Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Đề cương ôn thi môn Chính trị Lịch sử Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.92 KB, 26 trang )

Câu 1: Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam đối với tiến trình cánh mạng Việt Nam. Nội
dung, ý nghĩa của cương lĩnh chính trị lần thứ nhất của Đảng cộng sản Việt Nam?
1. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
1.1. Tính tất yếu lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Tình hình đất nước những năm đầu thế kỷ XX
Nửa đầu thế kỷ XX, Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất dưới quyền cai quản của
triều đại phong kiến nhà Nguyễn. Ngày 01-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược và từng bước
thôn tính Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn từng bước thoả hiệp và đi đến đầu hàng hoàn toàn.
Chính sách bóc lột, cai trị của thực dân Pháp đã làm biến đổi sâu sắc xã hội Việt Nam:
Về chính trị: thực dân Pháp thi hành chính sách đàn áp đẫm máu đối với các phong trào yêu
nước của nhân dân; tiến hành xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa đồng thời vẫn duy trì
chính quyền phong kiến bản xứ làm công cụ tay sai. Thực hiện chính sách “chia để trị”: Chia Việt
Nam thành ba kỳ với các chế độ chính trị khác nhau, nhằm phá vỡ khối đoàn kết toàn dân tộc.
Tước đoạt tất cả các quyền tự do của nhân dân Xoá tên các nước Việt Nam, Lào, Campuchia
trên bản đồ chính trị thế giới, lập ra xứ Đông Dương thuộc Pháp.
Tính chất xã hội Việt Nam thay đổi: từ xã hội phong kiến độc lập chuyển thành xã hội thuộc địa
- phong kiến.
Về văn hoá - xã hội: Thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân để dễ cai trị, xây dựng nhà tù
nhiều hơn trường học (trên 90% dân số mù chữ); du nhập văn hoá đồi truỵ, tuyên truyền tư tưởng
khai hoá văn minh, nước "đại Pháp"… nhằm tạo tâm lý phục Pháp và sợ Pháp; khuyến khích tệ
nạn xã hội, dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc thế hệ trẻ Việt Nam.
Về kinh tế: thực dân Pháp đã tiến hành kế hoạch khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914)
và lần thứ hai (1919-1929) nhằm ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt của người
bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế khoá nặng nề. Biến Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói
chung thành thị trường tiêu thụ hàng hóa ế thừa của chính quốc.
Sự chuyển biến các giai tầng trong xã hội Việt Nam: Chính sách thống trị của thực dân Pháp
không chỉ làm phân hóa các giai cấp vốn có trong xã hội Việt Nam như địa chủ phong kiến và
nông dân, mà còn làm xuất hiện các giai cấp mới, như giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và các
tầng lớp mới ra đời. Các giai cấp này có địa vị kinh tế khác nhau và do đó cũng có thái độ chính
trị khác nhau trước vấn đề dân tộc.
b. Các phong trào yêu nước trước khi có Đảng và sự khủng khoảng bế tắc về đường lối


cứu nước
Khi thực dân Pháp xâm lược, hàng trăm cuộc đấu tranh thể hiện tinh thần quật cường bảo vệ
nền độc lập của nhân dân ta chống lại sự xâm lược của ngoại bang. Nhưng với ngọn cờ phong
kiến lúc đó đều thất bại.
Những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam có những chuyển biến mới. Đặc
biệt Cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930) với khẩu hiệu "không thành công thì thành nhân" đã
nhanh chóng thất bại, thể hiện khuynh hướng cứu nước dân chủ tư sản không đáp ứng được yêu
cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc.
1
Như vậy, rõ ràng là vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX, tiếp tục truyền thống yêu nước, bất
khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống thực dân Pháp theo ý thức hệ phong kiến, tư sản
của nhân dân ta diễn ra rất sôi nổi và liên tục, nhưng tất cả đều không thành công. Việt Nam lâm vào
khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước, nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho các thế hệ yêu nước
đương thời là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để
giải phóng dân tộc.
1.2. Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình vận động thành lập Đảng
Với nhiệt huyết cứu nước, với thiên tài trí tuệ, nhãn quan chính trị sắc bén và được kế thừa các giá
trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành
quyết định ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Nguyễn Tất Thành sang Pháp, Mỹ, Anh
và nhiều nước thuộc địa của đế quốc, thực dân. Sau khi đến nhiều nước trên thế giới và trải qua
nhiều nghề lao động khác nhau, Người đã rút ra một kết luận quan trọng: ở đâu bọn đế quốc
thực dân cũng tàn bạo độc ác, ở đâu người lao động cũng bị bóc lột dã man.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin đã đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư
tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập
trường cộng sản. Từ đây Người tiếp tục học tập để bổ sung hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng
thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam nhằm chuẩn bị các tiền đề về tư
tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời chính đảng tiên phong ở Việt Nam.
Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tố cáo, lên án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối
với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng.

Về chính trị: Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức “chỉ
có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Cách mạng giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng chính quốc có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho
nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước
cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc.
Lý luận về Đảng Cộng sản, Người khẳng định: Cách mạng muốn giành được thắng lợi: Trước
hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
Về tổ chức: Tháng 6-1925, thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Về tổ chức gồm 5
cấp: Tổng bộ, Xứ (kì) bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ. Thành phần lúc đầu gồm 90% là trí thức
tiểu tư sản, chỉ có 10% là công nông, về sau trí thức chiếm 40%.
Trong những năm tháng đầy cam go, hiểm nguy, thử thách, với khát vọng cháy bỏng giải phóng dân
tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hoạt động khẩn trương, tích cực và đầy sáng tạo chuẩn bị những tiền
đề về tư tưởng, chính trị, tổ chức để dẫn tới ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam - đẩy bánh xe lịch
sử của cách mạng Việt Nam phù hợp với xu thế tiến bộ của lịch sử.
1.3. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Tháng 6-1929, các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp, quyết định thành lập Đông Dương cộng sản
Đảng; Kỳ bộ Nam Kỳ quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng (tháng 11-1929); tại Trung Kỳ,
2
Tân Việt cách mạng Đảng thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, vào tháng 1-1930. Sự ra đời
ba tổ chức cộng sản đã khẳng định bước tiến về chất của phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba
miền không tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức trên cả nước.
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên của
Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đến Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập Hội nghị
hợp nhất các tổ chức cộng sản lại thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam , lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt của Đảng,

Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
2.1. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh
Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành
lập Đảng đã phản ánh về đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách
lược của cách mạng Việt Nam.
Chánh cương vắn tắt của Đảng phân tích, đánh giá khái quát đặc điểm cơ bản nhất của kinh
tế - xã hội Việt Nam dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Đặc biệt phân tích tính chất độc
quyền khai thác thuộc địa của tư bản Pháp, gây nên hậu quả kìm hãm sự phát triển kinh tế của
Việt Nam. Chánh cương xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam "chủ trương
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Như vậy, mục
tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng
thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản, chính là làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội gắn liền
mật thiết với nhau thể hiện ở mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Về nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể, chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: "Đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến", "Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập". Đây là vấn đề căn
cốt của cách mạng Việt Nam lúc này. Cương lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và chống phong kiến là
nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành
độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu. Để sau đó: "Dựng ra chính phủ công nông binh", "Thâu
hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v ) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để
giao cho Chính phủ công nông binh quản lý". Trong đó, trước hết là "Thâu hết ruộng đất của đế quốc
chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo"
Về lực lượng cách mạng: Xác định lực lượng cách mạng phải đoàn kết công nhân, nông dân -
đây là lực lượng cơ bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết tất
cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Đây là cơ
sở của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi các giai
cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức yêu nước,cách mạng, trên cơ sở đánh giá
đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam, .
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng định phải bằng

con đường bạo lực cách mạng chứ không thể là con đường cải lương thoả hiệp "không khi nào
nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp". Có sách lược đấu tranh
cách mạng thích hợp để lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông về phía giai cấp vô sản, còn "bộ
phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ".
3
Cương lĩnh cũng nêu rõ cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Đảng là
đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ
năng lực lãnh đạo quần chúng.
2.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Giá trị lý luận của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:
Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng nhất trí thông qua, đã phản ánh một cách súc tích các
luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ,
sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong
những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam
lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ
giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định đường lối chiến lược và sách của cách mạng
Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của
cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra.
Những nội dung cơ bản ấy đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản
cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu
cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến
lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng đắn,
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong kiến. Đó
chính là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi trong cách mạng Việt Nam: Kết hợp đúng
đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; Kết hợp truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng của

nhân dân ta với những kinh nghiệm của cách mạng thế giới; Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng; Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo, đặc điểm thực
tiễn, yêu cầu của cách mạng Việt Nam với tư tưởng tiên tiến cách mạng của thời đại. Vận dụng
chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo và có
phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cương lĩnh ấy rất
phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được
những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp
khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp
công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường". Chính vì vậy, con đường cách mạng vô sản mà
Cương lĩnh đã khẳng định là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam từ năm 1930. Trong bối
cảnh những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước sự khủng hoảng trầm trọng của chủ nghĩa
xã hội hiện thực trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục kiên định con đường cách
mạng mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã lựa chọn: "Đối với nước ta, không còn con đường nào
khác để có độc lập dân tộc thật sự và tự do hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là
sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta"
Giá trị thực tiễn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đối với cách mạng Việt Nam:
4
Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được khẳng định bởi quá trình khảo nghiệm của
lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước quá độ đi lên CNXH của dân tộc ta từ khi
Đảng ra đời và đến nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta trong công cuộc đổi mới theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đi theo Cương lĩnh ấy, trong suốt hơn 8 thập kỷ qua dân tộc Việt Nam đã thay đổi cả
vận mệnh của dân tộc, thay đổi cả thân phận của người dân và từng bước khẳng định vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Khi đánh giá quá trình cách mạng Việt Nam hơn 80 năm thực hiện Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ( bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhận định: “Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam
do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh
cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng
lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân,
phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc

lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.”
Thực hiện đường lối chiến lược được hoạch định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng, Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do,
phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát
triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày
càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Tóm lại thực hiện đường lối chiến lược trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Việt
Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ
đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng
trong khu vực và trên thế giới.
5
Câu 2: Nêu bối cảnh trước khi Đại hội Đảng VI. Trình bày những nội
dung cơ bản của đường lối đổi mới. Nêu khái quát kết quả của 25 năm
đổi mới. Liên hệ thực tiễn tại địa phương
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18-12-1986.
Dự Đại hội có 1129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng. Đến dự Đại
hội có 32 đoàn đại biểu quốc tế.
- Đồng chí Nguyễn Văn Linh - Uỷ viên Bộ Chính trị đọc diễn văn khai mạc Đại hội.
- Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư đọc Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng.
- Đồng chí Võ Văn Kiệt - Uỷ viên Bộ Chính trị đọc Báo cáo về phương hướng, mục tiêu
chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm (1986-1990).
Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách

mạng và khoa học.
1. Bối cảnh VN trước ĐH6
Trước ĐH6, đặc biệt là giai đoạn 1980-1985, là một đoạn đường đầy thử thách đối với
Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những
thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có nhiều khó khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu
do Đại hội thứ V đề ra, nhân dân ta đã anh dũng phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, giành những thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt: sản xuất tăng chậm;
hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn
trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời
sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn… Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục
tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định
đời sống nhân dân.
Về nguyên nhân dẫn đến tình hình trên, việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các
mặt kinh tế, xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu sót. Do vậy đã dẫn đến nhiều sai lầm “trong
việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa
và quản lý kinh tế”. “Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ
trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”, đặc biệt là bệnh chủ
quan duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận.
Từ thực tiễn, chúng ta nhận thức được những bài học quan trọng. Một là, trong toàn bộ hoạt
động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân lao động. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là
điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc
với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ
chính trị của một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết điểm, đổi
mới tư lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra đường lối đổi mới.
2. Nội dung cơ bản của ĐLĐM

Nội dung đường lối đổi mới :
6
- Đổi mới tư duy lý luận, thực tiễn xây dựng chủ nghia xã hội đòi hỏi phải nhận thức rõ hơn
những đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ, những quy luật khách quan, những hình thức, bước đi
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khắc phục những biểu hiện chủ quan, duy ý
chí, nóng vội, làm trái quy luật trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất mới.
Nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan phù hợp với thực tiễn đất nước là điều kiện
đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
- Đổi mới cơ cấu kinh tế. Khẳng định chính sách phát triển “nền kinh tế có cơ cấu nhiều
thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”
1
. Các thành phần kinh tế bao gồm kinh tế xã hội
chủ nghĩa (quốc doanh và tập thể); kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể);
kinh tế tư bàn tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức mà hình thức cao nhất là
công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên và các vùng núi cao khác.
Đại hội VI của Đảng chỉ rõ: đổi mới tư duy lý luận chính là nhận thức rõ quan điểm của V.I.
Lênin coi nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ, nhận thức và
vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của thời kỳ quá độ, của CNXH trong đó có quy luật
quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao
cấp chuyển sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa phát triển nền kinh tế hàng hóa, sử dụng
đúng đắn quan hệ hàng hóa-tiền tệ. Thực chất cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa
theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Đổi mới vai trò quản lý điều hành của Nhà nước, khắc phục bệnh quan liêu, xa rời thực tế,
chủ quan, duy ý chí. Nhấn mạnh chức năng quản lý nhà nước về kinh tế-xã hội trên cơ sở hoàn
thiện hệ thống chính sách, pháp luật. Nhà nước quản lý đất nước, xã hội bằng chính sách và pháp
luật. Hoàn thiện bộ máy chính quyền Nhà nước các cấp phù hợp với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế
và cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
- Đổi mới chính sách đối ngoại, hợp tác với các nước. Củng cố quan hệ hợp tác toàn diện với các

nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời mở rộng hợp tác với các nước khác, kể cả các nước tư bàn chủ nghĩa. Có
chính sách để thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, động viên Việt kiều đầu tư vào trong nước.
- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là phong cách lãnh đạo và làm việc. Nâng cao trình độ
trí tuệ, 1ý luận, nắm vững và vận dụng quy luật khách quan, khắc phục tình trạng lạc hậu về lý
luận. Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao trình độ nhận thức và năng lực hoạt động thực
tiễn của tổ chức đảng và của cán bộ, đảng viên đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới.
Sau Đại hội VI, Đảng và Nhà nước không ngừng cụ thể hóa, thể chế hóa, bổ sung và phát
triển đường lối đổi mới. Nhiều quyết định, nghị quyết, chính sách mới được ban hành và tổ chức
thực hiện. Quyết định 217-HĐBT ngày 14-11-1987 về quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế quốc
doanh trong sản xuất kinh doanh. Luật đầu tư nước ngoài được Quốc hội Khóa VIII thông qua, có
hiệu lực từ ngày 1-1-1988. Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị ngày 5-4-1988 về đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế nông nghiệp, giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân. Cuối năm 1988,
xóa bỏ chế độ phân phối bao cấp theo tem phiếu.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2006, tập 47, trang 389-390
7
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam sớm đề ra những
nguyên tắc chỉ đạo. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (3-1989) đã
nêu rõ những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc đổi mới:
“- Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác
Hồ, của Đảng ta. Xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, là lý tưởng của Đảng và
nhân dân ta. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy
được thực hiện có hiệu quả bằng những hình thức, bước đi và giải pháp thích hợp.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta chỉ đạo toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không
đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo
và phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có
nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô sản, làm cho các tổ chức trong hệ

thống chính trị hoạt động năng động và có hiệu quả hơn.
- Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN của nhân dân ta. Phê phán những khuynh hướng phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo
của Đảng, đồng thời lắng nghe, tiếp nhận những ý kiến trung thực, phê bình những khuyết điểm
trong sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng.
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng CNXH. Dân chủ
phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp luật, với ý thức trách nhiệm công dân. Dân chủ phải có
lãnh đạo, lãnh đạo để phát huy dân chủ đúng hướng Dân chủ với nhân dân nhưng phải nghiêm trị
những kẻ phá hoại thành quả cách mạng, an ninh trật tự và an toàn xã hội.
- Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản và quốc tế xã hội chủ nghĩa; kết
hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới”
2
.
Vượt qua những khó khăn, thách thức trong nước và thế giới, đến năm 1991, tình hình chính
trị của đất nước ổn định. Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Lạm phát năm 1990 giảm xuống còn 67,4%. Năm 1989 đã xuất khẩu gạo 1,4 triệu tấn, đứng thứ 3
thế giới, sinh hoạt dân chủ trong xã hội được phát huy. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Hoạt
động đối ngoại mở rộng, đẩy lùi tình trạng bị bao vây, cấm vận. Đời sống nhân dân được cải
thiện, lòng tin của nhân dân được khôi phục và củng cố.
3. Thành tựu 25 năm đổi mới:
* Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể từ Ðại
hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức
quan trọng. Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2007, tập 49, trang 590-592
8
* Về phát triển kinh tế
Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém và có những bước phát triển. Việc thực hiện
tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh giá là
thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu
tiên. Điều quan trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản
lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng
được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. Nền kinh tế
tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, tốc
độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức.
Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững
chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh tế
thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng chịu tác động của
khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 - 1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra
liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì
được tốc độ tăng trưởng khá.
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc triển khai
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX
của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá
cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập
khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế

giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt
hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo đảm sự ổn định
chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được nhiều lợi thế của đất nước, của
từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế, từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách
quản lý và hệ thống điều hành; cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính,
tiền tệ; phát triển nguồn và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ;…
Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô
nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm nước thu thập thấp đã
trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động
của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt cao.
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu còn rất
chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy thấp hơn kế hoạch (7,5% -
8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các nước trong khu vực (8).
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt
7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế giới nói chung;
9
quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm 2000 (thời kỳ 2001 -
2011 bình quân đạt 7,14%/năm) (9).
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn mức tăng
5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn thì đây là mức tăng
trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính tăng 3,4% so với năm 2011;
công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát
triển tăng 7% so với năm trước và bằng 33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3% (10).
Kim ngạch xuất khẩu có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với
GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 7-2012
đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay cam kết
đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD (11)
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá, trong đó sự

phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã bảo đảm an ninh lương
thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại,
chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền
kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát
triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn
định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình thực hiện
kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết quả vững chắc hơn.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản
xuất với thị trường
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng
nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ
cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất
và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng
nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp và thiếu
hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ
hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu,
thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản
xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh; các ngành dịch
vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý; có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày
càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn
vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế quản lý doanh
nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình
công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư
nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là
một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế

tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng
trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là
10
cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân
sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế vĩ
mô cơ bản ổn định
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của
các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước
được đổi mới một bước quan trọng. Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt
Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200
nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một
bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn
thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế,
chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu
tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có
bước phát triển mạnh.
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đạt một số kết
quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần, số vốn tăng 7,3 lần so với giai đoạn
2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
* Về phát triển các mặt xã hội
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt
Thành công nổi bật, đầy ấn tượng qua hơn 25 năm thực hiện đổi mới, đầu tiên phải kể đến việc
chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh cho mọi thành phần kinh tế, mọi
tầng lớp dân cư, khuyến khích, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân.

Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi năm cả
nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc làm; những năm 2001 -
2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; tế với phát triển
văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển được mở rộng những năm 2006
- 2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác dạy nghề từng bước phát triển, góp phần
đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010 (13).
Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ
đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn theo chuẩn do Ngân
hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán, thì tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả
nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi lương thực, thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993
xuống 29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm 2008. Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm
hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên
kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc đã đề ra (14). Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm
nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà
Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam được đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất
khu vực Đông Nam Á (15).
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp
từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù
11
chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn
phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối
những năm 1980 lên 90,3% năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm quy mô đào
tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học tăng 7,4%. Năm 2009, trên 1,3 triệu
sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo học.
Hoạt động khoa học và công nghệ có bước tiến đáng ghi nhận. Đội ngũ cán bộ khoa học và
công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật) đã góp phần cung cấp
luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà
nước; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài, nhất là trong
các lĩnh vực thông tin - truyền thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao,
thăm dò và khai thác dầu khí, xây dựng cầu, đóng tàu biển có trọng tải lớn, sản xuất vắc-xin

phòng dịch, và bước đầu có một số sáng tạo về công nghệ tin học.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở rộng đến khoảng
gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi
đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn khoảng 28% năm 2010; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh
dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng được
thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống chế. Tuổi thọ
trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện nay.
Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ qua: từ 0,561
năm 1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995; 0,690 năm 2000; 0,715 năm 2005
và 0,725 năm 2007 (16). Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì xếp hạng
HDI của Việt Nam năm 2007 vượt lên 13 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 129 trên tổng số
182 nước được thống kê, còn HDI thì xếp thứ 116/182. Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế - xã
hội của nước ta có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội khá hơn một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam. Như
vậy, tổng quát nhất là chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta đã đạt được ba sự vượt trội:
chỉ số đã tăng lên qua các năm; thứ bậc về HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi
thọ và học vấn cao hơn chỉ số về kinh tế.
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn,
toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, các mặt: chính trị,
xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo đảm và ổn định. Trong đó có những thành tựu rất đáng
khích lệ về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, phát
triển nguồn lao động và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ. Thành tựu đó ngày càng
khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới, khích
lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính
trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn.
Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có quan hệ với Việt Nam thừa
nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
4. Liên hệ về bài học kinh nghiệm và thực tế tại địa phương
* Bài học kinh nghiệm:
Quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam

đã đúc rút được một số kinh nghiệm chủ yếu:
12
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục
tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện đổi mới toàn diện, đồng bộ cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại. Lấy nhiệm vụ đổi mới kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Đổi
mới kinh tế đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Đổi mới hệ thống chính trị phải thận trọng,
vững chắc, vì chính trị là lĩnh vực rất nhạy cảm, phải giữ vững ổn định chính trị.
Cùng với phát triển đường lối đổi mới, Đảng đã chú trọng xây dựng, bổ sung và phát triển Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội dựa trên những thành quả tổng kết lý
luận và thực tiễn. Cương lĩnh, đường lối đổi mới của Đảng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp và hệ
thống pháp luật phù hợp với quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hai là, phải thật sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững, nâng
cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn
định kinh tế vĩ mô.
Để bảo đảm nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, khắc phục những hạn chế, yếu kém
của nền kinh tế, cần thiết phải đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ
cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; chú trọng phát triển kinh tế tri thức.
Cần thiết phải thực hiện các khâu đột phá chiến lược: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao,
xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại.
Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội.
Trong tiến trình đổi mới, nhiều vấn đề xã hội và chính sách xã hội đã được đặt ra và thực
hiện có kết quả tất cả vì cuộc sống tốt đẹp của con người, phát huy nhân tố con người. Những vấn
đề về an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội đã được thực hiện đồng bộ, kịp thời.
Điểm thành công nổi bật là thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo. Đã giảm tỷ lệ đói
nghèo từ 58% năm 1993 xuống 30% (1999), 22% (2005) và 9,6% (2010). Liên hợp quốc, trong

Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện 8 mục tiêu thiên niên kỷ (2010) đã đánh giá Việt Nam là một
trong những nước thành công nhất trong thực hiện xóa đói giảm nghèo.
Kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là kinh nghiệm thành
công trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Đồng thời cũng thể hiện bản chất của chế độ và trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước.
Bốn là, đặc biệt chăm lo, củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Xây dựng Đảng về chính trị trước hết là xây dựng, bổ sung phát triển đường lối đổi mới,
Cương lĩnh xây dựng đất nước phù hợp với mục tiêu và yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bảo
đảm cho đất nước không đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa, không sai lầm về đường lối. Về tư
tưởng, lý luận, trung thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Không ngừng tổng kết thực tiễn làm rõ những vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam.
Chú trọng đổi mới và chỉnh đốn Đảng về tổ chức, coi trọng công tác cán bộ, đảng viên. Không
ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền với học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị. Sự
13
lónh o ỳng n ca ng l nhõn t hng u quyt nh thng li ca cụng cuc i mi v
ton b s nghip cỏch mng.
Nm l, trong cụng tỏc lónh o v ch o phi rt nhy bộn, kiờn quyt, sỏng to, bỏm sỏt
thc tin t nc, chỳ trng cụng tỏc d bỏo, kp thi ra cỏc gii phỏp phự hp vi tỡnh hỡnh
mi; tng cng cụng tỏc tuyờn truyn, to s ng thun cao, phỏt huy sc mnh ca c h
thng chớnh tr v ton xó hi.
* Thc tin a phng: T liờn h.
Cõu 3: Sự phát triển nhận thức của Đảng về con đờng đi lên CNXH Việt Nam. Nờu
khỏi quỏt kt qu ca 25 nm i mi. Liờn h thc tin ti a phng?
14
CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta là vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản,
trọng yếu, liên quan trực tiếp đến đường lối chính trị của Đảng, phương hướng phát triển của
đất nước. Đây là vấn đề trung tâm, cốt lõi trong đường lối cách mạng nước ta; nó chi phối toàn
bộ các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, xây dựng
Đảng. Vì vậy, ngay từ khi ra đời cho đến nay, Đảng đều tập trung vào việc xác định mục tiêu

và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đó là những thành tựu lớn trong sự phát triển tư duy
của Đảng và nhân dân ta về xây dựng CNXH. Những thành tựu đó có ý nghĩa đặc biệt trong
điều kiện hiện nay, là một trong những nhân tố quyết định đối với sự thành công của công
cuộc xây dựng CNXH trên đất nước ta.
* Cơ sở lý luận:
CN M-LN, HCM: quan niệm lịch sử xã hội loài người là một quá trình tự nhiên thay thế lần
lượt các phương thức sản xuất, quyết định bởi sự phát triển không ngừng của LLSX: từ CSNT đến
chế dộ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ TBCN, CSCN. Sự phát triển và tiến bộ đó không
ai ngăn cản được.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin đều khẳng định tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử, nhiệm vụ đặc thù của nó trong quá trình vận động,
phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, thì có hai con đường quá
độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ nhất là con đường quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã
hội từ những nước tư bản phát triển ở trình độ cao. Con đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ
nghĩa xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp hoặc các nước tiền tư bản.
Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân
tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy,
quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về một
hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp
lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính ở nội dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa và làm
phong phú thêm lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta có đặc điểm
lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí Minh
đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển
cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội quá thấp kém của nước ta.
* Quá trình phát triển tư duy, nhận thức của Đảng về CNXH ở VN: được phản ánh
ngày càng rõ nét qua lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam từ

1930 đến nay.
1. 1930 – 1954
Ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên (2/1930), Đảng ta đã khẳng định
mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của cách mạng nước ta là độc lập dân tộc và CNXH. Cương lĩnh
chỉ rõ "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Bổ
sung cho Chánh cương vắn tắt của Đảng, Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông
15
Dương (10-1930), Đảng ta cũng chỉ ra rằng "Trong lúc đầu, cuộc cách mạng Đông Dương sẽ là
một cuộc cách mạng tư sản dân quyền nhờ giai cấp vô sản chuyên chánh các nước giúp sức
cho mà phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường XHCN".
Trong giai đoạn 1930 - 1954, hoạt động tư duy của Đảng phải tập trung vào việc thực
hiện những nhiệm vụ của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
2. 1955-1975.
Hoạt động tư duy về CNXH và con đường xây dựng CNXH của Đảng được tiến hành
khi nhân dân ta bắt tay vào xây dựng CNXH, từ 1955 là ở miền Bắc, sau 1975 là trên cả nước.
Quá trình đó được hình thành trên cơ sở khẳng định những cái đúng, cần kế thừa, những cái
trước kia đúng, nhưng nay không còn phù hợp phải thay đổi, những gì trước đây không đúng
phải kiên quyết khắc phục.
Tháng 8-1955, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 xác định "Đường lối củng cố miền Bắc
là củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước vững chắc lên CNXH".
Tháng 1-1956, trong văn kiện về đường lối cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị nhấn mạnh "Từ
khi hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta chuyển sang giai đoạn cách mạng XHCN". Hội nghị
Trung ương lần thứ 13 (12-1957) nhận định: "Từ khi hòa bình lập lại, miền Bắc hoàn toàn giải
phóng, ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên CNXH".
Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (11-1958) với việc chủ trương đẩy mạnh công cuộc cải
tạo XHCN đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cải tạo XHCN đối
với các thành phần kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Khâu chính là cải tạo và phát triển nông nghiệp; Hội nghị Trung ương lần thứ 16 (4-1959)
thông qua hai Nghị quyết quan trọng về hợp tác hóa nông nghiệp và về cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh ở miền Bắc.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đã xác định đường lối chung
của cách mạng XHCN ở miền Bắc. Sau khi xác định mục tiêu là "đưa miền Bắc tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và
củng cố miền bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất
nước nhà". Muốn thực hiện được mục tiêu đó, Đại hội đã nêu lên những biện pháp cơ bản sau:
sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực
hiện cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương
nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hóa
XHCN bằng cách "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ"; đẩy mạnh cách mạng XHCN về tư tưởng, văn hóa và
kỹ thuật; biến nước ta thành một nước XHCN có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại,
văn hóa và khoa học tiên tiến.
Từ 1965 đến 1975, miền Bắc tiến hành xây dựng CNXH trong điều kiện cả nước tiến hành cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đảng ta đã dành nhiều trí tuệ, công sức vào việc lãnh đạo sự nghiệp
kháng chiến; đồng thời quan tâm, lãnh đạo sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Tư duy của Đảng về cách mạng XHCN trong thời kỳ này được thể hiện cả trong các
Nghị quyết của Đảng, cả trong nhiều tác phẩm, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, cán
bộ quản lý, cán bộ khoa học. Những quan niệm về CNXH và con đường xây dựng CNXH thể
hiện ở những nét lớn sau:
16
+ Phát triển đường lối của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, hình thành nội dung
và tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then
chốt, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới.
+ Nêu lên "bước đi ban đầu" trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
+ Xây dựng quan điểm về cơ cấu kinh tế, xác định quan hệ công nghiệp và nông nghiệp
thể hiện ở phương hướng phát triển kinh tế phải theo đường lối ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng kinh tế
Trung ương, đồng thời phát triển kinh tế địa phương.
+ Xác định nội dung chủ yếu của đấu tranh giữa hai con đường ở miền Bắc là tiến hành
đồng thời ba cuộc cách mạng, đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn

+ Tìm tòi con đường đi lên sản xuất lớn: cuộc vận động cải tiến quản lý, tổ chức các
hợp tác xã với quy mô lớn, xây dựng huyện thành huyện nông - công nghiệp
+ Trong quản lý kinh tế, đã đề ra phương hướng: xóa bỏ quản lý hành chính cung cấp,
thực hiện quản lý theo phương thức kinh doanh XHCN.
Tuy nhiên, do điều kiện đất nước lúc đó, mô hình xây dựng CNXH của ta lúc đó qua bộc
lộ hết những nhược điểm, khuyết điểm. Nhưng thực tế đã cho thấy có nhiều cái không phù hợp,
kìm hãm sự phát triển của sản xuất
Như vậy, tư duy của Đảng trong thời kỳ này đã trải qua trên bề rộng và có đi vào chiều
sâu trên một số lĩnh vực chủ yếu, trong đó vấn đề mục tiêu, phương hướng vẫn là cơ bản. Một
số vấn đề mới được phát hiện có giá trị như chỉ ra bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ ở nước
ta. Việc nghiên cứu để đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn trong điều kiện nước ta là cần thiết,
nhưng một số giải pháp đưa ra không phù hợp. Thiếu sót của ta là chậm nhìn ra nguyên nhân
sâu xa của sự trì trệ trong sản xuất kinh doanh, chậm tìm ra những hình thức kinh tế mới để khắc
phục nhược điểm, khuyết điểm của mô hình cũ, cho phép sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
3.1975 - 1986
Năm 1976, Đại hội IV của Đảng đã phát triển một bước đường lối của Đại hội III, vạch
ra đường lối xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước: "Nắm vững chuyên chính vô sản, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách
mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hóa, trong
đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH; xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN; xây dựng
nền sản xuất lớn XHCN; xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới XHCN; xóa bỏ
chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu ".
Tuy nhiên chúng ta đã phạm một số sai lầm, khuyết điểm trong việc thiết kế các mô
hình cụ thể và tổ chức chỉ đạo thực hiện. Việc duy trì và áp dụng cơ chế cũ theo kiểu tập trung,
quan liêu, bao cấp không còn phù hợp với tình hình mới. Chính vì vậy, nền kinh tế nước ta bị
mất cân đối nghiêm trọng, khủng hoảng kinh tế - xã hội đã diễn ra. Cuộc khủng hoảng này thật
sự là một thách thức đối với cả dân tộc và chế độ xã hội ta.
Trong hoàn cảnh đó, Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) đã thông qua 2 Nghị quyết:
Nghị quyết số 20-NQ/TW về tình hình và nhiệm vụ cấp bách và Nghị quyết số 21-NQ/TW về

phương hướng, nhiệm vụ phát triển hàng công nghiệp tiêu dùng và công nghiệp địa phương.
17
Tinh thần cơ bản của Hội nghị Trung ương 6 là "làm cho sản xuất bung ra" nhằm khắc phục
khuyết điểm trong quản lý kinh tế, đề ra chủ trương phù hợp để phát triển lực lượng sản xuất.
Tháng 10-1979, Hội đồng Chính phủ công bố quyết định xóa bỏ các trạm kiểm soát ngăn sông,
cấm chợ, người sản xuất được tự do lưu thông hàng hóa ngoài thị trường, không phải nộp thuế
sau khi đã làm tròn nghĩa vụ đầy đủ đối với Nhà nước.
Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13-1-1981 về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản
phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp đã tạo ra động lực
mới trong sản xuất nông nghiệp. Trong lĩnh vực công nghiệp, Quyết định 25-CP ngày 21-1-
1981 của Chính phủ về một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ
động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh đánh dấu
sự đổi mới trong quản lý công nghiệp, giúp cho các cơ sở khắc phục được khả năng sản xuất,
giải phóng sức sản xuất, mở ra một hướng mới trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Tháng 3-1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng họp nêu rõ nhiệm vụ
trong những năm 80 là tập trung sản xuất công nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,
đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan
trọng trong một cơ cấu công nông nghiệp hợp lý.
Hội nghị Trung ương 8 (khóa V) tháng 6-1985 đã chủ trương phải dứt khoát xóa bỏ cơ
chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và
kinh doanh XHCN. Hội nghị cũng thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất
hàng hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Như vậy, sự đổi mới tư duy trong quá trình nhận thức về con đường đi lên CNXH ở
nước ta là hết sức quan trọng, là cơ sở để Đảng ta có thể hoạch định đường lối đổi mới toàn
diện sau này.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) tiếp tục khẳng định sự tồn tại khách
quan của sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường. Đại hội chỉ rõ: Cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế XHCN, hạn
chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng
suất, chất lượng hiệu quả, gây rối loạn phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực

trong xã hội. Đại hội quyết định chuyển từ cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, phát huy quyền tự chủ kinh
doanh của đơn vị và cá nhân trong khuôn khổ pháp luật, giải phóng mọi tiềm năng sản xuất.
Với đường lối đổi mới nêu trên, Đại hội VI của Đảng đánh dấu sự đổi mới quan trọng
trong nhận thức của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Đại hội VI đã có những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế. Đại hội xác định rõ các thành
phần kinh tế ở nước ta gồm: kinh tế XHCN (quốc doanh và tập thể); kinh tế tiểu sản xuất hàng
hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh
tế tư bản, tư nhân; kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức mà hình thức cao nhất là
công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu
số. Với nội dung đổi mới và những quan điểm nêu trên, Đại hội VI không phải là thay đổi mục
tiêu XHCN mà là nhận thức đúng đắn hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta.
4. Từ 1986 đến nay
18
Sự phát triển tư duy của Đảng ta ở thời kỳ này diễn ra trong quá trình vừa cụ thể hóa,
bổ sung và phát triển Nghị quyết Đại hội VI, vừa dựa vào những thành tựu tư duy từ trước để
xây dựng Cương lĩnh, hình thành quan niệm về CNXH và con đường xây dựng CNXH trong
thời kỳ quá độ ở nước ta.
- Trong nhiệm kỳ Đại hội VI, Ban Chấp hành Trung ương đã họp nhiều Hội nghị Trung
ương để triển khai Nghị quyết Đại hội VI, đặc biệt Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khóa VI (3-
1989) đã cụ thể hóa và phát triển nhiều quan điểm của Đại hội VI, nhất là về điều chỉnh cơ cấu
kinh tế theo hướng tập trung thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế; thực hiện
chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất, đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế, chuyển mạnh các đơn vị kinh tế sang hạch toán kinh doanh theo quan điểm
phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH; đẩy mạnh
hoạt động kinh tế đối ngoại; xây dựng và phát huy dân chủ XHCN, đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của hệ thống chính trị.
Hội nghị Trung ương 6 khóa VI đã rút ra nhiều kết luận quan trọng như: chính sách
kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên
CNXH. Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất vốn có bản chất riêng, nhưng trong hoạt động

sản xuất kinh doanh không ngăn cách nhau mà có nhiều loại hình hỗn hợp đan kết với nhau
vừa cạnh tranh nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật. Kinh tế quốc doanh cần có đủ lực
lượng chi phối thị trường, song không nhất thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành nghề
Những kết luận đó thể hiện trình độ tư duy của Đảng đã được nâng lên. Nghị quyết Đại hội VI,
do đó đã được cụ thể hóa và phát triển một bước quan trọng.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII họp trong điều kiện tình hình thế giới có nhiều
biến động phức tạp: chế độ XHCN ở các nước Đông Âu đã bị sụp đổ, Liên Xô đã tiến hành cải
tổ nhưng chệch hướng và đang có nguy cơ tan rã. Điều đó đã tác động xấu đến một bộ phận
cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Các thế lực thù địch nhân cơ hội tấn công quyết liệt vào các
nước XHCN còn lại, trong đó có Việt Nam. Trên cơ sở tổng kết thực hiện đường lối đổi mới
của Đại hội VI, Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000.
Cương lĩnh tiếp tục khẳng định việc kiên định con đường đi lên CNXH ở nước ta và
nêu rõ 6 đặc trưng cơ bản của CNXH ở Việt Nam. Đó là:
+ CNXH ở nước ta là xã hội do nhân dân lao động làm chủ.
+ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
+ Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà, bản sắc dân tộc.
+ Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
+ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
+ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Đồng thời với việc xác định 6 đặc trưng mang tính mục tiêu, Cương lĩnh của Đảng đã
nêu lên những phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.
19
Những phương hướng đó chính là những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng CNXH
trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) đã khẳng định: "Nước ta đã
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội' và "nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá
độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời

kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"; "con đường đi lên CNXH ở nước ta
ngày càng được xác định rõ hơn.
Như vậy, đến trước Đại hội IX của Đảng, nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở
nước ta theo tinh thần đổi mới đã được xác lập và từng bước được bổ sung, hoàn thiện dần.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2001) một lần nữa khẳng định sự kiên định
mục tiêu cách mạng của nhân dân ta là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất đi lên
CNXH. Độc lập dân tộc luôn gắn liền với CNXH. Mục tiêu phấn đấu đề ra trong Đại hội IX là
"xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh".
Về thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, Đại hội chỉ rõ: "con đường đi lên CNXH của
nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức bỏ qua việc xác
lập vị trí thống nhất của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa
đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh
tế hiện đại. Đi lên CNXH phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế, Đại hội IX xác định: Trong thời kỳ quá độ
ở nước ta tất yếu phải tồn tại các hình thức sở hữu đa dạng, đan xen với 6 thành phần kinh tế
khác nhau: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân;
kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Đại hội chỉ rõ các thành phần
kinh tế này đều là những bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X diễn ra trong khi công cuộc đổi mới đã, đang đạt
được những thành tựu rất quan trọng và đất nước có bước phát triển to lớn để hội nhập sâu hơn
vào nền kinh tế thế giới.
Đại hội X nhấn mạnh con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ
hơn. Nhận thức sáng tỏ hơn trước hết là mục tiêu và mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với 8
đặc trưng:
+ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
+ Do nhân dân làm chủ.
+ Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất

phù hợp với lực lượng sản xuất.
+ Có nền văn hoá tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Con người được giải phóng mọi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc
và phát triển toàn diện.
+ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
20
+ Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản.
+ Có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
- Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2011) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) , Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
+ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
+ Do nhân dân làm chủ;
+ Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp;
+ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
+Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
+ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng.
+ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo;
+ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Như vậy, so với Cương lĩnh 1991, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) có một số điều chỉnh quan trọng.
-Cương lĩnh xác định rõ: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây
dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị,
tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng
phồn vinh, hạnh phúc”.
“Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta

trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
3
.
- Những phương hướng cơ bản.
Phương hướng cơ bản, Cương lĩnh đề ra nhằm thực hiện thành công các mục tiêu trên:
“Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức,
bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển; chủ động hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG, H, 2011, trang 71
21
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”
4
.
Sự phát triển nhận thức của Đảng thể hiện ở những điểm sau:
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định rõ 3 điểm:
Một là, đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Hai là, về đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng: So với Cương lĩnh
năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) có một số điểm mới sau:
- Thêm 2 đặc trưng:
+ Đặc trưng bao trùm, tổng quát: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và

đặc trưng “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Hai đặc trưng này Đại hội X đã bổ sung. Điểm mới so với Đại hội X là
chuyển từ “dân chủ’ lên trước từ “công bằng” trong đặc trưng tổng quát, bởi vì, cả lý luận và thực
tiễn đều chỉ rõ dân chủ là điều kiện, tiền đề của công bằng, văn minh; đồng thời, để nhấn mạnh
bản chất của xã hội ta là xã hội dân chủ theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Bổ sung, phát triển một số đặc trưng cho chính xác với mục tiêu khi nước ta đã xây dựng
xong chủ nghĩa xã hội.
Mở rộng biên độ “do nhân dân làm chủ”, chứ không giới hạn “do nhân dân lao động làm
chủ” như Cương lĩnh năm 1991.
Đặc trưng về con người, Cương lĩnh năm 1991 xác định: Con người được giải phóng khỏi
áp bức, bóc lột, bất công, làm theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Đặc trưng về dân tộc, Cương lĩnh 1991 xác định: các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn
kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: “Các
dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”.
Đặc trưng về hợp tác quốc tế, Cương lĩnh năm 1991 xác định : “Có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã mở
rộng thành “có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Đặc trưng về kinh tế: Cương lĩnh năm 1991 xác định “có một nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Đại hội X
xác định “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Quan điêm của Đảng phù hợp với chính
sách phát triển các thành phần kinh tế của Đảng ta hiện nay, tránh được cách hiểu coi nhẹ đối với
khu vực kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân. Kế thừa Đại hội X, Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) xác định “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (so với Đại hội X có bổ sung từ “tiến bộ”, Đại hội đã biểu
quyết với 65,04%, đồng ý với đặc trưng này).
Ba là, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ 2 nội dung quan trọng:
4

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG, H, 2011, trang 72
22
Nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: Quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm
tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
Chỉ rõ những thuận lợi cơ bản:
- Có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập
và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo;
- Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt;
- Nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao
động và sáng tạo, luôn luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng;
- Chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng;
- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri
thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển.
Bốn là, về mục tiêu
- Mục tiêu tổng quát: Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 1991) viết: “Mục tiêu tổng quát khi
kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước
xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. So với Cương lĩnh năm 1991, có điều chỉnh một
vài từ ngữ (thay từ “xong” bằng từ “được”, dùng cụm từ “nền tảng kinh tế” thay cho “những cơ sở kinh
tế”, bổ sung cụm từ “ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”, thay cho từ “phồn vinh”).
- Về mục tiêu của chặng đường sắp tới: Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu mục
tiêu đến giữa thế kỷ XXI: toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành
một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về các phương hướng cơ bản
- Cương lĩnh năm 1991 xác định bảy phương hướng cơ bản. Cách xác định như Cương lĩnh năm
1991 đề cập đến cả định hướng phát triển, nên có nhiều nội dung trùng lặp. Kế thừa cách viết như Đại
hội X, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: Để thực hiện thành công các mục tiêu

trên (mục tiêu tổng quát, mục tiêu của chặng đường tới), toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần
cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt
qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức,
bảo vệ tài nguyên, môi trường (so với Đại hội X thêm cụm từ “gắn với phát triển kinh tế tri thức,
bảo vệ tài nguyên, môi trường”).
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. (so với Đại hội X bổ sung cụm từ
“xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”).
23
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (so với Đại
hội X bổ sung cụm từ “trật tự, an toàn xã hội”).
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (Đại hội X mới xác định “chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế”).
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất (so với Đại hội X thêm cụm từ “tăng cường và mở
rộng mặt trận dân tộc thống nhất”).
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Tóm lại, so với Đại hội X, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) có bổ sung, phát triển ở 5
phương hướng (1,3,4,5,6).
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung nội dung về việc nắm vững và giải
quyết tốt các mối quan hệ lớn:
- Giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
- Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
- Giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa;
- Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã

hội chủ nghĩa;
- Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
- Giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa;
- Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
- Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Nhờ những nhận thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH, công cuộc xây dựng
CNXH của Đảng và của nhân dân ta nói chung, sự nghiệp đổi mới của Đảng ta hiện nay đã và
đang đạt được những thành tựu vô cùng to lớn về mọi mặt, đưa đất nước thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát chấm dứt, đời sống nhân dân ngày
càng được cải thiện. Thành tựu lớn nhất là chúng ta vẫn đứng vững, CNXH ở Việt Nam ngày
càng trở thành hiện thực, trở thành mục tiêu, động lực vươn tới của toàn Đảng toàn dân ta.
2. Nêu khái quát kết quả của 25 năm đổi mới. (Đã có ở Câu 2)
Liên hệ thực tiễn tại địa phương?
* Một số bài học rút ra trong quá trình thay đổi nhận thức:
- Quá trình hoạch định, bổ sung và phát triển đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986
đến năm 2011 là quá trình phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam dựa trên sự kết hợp chặt chẽ giữa tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, đổi mới tư
duy. Từ năm 1986 đến nay thực hiện đường lối đổi mới, không ngừng bổ sung, phát triển đường lối đổi
24
mới trước những vấn đề mới nảy sinh và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Những năm 1986-
2010 là xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
- Nếu ở những năm trước đổi mới (1986), Đảng mới đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ
nghĩa với nội dung đường lối chung và đường lối phát triển kinh tế thì trong công cuộc đổi mới từ
năm 1986 Đảng đã tập trung trí tuệ, phát triển nhận thức để hoạch định Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh 1991 là thành quả quan trọng trọng
công tác lý luận của Đảng, là sự nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, đặc
trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn Việt Nam. Lần đầu tiên, cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam có Cương lĩnh đề cập toàn diện những vấn đề về cách mạng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh đó là sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về

chủ nghĩa xã hội. Đã nhận thức rõ những vấn đề của thời kỳ quá độ mà C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin đã nêu ra, nhấn mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa là một thời đại nghĩa là một quá
trình chuyển biến cách mạng lâu dài đầy khó khăn, phức tạp. Đặc biệt, Cương lĩnh đã thể hiện
nhận thức rõ những quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và hình thức, bước đi
của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Cũng như hoạch định đường lối, chính sách, việc xây dựng Cương lĩnh không thể làm một
lần là xong. Cần phải không ngừng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu và tổng kết lý luận để bổ sung
phát triển Cương lĩnh. Trải qua một phần tư thế kỷ thực hiện công cuộc đổi mới và 20 năm thực
hiện Cương lĩnh 1991, Đại hội XI của Đảng (1-2011) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh năm 2011
đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Sáng tỏ về mục tiêu, mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa với 8 đặc trưng, về những vấn đề của
thời kỳ quá độ, nhất là chế độ kinh tế, chế độ chính trị để có cơ sở thể chế hóa trong Hiến pháp,
pháp luật, về khả năng và nội dung bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và sự cần thiết kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản. Cương lĩnh xác định rõ hơn mục tiêu
tổng quát và mục tiêu, bước đi cụ thể và những phương hướng cơ bản, giải quyết đúng đắn các
mối quan hệ lớn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
- Việc hoạch định, bổ sung, phát triển đường lối, Cương lĩnh để thực hiện cách mạng xã hội
chủ nghĩa thể hiện sự kiên định mục tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa - mục tiêu, con đường mà
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đó là con đường phát triển đúng đắn và tất yếu của
cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một khoa học và với tư cách là một chế độ
xã hội, đã và đang từng bước được xây dựng trong thực tiễn nghĩa là từng bước được hiện thực
hóa. Sự hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam góp phần vào sự phát triển lý luận về chủ
nghĩa xã hội trên thế giới, bảo vệ những giá trị khoa học, cách mạng, nhân văn, nhân đạo và tính
hiện thực của học thuyết khoa học về chủ nghĩa. Cách bảo vệ và phát triển tốt nhất chủ nghĩa xã
hội là hiện thực hóa nó một cách sinh động, cụ thể và chứng minh bằng thực tế.
- Từ những năm 70, 80 của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới gặp nhiều khó
khăn, lâm vào khủng hoảng sâu sắc, toàn diện dẫn tới sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở
các nước Đông Âu và Liên Xô những năm 1989-1991. Từ bài học thất bại đó, các nước tiếp tục
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trong đó có Việt Nam đã tỏ rõ bản lĩnh chính trị, không

ngừng thúc đẩy cách mạng xã hội chủ nghĩa và đạt được những thành tựu rất quan trọng. Thành
tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội từ công cuộc đổi mới ở Việt Nam và các nước khác phản ánh sự
phát triển phong phú, đa dạng trong nhận thức và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội. Qua hợp tác
25

×