Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Tiểu luận chuyên viên chính: Những thuận lợi, khó khăn trong cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay và thực trạng cải cách hành chính ở Tổng cục Môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.83 KB, 56 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
------------------------

TIỂU LUẬN
Lớp bồi dưỡng ngạch Chuyên viên chính khoá VI năm 2015

CHUYÊN ĐỀ:
Những thuận lợi, khó khăn trong cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay
và thực trạng cải cách hành chính ở Tổng cục Môi trường
Họ và tên: Nguyễn Văn Hưng
Sinh ngày: 16/6/1975
Cơ quan công tác: Tổng cục Môi trường

Hà Nội, ngày 02 tháng 11 năm 2015

1


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU............................................................................................................................................................... 3
CHƯƠNG
I:

LUẬN
CHÍNH...................................................6

VỀ

CẢI


I.
Khái
niệm

vai
trò
chính.....................................................................................6

của

III.
Quan
điểm
của
Đảng
chính..............................................................................10

về

III.
Mục
tiêu,
nhiệm
vụ
chính...............................................................................12

của

CÁCH
cải


HÀNH

cách

hành

cải

cách

hành

cải

cách

hành

CHƯƠNG II: NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN TRONG CẢI CÁCH
HÀNH CHÍNH.......................................................................................................................................................... 18
I.
Những
lợi...................................................................................................................................................... 18

thuận

II.
Những
khó

khăn
trong
chính.................................................................................... 23

hành

cải

cách

III.
Nguyên
nhân
hạn
kém............................................................................................................. 25

chế,

yếu

IV.
Nhận
xét,
đánh
chung........................................................................................................................... 25

giá

CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG CẢI CÁC HÀNH CHÍNH Ở TỔNG CỤC
MÔI TRƯỜNG......................................................................................................................................................... 28

I.
Về
tổ
chức
chỉ
đạo,
chính.....................................................................28

điều

hành

cải

cách

hành

II. Đánh giá các nội dung cải cách hành chính của Tổng cục Môi
trường.....................34
III. Đánh giá chung về công tác cải cách hành chính trong giai đoạn của Tổng
cục
Môi
trường....................................................................................................................................................................... 43
CHƯƠNG IV: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CẢI
CÁCH HÀNH CHÍNH...................................................................................................................................... 47
I. Các giải pháp về
chung.............................................47

cải


cách

hành

chính



Việt

Nam

nói

II. Các giải pháp về
trường........................................52

cải

cách

hành

chính



Tổng


cục

Môi

2


KẾT LUẬN................................................................................................................................................................... 53
TÀI
LIỆU
KHẢO............................................................................................................................... 55

THAM

LỜI NÓI ĐẦU
Cải cách hành chính là một công việc quan trọng, trên thế giới hiện nay
không có nước nào là không tiến hành nhiệm vụ cải cách hành chính, cải cách
tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước. Nhưng đồng thời đây cũng là một công việc
vô cùng khó khăn và phức tạp.
Cơ quan hành chính tại Việt Nam trong thời gian trước đây đã chứng tỏ
là kém hiệu lực. Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng nhiều nấc, với những
chồng chéo, mắt xích trung gian không cần thiết; sự phân định chức năng nhiệm
vụ quyền hạn giữa các cơ quan tổ chức và cán bộ Nhà nước không rõ ràng, có
nhiều mâu thuẫn; hoạt động quản lý trì trệ, quy trình ra quyết định chậm chạp,
kém hiệu quả. Bên cạnh đó, quyết định quản lý ban hành nhiều nhưng không
được thực hiện nghiêm chỉnh, chất lượng các viên chức, công chức giảm sút,
việc sắp xếp cán bộ nhiều khi tuỳ tiện. Các nguyên tắc quản lý Nhà nước chưa
được nhận thức và áp dụng đúng đắn, vừa tồn tại bệnh tập trung quan liêu, vừa
có nhiều biểu hiện tư do, tuỳ tiện, vô chính phủ… Tất cả các hiện tượng trên
đây đã được các cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước nhắc đến nhiều

lần.
Nói đến cải cách là nói đến việc thay đổi cơ bản một trạng thái, một đối
tượng, làm cho đối tượng đó có sự biến đổi phù hợp với yêu cầu khách quan của
quá trình phát triển, làm cho nó tốt hơn theo nhu cầu của con người. Công cuộc
cải cách hành chính mà Việt Nam đã bắt đầu thực hiện từ nhiều năm trước đây
nhằm hướng tới việc thay đổi trạng thái của cơ chế hành chính hiện hành, làm
cho nó thay đổi phù hợp với yêu cầu của thời kỳ phát triển mới của đất nước.
Tất nhiên, cuộc cải cách này không nhằm thay đổi nền tảng của nền hành chính
nhà
3


nước Việt Nam mà chỉ làm thay đổi cơ chế vận hành của nó theo yêu cầu quản
lý đất nước trong thời kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự điều tiết
của Nhà nước.
Cải cách hành chính ở Việt Nam được tiến hành với một số đặc điểm nổi
bật là:
Việt Nam đã đang trong quá trình đổi mới với những thành công ban đầu.
Đất nước đã vượt qua được cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài trong
nhiều năm, nền kinh tế đã bắt đầu chuyển động theo cơ chế thị trường có sự điều
tiết của Nhà nước.
Trong khi đó, nhiều nước trên thế giới trong quá trình phát triển của mình
cũng tiến hành cải cách hành chính để đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước
nhằm tiếp tục đưa đất nước tiến lên và phát triển một cách bền vững. Những bài
học của nhiều nước tiên tiến, theo nhiều con đường khác nhau đã tác động đến
Việt Nam làm thay đổi nhận thức của nhiều nhà lãnh đạo đất nước. Nhiều người
ở Việt Nam dần dần đã nhận ra rằng, cải cách nền hành chính nhà nước là một
đòi hỏi có tính quy luật. Việt Nam cũng nằm trong quy luật đó.
Hơn nữa, bản thân nền hành chính nhà nước của Việt Nam được hình
thành và vận hành qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau, tuy đã có nhiều đóng

góp cho việc quản lý đất nước, nhưng thực tế cũng cho thấy, khi bước vào thời
kỳ hòa bình xây dựng và trước đòi hỏi quản lý nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trường, nó ngày càng bộc lộ nhiều khuyết tật có tính cố hữu, ngày càng bộc
lộ sự xa dân, quan liêu. Đặc biệt bộ máy rất cồng kềnh, hoạt động kém hiệu lực
và hiệu quả, thủ tục điều hành rất nặng nề, gây phiền hà cho dân. Chế độ và
trách nhiệm công vụ không rõ ràng, thiếu minh bạch. Cán bộ, công chức có
nhiều người sách nhiễu dân, lãng phí và tham nhũng ngày càng nên phổ biến, có
tổ chức và trở thành quốc nạn. Như vậy, Việt Nam muốn phát triển không thể
nào không tiến hành cải cách để đổi mới nền hành chính nhà nước. Thật ra,
trước khi đưa ra chiến lược cải cách hành chính, vào thời kỳ gian khó nhất của
đất nước sau ngày thống nhất, Đảng cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh một cách
công khai trong toàn Đảng rằng, “Đảng phải thay đổi, phải đổi mới, đất nước
phải tiến hành cải cách nhiều mặt”. Trong nhiều văn kiện chính thức của mình,
Đảng cộng sản Việt Nam nhận định rằng, nếu không cải cách nền hành chính thì
sự tồn vong của chế độ sẽ bị ảnh hưởng là điều chắc chắn
Ngày nay, cải cách hành chính là vấn đề mang tính toàn cầu. Cải cách
hành chính đang thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự
phát triển đất nước. Việt Nam đang là nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai
trên thế giới, công nghiệp và dịch vụ phát triển, đầu tư nước ngoài xu hướng
chung là tăng, nhiều vấn đề xã hội đang được giải quyết tốt. . .Tuy nhiên, ở Việt
Nam đang còn rất nhiều vấn đề kinh tế - xã hội đã tồn tại từ lâu và mới nảy sinh
4


cần phải được giải quyết tích cực và có hiệu quả. Bên cạnh đó, bối cảnh toàn cầu
hoá đang đặt ra trước Việt Nam những thách thức và cơ hội mới đòi hỏi phải có
những cố gắng cao độ. Điều đó cũng có nghĩa là quá trình cải cách hành chính ở
Việt Nam còn rất nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục giải quyết. Cái khó trong
cải cách hành chính ở Việt Nam là phải tiến hành một cuộc cải cách hành chính
có tính chất cách mạng từ quản lý lập trung quan liêu, bao cấp sang quản lý

trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng dân chủ.
Trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và văn hoá, cải cách hành chính trở
thành một trào lưu, là một nhu cầu tự thân, nỗ lực của hầu hết các quốc gia trên
thế giới, nhằm xây dựng một nền hành chính nhà nước hiện đại, năng động, hiệu
quả, giảm phiền hà, một nền hành chính lấy đối tượng phục vụ làm tôn chỉ, mục
đích chủ yếu,để từđó xây dựng, phát triển vàhoàn thiện nền hành chính.
Ở Việt Nam hiện nay, công cuộc cải cách hành chính nhà nước đang là
tâm điểm trong các nỗ lực của Đảng và Nhà nước nhằm tiến tới phát triển, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, “Nhà nước của dân, do dân, vì
dân”, xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực
hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” và
là điều kiện căn bản để góp phần đạt được các mục tiêu của kế hoạch phát triển
kinh tế -xã hội quốc gia.
Đảng ta, tại Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần IX đã khẳng định tiếp tục
“ Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng
bước hiện đại hoá” không chỉ là mục tiêu của công cuộc cải cách hành chính mà
còn là chủ trương góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế
-xã hội đến 2010 ở Việt Nam.
Đại hội XI tiếp tục khẳng định: Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ
tục hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà
cho tổ chức và công dân.
Chính vì vậy, tôi đã chọn vấn đề “Những thuận lợi, khó khăn trong cải
cách hành chính ở nước ta hiện nay và thực trạng cải cách hành chính ở
Tổng cục Môi ” để làm đề tài cho tiểu luận Lớp bồi dưỡng chuyên viên chính
khoá VI - Học viện Tư pháp.
Kết cấu của tiểu luận gồm:
Mục lục
Chương I: Lý luận về cải cách hành chính
Chương II: Những thuận lợi, khó khăn trong cải cách hành chính ở Việt
Nam hiện nay


5


Chương III: Thực trạng cải cách hành chính ở Tổng cục Môi trường trong
những năm gần đây
Chương III: Giải pháp cải cách hành chính ở Việt Nam trong thời gian tới
Kết luận

CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
I. Khái niệm và vai trò của cải cách hành chính
1. Khái niệm cải cách hành chính
Hiện nay trên thế giới, về mặt lý thuyết, có nhiều quan niệm khác nhau về
cải cách hành chính. Có quan niệm cho rằng cải cách hành chính là sự cải tổ và
điều chỉnh cơ cấu tổ chức do đó dẫn đến sự thay đổi về chức năng, phương thức
quản lý và cơ cấu nhân viên. Đây là quan niệm có tính phổ biến và chủ đạo nhất.
Song, do quan điểm về ý thức hệ và tình hình thực tế của các nước khác nhau
nên nội dung, mục tiêu cải cách hành chính cũng khác nhau. Tuy vậy, cải cách
hành chính đều xuất phát từ thực tiễn và phát sinh chủ yếu do nguyên nhân sau:
yêu cầu tất yếu của phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu tất yếu của việc cải tạo,
điều chỉnh của cơ cấu hành chính, kết quả tất yếu của sự tác động của tiến bộ
khoa học vào quản lý hành chính. Về tính chất, cải cách hành chính là một sự
biến đổi hay cách mạng trong lĩnh vực thượng tầng kiến trúc và quan hệ sản
xuất, có tính chất chính trị và giai cấp rõ rệt. Tuy nhiên, từ góc độ hành chính thì
cải cách hành chính phải phục tùng nhu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất xã hội và thúc đẩy khoa học hoá sự quản lý công việc của toàn
bộ hệ thống hành chính nhà nước, nên nó có tính cộng đồng xã hội nhất định.
Tuy nhiên, tính chất của cải cách hành chính ở các nước khác nhau, vẫn có sự
khác biệt về bản chất. Tính chất khác biệt chủ yếu về mặt chính trị, tính cộng

đồng biểu hiện ở các khía cạnh sau đây:

6


- Cải cách để thúc đẩy việc khoa học hoá, hiệu suất hoá công việc quản lý
hành chính;
- Cải cách là để kích thích công tác và tính tích cực của cán bộ, công
chức, phát huy đầy đủ năng lực sáng tạo của họ.
- Cải cách là để xây dựng hệ thống quản lý Nhà nước có cơ cấu hợp lý,
công năng đầy đủ, chức năng rõ ràng, tinh giản mà hiệu quả cao, có cơ chế tự
kiểm soát để thích ứng với sự thay đổi phát triển của tình hình kinh tế xã hội.
Từ những phân tích trên đây, cải cách hành chính có thể được hiểu một
cách khái quát, chung nhất, đó là:
Cải cách hành chính là hoạt động của Chính phủ căn cứ vào yêu cầu phát
triển kinh tế, chính trị của xã hội mà hiện đại hoá, khoa học hoá, hiệu suất hoá
thể chế hành chính, cơ cấu tổ chức, chế độ công tác, phương thức quản lý để
nâng cao năng suất và hiệu lực hành chính của toàn bộ nền hành chính nhà
nước.
2. Vai trò của cải cách hành chính đối với sự phát triển của đất nước
Cải cách hành chính được Đảng và Nhà nước ta xác định là khâu đột phá
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cần. Từ nhiều năm nay, vấn đề cải
cách hành chính rất được quan tâm, trên các văn bản quản lý của cơ quan nhà
nước và các phương tiện thông tin đại chúng đều thường nhắc nhở đến các
chuyện "một cửa", xóa bỏ "xin cho", giảm bớt giấy phép và thủ tục phiền hà v.v.
Đánh giá chung là chương trình cải cách hành chính thực hiện chậm, công việc
không dứt điểm, chưa đi vào bề sâu, làm cho chủ trương cải cách hành chính
chưa thực sự trở thành khâu đột phá trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
qua từng thời kỳ. Có nguyên nhân trong tổ chức điều hành, song trong khi chuẩn
bị tiếp tục mở rộng và đi sâu hơn nữa trong những năm tới, cũng cần làm rõ hơn

về vai trò, thực chất, nội dung của cải cách hành chính để chương trình có thể
đạt được kết quả xứng đáng.
a) Về vị trí, vai trò của cải cách hành chính trong sự nghiệp phát triển
và đổi mới
Cải cách hành chính ở phương Tây còn gọi là cải cách chính phủ, ở Trung
Quốc gọi là cải cách thể chế quản lý hành chính, nội dung không khác nhau bao
nhiêu, đều nhắc đến các yêu cầu điều chỉnh quan hệ giữa cơ cấu hành chính và
các cơ cấu xã hội khác, hoặc quan hệ nội bộ của cơ cấu hành chính, điều chỉnh
chức năng, tổ chức và nhân sự hành chính. Mục đích của cải cách hành chính là
nâng cao hiệu suất hoạt động hành chính, thích ứng với những thay đổi, đòi hỏi
của môi trường trong nước và quốc tế.
Đối với nước ta, đang chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học,
7


công nghệ mới, nhiệm vụ cải cách hành chính nặng nề gấp đôi và đã trở thành
bức xúc đối với tiến trình phát triển và đổi mới.
Hiện nay, mặc dầu đã có không ít thành tích cải cách, nhưng quản lý hành
chính vẫn là khâu chậm trễ và nhiều khi cản trở những cố gắng phát triển, dù là
về kinh doanh, đầu tư, sự nghiệp, hay dịch vụ đời sống. Không chỉ khâu thủ tục
phiền hà, không dứt điểm làm tốn thời gian giải quyết công việc của người dân
và doanh nghiệp, mà còn nhiều chỗ chồng chéo về quyền hạn, không phân định
rõ về trách nhiệm, không hợp lý về tổ chức, trình tự, thiếu nâng cao về trình độ
nghiệp vụ và ý thức trách nhiệm..., làm cho các hoạt động kinh tế và đời sống bị
trì trệ, sửa đi và sửa lại nhiều lần, không kịp thời, kém hiệu quả. Các khâu hoạt
động kinh tế, văn hóa, xã hội đều phải qua khung cửa bộ máy hành chính nhà
nước thì mới thành hiện thực. Vì vậy, nếu không kịp thời đổi mới hoạt động
hành chính thì nhịp độ và chất lượng của sự nghiệp phát triển đều bị ảnh hưởng,
phát triển càng nhanh, càng rộng thì ảnh hưởng đó lại càng nghiêm trọng.

Mặt khác, cải cách hành chính cũng là "đầu ra" của các cuộc cải cách
khác, như cải cách kinh tế, cải cách tư pháp, kể cả cải cách chính trị, trong cuộc
đổi mới toàn diện đang tiến triển. Thực khó có thể hình dung nổi trong điều kiện
thủ tục phiền hà, bộ máy trì trệ, nhân sự bất cập như một số nơi hiện nay lại có
thể thực hiện được thông suốt những thay đổi rất căn bản từ kinh tế kế hoạch
sang kinh tế thị trường, từ doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp cổ phần,
từ những cơ quan sự nghiệp nhà nước sang các tổ chức sự nghiệp xã hội. Trong
thời gian qua, cải cách hành chính đã đi sau cải cách kinh tế, đến thời gian tới
phải "bứt" lên trước các cuộc cải cách khác thì mới có thể bảo đảm tiến trình đổi
mới thực hiện thuận lợi.
b) Về trọng tâm của cải cách hành chính
Chương trình cải cách hành chính gồm có các nội dung: cải cách thể chế,
cải cách thủ tục hành chính, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức, đổi mới cán bộ, cải cách tài chính công, hiện đại hoá hành
chính. Trong thực hiện, Chính phủ thường nhấn mạnh ưu tiên cải cách thủ tục
hành chính, còn bộ máy tổ chức được đổi mới tùy theo từng nhiệm kỳ, quản lý
cán bộ đổi mới từng bước và cải cách tài chính công thì thực hiện kết hợp cùng
với cải cách kinh tế.
Việc nhấn mạnh ưu tiên cải cách thủ tục hành chính là hoàn toàn đúng đắn
và cần thiết. Ai cũng thấy cách làm việc của các cơ quan nhà nước còn rườm rà,
phiền toái, gây tốn kém thời gian và tiền của của Nhà nước, nhân dân và doanh
nghiệp. Song chỉ nhấn mạnh cải cách thủ tục lúc này là chưa đủ. Trong các lý do
dẫn đến tình hình trên, có vấn đề chưa tìm hiểu rõ thực chất, trọng tâm của cải
cách hành chính ở nước ta là gì để không chỉ dừng lại ở bề nổi.
Nội dung cải cách hành chính ban đầu chỉ bao gồm cải cách thủ tục, tổ
8


chức và cán bộ, đến khi bắt đầu chương trình cải cách hành chính giai đoạn
2001 - 2010 thì đã đổi cải cách thủ tục thành cải cách thể chế và bổ sung thêm

cải cách tài chính công, hiện đại hoá nền hành chính. Việc đặt cải cách thể chế
lên hàng đầu cũng đã nói lên trọng tâm của cải cách, song trong tiến trình thực
hiện đã chưa làm nổi lên được ý tưởng nhấn mạnh đó. Thực tế hơn mười năm
qua cũng cho thấy song song với cải cách thủ tục, cần đồng thời đi sâu vào thực
chất của công tác hành chính của nước ta và tiến hành cải cách cả gốc và ngọn
cùng một lúc thì mới có thể đạt được kết quả thiết thực và kịp thời đáp ứng yêu
cầu bức xúc của phát triển và đổi mới nói chung.
Có thể khẳng định cải cách thể chế là nội dung cốt lõi và thực chất của cải
cách hành chính của nước ta hiện nay. Thể chế nói chung bao gồm có các quy
định chung và các tổ chức để thực hiện các quy định đó. Thể chế hành chính nói
riêng được hiểu là một hệ những quy tắc, quy chế ràng buộc các quan hệ giữa cơ
cấu hành chính nhà nước với các cơ cấu xã hội khác (tổ chức chính trị xã hội, tổ
chức kinh tế, nhân dân rộng rãi), kể cả quan hệ trong nội bộ cơ cấu hành chính
và các hình thức tổ chức được thiết lập (các thiết chế) để thực thi những quy chế,
quy tắc trên, thực hiện quản lý nền hành chính nhà nước. Như vậy, cải cách thể
chế hành chính có nghĩa là điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ cấu hành chính với
các cơ cấu xã hội khác và đồng thời điều chỉnh tổ chức bộ máy hành chính để
thích ứng với những yêu cầu của tình hình mới. Nội dung cụ thể của cải cách thể
chế hành chính bao gồm từ điều chỉnh chức năng hệ thống hành chính, đổi mới
cơ cấu hệ thống hành chính (phân công, phân cấp), đến đổi mới cơ chế, phương
thức hoạt động của hệ thống hành chính (trực tiếp, gián tiếp, quy trình, quy
phạm, v.v.). Rõ ràng, đây là nội dung chủ yếu của cải cách hành chính. Nếu giải
quyết tốt khâu cải cách thể chế thì những nhiệm vụ cải tiến bộ máy, nâng cao
trình độ đội ngũ cán bộ, viên chức, lành mạnh hóa tài chính công ... chắc chắn sẽ
tiến hành thuận lợi. Ngược lại, nếu không có cải cách thể chế thì những thay đổi
về bộ máy, nhân sự, tài chính cũng không có cơ sở để thực hiện.
Có thể khẳng định cải cách thể chế (hành chính) là nội dung cốt lõi và
thực chất của cải cách hành chính của nước ta hiện nay. Cải cách thể chế hành
chính có nghĩa là điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ cấu hành chính với các cơ cấu
xã hội khác và đồng thời điều chỉnh tổ chức bộ máy hành chính để thích ứng với

những yêu cầu của tình hình mới.
Mặt khác, thể chế hành chính phụ thuộc trực tiếp vào thể chế chính trị và
có quan hệ hữu cơ với các thể chế kinh tế, pháp lý, văn hóa, xã hội, cho nên cải
cách thể chế hành chính cũng nằm trong lĩnh vực cải cách thể chế nói chung,
phải tương hợp (nếu không nói là đi sớm hơn một bước) với các cuộc cải cách
thể chế kinh tế, tài chính, tiền tệ, tư pháp..., và chuẩn bị đón trước những bước
đổi mới về thể chế chính trị.
9


Chúng ta chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường
mà không thay đổi chế độ xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng
thời, chúng ta chủ trương phát triển nhanh và bền vững trong điều kiện không có
một mô hình có sẵn để tham khảo. Những tình hình đó càng thôi thúc phải hoàn
thành cuộc cải cách thể chế hành chính một cách khẩn trương, kịp thời và hoàn
chỉnh.
c) Xác định chức năng của Chính phủ trong tình hình mới
Trong quá trình đổi mới thể chế hành chính, việc quan trọng đầu tiên là
điều chỉnh chức năng của Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà
nước, vì những cải cách khác về thủ tục hành chính, bộ máy hành chính, phương
thức hoạt động và quản lý, quy trình, quy phạm hành chính, nhân sự hành
chính... cũng chỉ nhằm thực thi những chức năng mới của Chính phủ.
Bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong một
thế giới đang toàn cầu hóa, quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, giữa Nhà nước
và xã hội, giữa Nhà nước trung ương và địa phương cần có nhiều thay đổi theo
hướng cái gì thị trường có thể làm được và làm tốt hơn, cái gì xã hội có thể lo
được và lo tốt hơn, cái gì địa phương có thể làm được và làm tốt hơn thì nên để
dành cho thị trường, xã hội, địa phương chia sẻ với Nhà nước, do đó mà chức
năng của Nhà nước và Chính phủ đương nhiên phải có sự điều chỉnh cho phù
hợp với thực tế khách quan.

Theo tinh thần trên, vai trò của cơ quan hành chính cao nhất của Nhà
nước phải được nghiên cứu làm rõ. Trong lĩnh vực kinh tế, Chính phủ cần
chuyển dần từ vai trò tác nhân kinh tế chính yếu, trực tiếp hoạt động sản xuất
kinh doanh, sang vai trò người thúc đẩy phát triển, người trọng tài kinh tế. Trong
lĩnh vực quản lý chính trị, vai trò của Chính phủ chuyển dần từ người cho phép,
người gia ân sang người bảo đảm, người tạo điều kiện cho mọi công dân thực
hiện các quyền cơ bản theo luật pháp, các quyền tự do dân chủ ngày càng được
pháp luật bảo hộ. Trong lĩnh vực xã hội, vai trò của Chính phủ cũng chuyển dần
từ người phân phát phúc lợi (đồng đều và hạn chế) sang người đảm bảo an sinh
xã hội cho mọi người, người cung cấp dịch vụ sự nghiệp tối thiểu, đồng thời bảo
đảm nguồn dịch vụ khác theo yêu cầu toàn xã hội.
Tóm lại, cần có nhận thức sâu hơn về vai trò đột phá của công tác cải cách
hành chính trong thời gian tới, chú trọng đi vào chiều sâu, lấy cải cách thể chế
hành chính làm nội dung cốt lõi và trọng tâm của cải cách hành chính hiện nay.
Trong cải cách thể chế hành chính, điều quan trọng trước hết là xác định lại hay
thiết kế lại chức năng của Nhà nước và Chính phủ, từ đó mở ra hướng đi cho các
bước cải cách hành chính tiếp theo. Bước tiến sâu hơn về cải cách hành chính là
tiếp tục đổi mới quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý trong mối quan hệ thể chế
10


"Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" đang cần được nghiên
cứu thấu đáo.
II. Quan điểm của Đảng về cải cách hành chính
Cuộc cải cách hành chính đặt trong khuôn khổ các quan điểm và chủ
trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới hệ thống chính trị và cải cách
bộ máy nhà nước. Cải cách và hoàn thiện nền hành chính nhà nước gắn liền với
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước nói chung và nền hành chính nói riêng, nhằm giữ vững và phát
huy bản chất của giai cấp công nhân, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân,

do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nền hành chính phải được tổ chức
thành một hệ thống thống nhất ổn định, hoạt động thông suốt, trên cơ sở phân
công, phân cấp và chếđộ trách nhiệm rành mạch, có kỷ cương nghiêm ngặt, cơ
quan hành chính và cán bộ, công chức nhà nước chịu sự giám sát chặt chẽ của
nhân dân. áp dụng các cơ chế, biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa những hành vi mất
dân chủ, tự do, tùy tiện, quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho
dân. Các chủ trương, giải pháp cải cách hành chính phải gắn liền chặt chẽ với
bước đi của đổi mới kinh tế, với yêu cầu phát triển đất nước trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, hình thành và hoàn thiện
các yếu tố của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững trật
tự, kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao
đời sống của nhân dân. Cải cách hành chính là nhiệm vụ rộng lớn, phức tạp đòi
hỏi có tầm nhìn bao quát với những giải pháp đồng bộ, kết hợp chặt chẽ cải cách
hành chính với đổi mới hoạt động lập pháp, cải cách tư pháp. Cải cách hành
chính phải được tiến hành từng bước vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, lựa
chọn khâu đột phá trong từng giai đoạn cụ thể.
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 đã mở ra một
kỷ nguyên mới trong xây dựng, đổi mới, mở cửa, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ ngghĩa, mở rộng hợp tác quốc tế. Trên cơ sở đánh
giá, xác định đúng những nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế- xã
hội trầm trọng, nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VI đã chỉ rõ nguyên nhân
của mọi nguyên nhân là công tác tổ chức và đề ra chủ trương thực hiện một cuộc
cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại
hội VI, tổ chức bộ máy nhà nước đã được sắp xếp lại một bước theo hướng gọn
nhẹ, bớt đầu mối. Tuy nhiên, nhìn chung tổ chức và biên chế của bộ máy nhà
nước vẫn còn quá cồng kềnh, nặng nề, đòi hỏi tiếp tục được cải cách, đổi mới.
Tại Đại hội toàn quốc lần VII, đã thông qua nghị quyết chỉ rõ việc tiếp tục
phải cải cách bộ máy nhà nước và đề ra những nhiệm vụ cho Nhà nước về sửa
đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ
chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, của chính quyền địa phương.

11


Trên cơ sở những nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra, trong nhiệm kỳ này đã tiến
hành đợt sắp xếp lần thứ hai kể từ Đại hội VI hệ thống chính trị ở nước ta bao
gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế-xã hội đến năm 2000, khẳng định bước tiến về lý luận, nhận thức về
nền hành chính nhà nước. Cương lĩnh nêu rõ, về Nhà nước “phải có đủ quyền
lực và có đủ khả năng định ra luật pháp về tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã
hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành
chính, kiện toàn các cơ quan lập pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản
lý của Nhà nước”. Chiến lược cũng đặt nhiệm vụ trọng tâm cải cách “nhằm vào
hệ thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành chính và
quản lý hành chính nhà nước thông suốt, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả ”.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, tháng 4/1992, Hiến pháp mới thay thế Hiến
pháp 1980 đãđược Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua. Hiến pháp 1992 ghi nhận đầy đủ, rõ hơn về sự phân công, phối hợp giữa 3
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong tổng thể quyền lực thống nhất của
Nhà nước. Sau Đại hội VII, từ 1992 đến 1995, đây là giai đoạn phát triển mạnh
mẽ tư duy, quan niệm, nhận thức của Đảng về nền hành chính nhà nước và về
cải cách hành chính. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (1/1995) đã đánh dấu
bước phát triển mới về quan điểm, nhận thức xây dựng và phát triển nền hành
chính nhà nước. Cải cách một bước nền hành chính nhà nước được xác định là
trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, với mục tiêu
nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng
quyền lực và từng bước hiện đại hoá nhằm phục vụđắc lực đời sống nhân dân,
thúc đẩy tiến trình đổi mới, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.

Tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001), bên cạnh
việc tiếp tục khẳng định nhất quán mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước
dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá đã đưa ra một loạt chủ
trương, giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong cải cách hành chính thời gian tới
như điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ,
nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ quan
hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách
doanh nghiệp nhà nước, tách rõ chức năng quản lý nhà nước với sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống
quan liêu, tham nhũng…

12


Tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2011-2016), tiếp tục
hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí.
III. Mục tiêu, nhiệm vụ của cải cách hành chính
Cải cách hành chính ở Việt Nam là công việc hết sức mới mẻ, diễn ra
trong điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành chính Nhà nước
trong thời kỳđổi mới, mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, nên có nhiều vấn đề phải vừa làm,
vừa tìm tòi, tổng kết đúc rút kinh nghiệm. Do vậy, việc hình thành quan niệm và
những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách hành chính cũng như việc
đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện trong
từng giai đoạn là một quá trình tìm tòi sáng tạo không ngừng, là một quá trình
nhận thức liên tục, thống nhất trong tiến trình đổi mới. Cho nên, cải cách hành
chính ở Việt Nam vừa có tính chiến lược, vừa có tính chiến thuật giai đoạn, được
xác định trong khuôn khổ những mục tiêu chung và những mục tiêu cụ thể cần

đạt được trong từng giai đoạn nhất định.
1. Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của cải cách hành chính ở Việt Nam thực hiện đến năm
2020 là:
- Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên
nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng;
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng
yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010, hệ thống
hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Những mục tiêu cụ thể
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu
quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước.
- Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh
bạch nhằm giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục hành chính.
- Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới
cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính
dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ
quan hành chính nhà nước.
13


- Bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ
quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất
nước.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng
lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.

Trọng tâm cải cách hành chính trong giai đoạn 10 năm tới là: Cải cách thể
chế; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chú
trọng cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công
chức, viên chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao; nâng cao chất
lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công.
3. Nhiệm vụ của cải cách hành chính
a) Cải cách thể chế:
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm
1992 được sửa đổi, bổ sung;
- Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết
là quy trình xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư
và văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương nhằm bảo đảm tính
hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi của các văn bản quy phạm
pháp luật;
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách,
trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự
công bằng trong phân phối thành quả của đổi mới, của phát triển kinh tế - xã
hội;
- Hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong đó khẳng định rõ sự tồn tại khách
quan, lâu dài của các hình thức sở hữu, trước hết là sở hữu nhà nước, sở hữu tập
thể, sở hữu tư nhân, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu
khác nhau trong nền kinh tế; sửa đổi đồng bộ thể chế hiện hành về sở hữu đất
đai, phân định rõ quyền sở hữu đất và quyền sử dụng đất, bảo đảm quyền của
người sử dụng đất;
- Tiếp tục đổi mới thể chế về doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là xác
định rõ vai trò quản lý của Nhà nước với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà
nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng quản
trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện thể chế về tổ chức và kinh
doanh vốn nhà nước;
- Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội hóa theo hướng

quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất và

14


tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng
các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh;
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp;
- Xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà
nước và nhân dân, trọng tâm là bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, lấy ý kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách
quan trọng và về quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước.
b) Cải cách thủ tục hành chính:
- Cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh
vực quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân, doanh
nghiệp;
- Cải cách thủ tục hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nước, các
ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nước;
- Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo quy
định của pháp luật;
- Công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính bằng các hình thức
thiết thực và thích hợp; thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá nhân, tổ
chức phải bỏ ra khi giải quyết thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà
nước; duy trì và cập nhật cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính;
- Đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng
thể chế, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tăng cường đối thoại giữa Nhà nước

với doanh nghiệp và nhân dân; mở rộng dân chủ, phát huy vai trò của các tổ
chức và chuyên gia tư vấn độc lập trong việc xây dựng thể chế, chuẩn mực quốc
gia về thủ tục hành chính; giảm mạnh các thủ tục hành chính hiện hành; công
khai các chuẩn mực, các quy định hành chính để nhân dân giám sát việc thực
hiện;
- Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy
định hành chính để hỗ trợ việc nâng cao chất lượng các quy định hành chính và
giám sát việc thực hiện thủ tục hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước
các cấp.
c) Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước:
- Tiến hành tổng rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu
tổ chức và biên chế hiện có của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
15


phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, cấp huyện, các cơ quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành chính nhà
nước ở trung ương và địa phương (bao gồm cả các đơn vị sự nghiệp của Nhà
nước); trên cơ sở đó điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức, sắp
xếp lại các cơ quan, đơn vị nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống
hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; chuyển giao những công
việc mà cơ quan hành chính nhà nước không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp
cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận;
- Tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của chính
quyền địa phương nhằm xác lập mô hình tổ chức phù hợp, bảo đảm phân định
đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sát thực tế, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng
mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù hợp.
Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về tài nguyên,
khoáng sản quốc gia; quy hoạch và có định hướng phát triển; tăng cường giám
sát, kiểm tra, thanh tra; đồng thời, đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách

nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng ngành;
- Tiếp tục đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà
nước; thực hiện thống nhất và nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa,
một cửa liên thông tập trung tại bộ phận tiếp nhận, trả kết quả thuộc Văn phòng
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện; bảo đảm sự hài lòng của cá
nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên
80% vào năm 2020;
- Cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; chất lượng dịch vụ công từng bước được
nâng cao, nhất là trong các lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm sự hài lòng của cá
nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo
dục, y tế đạt mức trên 80% vào năm 2020.
d) Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức:
- Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng, cơ
cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục
vụ sự nghiệp phát triển của đất nước;
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức
tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục
vụ nhân dân thông qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có hiệu quả;
- Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về
chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức, kể cả cán bộ,
công chức lãnh đạo, quản lý;
16


- Trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị,
xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức hợp lý gắn với vị trí việc làm;
- Hoàn thiện quy định của pháp luật về tuyển dụng, bố trí, phân công
nhiệm vụ phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường của công chức, viên chức

trúng tuyển; thực hiện chế độ thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh; thi
tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ trưởng
và tương đương (ở trung ương), giám đốc sở và tương đương (ở địa phương) trở
xuống;
- Hoàn thiện quy định của pháp luật về đánh giá cán bộ, công chức, viên
chức trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; thực hiện cơ chế loại bỏ,
bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín
với nhân dân; quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức, viên
chức tương ứng với trách nhiệm và có chế tài nghiêm đối với hành vi vi phạm
pháp luật, vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức công vụ của cán bộ, công chức,
viên chức;
- Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức: Hướng dẫn tập
sự trong thời gian tập sự; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, viên
chức; đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng
bắt buộc kiến thức, kỹ năng tối thiểu trước khi bổ nhiệm và bồi dưỡng hàng
năm;
- Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ
bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; đến năm 2020, tiền lương của cán bộ,
công chức, viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của cán
bộ, công chức, viên chức và gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội. Sửa
đổi, bổ sung các quy định về chế độ phụ cấp ngoài lương theo ngạch, bậc, theo
cấp bậc chuyên môn, nghiệp vụ và điều kiện làm việc khó khăn, nguy hiểm, độc
hại. Đổi mới quy định của pháp luật về khen thưởng đối với cán bộ, công chức,
viên chức trong thực thi công vụ và có chế độ tiền thưởng hợp lý đối với cán bộ,
công chức, viên chức hoàn thành xuất sắc công vụ;
- Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ
của cán bộ, công chức, viên chức.
đ) Cải cách tài chính công:
- Động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho

phát triển kinh tế - xã hội; tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, các
chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công; thực hiện cân đối ngân sách tích
cực, bảo đảm tỷ lệ tích lũy hợp lý cho đầu tư phát triển; dành nguồn lực cho con

17


người, nhất là cải cách chính sách tiền lương và an sinh xã hội; phấn đấu giảm
dần bội chi ngân sách;
- Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà
nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty; quản lý chặt chẽ việc vay
và trả nợ nước ngoài; giữ mức nợ Chính phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới
hạn an toàn;
- Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước và cơ chế xây dựng,
triển khai các nhiệm vụ khoa học, công nghệ theo hướng lấy mục tiêu và hiệu
quả ứng dụng là tiêu chuẩn hàng đầu; chuyển các đơn vị sự nghiệp khoa học,
công nghệ sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phát triển các doanh nghiệp
khoa học, công nghệ, các quỹ đổi mới công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm; xây
dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân
tài khoa học và công nghệ;
- Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước,
tiến tới xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cơ chế
cấp ngân sách dựa trên kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát
đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính
nhà nước;
- Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã
hội chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, thể
dục, thể thao.
Đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các đơn vị sự
nghiệp dịch vụ công; từng bước thực hiện chính sách điều chỉnh giá dịch vụ sự

nghiệp công phù hợp; chú trọng đổi mới cơ chế tài chính của các cơ sở giáo dục,
đào tạo, y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch. Chuẩn hóa chất
lượng dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế; nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục,
đào tạo, khám chữa bệnh, từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.
Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế, khám, chữa bệnh;
có lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
e) Hiện đại hóa hành chính:
- Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin điện tử hành
chính của Chính phủ trên Internet. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để đến năm
2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính
nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức, viên chức
thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ liệu
điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết các giao dịch
18


của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử,
mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu hết
các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử hành
chính của Chính phủ ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người
dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau;
- Ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong quy trình xử lý công
việc của từng cơ quan hành chính nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà
nước với nhau và trong giao dịch với tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trong hoạt
động dịch vụ hành chính công, dịch vụ công của đơn vị sự nghiệp công;
- Công bố danh mục các dịch vụ hành chính công trên Mạng thông tin
điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet. Xây dựng và sử dụng thống nhất
biểu mẫu điện tử trong giao dịch giữa cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức và
cá nhân, đáp ứng yêu cầu đơn giản và cải cách thủ tục hành chính;
- Thực hiện có hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng trong các cơ quan

hành chính nhà nước;
- Thực hiện Quyết định số 1441/QĐ-TTg ngày 06 tháng 10 năm 2008 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch đầu tư trụ sở cấp xã, phường
bảo đảm yêu cầu cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của
bộ máy nhà nước;
- Xây dựng trụ sở cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương hiện đại,
tập trung ở những nơi có điều kiện.
CHƯƠNG II
NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN TRONG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
I. Những thuận lợi
1. Về thể chế hành chính và thủ tục hành chính
Hiện nay, Nhà nước ta đã ban hành tương đối đầy đủ hệ thống các văn bản
chính sách, pháp luật điều chỉnh các quan hệ hành chính, đảm bảo cho bộ máy
hành chính hoạt động thông suốt. Hệ thống thể chế hành chính trên các lĩnh vực
từng bước được đổi mới, trước hết là đã hình thành thể chế kinh tế tương đối
phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Các thể chế hành chính Nhà nước, bao hàm việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật và cơ cấu bộ máy tổ chức đã và đang được cải tiến theo hướng đơn
giản, rõ ràng, tinh gọn, ngày càng rộng mở đối với doanh nghiệp và nhân dân,
chặt chẽ đối với cán bộ, công chức. Các quan hệ kinh tế, dân sự, hành chính
được luật hoá, cởi bỏ thói quen hành động cảm tính, suy luận chủ quan của cán
bộ, công chức khi xử lý công việc, chứng tỏ sự thay đổi về tư duy đó và đang
19


diễn ra rất tích cực. Hệ thống luật pháp ngày càng chú trọng nguyên tắc công
bằng, bình đẳng giữa cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức, cá nhân chịu sự
điều chỉnh. Thói quen nhờ đỡ các mối quan hệ quen biết để giải quyết công việc
cho nhanh gọn của người dân và doanh nghiệp cũng dần hạn chế bởi các chế
định đã quy định chặt chẽ thời hạn giải quyết công việc và có xu hướng rút dần

thời gian xuống mức thấp nhất.
Trong năm 2014, đã có 29 luật được Quốc hội thông qua, tiếp tục từng
bước hoàn thiện hệ thống pháp luật để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, xã hội
trong nhiều lĩnh vực, trong đó có nhiều luật có tính chất quan trọng, định hướng
cho việc triển khai và thực hiện công tác cải cách hành chính trên một số lĩnh
vực, như: Luật Xây dựng, Luật Công chứng, Luật Đầu tư (sửa đổi), Luật Hải
quan (sửa đổi), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế, Luật
quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Trong đó, thực
hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh
vực thành lập, tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
khẩn trương rà soát, hoàn thiện Luật doanh nghiệp (sửa đổi) để Chính phủ trình
và được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII.
Trong năm 2014, công tác cải cách thể chế tiếp tục tập trung việc triển
khai thi hành Hiến pháp năm 2013. Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch của Chính phủ tổ chức triển
khai thi hành Hiến pháp. Trên cơ sở đó, tất cả các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương đã ban hành Kế hoạch tổ chức thi hành Hiến pháp và tổ
chức thực hiện đúng với yêu cầu của Trung ương và phù hợp với điều kiện, đặc
điểm của từng bộ, cơ quan, địa phương. Công tác tổ chức rà soát, lập danh mục
đề xuất văn bản quy phạm pháp luật cần bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành
mới phù hợp với quy định của Hiến pháp được chú trọng triển khai. Trong năm
2014 đã có 102.306 văn bản được các bộ, ngành và địa phương tiến hành rà soát,
trong đó có 282 văn bản được kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc
ban hành mới. Đồng thời, có 205 văn bản, bao gồm: 91 luật, 02 nghị quyết của
Quốc hội, 27 pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; 40 nghị định của
Chính phủ, 01 Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng; 03 quyết định của Thủ
tướng Chính phủ; 42 thông tư liên tịch, thông tư, quyết định của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ cần sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành

mới bảo đảm phù hợp với Hiến pháp và pháp luật trên tổng số 9.698 văn bản
quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Để đảm bảo tiến độ, chất lượng xây dựng các dự án luật, pháp lệnh triển
khai thi hành Hiến pháp năm 2013, Bộ Tư pháp trình Thủ tướng Chính phủ ban
20


hành Quyết định thành lập Hội đồng Tư vấn thẩm định các dự án luật, pháp lệnh
triển khai thi hành Hiến pháp, giúp Chính phủ đảm bảo tính thống nhất, chính
xác và đồng bộ trong việc cụ thể hóa tinh thần, nội dung các quy định của Hiến
pháp trong các dự án luật, pháp lệnh. Trong năm 2014, Hội đồng Tư vấn đã có
nhiều đóng góp tích cực trong quá trình tư vấn, thẩm định, cho ý kiến đối với
các dự án luật quan trọng như dự án Luật Tổ chức Chính phủ sửa đổi, Luật Tổ
chức chính quyền địa phương, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi, Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật hợp nhất...
Trong năm 2014, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiếp tục chủ trì triển khai
thực hiện Đề án “Cải cách thể chế và tăng cường phối hợp trong quản lý và điều
hành kinh tế vĩ mô giai đoạn 2011-2020” được phê duyệt tại Quyết định số
1317/QĐ-TTg ngày 06/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ nhằm nâng cao hiệu
quả phối hợp của các bộ, ngành trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô. Trong
thời gian qua, các quyết định về chính sách vĩ mô đã ngày càng phản ánh được
nỗ lực chung của các bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương; các nội
dung đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế mà trọng tâm là tái
cấu trúc đầu tư, tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước và tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng khi xây dựng để trình cấp có thẩm quyền ban hành đã có sự phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan. Do đó, đã góp phần đạt hiệu quả trong quản lý và điều
hành; thể hiện được tính công khai, minh bạch. Trên cơ sở đó, Quy chế phối hợp
đã được 4 Bộ, cơ quan ngang bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công Thương,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký kết trong tháng 12 năm 2014. Từ đó, đã bảo

đảm được tính thống nhất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý kinh tế vĩ
mô; ứng phó kịp thời, hiệu quả với các biến động kinh tế - xã hội trong từng thời
kỳ. Bên cạnh đó, tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, môi trường kinh
doanh thuận lợi, minh bạch, tăng khả năng dự báo để góp phần tăng cường thu
hút đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và tạo nền tảng cho tăng
trưởng bền vững.
2. Về bộ máy, tổ chức.
- Chức năng và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính từ
Chính phủ, các Bộ, ngành trung ương đến ủy ban nhân dân các cấp đã có nhiều
thay đổi tiến bộ, tập trung nhiều hơn vào quản lý nhà nước;
- Cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp
được sắp xếp, điều chỉnh, thay đổi theo hướng tinh gọn hơn. Bộ máy hành chính
từ Trung ương đến cơ sở vận hành phát huy tác dụng, hiệu quả tốt hơn, cùng với
chủ trương hạn chế biên chế từ mấy năm nay, giảm số lượng đầu mối (nơi phát
sinh các thủ tục hành chính) cấp bộ, ngành từ Trung ương đến cơ sở và trong
từng cơ quan, đơn vị. Vấn đề tiền lương cũng được nhìn nhận một cách công

21


bằng hơn, chế độ tiền lương được cải thiện từng bước trong khả năng của ngân
sách, chính là cơ sở vật chất quan trọng để thực hiện cải cách hành chính.
- Một số cơ quan Nhà nước đó đi tiên phong trong áp dụng hệ thống quản
lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo động lực đáng kể trong cải tiến hoạt
động của bộ máy hành chính Nhà nước.
Trong năm 2014, việc hoàn thiện thể chế về tổ chức bộ máy được tập
trung triển khai thực hiện. Trước hết là xây dựng Dự án Luật Tổ chức Chính phủ
năm 2001 (sửa đổi) và Dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với
Hiến pháp năm 2013 theo Chương trình công tác của Chính phủ, của Quốc hội.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ đã trình 02 dự án

Luật này tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội Khóa XIII để xin ý kiến các vị Đại biểu
Quốc hội.
Trong năm 2014, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành
hoặc cho ý kiến chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện nhiều đề án liên
thông có liên quan trực tiếp đến người dân, như: Đề án thực hiện liên thông các
thủ tục hành chính: đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế
cho trẻ em dưới 6 tuổi (Quyết định số 1299/QĐ-TTg ngày 4/8/2014); Đề án
Thiết lập hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về quy định
hành chính và tình hình, kết quả giải quyết thủ tục hành chính tại các cấp chính
quyền. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo nhằm tiếp tục đẩy
mạnh triển khai thực hiện Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa
liên thông theo quy định tại Nghị định số 37/2014/NĐ-CP và Nghị quyết số
19/NQ-CP. Đây là cơ sở pháp lý để thực hiện nghiêm quy chế thực hiện cơ chế
một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, đặc biệt trong thực hiện thủ tục hành chính lĩnh vực đầu tư, đất đai, xây
dựng.
3. Về đội ngũ cán bộ, công chức
Hiện nay, đội ngũ cán bộ công chức bộ máy hành chính nhà nước đã được
nâng lên về mọi mặt, cả về trình độ chính trị lẫn chuyên môn. Việc quản lý, sử
dụng cán bộ, công chức được đổi mới một bước theo các quy định của Pháp
lệnh Cán bộ, công chức: từ khâu tuyển chọn, đánh giá, thi nâng ngạch, khen
thưởng, kỷ luật đến đào tạo, bồi dưỡng. Chế độ, chính sách tiền lương bước đầu
được cải cách theo hướng tiền tệ hóa. Nhận thức của phần lớn cán bộ, công chức
Nhà nước đã có sự thay đổi cơ bản, từ cách tư duy hành chính theo kiểu ''hành
dân'' đó chuyển sang tư duy ''phục vụ''. Sự tiến bộ trong nhận thức đó trực tiếp
tác động đến lề lối, tác phong làm việc của cán bộ, công chức từ cấp lãnh đạo
đến nhân viên khi thi hành công vụ. Việc tiếp công dân và giải quyết các khiếu
nại của dân được coi trọng hơn. Các cuộc gặp gỡ và giải đáp vướng mắc, kiến
nghị của doanh nghiệp đã được tổ chức thường xuyên ở nhiều cơ quan, được cấp
22



lãnh đạo cao nhất tham dự, đã giải quyết trực tiếp các kiến nghị trong khuôn khổ
pháp luật quy định.
4. Cải cách tài chính công
Công tác cải cách quản lý, tổ chức thực hiện thu, chi ngân sách nhà nước
đạt được nhiều kết quả tích cực. Bộ Tài chính đã ban hành văn bản quy định về tổ
chức thực hiện dự toán ngân sách nhà nước, góp phần bảo đảm thực hiện các
nhiệm vụ thu, chi và bội chi ngân sách nhà nước theo dự toán Quốc hội đã quyết
định, Thủ tướng Chính phủ giao. Công tác cải cách, đơn giản hóa các thủ tục hành
chính thuế, hải quan, tăng cường công tác kê khai thuế qua mạng internet, mở
rộng, triển khai nộp thuế qua hệ thống ngân hàng, đẩy mạnh tự động hóa quy
trình tiếp nhận giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính thuế, góp phần giảm thiểu chi
phí tuân thủ cho người nộp thuế trong năm 2014 đã được đẩy mạnh thực hiện.
Trong năm 2014, Bộ Tài chính đã chủ trì phối hợp với Bộ Nội vụ ban
hành Thông tư liên tịch số 71/2014/TTLT-BTC-BNV ngày 30/5/2014 quy định
chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng kinh phí quản lý hành chính đối
với các cơ quan nhà nước. Theo đó, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương
tiếp tục quản lý chặt chẽ biên chế, tiết kiệm tối đa các khoản chi thường xuyên
để tăng thu nhập, làm cơ sở để tiến tới đưa tiền lương thành thu nhập chính của
công chức, góp phần thực hiện đề án cải cách chính sách tiền lương. Bộ Tài
chính cũng đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày
14/02/2015 thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP về thực hiện cơ chế tự chủ tài
chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Về thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm tại các tổ chức khoa học và công nghệ công lập theo Nghị định số
115/2005/NĐ-CP và Nghị định số 96/2010/NĐ-CP, Bộ Tài chính đang chủ trì
phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng dự thảo Thông tư liên tịch
thay thế Thông tư liên tịch số 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN ngày 07/5/2007
hướng dẫn định mức xây dựng dự toán kinh phí thực hiện đề tài, dự án khoa học
công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước và Thông tư liên tịch hướng dẫn sửa đổi,

bổ sung Thông tư liên tịch số 93/2006/TTLT-BTC-BKHCN ngày 04/10/2006
hướng dẫn chế độ khoán kinh phí của các Đề tài, Dự án khoa học công nghệ có
sử dụng ngân sách nhà nước.
5. Hiện đại hóa hành chính
Trong năm 2014, để tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
trong cơ quan nhà nước, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có các văn bản tham
mưu với Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ nhằm đôn đốc, chỉ đạo triển khai
có hiệu quả hiện đại hóa nền hành chính tại các bộ, ngành và địa phương. Theo
đó, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có báo cáo việc triển khai Chương trình
quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin giai đoạn 2011-2015; có văn bản gửi
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các tổ chức chính trị, chính
23


trị - xã hội và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đôn
đốc triển khai Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 của Thủ tướng
Chính phủ và hướng dẫn xây dựng Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin năm
2015. Bộ Thông tin và Truyền thông đã công bố kết quả đánh giá mức độ ứng
dụng công nghệ thông tin năm 2013 của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Việc triển khai thực hiện Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg ngày 5/3/2014
của Thủ tướng Chính phủ về áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn TCVN 9001:2008 vào hoạt động quản lý nhà nước đã được các bộ,
ngành, địa phương thực hiện nghiêm túc, bảo đảm quy trình giải quyết công việc
của cơ quan hành chính khoa học, công khai, minh bạch; góp phần nâng cao
chất lượng giải quyết công việc, tạo thuận lợi cho đội ngũ công chức trong thực
thi nhiệm vụ và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cấp lãnh đạo,
quản lý đối với kết quả thực hiện nhiệm vụ của công chức và cơ quan hành
chính nhà nước.
II. Những khó khăn trong cải cách hành chính

Cải cách nền hành chính nhà nước đã tiến hành được nhiều năm, tuy
nhiên, vẫn còn mang nặng dấu ấn, “tàn dư” của cơ chế quản lý tập trung, quan
liêu bao cấp, chưa đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi phải có cơ chế quản lý
thích hợp thực tiễn, công cuộc đổi mới toàn diện, dân chủ hoá các mặt của đời
sống xã hội, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều
kiệm hội nhập sâu, rộng kinh tế nước ta với nền kinh tế toàn cầu; yêu cầu phát
triển một nền hành chính lấy mục đích phục vụ nhân dân, vì dân, cũng như hiệu
lực, hiệu quả quản lý hành chính chưa cao.
1. Về thể chế hành chính
Mặc dù hệ thống thể chế hành chính đãđược các cấp, các ngành tích cực
ban hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý
hành chính và yêu cầu hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, hệ thống thể chế hành chính
vẫn còn nhiều điểm chưa đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu thống nhất; thủ tục
hành chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; trật tự, kỷ cương chưa
nghiêm. Nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà, nhiêu khê, đòi hỏi quá nhiều
giấy tờ, phải qua nhiều cửa, nhiều dấu, nhiều tầng nấc trung gian, đồng thời
thiếu thống nhất, tuỳ tiện thay đổi và thiếu công khai đã gây phiền hà cho nhân
dân, nhất là những người ít hiểu biết về thủ tục hành chính. Hệ thống các thủ tục
hành chính đã cản trở, gây phiền hà cho nhân dân trong việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình, gây trở ngại cho việc giao lưu và hợp tác quốc tế, gây ra tệ
cửa quyền, tệ giấy tờ trong guồng máy hành chính và là ''miếng đất'' thuận lợi
cho nạn tham nhũng, lãng phí, làm giảm lòng tin của nhân dân vào chính quyền.
ý thức chấp hành pháp luật hành chính của một bộ phận cán bộ, công chức còn
24


yếu, quen giải quyết công việc theo ''lệ'' chứ chưa theo luật, pháp chế xã hội chủ
nghĩa chưa được đảm bảo.
2. Về tổ chức, bộ máy hành chính
- Bộ máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều cửa,

nhiều dấu, chức năng của một số cơ quan còn chồng chéo, chưa rõ ràng, nhiều
khi cản trở lẫn nhau, hạn chế hiệu lực và hiệu quả quản lý hành chính. Có lĩnh
vực thìôm đồm, bao biện, có lĩnh vực và có nơi thì buông lỏng quản lý, dẫn đến
một số cá nhân lợi dụng để trục lợi, làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và
nhân dân. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ máy hành chính trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định thật rõ,
sự phân công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật rành mạch, triệt để,
cụ thể và phù hợp. Tình trạng chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan cùng
cấp, cấp trên và cấp dưới còn chồng chéo, nhiều khi hạn chế lẫn nhau, dẫn đến
hiệu lực, hiệu quả quản lý thấp.
- Bộ máy hành chính ở các địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó với
dân, không nắm chắc được những vấn đề nổi cộm trên địa bàn, lúng túng,
bịđộng khi xử lý các tình huống phức tạp.
- Phương thức quản lý hành chính vừa tập trung quan liêu lại vừa phân
tán, chưa thông suốt; chưa có những cơ chế, chính sách tài chính thích hợp với
hoạt động của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức làm dịch vụ
công;
3. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức:
Đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh thần
trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm việc
chậm đổi mới; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân tiếp tục diễn ra
nghiêm trọng trong một bộ phận cán bộ, công chức. Nhìn chung chưa đáp ứng
được yêu cầu của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
hội nhập quốc tế; ý thức nghề nghiệp chưa cao, tôn trọng kỷ luật lao động còn
yếu; đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ công chức bị suy thoái; thái độ
phục vụ nhân dân còn thấp, một bộ phận cán bộ công chức tồn tại thái độ thờ ơ,
''lãnh cảm'' với dân, đặt mình ở vị thế ban phát quyền lợi cho dân. Những vấn đề
đó đó làm chính quyền ngày càng xa dân, giảm lòng tin của dân đối với chính
quyền... Về số lượng thì có nơi, có lĩnh vực thừa và ngược lại, có nơi, có lĩnh
vực thì thiếu; thiếu đội ngũ cỏn bộ công chức có chất lượng cao, tận tụy với

nghề, vừa hồng vừa chuyên;tình trạng cán bộ nhiều nhưng chất lượng hoạt động
chẳng bao nhiêu, chưa có trình độ ngang tầm nhiệm vụ, bố trí chưa đúng người
đúng việc, bằng cấp và năng lực chưa tương ứng với chức danh v.v...

25


×