Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Đề cương ôn thi môn nghiệp vụ công tác đảng 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.51 KB, 25 trang )

Bài 1: Học thuyết Mác – Lenin……….
Quan điểm của Mác Anghen về ĐCS (6 quan điểm): 1. Tính tất yếu ra đời của ĐCS; 2. ĐCS phải
là một chính đảng độc lập của giai cấp công nhân, không lệ thuộc vào một giai cấp nào khác. Đây
là quan điểm giữ vai trò quyết định; 3. ĐCS là bộ phận ưu tú nhất của giai cấp công nhân cả về
nhận thức và hành động; 4. ĐCS là một khối thống nhất đoàn kết ý chí, hành động trên cả 3 mặt
chính trị, tư tưởng và tổ chức, không chia rẽ, bè phái; 5. ĐCS phải hoạt động theo một hệ tư tưởng
khoa học đó là chủ nghĩa cộng sản khoa học (chủ nghĩa Mac), để tránh duy tâm; 6. ĐCS phải theo
chủ nghĩa quốc tế
Quan điểm của Lênin về ĐCS (8 quan điểm): 1. ĐCS là đội tiên phong chính trị có tổ chức chặt
chẽ nhất, cách mạng nhất và giác ngộ nhất của giai cấp công nhân; 2.
Chủ nghĩa cộng sản
khoa học (chủ nghĩa Mác) là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng:
Xây dựng đảng về tư tưởng, tức là cũng cố vững chắc, phát triển nền tảng tư tưởng trong hoạt
động của đảng. Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam chọ mọi hoạt động của ĐCS.
V.I.Lênin viết: “ Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là học thuyết chính xác”. Học
thuyết đó là lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phong trào công nhân và hoạt động của
đảng. V.I. Lênin nhấn mạnh chúng ta hoàn toàn đứng trên cơ sở lý luận của Mác: lý luận đó là lý
luận đầu tiên đã biến chủ nghĩa xã hội không tưởng trở thành khoa học. V.I. Lênin còn lưu ý các
ĐCS phải phát triển lý luận của C. Mác và vận dụng lý luận ấy phù hợp với điều kiện cụ thể của
mỗi nước; 3. ĐCS là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chuyên chính vô sản: Trong điều kiện lịch sử
đương thời chưa cho phép C.Mác và Ph.Ăngghen bàn nhiều về ĐCS cầm quyền, nhưng qua 72
ngày Công xã Pari hai ông đã đưa ra một số tư tưởng chủ yếu về ĐCS cầm quyền, bao gồm: hình
thức, bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa: vấn đề đảng lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội cũ
và quản lý xã hội: tiêu chuẩn, lựa chọn, quản lý, bãi nhiệm cán bộ, chế độ đãi ngộ cán bộ của
ĐCS cầm quyền… Khi có chính quyền, đảng là hạt nhân lãnh đạo chính quyền vô sản và là một
bộ phận của hệ thống đó. Đảng lãnh đạo giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, đó mới là thanh công bước đầu. Nhiệm vụ khó khăn và phức tạp hơn nhiều là
đảng phải lãnh đạo xây dựng thành công chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Đảng là một bộ
phận của hệ thống chuyên chính vô sản, nhưng là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống đó. Sự lãnh đạo
của đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho công cuộc xây dựng XHCN thành công. Trở thành
đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo nhà nước và định hướng phát triển tất cả các lĩnh vực của đời


sống xã hội; 4. Đảng lấy tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản: Ngay từ khi chuẩn bị cho
sự ra đời của ĐCS đầu tiên và trên thế giới, C.Mác, Ph. Ăngghen đã chủ trương: Đảng phải được
xây dựng, tổ chức và hoạt động theo các quy định do Điều lệ đảng xác định. Tuy hai ông chưa
dùng thuật ngữ “tập chung dân chủ” song những nội dung cơ bản của nguyên tắc này đã dược thể
hiện đầy đủ trong Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản và Điều lệ của Hội Liên hiệp công
nhân quốc tế (Quốc tế thứ nhất). Những nội dung đó thể hiện một cách sâu sắc, tập trung dân chủ
là nguyên tắc cơ bản xây dựng tổ chức và hoạt động của ĐCS; 5. Đảng là một khối thống nhất ý
chí và hành động, phê bình và tự phê bình là quy luật phát triển của Đảng; 6. Đảng gắn bố chặt
chẽ với quần chúng kiên quyết ngăn chặn và đấu tranh chống tệ nạn quan liêu, xa rời quần chúng;
7. Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
vào đảng: Đảng không chỉ kết nạp những người ưu tú xuất thân từ giai cấp công nhân vào đảng
mà còn đảng còn kết nạp những người ưu tú xuất thân từ các giai cấp, các tầng lớp lao động khác
vào đảng. Đối với những người này, phải đặc biệt coi trọng giáo dục, rèn luyện họ theo lập
trường, quan điểm của giai cấp công nhân. Kịp thời dưa những người không đủ tiêu chuẩn đảng
viên ra khỏi đảng. V.I.Lênin viết: “Phải đuổi ra khỏi đảng những kẻ gian giảo, những đảng viên
cộng sản đã quan liêu hóa, không trung thực, nhu nhược”; 8. Tính quốc tế của ĐCS: Tính quốc tế
của ĐCS bắt nguồn từ tính chất quốc tế của giai cấp công nhân. Điều này lại bắt nguồn từ sứ

1


mệnh lịch sử thế giới của họ. Tính quốc tế của ĐCS không chỉ thể hiện trong lời nói mà còn trong
hành động, tức là đảng phải xây dựng và hoạt động theo nguyên lý học thuyết Mác; đường lối của
đảng phải thể hiện chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đảng phải giáo dục đảng viên và nhân dân chủ nghĩa
quốc tế vô sản, đồng thời V.I. Lênin nhấn mạnh, đảng phải tích cực chống những biểu hiện so
sánh nước lớn và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Người viết: “kẻ nào không chứng tở được bằng hành
động rằng mình sẵn sàng để cho Tổ quốc “mình” chịu phần hy sinh lớn nhất, miễn sao cho sự
nghiệp cách mạng XHCN thực sự tiến lên, - thì kẻ đó không phải là người XHCN”.
Quan điểm của ĐCS Việt Nam về Đảng và xây dựng đảng (7 quan điểm): (1) ĐCS Việt Nam là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của

dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của dân tộc; (2) Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã
hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội
và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản; (3) Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực
tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân; (4) Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy
tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách,
thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc : tự phê bình và
phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân
dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; (5) ĐCS Việt Nam là đảng cầm
quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn
trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã
hội; (6) Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai
cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội của nhân dân thế giới; (7) ĐCS Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Bài 2: Nguyên tắc tổ chức hoạt động: 03 nguyên tắc cơ bản của ĐCS: Tập trung dân chủ; Tự
phê bình và phê bình; Đoàn kết trong Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ
Bản chất: (trang 48+49 – SGK Những vấn đề cơ bản về ĐCS và lịch sử ĐCS Việt Nam)
Tính tập trung trong Đảng thể hiện trươc hết ở sự thống nhất về tư tưởng, về đường lối
chính trị, về tổ chức hoạt động. Sự thống nhất nay đươc thể hiện ở chỗ Đảng chỉ có một trung
tâm lãnh đạo duy nhất thông qua cơ quan cao nhất là đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, giữa
hai kỳ đại hội là Ban chấp hành Trung ương và thể hiện trong cơ cấu tổ chức của Đảng.
Về mặt tổ chức của Đảng, tính tập trung đươc thể hiện ở vấn đề Đảng phải thống nhất về

quy mô và hình thức tổ chức. Để đảm bảo tính tập trung nay, phải thống nhất ý chí, hoạt động
theo kỷ luật của Đảng một cach tự giác, nghiêm minh. Kỷ luật Đảng là bắt buộc đối vơi mọi
đảng viên, đòi hỏi thiểu số phục tùng đa số, cấp phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức,
các tổ chức trong toan Đảng phục tùng đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và Ban chấp hành
Trung ương.
Về đường lối chính trị của Đảng, tính tập trung đòi hỏi phải có cương lĩnh, đường lối,
mục tiêu cách mạng thống nhất, đươc mọi tổ chức Đảng và đảng viên tuân thủ và thực hiện, toàn
dân hướng vào phấn đấu. Đảng phải có điều lệ thống nhất – Điều lệ chính là bộ luật của toàn

2


Đảng mà mọi tổ chức Đảng và đảng viên phải chấp hành vô điều kiện cả về nhận thức và chấp
hành.
Tính dân chủ trong Đảng thể hiện ở nội dung mọi đảng viên có quyền ngang nhau, đều
đươc tham gia trực tiếp hoặc thông qua đại biểu để thực hiện quyền của mình, thể hiện ý kiến của
mình trong mọi công việc của Đảng, khi thảo luận thì thực sự dân chủ, khi hành động phải thống
nhất trăm người như một; các cơ quan lãnh đạo của Đảng đều do dân chủ bầu cử lập ra, Đảng lấy
tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng; thực hiện chế độ báo cáo trước tổ chức
Đảng đã bầu ra mình và có thể bị bãi miễn bết kỳ lúc nào nếu không xứng đáng và không hoàn
thành nhiệm vụ tổ chức giao. Hoạt động lãnh đạo của Đảng theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, phát huy tinh thần trách nhiệm cá nhân. Ý kiến phụ thuộc vào thiểu số đươc bảo
lưu, không phân biệt đối xử đối vơi người có ý kiến thuộc về thiểu số.
Để hình thành nên nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, đảm bảo Đảng luôn có sự thống
nhất về mặt tư tưởng, đảm bảo đảng viên đóng góp y kiến va công sức cho Đảng, giữa tính tập
trung và tính dân chủ phải gắn bó, khăng khít với nhau trong một nguyên tắc thống nhất không
thể tách rời. Sự thống nhất trong nguyên tắc tập trung dân chủ đươc thể hiện như sau:
Thứ nhất, dân chủ là điều kiện, tiền đề tập trung. Nếu tập trung mà tách rời dân chủ sẽ
biến thành chuyên quyền độc đoán. Kết quả đem lại không phải là đoàn kết mà là chia rẽ, đến
chừng mực cao hơn sẽ dẫn đến dân chủ cực đoan. Vì lẽ đó, tập trung phải dựa trên tiền đề dân

chủ để tránh tính trạng chuyên quyền độc đoán, để người dân vẫn là người làm chủ đất nước, làm
chủ xã hội.
Thứ hai, tập trung là cơ sở đảm bảo cho dân chủ thực hiện đúng hướng, đúng mục đích.
Dân chủ phải dựa trên cơ sở tập trung, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng vô tổ chức, tự do, tùy
tiện, mất tập trung trong Đảng. Thông qua dân chủ sẽ giúp cho quyền lực của nhân dân không bị
tách rời, không phân tán dẫn đến mất tập trung. Do đó, không thể có dân chủ thực sự nếu không
có tập trung và ngược lại, cũng không có tập trung thực sự mà không có dân chủ. Đó la mối quan
hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ. Tập trung dân chủ đối lập với tập trung quan liêu, tập
trung không đối lập với dân chủ. Tách rời hai mặt này sẽ dẫn đến lệch lạc, thậm chí những tổn
thất khó lường hết, có hại cho sự lãnh đạo và sức mạnh của Đảng. Vì vậy, tập trung và dân chủ là
hai mặt nhưng thống nhất với nhau không thể tách rời trong một nguyên tắc cơ bản – nguyên tắc
tập trung dân chủ.
Đảm bảo nguyên tắc tập trung chủ là vấn đề sống còn của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Bài học trong lịch sử về sự sụp đổ của các tổ chức ĐCS đã cho thấy rằng việc vi phạm nghiêm
trọng nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm sút sức
chiến đấu của Đảng, gây phá vỡ Đảng về mặt tổ chức. Do đó, ĐCS Việt Nam được tổ chức theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là nguyên tắc tổ chức căn bản của Đảng, đây chính la sức
mạnh nội sinh của Đảng.
Những nội dung trên nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của mọi tổ chức
Đảng và đảng viên trong tham gia vào công việc của đảng, đồng thời đảm bảo sự thống nhất ý
chí và hành động của Đảng, tạo ra sức mạnh của khối đoan kết nhất trí, kỷ luật chặt chẽ, nghiêm
minh. Trong Điều 9 – Điều lệ ĐCS Việt Nam ghi rõ: “ĐCS Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách.
Theo điều lệ chính thức của ĐCS, tất cả các cơ quan lãnh đạo và các bí thư các cấp được
bầu bởi các đảng viên, trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua đại hội toàn thể đảng viên hay đại hội
đại biểu đảng viên. Tổ chức được xây dựng từ dưới lên nghĩa là các đại biểu cấp dưới sẽ quyết
định trong việc bầu chọn lãnh đạo cấp trên. Ý nghĩa dân chủ của nguyên tắc này là các cơ quan


3


và chức vụ lãnh đạo được hình thành thông qua bầu cử, các nghị quyết của Đảng chỉ có thể thông
qua bởi cơ quan được bầu. Ý nghĩa của tập trung là quyết định của tổ chức Đảng cấp trên là bắt
buộc với các tổ chức Đảng cấp dưới và cuối cùng là bắt buộc mỗi đảng viên phải chấp hành. Mỗi
vấn đề của Đảng sẽ được thảo luận cho đến khi ra nghị quyết. Sau khi có nghị quyết, mỗi đảng
viên phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết.
Đảng viên dù có ý kiến khác khi phát biểu công khai vẫn phải nói theo nghị quyết chứ không
được theo ý mình. Trên thực tế, ý nghĩa tập trung thể hiện rất mạnh mẽ vì nó tạo ra sự lãnh đạo
thống nhất, có thể tập trung sức mạnh của tập thể vào một mục tiêu cụ thể và che giấu những bất
đồng trong nội bộ.
Tập thể lãnh đạo: Trước hết xuất phát từ vai trò, bản chất của Đảng là phải tiên phong về
mặt lý luận để dẫn dắt định hướng sự phát triển của đất nước, dân tộc. Nguyên tắc này đòi hỏi
toàn bộ những vấn đề cơ bản, hệ trọng phải được dân chủ thảo luận trong tập thể các cơ quan
lãnh đạo từ cao tới thấp theo phạm vi, quyền hạn đã được xác định và được quyết định theo đa
số. Những ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu, đệ trình lên cơ quan cấp trên có thẩm
quyền xem xét, nhưng không được tuyên truyền quan điểm cá nhân. Cá nhân đảng viên không có
quyền tự ý quyết định những vấn đề thuộc về chức năng, quyền hạn của tập thể cấp ủy và tổ chức
đảng. Trước yêu cầu nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ xây dựng Đảng đòi hỏi phải có trí tuệ của một
tập thể cấp ủy đoàn kết, vì HCM đã chỉ ra rằng: “Một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù
nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một
vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều
người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ
mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được
thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo,
khỏi sai lầm”. Do đó, khi đề ra chủ trương, chính sách mới của thì mọi cấp của tổ chức Đảng
nhất thiết phải bàn bạc, thảo luận. Vì có như vậy mới phát huy được trí tuệ của tập thể, mới có
thể tháo gỡ được mọi khó khăn. Vì Bác nói: “Có lực lượng nhân dân thì việc to tát mấy, khó
khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Nhân dân biết giải quyết

nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to
lớn, nghĩ mãi không ra”.
Thứ hai, thực hiện nguyên tắc này chính là nhằm phát huy dân chủ một cách rộng rãi và
mạnh mẽ. Các vấn đề hệ trọng của tổ chức Đảng khi đã có sự bàn bạc, thống nhất thì kết quả
lãnh đạo mới tránh mắc phải những sai lầm, khuyết điểm. Vấn đề là làm sao để thu hút ý kiến,
đóng góp của cán bộ và đảng viên. Muốn vậy cán bộ phải thành tâm, phải chịu khó, phải khéo
khơi gợi. Phải thực sự dân chủ vì có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ nguyên tắc và phong cách làm việc dân chủ, tập thể là: “Chúng ta
cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra, khuyên gắng cán bộ và đảng viên, bày cho họ suy nghĩ,
bày cho họ học hỏi quần chúng, cổ động họ tìm tòi, đề nghị, làm những việc ích lợi cho quần
chúng. Khi họ đã có ít nhiều sáng kiến, thì giúp đỡ cho họ phát triển, khen ngợi cho họ thêm
hăng hái. Như thế, thì những tính lười, tính "gặp chăng hay chớ" ngày càng bớt, mà sáng kiến và
tính hăng hái ngày càng nhiều thêm”. Có như vậy mới tránh được tình trạng các đảng viên dù có
ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình, cấp trên với cấp
dưới cách biệt nhau. Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp. Dưới thì có gì không dám nói ra. Họ
không nói, không phải vì họ không có ý kiến, nhưng vì họ nghĩ nói ra cấp trên cũng không nghe,
không xét, có khi lại bị "tai bay vạ gió" là khác. Họ không dám nói, cứ để trong lòng, rồi sinh ra
uất ức, chán nản, sinh ra thói "không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng", "trong Đảng im tiếng,
ngoài Đảng nhiều mồm", thói "thậm thà thậm thụt" và những thói xấu khác.

4


Thứ ba, tập thể lãnh đạo để tránh được tình trạng làm việc một cách quan liêu. Cái gì
cũng dùng mệnh lệnh, áp đặt. Đóng cửa lại mà lên kế hoạch, viết chương trình rồi bắt nhân dân
theo, không cần biết đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp. Sự độc đoán chuyên quyền, mất
dân chủ này sẽ dẫn đến sự chia rẽ, mất đoàn kết trong Đảng, vi phạm quyền dân chủ của nhân
dân, làm suy yếu niềm tin của nhân dân đối với Đảng, làm cho Đảng và nhân dân xa rời nhau.
Tuy nhiên, khi thực hiện nguyên tắc này cũng cần lưu ý rằng “không phai vấn đề gì nhỏ
nhặt, vụn vặt, một người vẫn có thể giải quyết được, cũng đưa ra bàn - mới là tập thể lãnh đạo.

Nếu làm như vậy, là hiểu tập thể lãnh đạo một cách quá máy móc”. Như vậy là biểu hiện của dân
chủ quá trớn, vô chính phủ, “trên bảo dưới không nghe”; “phép vua thua lệ làng”. Mặc dù tập thể
lãnh đạo là cần thiết, song khi tổ chức thực hiện nghị quyết, trong công tác quản lý thì phải có sự
phân công nhiệm vụ rõ ràng, có người phụ trách. Nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra
cái tệ người này ỷ lại người kia, kết quả là không ai thi hành, sẽ dẫn đến tình trạng cha chung
không ai khóc, nhiều sãi không ai đóng cửa chùa, nên Hồ Chí Minh khẳng định: “Tập thể lãnh
đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”.
Cá nhân phụ trách: “Phụ trách mà không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn,
vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc”. Cá nhân phụ trách chính là biểu hiện của sự tập trung.
Cá nhân phụ trách là khâu nối tiếp của quá trình lãnh đạo tập thể. Mỗi đảng viên, trước hết là
người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cùng cấp (và từng bộ phận) phải trên cơ sở nghị quyết của
Đảng và theo chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, đề cao trách nhiệm cá nhân, tích cực,
chủ động triển khai thực hiện nhiệm vụ, nhưng phải chịu trách nhiệm trước tập thể và chịu sự
kiểm tra, giám sát của tập thể. Cá nhân phụ trách chính là nhằm tăng cường và phát huy trách
nhiệm cá nhân nhưng phải đặt trong mối quan hệ với tập thể lãnh đạo và hướng vào tăng cường
quyền lãnh đạo cũng như hiệu lực lãnh đạo của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng. Có như thế mới
tránh được “căn bệnh” quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, xa dân.
Nội dung của cá nhân phụ trách là khi công việc của Đảng, của cấp uỷ, của tập thể sau
khi đã được bàn bạc thấu đáo đi đến ra nghị quyết hoặc quyết định thì phải được phân công cho
từng người phụ trách thi hành. Việc gì một người không làm được thì phải giao cho một tập thể
thực hiện. Nếu tập thể thực hiện thì cũng phải có người đứng đầu tập thể đó chịu trách nhiệm
chính. Người phụ trách là người phải có đủ năng lực, tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm. Cá nhân phụ trách trên cơ sở tập thể lãnh đạo nghĩa là phải quyết tâm tổ
chức thực hiện đúng việc tập thể đã bàn, đã quyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Người
nào phụ trách thi hành, mà không làm đúng kế hoạch do đa số đã quyết định, là làm trái với
nhiệm vụ của mình, và cũng không xứng đáng là một người lãnh đạo. Đó phải là người: “Những
người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề, trong những hoàn cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách
và không có sáng kiến thì không phải người lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi
thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết kiên
quyết, gan góc không sợ khó khăn. Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật”.

Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách luôn có quan hệ chặt chẽ không thể tách rời, luôn
bổ sung, hỗ trợ cho nhau và trở thành nguyên tắc chi phối toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng.
Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ
quan, đơn vị” là một trong ba vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng cần làm ngay theo yêu cầu của
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI. Để thực hiện hiệu quả giải pháp quan trọng này, người đứng
đầu cấp ủy, chính quyền nhất thiết phải thực hiện đúng những nội dung Trung ương đã nêu trong
Nghị quyết, Chỉ thị và Kế hoạch của Bộ Chính trị, để củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và
nhân dân với Đảng./.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng la Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo
ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của

5


Đảng là Ban Chấp hanh Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành Đảng bộ, Chi bộ (gọi tắt là
cấp uỷ). Theo điều lệ Đảng, Đại hội Đại biểu Toàn quốc là cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng,
là cơ quan duy nhất có quyền ban hành hoặc sửa đổi Điều lệ Đảng và cương lĩnh chính trị, thông
qua báo cáo tổng kết nhiệm kỳ đã qua và thông qua nghị quyết về phương hướng hành động
nhiệm kỳ tới, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất việc chấp hành
nghị quyết của đại hội.
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trươc đại hội cùng
cấp, trươc cấp uỷ cấp trên và cấp dươi; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các
tổ chức Đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
4. Tổ chức Đảng va đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng
đa số, cấp dươi phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toan Đảng phục
tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
5. Nghị quyết của cac cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi co hơn một
nửa số thành viên trong cơ quan đo tan thanh. Trươc khi biểu quyết, mỗi thanh viên đươc phát
biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số đươc quyền bảo lưu va bao cao lên
cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị

quyết, không đươc truyền bá ý kiến trái vơi nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên
cứu xem xét ý kiến đo; không phân biệt đối xử vơi đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không
đươc trái vơi nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nha nươc và nghị quyết
của cấp trên.”
Trong thời gian qua, Đảng ta vẫn giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ và đã đạt đươc
nhiều tiến bộ trong thực hiện dân chủ trong xã hội, phát huy trí tuệ và sức mạnh tổng hơp của
khối đại đoan kết toàn dân. Các cấp ủy Đảng đã thực hiện đúng chế độ kiểm điểm công tác tự
phê bình va phê bình, qua đó phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm kỷ luật của Đảng, Qua đó đảm
bảo sự thống nhất và đoàn kết trong Đảng. Đảng ta đã kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ,
xem đây la nguyên tắc căn bản trong tổ chức và sinh hoạt đảng, đồng thời Đảng ta cũng co
những đổi mới trong việc thực hiện nguyên tắc này. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hanh Trung
ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “Thật sự phát
huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ ở cơ sở đến sinh hoạt Ban
Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hanh Trung ương; đồng thời giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng.
Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối
làm việc vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ”.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm đạt đươc vẫn còn bộc lộ những hạn chế trong nhận thức
và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ chưa thực hiên triệt để, còn hiện tương vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ, độc đoan thiếu dân chủ hay dân chủ hình thức. Trong sinh hoạt của
nhiều cấp ủy và tổ chức Đảng không đươc xem trọng, Nghị quyết không cụ thể, không có sự
thống nhất cao trong nhận thức va hanh động. Dân chủ mà vô kỷ luật sẽ dẫn đến kỷ cương lỏng
lẻo, nói và làm tùy tiện, chấp hành kỷ luật của Đảng, Nha nước. Tập trung mà không dân chủ sẽ
dẫn đến chuyên quyền, độc đoán. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hanh Trung ương
Đảng (khóa XI): Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đã nêu lên một số vấn đề
cấp bách: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đo co những đảng viên giữ vị trí
lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
vơi những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt ly tưởng, sa vào chủ nghĩa ca nhân ích kỷ, cơ hội,
thực dụng, chạy theo danh lơi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô
nguyên tắc...”. Nguyên nhân của những vấn đề trên có thể kể đến: “… các nguyên tắc tập trung


6


dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa đươc
quy định cụ thể để lam cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát.”.
Có thể thấy tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong công tác xây dựng ma Đảng ta
luôn luôn khẳng định, tôn trọng và nghiêm túc thực hiện. Đặc biệt, phải quán triệt quan điểm này
một cách triệt để theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hanh Trung ương Đảng
(khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Trong đó, dân chủ phải được
thực hiện từ cơ sở, tập trung cũng phải bắt đầu từ cơ sở. Mọi cán bộ, đảng viên phải quán triệt
sâu sắc nguyên tắc tập trung dân chủ, kiên quyết chống các biểu hiện vi phạm dân chủ, tập trung
quan liêu, chống các biểu hiện của dân chủ hình thức hoặc dân chủ “vô chính phủ”. Ở đâu va lúc
nào, Đảng xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ thì Đảng thực sự không còn sức mạnh. Ngoài ra,
việc thực hiện tập trung dân chủ phải đươc thể hiện một cách thống nhất từ Trung ương đến địa
phương, từ những người đứng đầu tổ chức Đảng đến từng Đảng viên, Hội nghị cũng nêu rõ:
“Cac đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hanh Trung ương ... làm rõ
trách nhiệm cá nhân, gương mẫu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, lối sống.”
Vì lẽ trên, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản có y nghĩa sống còn của
ĐCS. Đây cũng la một lý do ma thế lực thù địch luôn luôn tập trung sức tấn công nhằm phủ
nhận, phê phán, xuyên tạc, đả kích nguyên tắc này trong hoạt động tổ chức của Đảng, nhằm làm
giảm uy tín, sức chiến đấu của Đảng. Do đó, cần xac định rõ rằng nếu xóa bỏ nguyên tắc tập
trung dân chủ sẽ sa vào cái bẫy của đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, sự phân liệt trong Đảng
tất yếu sẽ xảy ra.
Để đảm bảo thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng,
đòi hỏi cần phải quán triệt các nội dung sau:
Thứ nhất, giáo dục cho từng đảng viên hiểu rõ yêu cầu, nội dung, ý nghĩa, tầm quan trọng
của nguyên tắc tập trung dân chủ; qua đó phát huy trí tuệ đóng góp cho sự lãnh đạo và việc xây
dựng Đảng. Đồng thời nâng cao tính tổ chức, tính kỷ luật cho đảng viên.

Thứ hai, xây dựng quy chế hoạt động chặt chẽ, phân tích, mô tả rõ trách nhiệm, mối quan
hệ trong các bộ phận của Đảng, các chức danh trong cơ quan lãnh đạo. Trong đó, phải cụ thể hóa
nguyên tắc này thành các quy chế, quy định, kèm theo các chế tài cần thiết, càng cụ thể càng tốt
để dễ thực hiện và kiểm tra như: phải quy định thành chế độ cán bộ lãnh đạo các cấp đi làm việc
trực tiếp ở cơ sở, tiếp xúc vơi dân, đối thoại vơi quần chúng và cấp dươi, giải quyết kịp thời và
dứt khoát những công việc cấp bách. Phải quy định hết sức rạch ròi, cụ thể trách nhiệm cá nhân
trong việc thực hiện chế độ “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trach”, phải quy định rõ tất cả những
vấn đề thuộc về chủ trương, biện pháp lơn nhất thiết phải đươc tập thể cấp ủy hoặc tập thể chi bộ
bàn bạc và quyết định; những vấn đề kế hoạch, biện pháp cụ thể để thực hiện chủ trương đo thì
giao cho ca nhân phụ trách, và có quyền tự giải quyết, nhưng không trái vơi chủ trương, biện
pháp của Đảng, của tập thể đã quyết. Phải bảo đảm các quyền của Đảng viên, nhất là quyền đươc
thảo luận một cách thẳng thắn các vấn đề về đường lối, chính sách của Đảng, quyền đươc phê
bình, chất vấn trong phạm vi tổ chức, về hoạt động của tổ chức Đảng va Đảng viên ở mọi cấp.
Đảng viên có quyền đươc thông tin, đươc quyền bảo lưu y kiến.
Thứ ba, xây dựng bầu không khí dân chủ, tính kỷ luật trong đơn vị. Đặc biệt, đối vơi
đồng chí đứng đầu tổ chức Đảng ở cơ quan lãnh đạo, đơn vị cơ sở phải gương mẫu tự giác chấp
hành nguyên tắc.
Thứ tư, duy trì chế độ sinh hoạt cơ quan lãnh đạo để phát huy sự lãnh đạo của tập thể và
nâng cao trách nhiệm của cá nhân. Phải phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh các tổ chức
Đảng và cán bộ Đảng viên vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, những người co thai độ trấn

7


áp, trù dập người phê bình hoặc lơi dụng phê bình để đả kích, vu cao người khác gây chia rẽ mất
đoan kết. Trong sinh hoạt phải đề cao tự phê bình và phê bình.
Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ của
đảng viên và tổ chức đảng theo quy định của điều lệ Đảng. Trong đó, cần tăng cường kiểm tra
của cấp ủy cấp trên đối vơi việc thực hiện dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ của cấp ủy
cấp dươi. Việc kiểm tra nhằm phát hiện, chỉnh sửa các vi phạm, đồng thời giúp cấp ủy cấp trên

tổng kết thực tiễn, tháo gỡ vương mắc trong việc thực hiện các quy chế ở cấp dươi.
Thứ sáu, thường xuyên đề phòng, đấu tranh khắc phục cac khuynh hương tập trung quan
liêu, chuyên quyền độc đoan va khuynh hương dân chủ hình thức hoặc dân chủ vô chính phủ.
Thông qua thực tiễn hoạt động của Đảng đã cho thấy thanh công hay thất bại đều có mối liên hệ
đến thai độ đúng, sai trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung, dân chủ. Đảng ta khẳng định dứt
khoát giữ vững và thực hiện tốt nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng của đảng kiểu mơi, trươc
hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, đo la sự khẳng định tỉnh táo, sáng suốt phù hơp vơi bản chất
của ĐCS chân chính, phù hơp vơi xu thế của thời đại. Để thống nhất tinh thần và lực lương,
trươc hết “tư tưởng chính trị và tổ chức của Đảng đều phải thống nhất” nhằm phát huy mọi năng
lực chiến đấu, lao động, công tác, chủ động sáng tạo của mỗi thành viên của tổ chức đảng và tổ
chức Nha nươc. Muốn vậy, Đảng cần phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập
trung dân chủ./.
Liên hệ: Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở tổ chức đơn vị mình.
(đưa vđ, nhận xét, chỉ ra nguyên nhân) Đề xuất những vc cần làm để thực hiện tốt nguyên tắc này
ở đơn vị + đề xuất đối với tổ chức (tổ chức đảng muốn đi lên thì BGH, công đoàn, tổ chức hội,
PGD… phải làm gì?) + đề xuất đối với cá nhân (bản thân thôi sẽ như thế nào? Hứa như thế
nào…)
Từ lý luận và thực tiễn cho thấy, trong giai đoạn hiện nay, điều kiện tiên quyết để thực
hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ là: tổ chức đảng phải thực sự trong sạch vững mạnh; số
đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ (trên cơ sở phân loại chính xác) phải chiếm đa số trong tổ
chức đảng. Chỉ có như vậy, mới đảm bảo độ chính xác, sự lành mạnh, độ tin cậy khi thiểu số
phục tùng đa số; cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức. Chỉ đảm bảo được điều
đó, nguyên tắc tập trung dân chủ mới là nguyên tắc cơ bản tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng,
phân biệt ĐCS cách mạng với các đảng khác. Nếu ngược lại, thì chính nguyên tắc này sẽ trở
thành nguyên nhân làm đảng suy yếu.
Bài 1 – phần 2: Tổ chức cơ sở Đảng
Khái niệm: TCCSĐ là tổ chức của đảng được lập trong một đơn vị cơ sở nơi có từ ba
đảng viên chính thức trở lên, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đảng ủy cấp huyện hoặc tương
đương.
Vị trí vai trò: nền tảng của đảng; hạt nhân chính trị ở cơ sở

Nhiệm vụ: 5 nhiệm vụ theo điều 23 – điều lệ
Liên hệ: căn cứ kết quả việc thực hiện 5 nhiệm vụ tại cơ sở
Đề xuất biện pháp nâng cao năng lực:
Bài 2 – phần 2: Đảng viên…….
Khái niệm đảng viên, công tác đảng viên
Khái quát (ko phân tích) vị trí vai trò của đảng viên, công tác đảng viên
Nắm chắc 4 nội dung: Giáo dục, rèn luyện; Phát triển đảng viên; Đưa người…; Quản lý
đảng viên
Biện pháp: Nâng cao chất lượng; Bổ sung số lượng
Tổng đảng viên 4.5 triệu, tăng 200k/năm. HCM có 210k đảng viên, tăng 2k/năm.

8


Bài 3 – phần 2: Công tác cán bộ
Cán bộ theo nghĩa rộng bao gồm cán bộ, công chức, viên chức nói chung hoạt động trong
các tổ chức của hệ thống chính trị, các đơn vi sự nghiệp công và thành phần kinh tế nhà nước; họ
hình thành thông qua con đường đào tạo và bồi dưỡng trong các nhà trường và thực tiễn. Đây là
bộ phận đông đảo và thường ổn định nhất.
Công tác cán bộ: Công tác cán bộ của tổ chức cơ sở đảng là những công việc mà cấp ủy, tổ
chức cơ sở đảng tiến hành nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng tốt, đảm bảo cho đường
lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luât của Nhà nước, các nghị quyết, quyết định của cấp
ủy các cấp được thực hiện nghiêm túc và đem lại hiệu quả thiết thực tại cơ sở.
Nội dung của công tác cán bộ: là việc xây dựng đội ngũ cán bộ bao gồm việc đề ra tiêu
chuẩn, quy hoạch đào tạo đánh giá, bổ nhiệm, đề bạt, luân chuyển, điều động, quản lý, khen
thưởng, chính sách đãi ngộ cán bộ….Bao gồm 6 khâu: Đánh giá cán bộ; Quy hoạch cán bộ; Đào
tạo bồi dưỡng cán bộ; Bổ nhiệm cán bộ; Quản lý cán bộ; Luân chuyển cán bộ.
Vị trí của cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là giây chuyền của bộ máy Đảng, Nhà
nước, đoàn thể nhân dân, “là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích
cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho

Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”. Như vậy, cán bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp
cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo. Trong mối quan hệ với nhân dân thì cán bộ là những công
bộc, là người phục vụ là đầy tớ của nhân dân.
Vai trò của cán bộ: Thứ nhất, Hồ Chí Minh khẳng định rằng cán bộ là cái gốc của mọi
công việc; muôn việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt hay kém. Với ý nghĩa như vậy,
chúng ta có thể hiểu rằng, cán bộ là lực lượng tinh tuý nhất của xã hội, có vị trí vừa tiên phong
vừa là trung tâm của xã hội và có vai trò cực kỳ quan trọng của hệ thống chính trị nước ta. Thứ
hai “cán bộ là tiền vốn của Đoàn thể. Có vốn mới là ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có
cán bộ tốt thì thành công, tức có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”.
Theo Hồ Chí Minh, vấn đề cán bộ là một vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp. Nói đến vấn đề
cán bộ bao gồm cả cán bộ và công tác cán bộ. Khi bàn về cán bộ Người khẳng định cán bộ là chủ
thể, còn khi bàn về công lác cán bộ Người nhận định cân bộ lúc này là khách thể, tức là những
người chiu đựng cải kết qua của những người lam công tác cán bộ. Cách mạng có phát triển hay
không phụ thuộc rất lớn vào công tác cản bộ. Trong thực tế nhiều khi cán bộ rèn luyện tốt, đủ đức,
đủ tải, tận tụy, hết lòng, hết sức phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân nhưng công tác cản bộ không tốt
sẽ không phát huy được năng lực của cán bộ. Kết quả Đảng mất nhân tài, mất cán bộ. Để thực
hiện tốt công tác cán bộ cần phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ; khéo dùng cán bộ; và huấn luyện
cán bộ.
Quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ:
Ngày 19/5/2018, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về tập trung xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ
(Nghị quyết số 26-NQ/TW). Nghị quyết có 5 quan điểm về cán bộ:
Thứ nhất, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là
khâu "then chốt" của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ,
nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng,
phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng
đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững.
Quan điểm trên đây tiếp tục khẳng định vị trí “then chốt” của đội ngũ cán bộ và công tác
cán bộ trong công tác xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị, và rộng hơn là đối với toàn bộ

sự nghiệp đổi mới. Vấn đề này đã được Đảng ta nhấn mạnh trong nhiều văn kiện trước đây, nhưng

9


đặt trong bối cảnh hiện nay khi mà cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy ở một số nơi nhận thức còn
giản đơn, chưa thật sự chăm lo, quan tâm sâu sắc, chưa đầu tư đúng tầm mức cho xây dựng đội
ngũ cán bộ, thậm chí có cả biểu hiện “khoán trắng” cho cơ quan làm công tác tổ chức, cán bộ…
mới thấy tính thời sự của vấn đề. Một khi xác định vị trí “then chốt” của công tác cán bộ thì cấp
ủy, nhất là người đứng đầu các cấp phải dành mối quan tâm đặc biệt, đầu tư xứng đáng cả tâm
lực, trí lực và tài lực cho công tác cán bộ một cách bài bản, khoa học, tỷ mỷ, cẩn trọng với trách
nhiệm cao nhất. Việc đầu tư cho đội ngũ cán bộ, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, muôn
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém, bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán
bộ tốt thì thành công, tức là có lãi; không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn, thì đây là đầu
tư cho tương lai, đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững.
Thứ hai, thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn
diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn hoá, siết chặt kỷ
luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát
huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân
cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm
soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm.
Quan điểm trên đây tiếp tục khẳng định vấn đề có tính nguyên tắc là Đảng thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, được đưa ra trong Nghị quyết Trung ương 3 Khóa
VIII nhưng đã phát triển lên một tầm cao mới cho phù hợp với tình hình thực tế. Đó là việc thực
hiện nghiêm, nhất quán Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý
đội ngũ cán bộ. Phải nhấn mạnh điều này bởi ở nơi này hay nơi khác, lúc này hay lúc khác có tình
trạng Đảng buông lỏng lãnh đạo đối với công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; xem nhẹ
nguyên tắc tập trung dân chủ trong quy hoạch, bổ nhiệm, tạo kẽ hở cho chạy chức, chạy quyền,
tham nhũng trong công tác cán bộ; hoặc tuyệt đối hóa quản lý của Nhà nước đối với công chức,
viên chức, làm chia cắt sự thống nhất quản lý biên chế trong toàn hệ thống chính trị hoặc ở một số

khâu xây dựng đội ngũ công chức, viên chức. Hơn nữa, hiện vẫn còn có nội dung trong một số
quy định của Nhà nước chưa phù hợp với các quy định của Đảng, gây khó khăn, bất cập khi triển
khai trên thực tế. Vì vậy, phải khắc phục những nhận thức lệch lạc hoặc hạn chế, thiếu sót đó,
từng bước lập lại trật tự, kỷ cương trong công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ một cách tổng
thể, đồng bộ và liên thông trong hệ thống chính trị.
Thứ ba, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác
cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm
vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân; đặt
trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, thu hút, trọng dụng nhân tài.
Quan điểm này được tích hợp bởi nhiều luận điểm, trong đó yêu cầu đầu tiên là tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình
hình thực tiễn. Đại hội VI của Đảng (12-1986) trong khi khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện
đã rút ra bài học tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nhưng tập trung nhiều trên
phương diện kinh tế. Lần này, Nghị quyết yêu cầu tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, bởi nhìn lại quá trình thực hiện Chiến
lược cán bộ 20 năm qua, có nơi, có lúc xuất hiện tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nhất là đổi mới
công tác cán bộ chưa đồng bộ, chưa tương thích với đổi mới kinh tế; nhiều cơ chế, chính sách đối
với cán bộ chưa phù hợp với cơ chế thị trường như tiền lương chưa tính toán đầy đủ các yếu tố
của thị trường, tương quan giữa khu vực công với khu vực tư; tuyển chọn, đề bạt cán bộ có nơi,
có lúc chưa thật sự bảo đảm nguyên lý cạnh tranh lành mạnh giữa các ứng viên; các quy luật về

10


nhu cầu, lợi ích, tâm lý của con người chưa được tính toán kỹ và vận dụng hợp lý theo quy luật
khách quan trong công tác cán bộ. Hay nói cách khác, khi vận hành kinh tế thị trường thì việc tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan là phải cạnh tranh, nhưng trong công tác cán bộ quá
trình thực hiện chưa thể hiện rõ nét tính cạnh tranh theo đúng quy luật này. Tôn trọng quy luật

khách quan đòi hỏi công tác cán bộ phải xuất phát từ thực tiễn và quay trở lại thực tiễn làm cơ sở,
căn cứ để hoàn thiện lý luận, quan điểm về công tác cán bộ; cảnh giác và phòng ngừa với các biểu
hiện chủ quan, duy ý chí và chủ nghĩa quan liêu hay giáo điều trong công tác cán bộ.
Thứ tư, quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ;
quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử lý hài hoà, hợp
lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong
đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa
đức và tài, trong đó đức là gốc; giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định,
phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể.
Yêu cầu trước hết trong quan điểm này là quán triệt nguyên tắc về tính thống nhất giữa
đường lối chính trị với đường lối cán bộ. Đường lối cán bộ phải phục tùng đường lối chính trị.
Đường lối chính trị vạch ra mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng, con đường và các giải pháp để
đạt được mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, trong đó có xây dựng đội ngũ cán bộ. Ngược lại, ứng
với đường lối chính trị ở từng thời kỳ phải có đường lối cán bộ phù hợp. Yêu cầu cơ bản của
đường lối cán bộ là xây dựng được một đội ngũ cán bộ có khả năng hoạch định và tổ chức thực
thi đường lối chính trị đạt kết quả tối ưu. Vì vậy, sai lầm trong lựa chọn cán bộ, đặc biệt cán bộ
cấp chiến lược, không chỉ làm ảnh hưởng tới hiệu quả khâu tổ chức thực hiện, mà không loại trừ
nguy cơ sai lầm về đường lối khi cán bộ là người tham gia hoạch định đường lối. Quán triệt luận
điểm này đòi hỏi phải khắc phục các biểu hiện xây dựng cán bộ thoát ly đường lối chính trị,
không xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ chính trị mà định ra tiêu chuẩn, cơ cấu cán bộ, hoặc tuyệt
đối hóa cán bộ mà xem nhẹ đường lối chính trị. Điều này không phải không hiện hữu ở nơi này
hay nơi khác, cấp này hay cấp khác, nhất là khi chuẩn bị cho đại hội chỉ tập trung lo “nhân sự” mà
xem nhẹ chất lượng của đường lối, chủ trương; chuẩn bị nhân sự không gắn với đánh giá khả
năng hoạch định đường lối, chủ trương và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương đó
trong thực tiễn.
Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là
của các cấp uỷ, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng,
trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và
xây dựng đội ngũ cán bộ. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân; phải thực sự

dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
Quan điểm này xác định rõ trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và từng chủ thể đối với
xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác cán bộ; trật tự, vị trí, vai trò của từng chủ thể đối với
từng khâu, từng mặt của công tác cán bộ. Trong khi xác định trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị, quan điểm này chỉ rõ trách nhiệm trực tiếp là của cấp ủy, tổ chức Đảng, trước hết là người
đứng đầu và các cơ quan tham mưu của Đảng làm công tác tổ chức, cán bộ có vai trò nòng cốt.
Điều này nhất quán với nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ, trách nhiệm trước hết của cấp ủy đảng, tổ chức đảng trong chăm lo xây dựng toàn diện
mọi mặt từ công tác tạo nguồn, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, luân chuyển cũng
như chính sách đối với cán bộ, từ chăm lo phát triển tâm lực đến trí lực, thể lực, được thực hiện
thường xuyên trong cả vòng đời của người cán bộ.
Nghị cuyết cũng đề ra mục tiêu tổng quát là xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp
chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và

11


cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển
tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Bên cạnh đó Ngị quyết đề ra 3 mục tiêu cụ thể để xây dựng đội ngũ cán bộ đến năm 2020;
đến 2025 và đến 2030.
Nghị quyết đề ra 8 nhiệm vụ, giải pháp: (1) Nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên; (2) Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác cán bộ; (3) Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy
tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới; (4) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược
ngang tầm nhiệm vụ; (5) Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức,
chạy quyền; (6) Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ; (7) Nâng cao

chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ
chức, cán bộ; (8) Một số nội dung cơ bản về công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội
Đảng toàn quốc.
Sáu khâu cơ bản trong công tác cán bộ: (1) Đào đạo bồi dưỡng cán bộ; (2) Bố trí, sử dụng
cán bộ theo nguyên tắc tứ đúng: đúng việc, đúng chỗ, đúng lúc, đúng sở trường; (3) Quản lý cán
bộ; (4) Đánh giá cán bộ theo nguyên tắc tam công: công bằng, công khai, công tâm; (5) Quy
hoạch cán bộ; (6) Luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ.
Biện pháp để nâng cao chất lượng cán bộ tại đơn vị
Đơn vị hiện nay có … viên chức, nhìn chung tư tưởng cán bộ ổn định, nội bộ đoàn kết, cán bộ yên tâm công
tác. Công tác tổ chức, triển khai thực hiện Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Thực hiện Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày 28 tháng 02 năm 2018 của Thủ
tướng Chính phủ, về việc Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động và quản lý giám định tư pháp nhằm tạo chuyển biến
căn bản, đột phá về chất lượng và hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, góp Phần nâng cao chất lượng của hoạt
động tố tụng, phòng, chống tội phạm, tham nhũng, đồng thời tạo động lực mới thúc đẩy xã hội hóa mạnh mẽ hoạt
động giám định tư pháp. Sau hơn 02 năm triển khai Đề án, hầu hết các nhiệm vụ, giải pháp đã được tổ chức thực hiện
có kết quả trên thực tế, trong đó có:
+ Cơ cấu cán bộ, độ tuổi bình quân 30 – 50 tuổi.
+ Trình độ chuyên môn: 04 người thạc sĩ, 07 người đại học, 01 người cao đẳng, 10 người trung cấp, 01
người y công.
+ Lý luận chính trị có: 05 trung cấp, 07 sơ cấp chính trị, 06 có chứng chỉ quản lý Nhà nước.
+ Đánh giá cán bộ hàng năm 100% hoàn thành tốt nhiệm vụ, có từ 1-2 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ (do có
đề tài hoặc sáng kiến kỹ thuật).
+ Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ: đa số đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
+ Phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ: đội ngũ cán bộ là đảng viên ĐCS Việt Nam, là những người có uy
tín, được quần chúng nhân dân tín nhiệm, đội ngũ cán bộ phần lớn vững vàng về chính trị, nỗ lực phấn đấu học tập,
rèn luyện và trưởng thành từ cơ sở; một số được đào tạo cơ bản về trình độ chuyên môn và lý luận chính trị. Về năng
lực lãnh đạo, quản lý và công tác không ngừng được nâng lên, góp phần thực hiện hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ
chính trị của đơn vị.
+ Hầu hết cán bộ của đơn vị có tinh thần đoàn kết, ý thức kỷ luật và ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân
tốt.

+ Mối quan hệ giữa cán bộ với cán bộ, cán bộ với nhân dân: hoà đồng, thân ái, hỗ trợ nhau công việc.
+ Các biểu hiện của cán bộ trong giai đoạn hiện nay: năng nổ, nhiệt tình, sáng tạo và có trách nhiệm trong
công việc.
+ Sự tín nhiệm: qua công tác lấy phiếu tín nhiệm cuối năm, đội ngũ CB của đơn vị đều nhận được sự tín
nhiệm cao (Từ 98% trở lên).
*Kết quả đạt được về công tác cán bộ của đơn vị
1. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
- Đảng uỷ, chi uỷ luôn quan tâm rà soát đội ngũ cán bộ, kết hợp với chính quyến, đoàn thể để nâng cao đội
ngũ cán bộ.

12


- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ căn cứ theo Quy chế cử công chức, viên chức và lao động hợp đồng
của đơn vị đi đào tạo, bồi dưỡng ngày 18/4/2019, sau đó xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ dài hạn, trung hạn và
ngắn hạn. Nhờ đó công tác đào tạo cán bộ có sự chuyển biến tích cực, trình độ chuyên môn, lý luận chính trị của đội
ngũ cán bộ chủ chốt được nâng lên rõ rệt. Ý thức tự học nâng cao trình độ của cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ của các khoa chuyên môn và phòng chức năng thuộc đơn vị. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ gắn với công tác
quy hoạch, bố trí và sử dụng cán bộ, quan tâm đào tạo cán bộ trẻ, cán bộ nữ.
- Hàng năm xây dựng kế hoạch, chỉ tiêu đề đưa cán bộ đi đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ, kỷ năng đáp
ứng yêu cầu của đơn vị. Đơn vị tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ tham gia các đợt tập huấn do Ủy ban Chữ thập đỏ
quốc tế; Cục quản lý khám chữa bệnh, Cục khoa học - Bộ Y tế; Cục Bổ trợ Tư pháp - Bộ Tư pháp tổ chức về nghiệp
vụ chuyên như: Giải phẫu bệnh pháp y, tìm kiếm cứu nạn trong thiên tai thảm họa; Xây dựng Thông tư quy định điều
kiện để tổ chức đạo tạo bổ nhiệm Giám định viên pháp y, Giám định viên Pháp y tâm thần; Hoàn thiện, sửa đổi, bổ
sung các văn bản chuyên ngành về Bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể tại Thông tư 20/2014/TT-BYT; Tiếp tục chỉnh sửa
Thông tư 47/2013/TT-BYT về ban hành quy trình giám định pháp y… Cử cán tham gia học tập kinh nghiệm về giám
định ADN tại Hàn Quốc; tham gia tập huấn tại Pakistan; tham gia Hội nghị pháp y quốc tế IALM và Hội nghị
APMLA tại Nhật Bản...
2. Bố trí, sử dụng cán bộ
- Dựa trên năng lực trình độ, nguyện vọng, Viện bố trí sử dụng cán bộ một cách hợp lý để phát huy được tính

sang tạo và tinh thần của mỗi cán bộ.
- Phòng Tổ chức cán bộ đơn vị chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu; đảm bảo công tâm, khách quan; phù hợp với
năng lực, sức khỏe, sở trường; thực hiện đúng chính sách, chế độ; chống tiêu cực, tham nhũng, …
- Trong công tác bổ nhiệm cán bộ, thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm từ khoa chuyên môn, phòng chức năng
đến cán bộ chủ chốt của đơn vị đều được thực hiện trên tinh thần dân chủ, công khai, kết quả phiếu được kiểm tra và
báo cáo kết quả tại buổi họp.
- Đảng uỷ, Lãnh đạo đơn vị luôn xem xét điều chỉnh lại việc bố trí cán bộ, viên chức nhằm nâng cao sức
chiến đấu, hạn chế tình trạng cục bộ, bè phái tại các khoa phòng thuộc đơn vị.
3. Quản lý cán bộ
- Tùy vào công việc đơn vị sẽ có phương thức quản lý theo thời gian hoặc theo chất lượng công việc nhưng
luôn đảm bảo số lượng, chất lượng.
- Đảng ủy và lãnh đạo đơn vị luôn đẩy mạnh việc “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
gắn với thực hiện NQTW 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, qua đó đội ngũ cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt, người
đứng đầu đơn vị đã có ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác; thể hiện
được tinh thần trách nhiệm, gương mẫu, đi đầu trong công tác và sinh hoạt. Nhiều tồn tại, hạn chế, khuyết điểm của
tập thể, cá nhân được chủ động khắc phục một cách nghiêm túc, có hiệu quả.
- Qua thực tiễn công tác, mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đơn vị luôn động viên khuyến khích kịp
thời, khen thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng đột xuất đối với các tập thể, cá nhân trong đơn vị. Đồng thời kiên
quyết xử lý kỷ luật đối với cán bộ, viên chức vi phạm nội quy, quy chế của đơn vị.
4. Đánh giá cán bộ
- Đánh giá cán bộ là khâu quan trọng, có ảnh hưởng đến các công công tác khác của cán bộ. Vì nếu đánh giá
đúng sẽ là cơ sở để đề bạt đúng, bản thân cán bộ phấn khởi hơn và làm tăng cường đoàn kết. Ngược lại, nếu đánh giá
sai sẽ đề bạt sai, làm cho bản thân cán bộ ngộ nhận, chủ quan, tự cao tự đại, gây mất đoàn kết nội bộ và sẽ ảnh hưởng
đến công tác chung của đơn vị.
- Đơn vị căn cứ Quy chế bình xét thi đua ban hành theo Quyết định số 45/QĐ-PYQG ngày 23/3/2016 của
đơn vị, để xây dựng thang điểm, đánh giá cán bộ theo từng tháng, từng quí, công khai dân chủ, làm tốt công tác tự
phê bình và phê bình là cơ sở để đánh giá cuối năm. Thông qua đó, giúp cho Đảng ủy Viện chủ động thực hiện quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, điều động, bố trí, luân chuyển cán bộ; chọn lựa, giới thiệu nhân sự cấp ủy cũng
như lãnh đạo khoa phòng trực thuộc Viện.
- Đánh giá được thực hiện cuối năm và trước khi kết thúc nhiệm kỳ, chuẩn bị bổ nhiệm, đề bạt, chuyển công

tác… trách nhiệm đánh giá thuộc về Chi bộ, Đảng ủy, lãnh đạo các khoa, phòng và bản thân cán bộ. Dựa trên nguyên
tắc tập thể, dân chủ, công khai và kết luận theo đa số.
5. Quy hoạch cán bộ
- Trong mỗi kỳ hợp chi bộ, đảng bộ luôn rà soát đội ngũ kế cận, đưa vào nguồn quy hoạch ở các chức danh,
5 năm, 10 năm và có lộ trình kế hoạch cụ thể (quan tâm đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ hoàn thành tốt nhiệm
vụ.
- Việc quy hoạch cán bộ được tiến hành theo hướng “mở” và “động”; đảm bảo về cơ cấu, tỉ lệ cán bộ trẻ, nữ,
tính kế thừa và sự chuyển tiếp, phát huy dân chủ, công khai; đảm bảo đúng quy trình, dân chủ, công khai tạo sự thống
nhất trong cấp uỷ. Hầu hết mỗi chức danh quy hoạch từ 02-03 nguồn cán bộ, mỗi cán bộ quy hoạch từ 03-04 chức

13


danh. Chất lượng quy hoạch được nâng lên về trình độ học vấn, tuổi đời, chuyên môn và lý luận chính trị; chú trọng
cán bộ nữ, cán bộ trẻ.
- Đảng uỷ rà soát bổ sung và xây dựng quy hoạch cán bộ giai đoạn 2020-2025 theo đúng quy định. Công tác
quy hoạch thời gian qua luôn đảm bảo dân chủ, khách quan; dựa trên kết quả nhận xét, đánh giá thường xuyên; bảo
đảm quyền tập trung của Ban chấp hành đảng ủy; có cơ chế để cán bộ, viên chức và các đoàn thể, tham gia giám sát
việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ.
6. Luân chuyển, điều động cán bộ
- Đơn vị thường xuyên đưa cán bộ về cơ sở, luân chuyển ở các phòng ban để cán bộ nắm bắt tâm tư nguyện
vọng gắn lý luận với thực tiễn. Quan tâm đến việc đổi mới cơ chế chính sách, giữ chân nguồn lực chất lượng cao. Lấy
phiếu tính nhiệm một cách công khai để bổ nhiệm, tái bổ nhiệm, minh bạch trong kê khai tài sản và khen thưởng
những cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ và các phong trào thi đua yêu nước.
- Công tác điều động, luân chuyển cán bộ được Đảng ủy đơn vị thực hiện gắn với việc sắp xếp, chuẩn bị
nhân sự Đại hội đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020. Chú trọng luân chuyển cán bộ trẻ trong quy hoạch, có triển vọng phát
triển để đào tạo qua thực tiễn ở cơ sở.
- Việc sắp xếp, bố trí cán bộ nhìn chung phù hợp với năng lực, sức khoẻ, chuyên môn, nguyện vọng, sở
trường; từ đó đã đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ qua thực tiễn công tác, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế cận cho cả
trước mắt và lâu dài ở các vị trí lãnh đạo của đơn vị.

* Bên cạnh những ưu điểm còn có những hạn chế:
- Phát triển công tác cán bộ chính trị tư tưởng (vai trò của cấp ủy, Đảng ủy, đối với tính tiền phong gương
mẫu).
- Đồng bộ hóa các khâu làm công tác cán bộ.
- Muốn đồng bộ phải có qui chế, tiêu chuẩn.
- Đổi mới cơ chế chính sách để giữ chân cán bộ, đẩy mạnh học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Để đội ngũ cán bộ đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển của đất nước như Văn kiện Đại hội XII đề ra là nâng
cao năng lực củng cố niềm tin; phương thức lãnh đạo, chỉ đạo; cụ thể hóa đường lối; và công tác dân vận, chúng ta có
thể và cần quan tâm đến một số giải pháp quan trọng sau đây:
a. Cần nhận thức rõ, cán bộ chiến lược và tư duy chiến lược của cán bộ không chỉ đòi hỏi ở cấp trung ương cấp vĩ mô mà cần có ở tất cả các cấp cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ trì các cấp, các ngành theo hướng “đổi mới
mạnh mẽ công tác cán bộ” như Văn kiện Đại hội XII đã nêu ra và được cụ thể hóa trong Đề án về xây dựng đội ngũ
cán bộ cấp chiến lược là, đến năm 2020 hoàn thành nghiên cứu, xây dựng chiến lược nhân tài, chương trình quốc gia
về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, lựa chọn cán bộ thực đức, thực tài, có năng lực nổi trội, chuẩn bị nguồn nhân sự cho đại
hội Đảng các cấp thông qua các tổ chức khảo sát nhân sự.
Trong khâu tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở các cấp hoạch định chiến lược cần chú trọng đến việc
trang bị kiến thức tổng hợp về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... có như vậy việc hoạch định chiến
lược và chỉ đạo thực thi nhiệm vụ phát triển quốc gia, vùng, ngành, lĩnh vực, địa phương... mới tránh được sự phiến
diện và chắp vá. Bên cạnh đó, Văn kiện Đại hội XII cũng đã yêu cầu phải: “Xây dựng và thực hiện tốt các quy định
để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác
của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị”.
b. Hai là, cần tìm kiếm phương thức tuyển chọn cán bộ “để lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững
vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là
người đứng đầu. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm
chất, ngang tầm nhiệm vụ”. Kết hợp giữa quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ với việc động viên khuyến
khích nhân tài tự nguyện tham gia xây dựng và bảo vệ đất nước.
Cơ quan Trung ương Đảng hiện đang xây dựng đề án công tác cán bộ với 05 đột phá quan trọng bao gồm:
1. Tạo môi trường bình đẳng để thu hút tối đa tiềm năng, trí tuệ của đội ngũ cán bộ các cấp đi đôi phát hiện,
đào tạo, bồi dưỡng trọng dụng nhân tài;
2. Tiêu chuẩn hóa và siết chặt kỷ cương, đồng thời mở rộng không gian, cơ chế cho sự sáng tạo;
3. Đánh giá cán bộ theo hướng đa chiều, coi trọng kết quả và hiệu quả cụ thể;

4. Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng về vật chất, tinh thần;
5. Đẩy mạnh việc nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Theo đó, việc “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các
cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
Mục tiêu của đề án là tiếp tục cụ thể hóa các quy định, quy chế về công tác cán bộ, bảo đảm sự đồng bộ, liên
thông giữa các quy định của Đảng và Nhà nước, giữa các cấp, các ngành và các khâu của công tác cán bộ.
Chúng ta cần sớm nắm bắt thành quả của thời đại công nghiệp 4.0, đồng thời coi trọng vai trò trung tâm của
con người. Cán bộ có chức, có quyền, làm chủ công nghệ với sức mạnh vượt trội nhưng vẫn phải tâm huyết, vì dân,
vì nước. Mặt khác, chúng ta cũng cần sớm hình thành một cơ chế, theo đó có thể khai thác tổng hợp tiềm năng của

14


các cơ quan có chức năng chuyên môn về hoạch định chiến lược như các viện nghiên cứu phát triển, các ban ngành
trung ương; các vụ quy hoạch và kế hoạch ở các bộ, ngành... nhằm tạo ra những yếu tố, những cơ sở, tiền đề cho một
sản phẩm chiến lược, sản phẩm dự báo có tính khoa học và thực tiễn ngày càng cao hơn.
c. Ba là, phải kiểm soát quyền lực ở tất cả các cấp, các ngành. Việc kiểm soát quyền lực hiệu quả vừa là yêu
cầu cấp bách, vừa là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược cho tương lai của đất nước.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, phải “nhốt quyền lực vào chiếc lồng thể chế”. Theo đó, quyền lực phải tuân
theo kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, sự giám sát của nhân dân, đó chính là cơ chế mà điều lệ Đảng đã quy
định. Vấn đề hiện nay là phải định hình rõ cơ chế vận hành việc kiểm soát quyền lực, làm rõ ai kiểm soát, kiểm soát
ai, kiểm soát những nội dung gì, bằng công cụ và thước đo gì.
Trước đây, chúng ta đã coi trọng tính kỷ luật, kỷ cương, nhưng vẫn còn mang nhiều định tính, nay cần được
lượng hóa, quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn như đối với cán bộ cấp cao thì có Quy định số 89-QĐ/TW “Về khung
tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”, Quy định số 90-QĐ/TW
“Về tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
quản lý”; Quy định 102-QĐ/TW ngày 15-11-2017 của Bộ Chính trị “Về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm…"; Quy
định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành TW, quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ đảng
viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành TW. Theo đó có 08 việc Ủy viên
Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải gương mẫu đi đầu thực hiện phải thực
hiện và có 08 việc Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải nghiêm khắc

với bản thân và kiên quyết chống; Kết luận số 38-KL/TW ngày 13/11/2018 của Bộ Chính trị về tổng kết 10 năm thực
hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 21/01/2019 của Ban Bí
thư, về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi
Đảng
Với các quy định cụ thể, sát hơn như vậy, những cán bộ, đảng viên có chức quyền ở cấp cao có thể được
xem xét, đánh giá chính xác hơn, cũng là để các cán bộ, đảng viên trong diện quy hoạch, sau này có thể được lựa
chọn đảm nhận những vị trí lãnh đạo cao hơn soi rọi, rèn giũa ngay từ bây giờ, đồng thời để Đảng có thể lựa chọn,
sàng lọc cán bộ từ sớm, dần hạn chế tình trạng nể nang, xuê xoa, né tránh theo kiểu, “tôi không đụng đến anh thì anh
không đụng đến tôi”… Lần đầu tiên Ban Tổ chức Trung ương Đảng ta đã lấy ý kiến về cơ chế “kiểm soát quyền lực”,
trong đó nhắc đến việc xóa bỏ những đặc quyền, đặc lợi của cán bộ có chức vụ, tiến tới cán bộ lãnh đạo, quản lý được
hưởng đúng quyền lợi gắn với chức trách, nhiệm vụ được giao, hay đề xuất tăng cường đội ngũ cộng tác viên, dư luận
xã hội, dư luận quần chúng nhân dân nhằm có thêm kênh thông tin kiểm tra, giám sát, phát hiện kịp thời những dấu
hiệu tiêu cực, chạy chức, chạy quyền… Trong phát biểu của mình tại Hội nghị toàn quốc Ngành tổ chức xây dựng
Đảng năm 2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đó là những đề xuất mới rất đáng chú ý, cần được
quan tâm, xem xét kỹ lưỡng để từng bước triển khai. Việc này rất khó và đụng chạm đến quyền lợi của nhiều cán bộ
có chức, có quyền, nhưng đã đến lúc không thể không làm”.
d. Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát của các cơ quan, nhất là giám sát ngang cấp. Theo đó, cần
kiện toàn, làm rõ trách nhiệm, nội dung kiểm tra, giám sát để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của cơ quan kiểm soát
ngang cấp, tránh tình trạng, nhiều vụ việc cơ quan ngang cấp làm rồi nhưng sau đó cấp trên kiểm tra vẫn phát hiện vi
phạm, thậm chí sai phạm nghiêm trọng hơn. Trên cơ sở đó, chấm dứt tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, “cấp trên đốt
lửa to, nhưng cấp dưới chậm đốt lửa hoặc đốt lửa nhỏ”. Kiểm soát quyền lực đòi hỏi phải chú trọng ở diện rộng, cả
các cấp thấp hơn. Bất kỳ ở đâu vi phạm pháp luật, lợi dụng chức quyền để tư lợi thì cấp nào cũng phải theo mức độ vi
phạm mà xử lý; việc kiểm soát quyền lực của cán bộ ở cấp cao dù sao cũng đã có một số quy định về kiểm tra, giám
sát và đang tiếp tục được quan tâm, nhưng với diện rộng thì kiểm soát khó hơn, vì con số rất lớn, ở từng sở, ban,
ngành, địa phương, từ tỉnh, huyện xuống mỗi xã, phường... Mặt khác, tình trạng lạm dụng chức, quyền “tham nhũng
vặt” ở diện rộng, kiểu đi đâu cũng phong bì, bôi trơn, cán bộ “mặt lạnh như tiền”, “thủ đoạn vòi vĩnh” còn rất nhức
nhối, nếu kiểm soát quyền lực diện rộng này được thực hiện thì không chỉ tạo ra của cải vất chất mà còn khôi phục lại
được niềm tin của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước ta.


Bài 4. Công tác tư tưởng
1. Lưu ý các biểu hiện của sự suy thoái: (được xác định 27 biểu hiện – 9 tư tưởng; 9 đạo đức; 9
tự diễn biến, trong Nghị quyết TW4 Khoá 12)
Nhận diện những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn
biến", "tự chuyển hoá"
1- Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị

15


1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh.
2) Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội;
phụ hoạ theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.
3) Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị;
lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
4) Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu,
không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa,
làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm
tròn chức trách, nhiệm vụ được giao.
5) Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì
thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm,
thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau
hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.
6) Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội
nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về
nghỉ hưu.

7) Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu
ý kiến hợp lý của người khác.
8) Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức
danh, vị trí công tác; chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận
nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ
phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân một cách không lành mạnh.
9) Vướng vào "tư duy nhiệm kỳ", chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước
mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu
chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích.
2- Biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống
1) Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không
quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.
2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều,
dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng,
thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.
3) Kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.
4) Mắc bệnh "thành tích", háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm, thổi phồng thành
tích, "đánh bóng" tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; "chạy thành tích", "chạy khen thưởng",
"chạy danh hiệu".
5) Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm
chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những
khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân.
6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách
nhà nước, đất đai, tài nguyên...; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua
sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tuỳ tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng
phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động.

16



7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối
tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che,
tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.
8) Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển,
chạy bằng cấp, chạy tội... Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người
thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.
9) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo
bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hoá tốt
đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội.
3- Biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ
1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ
chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng".
2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự". Phủ nhận nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng,
Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và
sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín,
vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ
trang; đòi "phi chính trị hoá" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an
ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.
6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn
chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống
phá Đảng và Nhà nước.
7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt
Nam với các nước.

8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật. Tác động, lôi
kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ suý cho quan điểm, tư tưởng dân chủ
cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hoá, nghệ thuật
lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.
9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân
quyền", dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo,
giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước.
2. Thực trạng và biện pháp để đấu tranh phòng chống sự suy thoái
* Thành tựu đạt được
- Hầu hết cán bộ, đảng viên của đơn vị đều an tâm công tác, lập trường tư tưởng vững
vàng, luôn chấp hành mọi đường lối chủ trương chính sách của đảng, pháp luật của Nhà nước,
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, xây dựng sự đoàn kết thống nhất, không dao động trước
những khó khăn thách thức…
- Đảng ủy, cấp ủy thông qua các buổi sinh hoạt đánh giá tình hình tư tưởng một cách
khách quan, thường xuyên cập nhật các văn bản thông tin, định hướng tư tưởng làm cho cán bộ,
đảng viên thống nhất từ trong ra ngoài.

17


- Mỗi cấp ủy cũng thường xuyên lắng nghe giải quyết mâu thuẫn những vấn đề nổi lên
(việc đánh giá, xếp loại, lợi ích, quy hoạch, bổ nhiệm, thay đổi nhân sự).
- Cấp ủy luôn đổi mới nội dung phương pháp, hình thức đẩy mạnh việc học tập tư tưởng
đạo đức, phong cách của chủ tịch Hồ Chí Minh, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết TW4, làm tốt
công tác tư tưởng để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, chất lượng công tác kiểm tra giám sát.
- Cấp ủy, đảng ủy, phối hợp với chính quyền, đoàn thể mở rộng dân chủ, định kỳ tiếp xúc
lắng nghe những tâm tư nguyện vọng của cán bộ, đảng viên, quần chúng.
* Bên cạnh những ưu điểm, còn có những hạn chế tồn tại
- Việc định hướng tư tưởng đôi lúc chưa kịp thời (có nhiều luồng dư luận cho sự phát triển
của KHCN làm nội bộ có sự mất đoàn kết).

- Việc triển khai Nghị quyết, văn bản, quy định vẫn không theo kịp yêu cầu.
- Ý thức của mỗi đảng viên, cán bộ khi học tập Nghị quyết chưa có ý thức tốt, không tích
cực thảo luận, không làm tốt công tác tự phê bình và có một số bài thu hoạch chưa có chất lượng.
- Còn vi phạm quy chế dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ, không mạnh dạng nêu lên
các biểu hiện, không đưa ra được giải pháp phù hợp.
- Tư tưởng của cán bộ, đảng viên cũng do tác động bởi nền kinh tế, thu nhập, đôi lúc hoài
nghi, dao động và có những lời nói chưa thật sự phù hợp.
* Biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tư tưởng để đấu tranh phòng chống sự
suy thoái
- Một là, quán triệt nguyên tắc toàn Đảng làm công tác tư tưởng, trong đó phát huy vai trò
lãnh đạo của cấp ủy và người đứng đầu. Cấp ủy đảng và người đứng đầu cần nắm chắc tình hình
tư tưởng; phân tích và định hướng tư tưởng, chỉ đạo xử lý các tình huống tư tưởng một cách
nhanh chóng, kịp thời. Có phân tích và định hướng tư tưởng. Tăng cường hoạt động nắm dư luận
xã hội của các giai tầng, các địa bàn, trước và trong mỗi sự kiện có tác động lớn tới tư tưởng.
- Hai là, đổi mới hoạt động nghiên cứu lý luận và giáo dục lý luận theo hướng mở rộng
dân chủ, tổng kết thực tiễn, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư tưởng chuyên trách. Cán bộ chủ
chốt cần có chế độ định kỳ đi cơ sở xem xét thực tiễn, trực tiếp đối thoại cùng nhân dân.
- Bốn là, tăng cường đầu tư nhằm hiện đại hóa phương tiện, trang thiết bị.
* Giải pháp (Đọc nhóm giải pháp số 1 Nghị quyết số 4 TW4 khóa 12 tham khảo thêm)
Đại hội XII đã đề ra yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với 10 giải pháp cơ
bản, trong đó nhấn mạnh phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
khoá XI, với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá " trong nội bộ. Vì vậy, các cấp uỷ, tổ chức đảng cần tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả nhiệm vụ, giải pháp sau:
Về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình
1) Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò, tầm
quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận
bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức

mới phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Thực hiện nghiêm túc, có
hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị.
2) Tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đẩy mạnh công tác tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là những mô hình mới, kinh nghiệm hay; khuyến khích phát
triển tư duy lý luận phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng. Đổi mới nội dung, phương pháp,
hình thức dạy và học lý luận chính trị gắn với ứng dụng thực tế, tăng cường kiểm tra và quản lý

18


chặt chẽ chất lượng dạy và học. Chủ động nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên để có
chủ trương, giải pháp xử lý kịp thời, hiệu quả.
3) Xây dựng và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, trong đó chú
trọng xây dựng hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với tổ chức đảng và
với nhân dân. Hằng năm, người đứng đầu và từng cán bộ, đảng viên có cam kết rèn luyện, giữ gìn
phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; các cấp uỷ, tổ
chức đảng kiểm tra, giám sát việc thực hiện cam kết của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan,
đơn vị mình.
4) Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên, trước hết là các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành
Trung ương và bí thư cấp uỷ các cấp.
5) Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Xây dựng
quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ
người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có
vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Hoàn thiện quy chế
đánh giá cán bộ một cách khoa học, phù hợp; quy định lấy phiếu tín nhiệm ở các cấp, các ngành
định kỳ hoặc đột xuất.
6) Tăng cường quản lý, chấn chỉnh hoạt động báo chí, xuất bản, Internet, mạng xã hội.
Phát huy vai trò, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí trong
công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "tự diễn

biến", "tự chuyển hoá". Chủ động định hướng, cung cấp thông tin thường xuyên hoặc đột xuất;
chú trọng tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
những thành quả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những nhân tố tích cực, điển hình
tiên tiến, gương người tốt, việc tốt. Khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân có thành tích; xử
lý nghiêm những tập thể, cá nhân vi phạm quy định về thông tin, báo chí, tuyên truyền.
7) Chủ động chuẩn bị các phương án, biện pháp cụ thể, sát với tình hình; xây dựng lý luận
sắc bén để đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của
các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị chống phá Đảng, Nhà nước
và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
8) Hoàn thiện Quy chế về kỷ luật phát ngôn đối với cán bộ, đảng viên; xử lý nghiêm
những cá nhân, nhóm người cấu kết với nhau, lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", tôn giáo,
dân tộc để tuyên truyền, xuyên tạc và có hành vi nói, viết, lưu trữ, phát tán tài liệu sai trái. Tổ
chức diễn đàn trao đổi, đối thoại những vấn đề còn có nhận thức, quan điểm khác nhau liên quan
đến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
9) Cấp uỷ, chính quyền và người đứng đầu các cấp phải xây dựng kế hoạch, tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo và kiểm tra, giám sát, khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân. Chú trọng công tác
tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện phong cách làm việc khoa học, cụ thể, sâu sát cơ sở cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
10) Hàng năm hoặc khi chuẩn bị đề bạt, luân chuyển, điều động công tác đối với cán bộ,
tiêu chí quan trọng để đánh giá, xếp loại tổ chức và cán bộ, đảng viên là: chương trình hành động
của tập thể và cá nhân; kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; kết quả thực hiện cam kết rèn
luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; tự phê bình và phê bình; sự nêu gương của cán bộ
lãnh đạo, quản lý; hiệu quả đấu tranh, khắc phục suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá".
Bài 5. Công tác kiểm tra, giám sát
1. Khái niệm công tác kiểm tra của đảng (SGK trang 175)
Theo Quy định số 30-QĐ/TW ngày 26/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng:
“Kiểm tra của đảng là việc các tổ chức đảng xem xét, đáng giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm

19



hoặc phạm vi của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành cương lĩnh
chính trị, điều lệ đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của đảng và pháp luật nhà nước. tổ chức
đảng cấp trên kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên”.
2. Khái niệm công tác giám sát của đảng (SGK trang 177)
Theo Quy định số 30-QĐ/TW ngày 26/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng: “Là
việc các tổ chức đảng theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt dộng nhằm kịp thời tác động để tổ chức
đảng cấp dưới và đảng viên được giám sát chấp hành nghiêm chỉnh cương lĩnh chính trị, điều lệ
đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng.
Tổ chức đảng cấp trên giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Tổ chức Đảng và
đảng viên thực hiện nhiệm vụ giám sát theo sự phân công. Giám sát của Đảng có giám sát thường
xuyên và giám sát theo chuyên đề; giám sát trực tiếp, giám sát gián tiếp”.
3. Phân tích công tác kiểm tra, giám sát (SGK trang 179 - 181)
Một là, kiểm tra giám sát là hoạt động tất yếu khách quan, là một biểu hiện nghiêm túc của
hoạt động có ý thức của mọi tổ chức và con người trong xã hội.
Hoạt động của tổ chức và con người trong xã hội là hoạt động có ý thức. Trước khi hành
động, các tổ chức, các tổ chức và con người phải suy nghĩ, xác định rõ ý định, chủ trương, kế
hoạch ấy trong thực tiễn. Song, thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển không ngừng theo
quy luật khách quan, nên ý định, chủ trương, kế hoạch đã xác định dù nghiên cứu tính toán, cân
nhắc kỹ vẫn có thể có những thiếu sót, sơ hở thậm chí không có khả năng thực thi hoặc sai lầm
nghiêm trọng. vì vậy, muốn đạt được kết qủa trong thực tiễn, phải xem xét tình hình thực tế để
nhận xét đánh giá, có ý nghĩa kiểm tra giám sát. Do đó hoạt động có ý thức là hoạt động kiểm trat,
giám sát, ý thức càng cao, tổ chức càng quan trọng, con người ớ cương vị càng cao và cán bộ chủ
chốt các cấp, nhiệm vụ càng khó khăn, phức tạp thì càng đòi hỏi phải coi trọng và tiến hành tốt
công tác kiểm tra, giám sát.
Hai là, kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, bộ phận quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng (SGK trang 180).
- Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Công tác kiểm tra có vị trí cực kỳ quan trọng trong
toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng”. Vì lãnh đạo không chỉ là việc xây dựng đường lối, chính

sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, việc tổ chức thực hiện và bố trí cán bộ, mà lãnh đạo còn là
kiểm tra, giám sát, không những kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, Cương lĩnh chính trị,
chủ trương, chính sách mà kiểm tra ngay bản thân Cương lĩnh chính trị, đường lối, chính sách đó
và kiểm tra, giám sát cả các tổ chức tiến hành kiểm tra nhằm bảo đảm đường lối, chính sách được
xác định đúng, được quán triệt và thực hiện thắng lợi trong thực tiễn. Đó là vấn đề có tính nguyên
tắc, vừa là chức năng lãnh đạo, vừa là trách nhiệm, nội dung, phương pháp, quy trình lãnh đạo của
Đảng.
- V.I.Lênin đã chỉ rõ: Khi đường lối, chính sach đa được xác định, mục tiêu, phương
hướng đã được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên hàng đầu và sự lãnh đạo
phải “chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh sang việc lựa chọn người và
kiểm tra sự thực hiện”. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng
lợi”. “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách
tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách
đúng mấy cũng vô ích”. “Nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn đèn “pha”.
Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ.
Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm
tra”.

20


- Thực tiễn lãnh đạo của Đảng từ khi thành lập đến nay đã khẳng định kiểm tra, giám sát là
một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng; lãnh đạo phải có kiểm tra, giám sát; lãnh đạo mà
không kiểm tra, giám sát thì coi như không có lãnh đạo. Hồ Chí Minh khẳng định: “kiểm tra có
tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà
nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng,
về tổ chức”. Qua thực tiễn, Đảng ta đã kết luận: Công tác kiểm tra, giám sát là một bộ phận quan
trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng.
Ba là, trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải coi trọng và tiến hành tốt công tác kiểm

tra giám sát của Đảng (SGK trang 181-182).
- Đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là sự nghiệp rất to lớn, phức
tạp trong giai đoạn cách mạng hiện nay do Đảng đề xướng và lãnh đạo. Là Đảng cầm quyền, nên
những thắng lợi và thành tựu, những thất bại và tổn thất của cách mạng đều gắn liền với trách
nhiệm lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định những thắng lợi và thành
tựu trong thời gian qua. Tuy nhiên, trình độ, kiến thức, năng lực lãnh đạo có mặt chưa theo kịp
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được làm sáng tỏ. Vấn
đề giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng đang đứng trước những thách thức mới. Trong
khi đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên mất cảnh giác, thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng,
giảm sát ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về đạo đức lối sống, thoái hoá về tư tưởng
chính trị gây hậu quả nghiêm trọng. “Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng
chậm được phát hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra
khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng không
nghiêm. Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp uỷ chưa tốt”.
- Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng
phải đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, … phải đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng, đặc biệt là kiểm tra, giám sát việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng, kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; nâng
cao trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát
theo Điều lệ Đảng.
4. Hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát (SGK 189-191)
Hình thức kiểm tra, giám sát
a. Hình thức kiểm tra: Có ba hình thức
Kiểm tra thường xuyên: rất quan trọng, nó giúp cho chủ thể nắm chắc tình hình mọi mặt
một cách có hệ thống theo trình tự thời gian. Qua kiểm tra thường xuyên, cấp uỷ đánh giá được
tình hình triển khai thực hiện các quyết định có biện pháp bổ sung, uốn nắn kịp thời. Kiểm tra
thường xuyên thúc đẩy sự hoạt động nhịp nhàng của các tổ chức đảng, nhắc nhở mọi đảng viên
giữ vững và phát huy vai trò tiên phong gương mẫu, phấn đấu vươn lên, chủ động sang tạo trong

công tác, hướng tới chất lượng và hiệu quả cao nhất.
Kiểm tra theo chương trình, kế hoạch: giúp chủ thể nắm bắt tình hình đều đặn trong từng
thời đoạn nhất định để có biện pháp chỉ đạo hoặc xử lý kịp thời. Đây là hình thức kiểm tra tốt,
nhưng nếu không có biện pháp tiến hành khéo thì kết quả kiểm tra rất thấp, bởi đối tượng được
kiểm tra đã biết trước kế hoạch để chuẩn bị, hoặc che chắn khuyết điểm nếu có.
Kiểm tra bất thường: giúp cho chủ thể kiểm tra đánh giá, kết luận sự việc, hiện tượng một
cách nhanh chóng, chính xác, nó làm cho đối tượng kiểm tra khó che đậy bản chất và giúp chủ thể
kiểm tra kịp thời phát hiện ra những khuyết điểm, lệch lạc từ phía đối tượng kiểm tra.

21


b. Hình thức giám sát: Có hai hình thức
Giám sát thường xuyên: là hình thức giám sát phổ biến, là hoạt động của chủ thể giám sát
thường xuyên theo dõi, xem xét, đánh giá việc đảng viên và tổ chức đảng, đối tượng giám sát,
chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, hoạt động đó diễn ra thường xuyên, liên tục.
Giám sát chuyên đề: là hình thức giám sát mà chủ thể giám sát thực hiện giám sát đối
tượng tập trung vào một số nhiệm vụ cụ thể nào đó, có thời gian cụ thể. Khi tiến hành giám sát có
ban hành quyết định, tổ chức lực lượng, có kế hoạch và chương trình giám sát.
Phương pháp kiểm tra, giám sát
a. Phương pháp kiểm tra: Có năm phương pháp
Một là, dựa vào tổ chức đảng để kiểm tra;
Hai là, phát huy tính tiền phong gương mẫu của đảng viên trong kiểm tra;
Ba là, phát huy vai trò quần chúng tham gia xây dựng Đảng;
Bốn là, dựa vào sự phối hợp hoạt động của các tổ chức, các lực lượng trong hệ thống
chính trị tham gia công tác kiểm tra;
Năm là, dựa vào thẩm tra, xác minh.
b. Phương pháp giám sát: Có hai phương pháp
Một là giám sát trực tiếp: là phương pháp chủ thể giám sát trực tiếp tiếp xúc với đối tượng

giám sát, trực tiếp đối thoại, trực tiếp quan sát, nghe, xem đối tượng giám sát phát biểu, trình bày
ý kiến để có nhận thức đúng về đối tượng.
Hai là giám sát gián tiếp: là phương pháp chủ thể giám sát nắm thông tin về đối tượng
giám sát qua nghiên cứu tài liệu, báo cáo và nghe phản ánh về đối tượng giám sát từ người khác.
5. Biện pháp để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát tại Đảng bộ, chi bộ
* Thành tựu đạt được
Đảng ủy, Ban thường vụ Đảng ủy, Chi bộ cơ sở có nhiệm vụ lãnh đạo công tác kiểm tra
giám sát, tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra giám sát, xây dựng kế hoạch, kiểm tra giám sát.
Nội dung tiến hành kiểm tra, giám sát: tập trung vào việc thực hiện các nguyên tắc hoạt
động của đảng, việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần
đoàn kết, thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao, giữ gìn phẩm chất, đạo đức lối sống…
Dựa trên kế hoạch kiểm tra giám sát, Đảng ủy, Ủy ban kiểm tra, Chi bộ cơ sở sẽ lập đoàn
kiểm tra, giám sát (xác định mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, thời gian và phương thức tiến hành
kiểm tra giám sát), thông báo công khai rộng rãi bằng các văn bản, mỗi chi bộ trực thuộc, đảng
viên chuẩn bị báo cáo, giải trình, thảo luận nghe nhận xét đánh giá.
Mỗi chi bộ trực thuộc phân công các đảng viên phụ trách công tác kiểm tra giám sát và
báo cáo định kỳ ở mỗi kỳ sinh hoạt, giám sát bằng nhiều hình thức (trực tiếp hoặc gián tiếp). Khi
có dấu hiệu vi phạm của đảng viên báo cáo lên ủy ban kiểm tra đảng ủy để tiến hành các thủ tục
quy trình.
Khi tiến hành kiểm tra giám sát, việc thẩm tra xác minh là một bước quan trọng để đánh
giá xem xét quá trình hoạt động của đảng viên, tổ chức đảng.
*Bên cạnh những ưu điểm còn có những hạn chế khuyết điểm
Kế hoạch kiểm tra giám sát đưa ra không kịp thời, không xác định rõ đối tượng, mục đích.
Các báo cáo của đảng viên, chi bộ trực thuộc không rõ ràng, không có sự thống nhất với
kế hoạch của kiểm tra giám sát.
Đảng viên phụ trách công tác kiểm tra giám sát còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn, công tác
thẩm tra xác minh ảnh hưởng đến uy tính của đảng viên, tổ chức đảng.
Đảng viên phụ trách công tác kiểm tra ở các chi bộ trực thuộc không thường xuyên báo
cáo các hoạt động của đảng viên.


22


Quá trình kiểm tra giám sát thời gian kéo dài hơn so với quy định làm cho tư tưởng đảng
viên cán bộ cảm thấy hoang mang do tác động bởi dư luận.
*Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra giám sát
Để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức cơ sở đảng trong giai đoạn
hiện này thì cần rất nhiều giải pháp, các cấp ủy cơ sở và uỷ ban kiểm tra của mình cần tập trung
thực hiện tốt những giải pháp chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức và tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ cơ sở, mà
trước hết là người đứng đầu cấp uỷ đối với công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng.
Cấp ủy, ủy ban kiểm tra và người đứng đầu cấp ủy cơ sở phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vai
trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng. Có nhận thức đúng thì
mới xác định được trách nhiệm, mới có quyết tâm để lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát đạt hiệu
quả. Ở đâu cấp ủy có nhận thức đúng, có trách nhiệm đối với công tác kiểm tra, giám sát, xây
dựng được chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện khoa học thì ở đó công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng đạt hiệu quả tốt. Tiếp tục tuyên truyền phổ biến, quán triệt và thực
hiện nghiêm túc Nghị quyết số 14-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương
(khóa X) về “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng” và kết luận số 72-KL/TW của Bộ
Chính trị về “Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020”. Triển khai, quán
triệt sâu Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định của Đảng, của cấp uỷ về công tác
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng nhiệm kỳ và Thông báo số 226-TB/TW của Ban
Bí thư Trung ương về tăng cường tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
đến toàn thể cán bộ, đảng viên.
Thứ hai, xây dựng và chỉ đạo chi ủy, chi bộ trực thuộc xây dựng chương trình kiểm tra,
giám sát toàn khoá, đồng thời hàng năm phải xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể và tổ chức
kiểm tra, giám sát có trọng tâm, sát với yêu cầu nhiệm vụ của từng địa phương, đơn vị; đề cao
việc tự kiểm tra của cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên, xác định đúng đắn trách nhiệm, nhất là
người đứng đầu; phát huy vai trò, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của Uỷ ban Kiểm tra, các ban đảng
và làm tốt chức năng tham mưu, giúp cấp uỷ lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát

theo Điều lệ Đảng quy định.
Thứ ba, tập trung làm tốt công tác nắm bắt tình hình, phát hiện và kiểm tra tổ chức đảng,
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; tập trung đi sâu kiểm tra những vấn đề nổi cộm, bức xúc,
những lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm; làm tốt công tác giải quyết đơn thư tố cáo, kiến nghị, phản
ánh của đảng viên và quần chúng đối với các tổ chức đảng và đảng viên; tập trung xem xét, xử lý
kỷ luật kịp thời, công minh, khách quan đối với các tổ chức đảng và đảng viên vi phạm; kiểm tra
việc chấp hành nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, nhất là việc bảo đảm nguyên tắc tập trung dân
chủ, giữ gìn đoàn kết nội bộ, nâng cao tính chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; đi sâu kiểm tra việc
thực hiện quyền dân chủ trong Đảng; thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
Đảng; kiểm tra mức độ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mỗi người, kỷ luật phát ngôn, việc
chấp hành Quy định của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm; chú ý kiểm tra,
giám sát việc giữ gìn phẩm chất cách mạng, đạo đức và lối sống của cán bộ, đảng viên; việc cải
cách hành chính, cải cách tư pháp gắn với đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Thứ tư, coi trọng tính tiên phong, gương mẫu của người cán bộ, đảng viên; trong đó đặc
biệt coi trọng tính gương mẫu, tính liêm khiết của người lãnh đạo, người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức
đảng, cơ quan, đoàn thể, mà trước hết là các đồng chí cấp uỷ viên của tổ chức cơ sở đảng; đồng
thời, tăng cường quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ đảng viên, gắn công tác kiểm tra
Đảng với sự giám sát, kiểm tra của các tổ chức quần chúng để chủ động phòng ngừa, hạn chế
những sai phạm và loại trừ những hành vi vụ lợi của cán bộ, đảng viên trong quá trình thực hiện

23


nhiệm vụ; kiên quyết xử lý và chỉ đạo xử lý nghiêm minh các trường hợp đảng viên, tổ chức đảng
vi phạm.
Thứ năm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của Uỷ ban kiểm tra; kiện toàn, củng cố
bộ máy ủy ban kiểm tra của cấp ủy cơ sở; thực hiện tốt việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, sử dụng, khen thưởng đội ngũ cán bộ kiểm tra để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm
công tác kiểm tra, giám sát. Cấp ủy cơ sở cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra cấp

mình đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, tính chiến đấu cao, không bị chi phối bởi mọi sức ép, kiên quyết, thẳng thắn, vững
vàng trước mọi cám dỗ, có dũng khí đấu tranh với mọi hành vi vi phạm, công tâm, khách quan,
sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời, hiểu biết sâu sắc về công tác xây
dựng Đảng, tinh thông về công tác kiểm tra, có kiến thức toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và nắm vững pháp luật, có kinh
nghiệm thực tiễn và phương pháp công tác khoa học. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công
tác kiểm tra có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt, có kỹ năng nghiệp vụ, hiểu biết sâu sắc về công
tác xây dựng Đảng, có kiến thức về quản lý kinh tế và nắm được pháp luật, có thực tiễn và
phương pháp công tác khoa học; công tâm, có bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi đối tượng,
không bị chi phối bởi mọi sức ép, kiên quyết, thẳng thắn, khiêm tốn; vững vàng trước mọi cán dỗ,
có dũng khí đấu tranh với mọi hành vi vi phạm, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao.
Thứ sáu, đổi mới mạnh mẽ phương pháp làm việc của Uỷ ban kiểm tra cơ sở theo hướng
hoàn thiện quy chế làm việc, quy trình tiến hành các cuộc kiểm tra, giám sát; phân công, phân
nhiệm rõ ràng, cụ thể, phù hợp; chú trọng chất lượng, hiệu quả, tránh bệnh hình thức, thành tích.
Đổi mới công tác đánh giá, xếp loại thi đua về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
đảng. Không xếp loại tốt đối với cơ sở không phát hiện và tiến hành kiểm tra được tổ chức đảng
và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; không xét đảng bộ trong sạch, vững mạnh đối với những
cơ sở đảng bị xếp loại trung bình về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng.
Thứ bảy, cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng phải nắm vững phạm vi, trách nhiệm và những vấn đề
cơ bản trong lãnh đạo và tiến hành công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Việc nắm vững phạm vi,
trách nhiệm kiểm tra của các tổ chức đảng sẽ bảo đảm cho công tác kiểm tra, giám sát được tiến
hành theo đúng quy định của Điều lệ Đảng và không chồng chéo nội dung, đối tượng kiểm tra,
giám sát. Quá trình tiến hành công tác kiểm tra, giám sát phải bảo đảm tính chủ động, thường
xuyên, có chương trình, kế hoạch và đúng thẩm quyền, khắc phục tình trạng lúc làm, lúc bỏ, nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm tra.
Thứ tám, quán triệt và thực hiện tốt chức năng giám sát theo quy định. Nhiệm vụ giám sát
có tác dụng rất quan trọng trong việc phát hiện những khuyết điểm, hạn chế và vi phạm của tổ
chức đảng và đảng viên, kịp thời chấn chỉnh, rút kinh nghiệm, cảnh báo, ngăn ngừa vi phạm, hoặc

làm cơ sở cho công tác kiểm tra. Vì vậy cấp uỷ cơ sở phải xác định đây là nhiệm vụ quan trọng,
phải thực hiện thường xuyên, đồng bộ, đúng thẩm quyền; tiến hành thực hiện đồng thời cả nhiệm
vụ giám sát thường xuyên và giám sát theo chuyên đề. Có như vậy, công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng mới thực sự là chức năng lãnh đạo, một nội dung quan trọng của công tác xây dựng
Đảng. Mặt khác, công tác giám sát phải dựa vào sự giám sát của nhân dân và sự phối hợp giám
sát của Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội, làm cho
việc giám sát trong nội bộ Đảng thực sự công khai, minh bạch. Kiên quyết xử lý và chỉ đạo xử lý
nghiêm minh các trường hợp đảng viên, tổ chức đảng vi phạm, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, góp
phần làm trong sạch, vững mạnh nội bộ Đảng.
Thứ chín, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đỡ của cấp ủy cấp trên trong công tác
kiểm tra, giám sát, nhất là cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng. Để nâng cao chất lượng kiểm

24


tra, giám sát của tổ chức cơ sở đảng, các cấp uỷ cấp trên, nhất là cấp trên trực tiếp cần tập trung
vào những vấn đề cơ bản sau: Quán triệt sâu sắc mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực
hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng; Tạo điều kiện để đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
năng lực, trình độ mọi mặt cho cán bộ, đảng viên của tổ chức cơ sở đảng, nhất là bản lĩnh chính
trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; Định hướng cho tổ chức cơ sở đảng làm quy hoạch cán bộ và
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát; Tăng cường kiểm tra cơ
sở, kịp thời khẳng định những cái đúng, những nhân tố mới, đồng thời phát hiện và uốn nắn kịp
thời những sai lầm, thiếu sót trong quá trình thực hiện công tác kiểm tra, giá sát; Lãnh đạo, chỉ
đạo tổ chức cơ sở đảng thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống
chính trị ở cơ sở và quần chúng nhân dân tham gia xây dựng Đảng nói chung, trong thực hiện
công tác kiểm tra giám sát nói riêng; Đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên đối với cơ sở theo
đúng chức trách của mình, cần tiến hành đánh giá thực trạng của từng tổ chức cơ sở đảng, từ đó
có chủ trương, kế hoạch chỉ đạo cụ thể, khi cần thiết, có thể chọn một số cán bộ có đủ phẩm chất,
năng lực và kinh nghiệm công tác để tăng cường cho tổ chức cơ sở đảng còn yếu kém, sai khuyết
trong công tác kiểm tra, giám sát.

* Biện pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra giám sát đối với Chi bộ đơn vị
Hoàn thiện Ủy ban kiểm tra Đảng ủy theo hướng coi trọng chất lượng, đảm bảo số lượng,
bầu những đồng chí có đủ tín nhiệm, năng lực, thành thạo công tác kiểm tra, giám sát.
Kiểm tra phải tiến hành công khai, không áp đặt quy chụp, kết luận xử lý cần thông báo
rộng rãi trong toàn Đảng bộ. Phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên, trách
nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng, chủ động phối hợp với cơ quan thanh tra, duy trì bảo vệ
pháp luật và làm tổ công tác thẩm tra, xác minh.
Vận dụng linh hoạt các hình thức, phương thức, tránh tuyệt đối hóa hình thức hay một
phương pháp nào. Kiểm tra phải trung thực và thực hiện đúng tinh thần chỉ đạo kiểm tra là chủ
động đấu tranh.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức
của các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra, trước hết là người đứng đầu cấp uỷ về công tác
kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng.
Xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, luật pháp của Nhà nước phục vụ công tác
kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng của Chi bộ.
Đổi mới, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của cấp uỷ, tổ chức đảng,
uỷ ban kiểm tra các cấp và chi bộ bảo đảm có hiệu lực, hiệu quả.
Hoàn chỉnh quy trình, phương pháp kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng; Kiện toàn tổ
chức bộ máy cơ quan uỷ ban kiểm tra và tăng cường cán bộ kiểm tra các cấp, bảo đảm tương
xứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao cho đảng viên kiểm tra giám sát.
Tăng cường đầu tư, hiện đại hoá cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện làm việc cho công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng.
Xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát phù hợp với thực tế của cơ quan, đơn
vị và có sự phối hợp hiệu quả. Không làm hình thức, giấu sự thật, bao che.

25



×