......................... 9
4.2. Nguyên nhân gây ra khủng hoảng nhìn từ học thuyết kinh tế của C.Mác ......... 9
5. Hình thức biểu hiện và đặc trưng cơ bản của khủng hoảng kinh tế thế giới hiện
nay ............................................................................................................................... 10
5.1. Biểu hiện cụ thể của khủng hoảng kinh tế theo quan điểm C.Mác, V.I.Lênin 10
5.2. Dấ u hiê ̣u và biểu hiê ̣n chủ yế u của khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay ..... 12
5.3. Một số đă ̣c trưng cơ bản của khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay ............... 12
6. Hậu quả của khủng hoảng kinh tế trong thời kì chủ nghĩa tư bản ....................... 13
7. Giải pháp của C.Mác để chống khủng hoảng kinh tế ............................................ 15
II. PHÂN LIÊN HỆ THỰC TẾ ........................................................................................ 16
1. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007-2008 (Khủng hoảng Hoa Kỳ 2007-2008) .... 16
1.1. Tổng quan cuộc khủng hoảng Hoa Kỳ 2007-2008 ............................................. 17



1.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng Hoa Kỳ 2007-2008 ............................................... 17
1.3. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng ................................................................... 23
1.3.1. Nguyên nhân trực tiếp ............................................................................... 23
1.3.1.1. Tình trạng kinh doanh thua lỗ và sự sụp đổ hàng loạt theo dây
chuyền của các tổ chức tài chính hàng đầu.................................................. 23
1.3.1.2. Khủng hoàng niềm tin của người dân vào nền kinh tế .................... 24
1.3.2. Nguyên nhân sâu xa .................................................................................. 24
1.3.2.1. Sự phát triển bong bóng của thị trường bất động sản..................... 25
1.3.2.2. Chứng khoán hóa các khoản tín dụng bất động sản ....................... 26
1.3.2.3. Sự buông lỏng quản lí nhà nước và những sai lầm trong chính sách
kinh tế của nhà nước ..................................................................................... 28
1.4. Tác động của cuộc khủng hoảng 2007-2008 ...................................................... 29
1.4.1. Tác động của cuộc khủng hoảng đến Mỹ ................................................ 29
1.4.2. Tác động của cuộc khủng hoảng đến Việt Nam ...................................... 31
1.5. Biện pháp đối phó với khủng hoảng của Hoa Kỳ ............................................... 33
1.6. Bài học cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007-2008 ........ 36
1.6.1. Xây dựng hệ thống tài chính ổn định và minh bạch ............................... 36
1.6.1.1. Việc thực thi các chính sách .......................................................... 36
1.6.1.2. Củng cố niềm tin ........................................................................... 37
1.6.1.3. Nâng cao vai trò quản lý của ngân hàng trung ương ................... 38
1.6.1.4. Bài học cho các ngân hàng trong hoạt động quản lý tín dụng ..... 38
1.6.2. Hoạt động công khai ................................................................................. 39
1.6.3. Xây dựng các gói kích thích kinh tế phù hợp .......................................... 40
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
Sau nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhỏ trên thế giới trong nhiề u năm qua, đã
cho thấy mức đô ̣ nghiêm tro ̣ng và khả năng tàn phá mà nó mang la ̣i. Đứng trước những

cuô ̣c khủng hoảng đó, các quốc gia đưa ra nhiề u liê ̣u pháp và hướng thế giới tới viê ̣c cùng
nhau phối hợp để vươ ̣t qua khủng hoảng thông qua sự ra đời của các thể chế vấ n tế . Nhưng
hiện nay là các thể chế hiê ̣n hành không còn tương thić h với sự vâ ̣n hành của nề n kinh tế
toàn cầ u.
Việt Nam đã và đang tiế p tu ̣c hội nhâ ̣p sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầ u. Đứng trước
cơ hội cũng như là thách thức đó thì chúng ta phải đưa ra những phân tić h và các giải pháp
phù hơ ̣p trước các cuô ̣c khủng hoảng kinh tế .
Nhằm giúp mọi người hiể u hơn về khủng hoảng kinh tế thì nhóm chúng em sẽ phân
tích kĩ về khái niê ̣m, bản chấ t, nguyên nhân, hình thức biể u hiê ̣n, tác đô ̣ng và đồ ng thời đưa
ra những ví dụ khủng hoảng kinh tế điển hin
̣ sử để phân tić h, đưa ra những giải
̀ h trong lich
pháp phù hơ ̣p và rút ra những bài ho ̣c kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng đó.
Em xin chân thành cám ơn cô Nguyễn Thị Minh Hương đã cho em những bài giảng
đầy bổ ích để nhóm chúng em hoàn thành bài tiểu luận này. Mặc dù, chúng em đã có nhiều
cố gắng trong quá trình nghiên cứu, song do quy mô và tính chất phức tạp của vấn đề nghiên
cứu, bài tiểu luận này khó tránh khỏi còn thiếu sót. Nhóm chúng em rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp quý báu của cô để bài viết được hoàn thiện hơn.

2


NỘI DUNG
I. PHẦN LÝ THUYẾT
1. Khái niệm khủng hoảng kinh tế và những quan niệm về khủng hoảng kinh tế,
khủng hoảng kinh tế thế giới
1.1. Thế nào là khủng hoảng kinh tế
Để tìm hiểu một cách đơn giản về khủng hoảng kinh tế, chúng ta có thể sử dụng mô
hình đơn giản trong kinh tế học để thể hiện nền kinh tế.
Trong mô hình này, nền kinh tế chỉ bao gồm hai chủ thể là doanh nghiệp và hộ gia

đình. Doanh nghiệp cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho hộ gia đình và ngược lại, hộ gia đình
cung cấp cho doanh nghiệp sức lao động. Đó là vòng xoay kinh tế.
Doanh nghiệp

Hộ gia đình

Khủng hoảng kinh tế khác với tổn thất. Nếu một ngôi nhà bị sập, một kho hàng bị
cháy, đó là tổn thất. Còn đối với khủng hoảng, hàng hoá trong kho không bán được, sức lao
động cũng không bán được (tức là thất nghiệp). Do vậy, một cách đơn giản, khủng hoảng
kinh tế chính là khi vòng xoay kinh tế kia quay chậm hơn bình thường hoặc có trục trặc ở
một khâu nào đó, hay đó chính là sự suy giảm các loại hoạt động kinh tế kéo dài và trầm
trọng.
Theo C.Mác: Khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình tái sản xuất đang bị suy sụp
tạm thời.Thời gian khủng hoảng làm những xung đột giữa các giai tầng trong xã hội thêm
căng thẳng, đồng thời nó tái khởi động một quá trình tích tụ tư bản mới.
1.2. Một số quan niệm về khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng kinh tế thế giới
1.2.1. Quan điểm về khủng hoảng kinh tế trong hệ thống lý luận mácxit
Trong hệ thống lý luận mácxít, không có một chương riêng nào bàn về khủng hoảng,
ngoài những bài báo của C.Mác hay rải rác trong bộ Tư bản và một số tác phẩm khác có
thể tìm thấy nhiều điểm đề cập đến khủng hoảng V.I.Lênin cũng bàn về khủng hoảng kinh
tế trong nhiều tác phẩm.
Có thể tóm lược quan điểm của C.Mác và V.I.Lênin về khủng hoảng kinh tế như sau:

3


Khủng hoảng kinh tế có thể xảy ra ở một hay toàn bộ các khâu của quá trình tái sản
xuất. Đó là sự rối loạn trong sản xuất, lưu thông hay phân phối. Có những cuộc khủng
hoảng bộ phận xảy ra do mất cân đối trong sản xuất của một ngành nào đó, mà một trong
những hình thức là sản xuất tư bản cố định1 hay sản xuất thừa tư bản lưu động2 . Dựa trên

cơ sở lý luận giá trị và giá trị thặng dư, Mác cho rằng công nhân làm thuê luôn sản xuất ra
một lượng giá trị mà họ không thể nào mua hết được, đó chính là giá trị thặng dư. Do nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ nhằm mục đích chiếm đoạt thật nhiều lao động thặng dư bằng
cách sản xuất với quy mô lớn mà không tính đến giới hạn của thị trường. Khi khủng hoảng
bao trùm những vật phẩm buôn bán chủ yếu thì sẽ trở thành một cuộc tổng khủng hoảng,
nghĩa là sản xuất thừa ít nhiều có tính phổ biến trên toàn bộ thị trường. Một bên hàng hoá
không bán được, bên kia là những nhà tư bản phá sản và công nhân thất nghiệp chịu cảnh
thiếu thốn.
Nhưng thừa hàng hoá chứ không phải thừa sản phẩm. Thừa hàng hoá có tính chất
tương đối, thừa so với nhu cầu có khả năng thanh toán, chứ không phải thừa tuyệt đối. Xét
nhu cầu tuyệt đối thì nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng sản xuất không đủ. Giới hạn sản
xuất của chủ nghĩa tư bản là lợi nhuận cho các nhà tư bản chứ tuyệt nhiên không phải là
nhu cầu của những người sản xuất. Sản xuất thừa sản phẩm và sản xuất thừa hàng hoá – đó
là hai điều hoàn toàn khác nhau3.
1.2.2. Khủng hoảng kinh tế dưới góc nhìn của các nhà kinh tế học phương Tây
Khủng hoảng kinh tế dưới góc nhìn của các học giả phương Tây đó là thời kì tới hạn,
là một thời điểm lịch sử nguy hiểm và mong ngóng, trong đó người ta sẽ tránh được sự kêt
thúc thông qua các điều chỉnh mới, người ta đưa ra các quyết định và thực hiện các chuyển
đổi xác định sự phát triển tương lai của hệ thống cả về xã hội kinh tế và chính trị.
1.2.3. Quan điểm hiện nay về khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng kinh tế thế giới

Tư bản cố định: Tư bản cố định là bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thái giá trị của những máy móc, thiết bị, nhà
xưởng..., tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết một lần, mà chuyển từng
phần vào sản phẩm trong quá trình sản xuất.
2
Tư bản lưu động: Tư bản lưu động là một bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên, nhiên vật liệu và sức
lao động, giá trị của nó lưu thông toàn bộ cùng với sản phẩm ngay trong một quá trình sản xuất.
3
Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. (1995). Chính trị quốc gia, Hà Nội. t.26, p.II, tr.732-776
1


4


Mặc dù những nghiên cứu về khủng hoảng kinh tế còn có những khác biệt nhất định,
hoặc khác biệt về quan niệm hoặc khác biệt về các thức tiếp cận mà cụ thể là khác nhau
trong việc lý giải bản chất của các cuộc khủng hoảng này hay đánh giá những tác động kinh
tế, xã hội của chúng... nhưng dường như các kết quả nghiên cứu đều hoặc trực tiếp, hoặc
gián tiếp thừa nhận khủng hoảng kinh tế là một thực tế khách quan trong các quá trình phát
triển kinh tế. Và hiện nay, quan điểm tiếp cận này đã được áp dụng phổ biến trong các
nghiên cứu về khủng hoảng kinh tế nói chung, khủng hoảng kinh tế thế giới nói riêng. Tuy
vậy, ở Việt Nam, do trình độ phát triển kinh tế còn hạn chế và nền kinh tế Việt Nam mới
bắt đầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới và ít nhiều có cả những ảnh hưởng của yếu tố hệ
tư tưởng, nên nghiên cứu về khủng hoảng kinh tế nói chung, khủng hoảng kinh tế thế giới
nói riêng. Tuy vậy, ở Việt Nam, do trình độ phát triển kinh tế còn hạn chế và nền kinh tế
Việt Nam mới bắt đầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới và ít nhiều có cả những ảnh hưởng
của yêu tố hệ tư tưởng, nên nghiên cứu về khủng hoảng kinh tế nói chung, khủng hoảng
kinh tế thế giới nói riêng còn ít và dường như đó là một chủ đề nghên cứu có tính chuyên
biệt cao và thường được gắn với bản chất của chủ nghĩa tư bản hay thuộc tính cố hữu của
nền sản xuất tử bản chủ nghĩa.
Sau 25 năm đổi mới đất nước, cùng với tiến trình hội nhập mạnh mẽ của nền kinh tế
đất nước, đồng thời trực tếp chịu tác động từ hai cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và thế
giới trong một thập kỷ gần đây, tư duy, nhận thức của dân chúng, cũng như giới nghiên
cứu, các chính trị gia đã có nhiều thay đổi và đang dần hội nhập với nhận thức chung của
thế giới về khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng kinh tế giới.
Về cơ bản, có thể khái quát những nhận thức hiện nay về khủng hoảng kinh tế, khủng
hoảng kinh tế thế giới ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, xem xét khủng hoảng kinh tế như một hiện tượng kinh tế khách quan của
mọi quá trình phát triển, nó được hình thành, tồn tại cùng với sự vận hành của các quá trinh
kinh tế và “bùng nổ” khi nền kinh tế hoặc một khu vực kinh tế trọng yếu rơi vào trạng thái

“yếu nhất”. Do vật, khủng hoảng kinh tế là một hiện tượng kinh tế có hình thái biếu hiện
đa dạng và không nhất thiết gắn với một không gian địa lý nhất định. Các cuộc khủng hoảng
kinh tế cũng sẽ diễn ra với những mức độ khác nhau ở từng quốc gia và từng thời điểm
5


nhưng đều có thể quy về là sự biểu hiện của những dạng thức cơ bản của khủng hoảng kinh
tế như khủng hoảng cơ cấu hay khủng hoảng chu kỳ hay hỗn hợp nhiều dạng thức khủng
hoảng.
Thứ hai, khủng hoảng kinh tế theo quan điểm hiện nay được xem xét đó là sự thay
đổi các trạng thái của cùng một sự vật dẫn đến sự biến thái của nó, hay nói cách khác đó là
hệ quả tất yếu của những biến đổi trong các điều kiện phát triển kinh tế. Chẳng hạn, toàn
cầu hoá kinh tế đang được coi như là một điều kiện tiên quyết cho phát triển, đồng thời
cũng tạo ra những thách thức mới đòi hỏi sự ứng biến của các quá trình kinh tế không chỉ
ở các hành vi kinh tế mà cần cả những thay đổi về cấu trúc kinh tế .
Sự thay đổi trong nền tảng vật chất, kỹ thuật gắn cuộc cách mạng khoa học- công
nghệ mà tâm điểm là phát triển mạnh mẽ của cách mạng tin học là yếu tố đã và đang tạo ra
sự thay đổi các điều kiện của quá trình tái sản xuất cũng như hình thành những cách thức
tổ chức sản xuất mới. Do vậy, khủng hoảng kinh tế hiện nay gắn với trạng thái quá độ từ
nền kinh tế công nghiệp sang một nền kinh tế vận hành dựa trên nền tảng thông tin và tri
thức.
Thứ ba, có những quan niệm khác nhau về khủng hoảng kinh tế, theo TS.Phạm Thị
Túy. Phối hợp điều tiết kinh tế giữa các nhà nước trong khủng hoảng kinh tế. Nhà xuất bản
Chính trị Quốc Gia. Trang 16: “khủng hoảng kinh tế hiểu theo nghĩa chung nhất đó là một
thời điểm quan trọng trong tiến trình phát triển, là điểm nút làm bộc lộ những mâu thuẫn
hoặc mất cân bằng của hệ thống nhất định do sự tác động của những yếu tố nội tại cũng
như bên ngoài quy định sự phát triển của hệ thống đó”. Do vậy, theo lẽ thường khủng hoảng
kinh tế là một tất yếu kinh tế, nó hình thành và xuất hiện từ chính bản thân sự vận động của
quá trình kinh tế. Mặc dù, khi “bùng phát hay xuất hiện” nó có thể có khởi nguồn khác nhau
(từ khủng hoảng chu kỳ, cơ cấu hay chức năng..), nhưng suy đến cùng khủng hoảng kinh

tế là sự thể hiện cao nhất, tập trung nhất của những vấn đề nội tại của hệ thống kinh tế, nó
có thể là sự mất cân đối của cấu trúc kinh tế, có thể là sai lầm trong các lựa chọn chính
sách, có thể là sai lầm trong các lựa chọn đầu tư và cũng có thể là việc mất khả năng thanh
khoản của hệ thống tài chính... Kết quả là đến một thời điểm nhất định khi những bất ổn đó

6


phình đại, trở thành những “bong bóng”1, những “điểm yếu” trong nền kinh tế và khi gặp
những yêu tố kích phát thì nó sẽ bị vỡ và khủng hoảng nổ ra.
Thứ tư, ngày nay, toàn cầu hoá kinh tế trở thành xu hướng chủ đạo chi phối các quá
trình phát triển kinh tế, bởi vậy khủng hoảng kinh tế trong điều kiện toàn cầu hoá thường
là khủng hoảng kinh tế khu vực hay khủng hoảng kinh tế thế giới, điểm “bộc phát” của
khủng hoảng thường là những trung tâm kinh tế năng động xét trong tổng thể nền kinh tế
khu vực hay toàn cầu. Trong đó, nhân tố “kinh tế ảo” được coi là những căn nguyên trực
tiếp làm khủng hoảng “nổ ra”. Khi khủng hoảng kinh tế “bùng phát” thì suy giảm kinh tế
nhanh chóng lan rộng trên phạm vi toàn cầu và hệ lụy của nó là không thể dự liệu trước.
2. Các loại khủng hoảng kinh tế
2.1. Khủng hoảng thừa
Đi cùng với sự quan tâm khủng hoảng kinh tế là gì thì nhiều nhà kinh tế vẫn luôn
phân loại khủng hoảng kinh tế. Khủng hoảng thừa chính là khi mà các khu cung lớn hơn
khu cầu, số lượng hàng hoá sản xuất ra quá nhiều hơn mới nhu cầu cần dùng của con người,
các hoạt động đầu cơ2 của các “ông chủ lớn” đã làm cho giá cả bị đẩy lên mức quá cao,
mức giá bong bóng bất hợp lí. Đến một thời điểm, bong bóng bị vỡ và dẫn tới giá của các
loại hàng hoá quay trở lại sụt giảm nghiêm trọng, nhà đầu tư mất tiền, người lao động thất
nghiệp còn các doanh nghiệp bị phá sản.
2.2. Khủng hoảng thiếu
Khủng hoảng thiếu xảy ra khi nguồn cung của các sản phẩm hàng hoá bị sụt giảm
nghiêm trọng, trong khi nhu cầu cần sử dụng hàng hoá lại quá nhiều. Mà nguyên nhân dẫn
tới khủng hoảng thiếu chính là sự gia tăng dân số mạnh, thiên tại hay do sự thiếu kiệt nguồn

tài nguyên và sự hạn chế về năng lực sản xuất, công nghệ của các doanh nghiệp. Người dân
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các cuộc khủng hoảng thiếu bởi lúc này giá cả mọi mặt hàng
hoá sẽ bị đẩy lên cao một mức khó chấp nhận được.
2.3. Khủng hoảng nợ

bong bóng: Là sự gia tăng đô ̣t biế t về giá cả hoă ̣c luồ ng tiề n.
Đầu cơ: Là hành vi của 1 người, tận dụng cơ hội của thị trường đi xuống để tích lũy sản phẩm, hàng hóa và thu lợi
sau khi thị trường ổn định lại.Chủ yếu diễn ra trong ngắn hạn và thu lợi nhờ chênh lệch về giá.
1
2

7


Khủng hoảng nợ xảy ra khi các chính phủ cho các doanh nghiệp mượn quá nhiều vốn,
mà doanh nghiệp lại không có khả năng chi trả, khi đó sẽ gọi là cuộc khủng hoảng nợ, quá
trình khủng hoảng nợ này không nguy hiểm bằng khủng hoảng thiếu và khủng hoảng thừa,
bởi suy cho cùng nó chính là mối quan hệ cần giải quyết giữa chủ nợ và con nợ.
3. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản
Chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
vận động từ đầu cuộc khủng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau.
Chu kì kinh tế gồm 4 giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh
Khủng hoảng: là giai đoạn khởi điểm của chu trình kinh tế mới. Ở giai đoạn này,
hàng hoá ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất trì trệ, xí nghiệp đóng cửa, công nhân
thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Tư bản mất khả năng thanh toán các khoản nợ,
phá sản, lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Đây là giai đoạn mà các mâu thuẫn
biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.
Tiêu điều: đặc điểm ở giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái trì trệ, không còn tiếp
tục đi xuống nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hóa được đem
bán hạ giá, tư bản để rỗi nhiều vì không có nơi đầu tư. Trong giai đoạn này, để thoát khỏi

tình trạng bế tắc, các nhà tư bản còn trụ lại được tìm cách giảm chi phí bằng cách hạ thấp
tiền công, tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi mới tư bản cố định làm
cho sản xuất vẫn còn có lời trong tình hình hạ giá. Việc đổi mới tư bản cố định làm tăng
nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi chung của
nền kinh tế.
Phục hồi: là giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản xuất. Công
nhân lại được thu hút vào làm việc; mức sản xuất đạt đến quy mô cũ, vật giá tăng lên, lợi
nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên.
Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất của chu kỳ trước
đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, xí nghiệp được mở rộng và xây dựng
thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất lại vượt quá
sức mua của xã hội. Do đó, lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới.

8


Từ cuộc khủng hoảng năm 1825, sau khi nền đại công nghiệp vừa mới thoát khỏi
thời kì ấu trĩ thì sự tuần hoàn có tính chất chu kì mới bắt đầu. Tính trung bình thuở ban đầu
là 10 năm, vì thời gian sử dụng tư bản cố định tính trung bình khoảng 10 năm. Tư bản cố
định là cơ sở vật chất cho những cuộc khủng hoảng chu kỳ, vì khủng hoảng bao gờ cũng
cấu thành khối điểm cho những khoản đầu tư mới và lớn của tư bản. Do đó, đứng về toàn
thể xã hội mà xét thì khủng hoảng ít nhiều đều tạo ra một cơ sở vật chất mới cho chu kỳ
chuyển sau đó. Tiến bộ khoa học-công nghệ lại làm cho “vòng đời” của tư bản cố định bị
rút ngắn do những biến thiên không ngừng trong các tư liệu sản xuất. Phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa càng phát triển thì những biến thiên này càng xảy ra thường xuyên hơn.
Gắn với tình hình này là sự thay thế tư bản cố định sớm hơn do hao mòn vô hình, trước khi
những tư liệu sản xuất ấy sống trọn đời sống thể chất của chúng. Do đó chu kỳ khủng hoảng
được rút ngắn lại1.
4. Bản chất và nguyên nhân của khủng kinh tế - nhìn từ học thuyết kinh tế của C.Mác
4.1. Bản chất của khủng hoảng kinh tế dưới cách nhìn của C.Mác

Trong chủ nghĩa tư bản, khi nền sản xuất đã được xã hội hoá cao độ, khủng hoảng
kinh tế là điều không tránh khỏi. Từ đầu thế kỷ XIX, sự ra đời của đại công nghiệp cơ khí
đã làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa bị gián đoạn bởi những cuộc khủng hoảng
có tính chu kỳ. Hình thức đầu tiên và phổ biến trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là khủng
hoảng sản xuất "thừa".
Khi khủng hoảng nổ ra, hàng hoá không tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, nhiều
doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, thợ thuyền bị thất nghiệp, thị trường bị rối loạn. Tình trạng
thừa hàng hoá không phải là so với nhu cầu của xã hội, mà là “thừa” so với sức mua có hạn
của quần chúng lao động. Trong lúc khủng hoảng thừa đang nổ ra, hàng hoá đang bị phá
huỷ thì hàng triệu người lao động lại lâm vào tình trạng đói khổ vì họ không có khả năng
thanh toán.
4.2. Nguyên nhân gây ra khủng hoảng nhìn từ học thuyết kinh tế của C.Mác

1

Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen: Sđd, t.24, tr.277-278.

9


Theo C.Mác, nguyên nhân của khủng hoảng tư bản chủ nghĩa bắt nguồn từ chính mâu
thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Thứ nhất, đó là những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản:
-

Mâu thuẫn giữa nền sản xuất đại kế hoạch của tư bản công nghiệp và giới hạn thị
trường với sự gia nhập tự do của tư bản thương nghiệp làm giảm dần tỉ suất lợi
nhuận bình quân.

-


Mâu thuẫn giữa tính chuyên môn hoá trong lao động của nền kinh tế tư bản với cơ
cấu lao động bất hợp lí.

-

Mâu thuẫn từ việc nguồn gốc giá trị thặng dư được tạo ra từ khu vực sản xuất
nhưng bị tước đoạt quá nhiều do sự phát triển ngày càng phình to của khu vực phi
sản xuất (chứng khoán, bất động sản).

-

Mâu thuẫn do mất cân đối giữa tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng. Đầu tư và tiêu dùng
thường lớn hơn nhiều so với tiết kiệm khi tiền tệ được luân chuyển qua hệ thống
các ngân hàng đồng thời tạo nên gánh nặng lạm phát rất cao vào các thời điểm nền
kinh tế đang hưng thịnh, mở đầu cho một sự gia tăng lãi suất đột biến, dẫn đến sự
bùng nổ của khủng hoảng.

Thứ hai, đó là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất với chế
độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội:
-

Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ và
khoa học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội.

-

Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích luỹ, mở rộng không có giới hạn của tư bản với
sức mua ngày càng co hẹp của quần chúng do bị bần cùng hoá.
- Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư bản và giai cấp lao động làm thuê.


C.Mác đã mổ xẻ những nguyên nhân cốt lõi gây nên khủng hoảng kinh tế và điều đó
không chỉ chính xác với các cuộc khủng hoảng nữa cuối thế kỉ XIX, nữa đầu thế kỉ XX mà
còn có phần đúng đắn với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay.
5. Hình thức biểu hiện và đặc trưng cơ bản của khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay
5.1. Biểu hiện cụ thể của khủng hoảng kinh tế theo quan điểm C.Mác, V.I.Lênin

10


Trắ c trở trong viê ̣c mua và bán. Không bán đươ ̣c hàng hóa hoă ̣c phải bán rẻ, không
đủ tiề n thanh toán nơ ̣ đế n ha ̣n. Giá nguyên liê ̣u tăng không đủ tiề n mua, nế u không mua
đươ ̣c thì phải giảm quy mô sản xuấ t, sa thải công nhân, không tâ ̣n du ̣ng đươ ̣c công suấ t của
máy móc thiế u bi.̣
Mấ t cân đố i trong sản xuấ t. C.Mác đã phát hiê ̣n những quan hê ̣ tỷ lê ̣ cân đố i giữa các
bô ̣ phâ ̣n tổ ng sản phẩ m hàng năm dành cho tái sản xuấ t ra tư bản và cho tiêu dùng cá nhân.
Nế u mô ̣t nước không tự bảo đảm đươ ̣c những tỷ lê ̣ cân đố i đó thì sẽ lâm vào khủng hoảng.
Ngoại thương có thể tạm thời góp phần giải quyết những mất cân đối đó, nhưng ngoại
thương chỉ đẩy mâu thuẫn ra một trường rộng rãi hơn, chứ không giải quyết được mâu
thuẫn, khiến cho khủng hoảng mang tính chất toàn thế giới.
Rố i loạn hê ̣ thố ng tín dụng. Trong chế đô ̣ sản xuấ t mà tấ t cả những mố i liên hê ̣ của
quá trình tái sản xuấ t đề u dựa trên tín du ̣ng, nế u đô ̣t nhiên tiń du ̣ng bi đi
̣ ̀nh chỉ và chỉ những
thanh toán bằ ng tiề n mă ̣t mới có hiê ̣u lực thôi, thì thế nào cũng xảy ra khủng hoảng và tin
̀ h
tra ̣ng xô đẩ y nhau cha ̣y theo các phương tiê ̣n thanh toán.
Vi phạm quy luật về lưu thông tiề n tê ̣. Phát hành giấ y bă ̣c vươ ̣t quá số lươ ̣ng tiề n tê ̣
cầ n thiế t trong lưu thông sẽ gấ y ra la ̣m phát. Nhưng phát hành giấ y ba ̣c không đủ cũng gây
ra khủng hoảng.
Mấ t cân đố i giữa sản xuấ t và nhu cầ u khả năng thanh toán. Do hê ̣ thố ng tiń du ̣ng và

ngoa ̣i thương mở rô ̣ng do đầ u cơ... đã ta ̣o ra những nhu cầ u giả ta ̣o vươ ̣t qua nhu cầ u khả
năng thanh toán thực sự, khiế n cho quy mô sản xuấ t mở rô ̣ng quá mức dẫn tới sản xuấ t thừa
thêm trầ m tro ̣ng. Hơn nữa lươ ̣ng cầ u bên phiá công nhân không đủ, bởi vì lơ ̣i nhuâ ̣n tồ n ta ̣i
đươ ̣c chính vì lươ ̣ng cầ u mà công nhân có thể đưa ra la ̣i ít hơn giá tri ̣sản phẩ m của ho ̣, và
lơ ̣i nhuâ ̣n sẽ càng lớn nế u lươ ̣ng cầ u đó càng it́ đi mô ̣t cách tương đố i. Sự tiêu dùng của
quầ n chúng nhân dân không tăng lên mô ̣t cách tương ứng với sự tăng lên năng suấ t lao
động.
Xây dựng nhà ở không theo đơn đặt hàng mà chạy theo thi ̣ trường và mang tính chấ t
đầ u cơ. Nhà thầ u khoán vay ngân hàng cầ m cố bấ t đô ̣ng sản. Ngân hàng chỉ giải ngân dầ n
dầ n theo tiế n đô ̣ xây dựng. Nế u có tru ̣c tră ̣c, nhà thầ u khoán không trả đươ ̣c nơ ̣ đúng kỳ ha ̣n
sẽ bi ̣đin
̀ h chỉ vay. Nế u phải bán nhà theo giá rẻ để thanh toán thì sẽ lỗ, thâ ̣m chí phá sản.
11


Những chứng khoán không đại biể u cho tư bản thực tế , không có đảm bảo ngày càng
được phát hành nhiề u hơn. C.Mác đã dẫn ra những tư liê ̣u về những khoản tiń du ̣ng giả
đươ ̣c ta ̣o ra bằ ng phương pháp có tin
́ h có tiń h chấ t kỹ thuâ ̣t. Ví du ̣, Ngân hàng điạ phương
sau khi chiế t khấ u kỳ phiế u la ̣i đưa cho Billbroker (người môi giới chứng khoán) đem đi
chiế t khấ u la ̣i ở thi ̣ trường Luân Đôn. Viê ̣c này chỉ hoàn toàn dựa vào khả năng tín du ̣ng
của ngân hàng, không kể gì đế n phẩ m chấ t khác của kì phiế u. La ̣i cô ̣ng thêm những trường
hơ ̣p đầ u cơ chứng khoáng nữa.
5.2. Dấ u hiê ̣u và biể u hiê ̣n chủ yế u của khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay
Dấ u hiê ̣u cơ bản nhấ t báo hiê ̣u nguy cơ khủng hoảng kinh tế là sự xuất hiện các “bong
bóng” kinh tế . Biể u hiê ̣n dễ nhận thấ y của những “bong bóng” kinh tế là sự gia tăng giá
mô ̣t cách bấ t thường của mô ̣t số loa ̣i hàng hóa, nhấ t là những loa ̣i hàng hóa đă ̣c biê ̣t như là
tiề n tê ̣, bấ t đô ̣ng sản và chứng khoán. Từ sự tăng giá đô ̣t biế n kéo theo những thay đổ i trong
hành vi kinh tế , trong đó “đầ u cơ” trở thành hành vi “thời thươ ̣ng” đem la ̣i sự giàu có mô ̣t
cách nhanh chóng, đồ ng thời nó cũng là nhân tố làm lũng đoa ̣n sự vâ ̣n hành của nề n kinh

tế , bấ t ổ n kinh tế trở nên ngày càng rõ nét hơn và đế n mô ̣t thời điể m nào đó bong bóng sẽ
vỡ khi đó sẽ xảy ra hàng loa ̣t những su ̣p đổ có tin
́ h chấ t dây chuyề n và kinh tế bước vào
những thăng trầ m khó sự báo trước. Trước hế t, đó là sự giảm sút nghiêm tro ̣ng trên các thi ̣
trường chứng khoán, giá các cổ phiế u sẽ “tu ̣t dố c” thê thảm, tiế p đế n là viê ̣c mấ t giá trầ m
tro ̣ng của các đồ ng tiề n trên thi ̣trường ngoa ̣i hố i.
Hầ u hế t các ngân hàng sẽ bi ̣ thua lỗ, điề u này ảnh hưởng tới toàn bô ̣ hoă ̣c phầ n lớn
các ngân hàng và tổ chức tài chiń h trong từng quố c gia, khu vực và thế giới. Thiê ̣t ha ̣i do
tác đô ̣ng của khủng hoảng kinh tế trong khố i ngân hàng rấ t nă ̣ng nề khoản lỗ của các ngân
hàng thuô ̣c mỗi nước ảnh hưởng tới GDP, đồ ng thời những thua lỗ này tác đô ̣ng đế n các
hoa ̣t đô ̣ng sản xuấ t, kinh doanh dẫn tới kìm ham
̃ tỷ lê ̣ tăng trưởng kinh tế quố c gia, phá
sản, giảm viê ̣c làm, thấ t nghiê ̣p gia tăng và đời số ng người dân trở nên khó khăn hơn trong
khủng hoảng, tâm lý lo lắng, hoảng loạn ẩn hiện trong đời sống xã hội.
5.3. Một số đă ̣c trưng cơ bản của khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay

12


Thứ nhấ t, khủng hoảng kinh tế thế giới thường gắ n với những biế n đổ i sâu sắ c trong
liñ h vực ta ̣i chính tiề n tê ̣, các cuô ̣c khủng hoảng kinh tế thế giới mang tiń h quố c tế cả về
những nguyên nhân, các tác đô ̣ng lẫn những nỗ lực nhằ m vươ ̣t qua khủng hoảng.
Thứ hai, khủng hoảng kinh tế thế giới thường khởi phát bởi các “bong bóng” kinh tế ,
trong đó “bong bóng” bấ t đô ̣ng sản, chứng khoán là những điể m khởi phát chủ yế u. Nên
khủng hoảng kinh tế thế giới cũng sẽ đươ ̣c khắ c phu ̣c chủ yế u nhờ những giải pháp nhằ m
lành ma ̣nh hóa và hoàn thiê ̣n hê ̣ thố ng tài chính tiề n tê ̣ của những khu vực, trong tổ ng thể
nề n kinh tế trong ngắ n ha ̣n và cấ u trúc la ̣i thể chế kinh tế tài chin
́ h mô ̣t cách tổ ng thể trong
dài ha ̣n.
Thứ ba, khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra theo tiń h chấ t làn sóng, lan tỏa từng đơ ̣t

đuổ i bắ t nhau, sau đó ảnh hưởng chế đinh
̣ lẫn nhau như “hiê ̣u ứng Đôminô” và bắ t đầ u từ
những chấ n đô ̣ng ta ̣i các nước, khu vực kinh tế đươ ̣c coi là “trung tâm nha ̣y cảm”, nhưng
sẽ không cố đinh.
̣ Xu hướng khủng hoảng sẽ dich
̣ chuyể n nhanh chóng từ trung tâm kinh
tế này sang trung tâm kinh tế khác và càng về sau càng phát tán những mầ m mố ng lây
nhiễm rô ̣ng và sâu hơn, đe do ̣a kéo theo những tổ n thấ t và đòi hỏi những phố i hơ ̣p quố c tế
rô ̣ng lớn và ma ̣nh mẽ hơn, tố n kém hơn với thời gian khắ n phu ̣c dài hơn.
6. Hậu quả của khủng hoảng kinh tế trong thời kì chủ nghĩa tư bản
Hậu quả luôn được nhắc đến đầu tiên có thể tận mắt nhìn thấy được và không thể
thiếu trong bất cứ cuộc khủng hoảng nào; đó là việc phá hoại lực lượng sản xuất và làm rối
loạn lĩnh vực lưu thông.
Mỗi khi khủng hoảng kinh tế đi qua người ta lại đưa ra con số thống kê kinh hoàng
về sức tàn phá của nó. Khủng hoảng năm 1929-1933 là một ví dụ rõ nét mà mỗi lần nhắc
lại người ta còn thấy sợ: 13 vạn công ty phá sản, sản lượng thép sụt 79,4%, sản lượng ôtô
sụt 80% .Trong khi nhân dân lao động đang thiếu thốn ,nghèo đói, các chủ tư bản đã phá
huỷ một khối lượng khổng lồ các phương tiện sản xuất và hàng hoá tiêu dùng. Năm 1931,
ở Mĩ người ta đã phá huỷ những lò cao có thể sản xuất ra 1 triệu tấn thép trong 1 năm ,đánh
đắm 124 tàu biển (trọng tải 1 triệu tấn), phá bỏ ¼ tổng diện tích trồng bông, giết và không
sử dụng 6,4 triệu con lợn. Còn ở Brazin năm 1933: 22 triệu bao cà phê bị liệng xuống biển
và ở Xâylan gần 100 triệu kg chè bị đốt, … (số liệu sách lịch sử 11-NXB Giáo Dục)
13


Không chỉ vậy, cuộc sống của người lao động càng thêm khó khăn. Sau 7 năm tính
từ cuộc khủng hoảng 1929-1933 mà tỷ lệ thất nghiệp của Mĩ vẫn ở mức14,6%,mấy năm kế
tiếp tuy có giảm nhưng vẫn còn ở mức rất cao. Mặt khác, khủng hoảng kinh tế đã gây ra
nạn lạm phát. Khủng hoảng 1974-1975 và khủng hoảng 1980-1982 làm cho khu vực Tây
Âu phải đối đầu với tỷ lệ lạm phát ở mức 2 con số. Tỷ lệ lạm phát ở Tây Đức tuy thấp

nhưng cũng là từ 2,6 (năm 1960) lên 6,5 (1974-1975); Pháp từ 4,1 lên 12,7; Anh từ 4 lên
20,1; Italia từ 3,9 lên 181
Hậu quả thứ 2 mà khủng hoảng kinh tế gây ra là đẩy nhanh tích tụ và tập trung tư
bản là điều kiện để dẫn tới độc quyền. Khủng hoảng cùng với sự phá sản của các nhà tư
bản nhỏ là sự lớn mạnh của các công ty khổng lồ.Với khả năng tài chính vững vàng và cánh
tay quyền lực vươn xa các nhà tư bản lớn đã kiếm được nhiều món lợi trong thời kỳ này.
Việc phá sản và việc sát nhập các liên doanh, tập đoàn, công ty đã làm cho sự tập trung tư
bản ngày càng cao. Nếu như trước khủng hoảng 1929-1933 Mĩ chỉ có 49 xí nghiệp có quy
mô từ 1 vạn người trở lên thì sau khủng hoảng con số này lên tới 343. Cũng ở Mĩ, đầu thế
kỉ 20 chỉ có một công ty có số vốn 1 tỷ USD thì đến đầu 1950 là 2 công ty; năm 1974 có
24 trong 49 công ty quốc tế có số vốn 5 tỷ. Lợi nhuận của 500 tổ chức siêu độc quyền của
Mĩ năm 1972 là 27,8 tỷ USD, năm 1973 là 38,7 tỷ USD còn năm 1974 là năm khủng hoảng
thì đã lên đến 43,6 tỷ USD. Tỷ suất lợi nhuận của 12 công ty “toàn cầu” của Mĩ tăng từ
11% năm 1970 sau khủng hoảng là 41% ( năm 1975)2
Tuy nhiên cùng với quá trình tích tụ và tập trung tư bản là việc gia tăng khoảng cách
giàu nghèo ngày càng lớn và mâu thuẫn giữa tư bản và người lao động ngày một tăng. Đó
là hậu quả thứ 3 của khủng hoảng .Một khi mà tư liệu xản xuất tập trung hết vào tay các
ông chủ tư bản thì việc bóc lột và bần cùng hoá công nhân càng diễn ra ráo riết hơn, mạnh
mẽ hơn. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ thì 75% GDP toàn cầu nằm trong tay 20% dân
số thuộc nhóm giàu còn 20% dân số thuộc nhóm nghèo chỉ chiếm 1,5% GDP3 toàn cầu.

1

EH.net (2008). The American Economy during World War II. Truy cập từ />2
EH.net (2008). The American Economy during World War II. Truy cập từ />3
GDP (Gross Domestic Product): tổng sản phẩm nội địa.

14



Hiện nay con số đó còn có thể lớn hơn. Trong khi có hàng nghìn người đang chịu cảnh đói
rét thì các ông chủ tư bản lại có thể chi cho những khoản ăn chơi tốn kém không có mục
đích với chi phí lên đến hàng triệu đôla. Trên thực tế ở các nước tư bản lớn cho thấy trung
bình một ngày tư bản có thể kiếm được trên dưới 1 triệu đô thì công nhân nghèo chỉ có thể
kiếm được xấp xỉ 2 đôla. Khoảng chênh lệch quá lớn ấy dường như không thể xoá và nó
cũng tạo điều kiện mạnh mẽ cho hậu quả cuối cùng của các cuộc khủng hoảng diễn ra nhanh
chóng hơn.
Hậu quả cuối cùng của khủng hoảng là làm cho mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư
bản ngày càng gay gắt hơn. Trong khi lực lượng sản xuất ngày càng mang tính xã hội thì
quan hệ sản xuất vẫn không thay đổi ,vẫn là quan hệ chiếm hữu tư liệu sản xuất. Khi khủng
hoảng xảy ra đông đảo quần chúng nhân dân lao động càng điêu đứng , càng có ý thức đấu
tranh để thoát khỏi nghèo khổ và đó là việc tiêu diệt chế độ tư bản. Còn giai cấp tư bản và
nhà nước tư bản thì lại bất lực trước những tai hoạ do mình tạo ra. Vì vậy khủng hoảng làm
cho đấu tranh giai cấp diễn ra mạnh mẽ hơn. Mặt khác, khủng hoảng đem lại sự tập trung
tư liệu sản xuất vào tay tư bản càng cao nên càng tăng thêm sự đối lập lợi ích. Chủ nghĩa
tư bản có càng nhiều thì quần chúng càng có ít, càng làm nên sự chênh lệch to lớn trong xã
hội.
Bởi vậy, khủng hoảng và hậu quả của nó luôn là mối lo của các nhà tư bản nhưng
mặt khác chính nó lại là cái mốc thúc đấy cho sự phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
tư bản. Điều đó nghe có vẻ vô lý nhưng thực tế đa chứng minh ở các nước tư bản lớn. Sau
khủng hoảng 1978-1980 Mĩ liên tục tăng trưởng bình quân 3%, năng suất lao động tăng
2,5%. Năm 1993 Mĩ đã tăng mức đầu tư nước ngoài lên 130 tỷ USD gấp 2 lần năm 1992,
gấp 10 lần năm 1980.Hiện tại Mĩ đầu tư nước ngoài 100 tỷ USD/năm, thu hút FDI1 lớn nhất
thế giới 70 đến 80 tỷ USD/ năm.
7. Giải pháp của C.Mác để chống khủng hoảng kinh tế
Theo C.Mác, để chống khủng hoảng kinh tế và tác động xấu của tính chu kỳ trong
khủng hoảng, ta cần kéo dài thời gian phục hồi, hưng thịnh và rút ngắn thời gian khủng

1


FDI (Foreign Direct Investment): Đầu tư trực tiếp nước ngoài.

15


hoảng, tiêu điều trong một chu kỳ kinh tế. Trong luận thuyết đó, C.Mác đã đề ra những biện
pháp chống khủng hoảng kinh tế chủ yếu sau:
Hạn chế và cố gắng triệt tiêu những mâu thuẫn sẵn có và mâu thuẫn mới phát sinh
trong hệ thống tư bản chủ nghĩa. Việc giải quyết thoả đáng được các mâu thuẫn có thể giúp
ngăn chặn khủng hoảng kinh tế và giảm trừ được thiệt hại to lớn một khi khủng hoảng kinh
tế xảy ra.
Khi xảy ra khủng hoảng, các nhà tư bản phải giảm chi phí sản xuất bằng cách hạ
thấp tiền công, tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân đồng thời đổi mới tư
bản cố định (máy móc, thiết bị...). Từ đó làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi chung của nền kinh tế.
Nhà nước cần có tác động trong việc xây dựng một hệ thống ngân hàng thống nhất,
đảm bảo mức cung ứng tiền tệ ổn định trong nền kinh tế, đảm bảo mức lãi suất chênh lệch
trong các ngành có tỉ suất lợi nhuận khác nhau.
Giảm thuế và hạ lãi suất cho vay để kích cầu nền kinh tế từ đó giảm được khó khăn
về tài chính cho các doanh nhiệp và người lao động.
Các nhà tư bản cần phải kết hợp quá trình đào tạo qua sự phát triển của lực lượng
sản xuất với khoa học kĩ thuật để đảm bảo cho cơ cấu lao động ở mức hợp lý, phù hợp với
điều kiện sản xuất của từng quốc gia nhưng không bị chi phối bởi giới hạn thị trường.
Cân bằng hợp lí giữa cung và cầu trên thị trường. Qua đó, thúc đẩy nền kinh tế phát
triển ổn định và tránh khỏi những biến động lớn.
Các tập đoàn, công ty lớn phải được đặt dưới sự bảo trợ của nhà nước, hay nói cách
khác là quốc hữu hoá một phần nền kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa. Từ đó nâng cao sự
hiệu quả trong tổ chức quản lý và hạn chế được nhiều rủi ro trong hoạt động.
Các biện pháp chống khủng hoảng và suy giảm kinh tế của C.Mác là rất thiết thực
và mang tính vận dụng cao. Chúng có thể phát huy hiệu quả cao nếu được áp dụng hợp lí

trong từng điều kiện cụ thể. Những tư tưởng của C.Mác mang cả tính thời đại lẫn tính tiên
tri, điều đó tạo nên giá trị của học thuyết C.Mác.
II. PHÂN LIÊN HỆ THỰC TẾ
1. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007-2008 (Khủng hoảng Hoa Kỳ 2007-2008)
16


Khủng hoảng kinh tế năm 2007-2008 là cuộc khủng hoảng tài chính với quy mô toàn
cầu, bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ1 sau đó nhanh chóng lan rộng ra các
nước châu Âu và kéo nền kinh tế toàn cầu đi xuống. Hàng loạt ngân hàng tuyên bố phá sản,
bị mua lại hoặc bị kiểm soát đặc biệt. Thế giới thực sự bị chao đảo, nghiêng ngả bởi làn
sóng sụp đổ của các nhà băng.
1.1. Tổng quan cuộc khủng hoảng Hoa Kỳ 2007-2008
Năm 2001, nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái sau cuộc khủng hoảng dotcom, thêm vào
đó là việc nước Mỹ lao vào cuộc chiến chống Alghanistan và Irak sau khủng bộ ngày 11
tháng 9, để khuyến khích dân chúng tiêu thụ, ngân hàng trung ương đã hạ lãi suất: từ năm
2003 đến năm 2005, ngân hàng trung ương giảm lãi suất chỉ đạo từ 6% xuống còn 1%. Kết
quả là với lãi suất quá thấp, đầu tư và tiêu thụ trở nên quá dễ dàng, thị trường tài chính của
Mỹ tăng nhanh trở lại và tạo nên “bong bóng bất động sản”. Đến giữa năm 2006, ngân hàng
trung ương đã tăng lãi suất để đề phòng lạm phát, khiến cho bong bóng đầu tư, đầu cơ địa
ốc bị vỡ vì nhiều người vay tiền quá khả năng thanh toán, trả tiền nhà không nổi, nhà bị
tịch biển. Bắt đầu từ thị trường nhà đất, cuộc khủng hoảng đã nhanh chóng lan ra toàn bộ
hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ.
1.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng Hoa Kỳ 2007-2008
Cùng điểm lại những mốc sự kiện chính trong chuỗi này để thấy khủng hoảng tại Mỹ
đã diễn ra như thế nào:
Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona, California, Florida, Hawaii, và Nevada
tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất động sản
tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi suất tăng từ

1% lên đến 5,35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh giá thấp thị trường.2

Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ: là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực tài chính (tín dụng, bảo hiểm, chứng
khoán) diễn ra từ năm 2007-2009. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp.
2
Les Christie (30/04/2007). Homes: Big drop in speculation. Truy cập từ
/>1

17


Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất động
sản, dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể. Chỉ số xây dựng nhà ở tại Mỹ hồi giữa tháng
08 giảm hơn 40% so với một năm trước đó.
Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính cao
nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho vay
dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bị tịch thu để thế chấp nợ,
tăng 75% từ năm 2006.1
Ngày 05/02/2007: Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15 trong số các
nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3,3 tỷ đô la thời điểm quý 3 năm
2006, tuyên bố phá sản.
Ngày 02/04/2007: New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ, tuyên
bố phá sản.
Tháng 08/2007: Một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century Financial
Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình trạng cổ phiếu của
mình mất giá mạnh như Countrywide Financial Corporation. Nhiều người gửi tiền ở các tổ
chức tín dụng này đã lo sợ và đến rút tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút tiền gửi khiến cho
các tổ chức đó càng thêm khó khăn. Nguy cơ khan hiếm tín dụng hình thành. Cuộc khủng
hoảng tài chính thực thụ chính thức nổ ra.
Tháng 07- 09/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại châu Âu

chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ.
Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ.
Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây
để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay thế chấp Northern Rock ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh.2

1

RealtyTrac Staff (02/11/2010). U.s. foreclosure activity increases 75 percent in 2007. Truy cập từ
/>2
Nguyễn Minh (18/02/2008). Anh quốc hữu hóa ngân hàng lâm nạn. Truy cập từ />
18


Ngày 15/10/2007: Citigroup-Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi
nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ
USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11.
Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là
Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi
tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70%
tại các giao dịch ở Sydney.
Ngày 11/1/2008: Bank of America-Ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn
hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial1 sau khi ngân hàng
cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn.
Ngày 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự phòng 4 tỷ
USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát liên quan
đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố.
Ngày 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.2
Ngày 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân
của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ Euro.
Ngày 16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP Morgan

Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu.
Ngày 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong 5 năm công bố một khoản thua lỗ
trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các
chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản.

1

David Ellis (11/01/2008.). Countrywide rescue: $4 billion . Truy cập từ
/>2
BBC News (17/02/2008). Northern Rock to be nationalized. Truy cập từ
/>
19


Ngày 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac
Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi
những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.
Ngày 31/7/2008: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ
USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một
trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu.
Ngày 7/9/2008: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát
hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường
nhà đất Mỹ.
Ngày 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại
chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
Ngày 14/9/2008: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cổ
phần sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers.
Ngày 15/9/2008: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa
trở lại sau vụ khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào tháng 09/2001. Lehman Brothers sụp đổ
đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ1; Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm;

American International Group - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh
toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố.
Ngày 16/9/2008: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào
các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng
của hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG2 giảm gần một nửa. Fed3 công bố kế hoạch
bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại
một phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD.

Thanh Phương (16/09/2008). Ngân hàng lớn thứ 4 của Mỹ phá sản. Truy cập từ />2
AIG: tên viết tắt của American International Group, một công ty bảo hiểm lớn của Mỹ.
3
Fed: Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ
1

20


Ngày 17/9/2008: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh; Tập
đoàn Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán Mỹ kiềm chế tình
trạng bán khống.
Ngày 19/9/2008: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế
hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh sạch
hệ thống tài chính.
Ngày 20-21/9/2008: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. hai ngân
hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa
năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall1.
Ngày 22/9/2008: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm
hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và
Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley.
Ngày 23/9/2008: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs2; Cục

điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi ngờ có sự
gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ.
Ngày 25/9/2008: Washington Mutual Inc.(WaMu), một trong những ngân hàng lớn
nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan
Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaMu và sau đó bán các
tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá 1,9 tỷ
USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong
lịch sử Mỹ. Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc hội đã
đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.

Phố Wall: theo thời gian, tên gọi này đã trở thành đồng nghĩa cho thị trường tài chính của Hoa Kỳ nói chung. Wall
Street cũng là cách nói tắt để đề cập đến các tầm quan trọng tài chính có ảnh hưởng của ngành tài chính Mỹ, tập
trung ở khu vực thành phố New York.
2
Kiều Oanh (24/09/2008). Tỷ phú Buffett đầu tư 5 tỷ USD vào Goldman Sachs. Truy cập từ
/>1

21


Ngày 29/9/2008: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài
chính Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt
giảm gần 780 điểm- mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay.
Ngày 1/10/2008: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ
74:25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu nhập
cho doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức
bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000
USD…
Ngày 3/10/2008: Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu lần thứ hai và thông qua và thuyết phục
nhau,Tổng thống Mỹ đặt bút ký dự luật giải cứu với tỷ lệ phiếu 262-171. Không đầy 2 giờ

sau đó, cuộc họp thượng đỉnh khẩn cấp để chính thức chuyển kế hoạch thành đạo luật.
Ngày 4/10/2008: Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã triệu tập cuộc họp thượng đỉnh
khẩn cấp với lãnh đạo 4 nước lớn nhất trong Liên minh Châu Âu là Anh, Pháp, Đức và Ý.
Phiên họp kết thúc với tuyên bố hợp tác xử lý khủng hoảng, nhưng không thống nhất được
một gói giải pháp tổng thể theo mô hình của Mỹ.
Ngày 5/10/2008: Mặc dù Thủ tướng Đức Angela Merkel đã chỉ trích quyết định của
Ireland tuần trước về bảo hiểm toàn bộ các tài khoản ngân hàng tại Ireland, ngày Chủ nhật
5/10 Bộ trưởng Tài chính Đức đã thông báo tất cả các tài khoản tiền gửi ngân hàng tại Đức
sẽ được bảo hiểm không có giới hạn.
Ngày 6/10/2008: Trong đêm Chủ nhật 5/10, ngân hàng BNP Paribas SA của Pháp gửi
email thông báo đã thỏa thuận chi 14,5 tỷ Euro (tương đương 19,8 tỷ USD) để mua lại ngân
hàng Fortis, trong đó có 9 tỷ Euro bằng cổ phiếu và 5,5 tỷ Euro bằng tiền mặt. BNP sẽ sở
hữu 75% Fortis tại Bỉ, 67% Fortis tại Luxembourg, và toàn bộ mảng bảo hiểm của Fortis
tại Bỉ.
Ngày 8/10/2008: Trong một nỗ lực phối hợp chưa từng có tiền lệ, Cục dự trữ liên bang
Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 4 ngân hàng trung ương các nước

22


khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất nhằm giảm ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc khủng
hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930.1
Ngày 10/10/2008: Tập đoàn bảo hiểm có lịch sử hoạt động 98 năm tại Nhật là Yamato
Life Insurance Co. chính thức đệ đơn xin được bảo hộ phá sản do các khoản nợ đã vượt tài
sàn 11,5 tỷ yen (tương đương 116 triệu USD). Đây được coi là mốc đánh dấu cuộc khủng
hoảng đã lan sang châu Á.
Ngày 13/10/2008: Giải Nobel Kinh tế 2008 được công bố thuộc về Giáo sư Paul
Krugman. Ngoài thành tích xây dựng mô hình ứng dụng thương mại toàn cầu, ông cũng là
người chỉ trích kịch liệt Chính phủ của Tổng thống Bush và là người vạch ra những hiểm
họa của tự do thị trường thiếu sự giám sát của Chính phủ.

Ngày 14/10/2008: Chính phủ Mỹ công bố dành 250 tỉ USD trong gói giải cứu 700 tỉ
USD để rót vào các ngân hàng lớn, đổi lại sẽ nhận được cổ phiếu ưu đãi của các ngân hàng
này. Đây là bước thay đổi lớn trong chiến lược giải cứu, vì trong kế hoạch ban đầu Chính
phủ vẫn hướng đến giải pháp mua lại nợ xấu ngân hàng, không mua cổ phần.
1.3. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng
1.3.1. Nguyên nhân trực tiếp
1.3.1.1. Tình trạng kinh doanh thua lỗ và sự sụp đổ hàng loạt theo dây chuyền của các tổ
chức tài chính hàng đầu.
Khi nền kinh tế bước vào thời kì suy thoái, kinh tế khó khăn, giá bất động sản giảm
mạnh, người đi vay đã không có khả năng trả được nợ lại cũng rất khó bán bất động sản để
trả nợ. Như vậy, các tổ chức tín dụng cho vay phải đối mặt với nguy cơ mất vốn. Thêm vào
đó, việc các hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm cho các chứng khoán MBS
là nợ khó đòi dẫn đến các chứng khoán MBS mất giá trị trên thị trường, khiến cho cá ngân
hàng, các nhà đầu tư nắm giữ những chứng khoán này không những bị lỗ mà còn dần rơi
vào tình trạng khó khăn về tính thanh khoản. Đến một mức độ nhất định, các tổ chức tài

Hà Linh (08/10/2008). Các ngân hàng trung ương Âu, Mỹ đồng loạt giảm lãi suất. Truy cập từ
/>1

23


chính không còn chịu đựng được sức ép của tính thanh khoản và các khoản thua lỗ, nên đã
buộc tìm sự cứu trợ từ tất cả các nguồn và thậm chí là đệ đơn phá sản. Do sự liên quan, đầu
tư qua lại thông qua hình thức chứng khoán hóa đã dẫn đến tình trạng sụp đổ có hệ thống.
Đồng thời, các tổ chức tài chính và các công ty bảo hiểm phải hoàn trả tiền bảo hiểm
theo các hợp đồng bảo hiểm tiền gửi và tiền vay (CDS) do các tổ chức này bán ra. Ước tính
nước mỹ có khoảng 35000 tỷ USD tiền bảo hiểm và toàn thế giới là khoảng 54600 tỷ USD
(theo ước tính của “International Swap and Derivatives association”). Tập đoàn tài chính
hàng đầu thế giới AIG bị đổ vỡ, một phần là do đầu tư vào MBS và phần lớn là các hợp

đồng CDS. Nếu không có sự giải cứu kịp thời đối với thị trường tài chính Mỹ thì các hợp
đồng CDS sẽ tàn phá các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác.
Chỉ tính đến tháng 07/2008, các tổ chức tài chính đã báo cáo mất vốn trên 435 tỷ USD.
Hơn nữa không một ai có thể chắc về giá trị đích thực của các khoản đầu tư tài chính – bất
động sản được ước tính là hàng ngàn tỷ đô la vẫn còn nằm trên sổ sách của các tập đoàn tài
chính – ngân hàng.1
1.3.1.2. Khủng hoàng niềm tin của người dân vào nền kinh tế
Một nguyên nhân cơ bản dẫn đến khủng hoảng là những yêu cầu của pháp luật về sự
minh bạch hóa và năng lực kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước đã không bắt kịp
với những biến đổi sâu rộng của thị trường.
Ngay từ đầu, giới chức trách và ngân hàng Mỹ đã không những không kiểm soát và mà
còn khuyến kích các hoạt động cho vay dưới chuẩn của người dân. Hơn nữa, hoạt động đầu
cơ của các quỹ đầu tư nắm giữ gần 3000 tỉ đô-la giá trị tài sản nhưng không hề bị kiểm soát
của bất kì cơ quan nhà nước nào.
Vấn đề là khi lòng tin vào vai trò của Chính phủ đã bị giảm sút và những dấu hiệu của
một cuộc đại khủng hoảng và suy thoái trong dài hạn vẫn còn hiển hiện thì những giải pháp
tài chính tức thời cũng khó làm thay đổi được thị trường. Đây cũng là nguyên nhân góp
phần hàng loạt ngân hàng bị phá sản.2
1.3.2. Nguyên nhân sâu xa
1
2

Phòng Phân tích & Dự báo thị trường (2008). Khủng hoảng tài chính 2008 (SRTC-UBCKNN). tr.20
Phòng Phân tích & Dự báo thị trường (2008). Khủng hoảng tài chính 2008 (SRTC-UBCKNN). tr.22

24


×