Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

THUỐC Y HỌC CỔ TRUYỀNBÀI TIỂU LUẬN VỀ T HỌC CỔ TRUYỀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.81 KB, 21 trang )

CHƯƠNG 4: THUỐC Y HỌC CỔ TRUYỀN
1.

Định nghĩa
Thuốc cổ truyền là một vị thuốc sống hoặc chín hoặc một chế phẩm thuốc
được phối ngũ lập phương và được bào chế theo phương pháp y học cổ truyền với
một hay nhiều vị thuốc có nguồn gốc tự nhiên gồm các loại thực vật, động vật,
khoáng vật có tác dụng chữa bệnh hoặc có lợi cho sức khỏe con người. Tuy nhiên,
nguồn dược liệu tự nhiên đang ngày càng cạn kiệt dần do vậy con người phải gieo
trồng, thu hái và chăn nuôi để tạo ra nguyên liệu. Để sử dụng thuốc cần có sự hiểu
biết nhất định về quá trình bào chế, tính năng dược vật, sự quy kinh, phối ngũ và
kiêng kị đảm bảo hiệu quả và an toàn.
2.
Nguồn gốc
Thuốc y học cổ truyền gồm các loại thực vật, động vật, khoáng vật và một số
chế phẩm hóa học.
Sự xuất hiện của thuốc là do kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh với bệnh tật
của nhân dân mà tìm ra. Số lượng, chất lượng, tiến bộ theo sự phát triển của nền
sản xuất của xã hội.
Ngày trước, thực vật hay động vật do nguồn tự nhiên cung cấp. Sau này nhu
cầu sử dụng tăng dẫn đến thiếu dần nguồn nguyên liệu nên phải gieo trồng, thu hái
và chăn nuôi. Các loại thuốc khoáng vật phát triển theo nguồn khai thác mỏ như
thạch cao, chu sa, hùng hoàng,...
Ở nước ta, trước khi có nền y tế Xã hội chủ nghĩa, các thuốc thường dùng
đều phải nhập. Hiện nay, ta đã tìm và xác định theo khoa học được nhiều cây thuốc
có trong nước, một số thuốc đã di thực được như: sinh địa, bạch truật, huyền sâm,
bạch chỉ,,.. một số vị thuốc do điều kiện đất đai, thổ nhưỡng chưa di thực được còn
phải nhập.
3.
Thu hái và bảo quản
3.1. Thu hái


Các bộ phận cây thuốc có thời kì sinh trưởng nhất định nên thời gian thu hái
khác nhau để đảm bảo tỉ lệ hoạt chất cao nhất.
Tùy theo thời tiết, thổ nhưỡng của từng vùng, mà hoạt chất cũng khác nhau
nên cần xác định rõ tính chất của dược vật để thu hái có hiệu quả nhất.
Gốc, vỏ, củ, rễ: Đầu xuân cuối thu, mùa đông (lúc cây khô héo hoạt chất tập trung
tại rễ). Mầm, lá mùa xuân hè. Hoa thu hái lúc ngậm nụ hoặc mới nở như hoa cúc,
hoa kim ngân. Quả thu hái lúc đã chín, hạt thu hái lúc quả thật chín.
3.2. Bảo quản
Tránh ẩm thấp, nóng, ánh sáng mặt trời, sâu mọt. Đậy kín thuốc có tinh dầu,
phơi chỗ râm (âm can). Việc phơi chỗ râm để dược phẩm vừa đủ khô mà có thể
tránh sức nóng quá mạnh khiến dược phẩm bị biến chất.
4.
Bào chế đơn giản
4.1. Mục đích
4.1.1. Làm mất hoặc làm giảm chất độc của thuốc


Ví dụ: Bán hạ dùng sống gây ngứa nên phải chế với nước gừng. Ba đậu có
dầu gây ỉa chảy dữ dội cần bào chế làm mất chất dầu, giảm độc tính.
4.1.2. Điều hòa lại tính năng của vị thuốc, làm hòa hoãn hoặc tăng công hiệu
Có một số vị thuốc dùng sống, chín tác dụng khác nhau. Ví dụ: sinh địa dùng
sống tính lạnh mát dùng để thành nhiệt lương huyết. Thục địa là sinh địa đem nấu
chín với rượu tính hơi ấm dùng để bổ huyết.
4.1.3. Ưa bào chế giúp cho bảo quản dễ dàng, sử dụng thuận lợi, dự trữ dược
thuốc vì thuốc thực vật sinh trưởng có mùa
4.1.4. Bỏ tạp chất làm chất sạch
4.2. Phương pháp bào chế
4.2.1. Dùng lửa (hỏa chế)
4.2.1.1.
Định nghĩa

Là phương pháp chế biến sử dụng nhiệt khô trực tiếp hoặc gián tiếp ở các
mức độ khác nhau lên thuốc. Ví dụ như hong, sấy, đốt làm khô ráo, sém vàng,
thành than.
4.2.1.2.
Mục đích
Tăng dương (+) giảm âm (-): đại hoang sống (tiêu chảy)/ sao cháy (táo báo),
thục địa sao khô giảm nê trệ tiêu chảy.
Giảm độc tính, tính mãnh liệt của thuốc, phân hủy các chất độc.
Ổn định hoạt chất.
Giảm độ bền cơ học: phá vỡ liên kết hữu cơ (nung).
4.2.1.3.
Phương pháp
a.
Nung:
Bỏ ngay vị thuốc vào lửa đỏ, hoặc nung trong nồi chịu lửa, thường dùng cho
các thuốc khoáng vật: mẫu lệ, từ thạch,... làm cho mất nước tăng tác dụng hấp thu
hoặc thu sấp.
b.
Bào:
Cho vị thuốc vào chảo sao trong chốc lát, đến khi sém vàng xung quanh, nứt
nẻ, làm giảm tính mãnh liệt của thuốc như bào khương.
c.
Lùi:
Đem vị thuốc bọc giấy ướt hay cám lùi vào tro nóng hoặc than đến khi giấy
cháy, cám cháy là được để thu hút một số hoạt chất có dầu, làm giảm bớt độc tính
của thuốc như cam toại.
d.
Sao:
Đem vị thuốc cho vào nồi rang, chảo mà sao. Là phương pháp hay dùng
nhất. Tùy mức độ nóng khác nhau ta có sao vàng: bạch truật, hoài sơn. Sao cháy,

quả dành dành, sao đen (thành than tồn tính giữ nguyên hình dạng chưa thành tro)
trắc bá diệp, thường sao vàng để kiện tỳ, sao đen để cầm máu. Có các phương pháp
sao như:


+ Sao qua (vi sao): Đun nồi sao đến khi nóng (từ 50-80°C) nếu dược liệu có
tính dầu, nhiệt độ sao <60°C, cho thuốc phiến vào, đảo đều tay, mức lửa nhỏ đến
khi mùi thơm nhẹ, lấy ra, để nguội.
Tiêu chuẩn: màu tương đương màu dược liệu sống.
+ sao vàng (hoàng sao): Đun nồi sao đến khi nóng (50-60°C) cho thuốc vào
đảo đều tay, mức lửa vừa phải đến khi bề mặt vị thuốc có màu vàng (với vị thuốc
màu trắng) hoặc màu đổi rõ ràng so với dược liệu sống, mùi thơm, lấy ra, để nguội.
Nhiệt độ sao vào khoảng 100-160°C.
Tiêu chuẩn: bề ngoài có màu vàng, bên trong vẫn là màu dược liệu sống.
+ sao vàng cháy cạnh: sao tương tự vàng nhưng đảo chậm để cạnh vị thuốc
có màu đen.
Tiêu chuẩn: vị thuốc có màu vàng, cạnh phiến thuốc có màu đen cháy.
+ sao vàng hạ thổ: sao vàng, sau đó đố đổ thuốc xuống hố đất đã chuẩn bị
trước (hố đất trải mảnh vải xuống đáy), khi thuốc nguội thì lấy ra.
+ sao đen (hắc sao) nhiệt độ sao khoảng 180-240°C
Tiêu chuẩn: bề mặt thuốc màuđen, bên trong màu vàng.
+ sao cháy (thán sao): đun nồi sao đến khi nóng mạnh (khoảng 180-240°C),
cho dược liệu vào, đảo chậm đều đến khi thuốc có màu đen, mùi thơm cháy, lấy ra
để nguội.
Tiêu chuẩn: bề mặt thuốc có màu đen, bên trong màu nâu hoặc đen, mùi
thơm cháy. Chú ý: không để vị thuốc cháy thành than.
+ sao cách cát: đun cát đến khi nóng (khoảng 200-250°C) cho thuốc vào đảo
đều, đến khi đạt hiệu chuẩn riêng của vị thuốc, sang bỏ cát, để thuốc nguội.
Chú ý : nhiệt độ sao được không chế trong khoảng 250°C, không để nhiệt độ
quá cao gây hỏng thuốc.

+ sao cách hoạt thạch, văn cáp: tiến hành như sao cát.
+ sao cách cám: đun chảo nóng (khoảng 60-100°C) cho cám vào, đảo nhanh
đến khi cám có màu vàng nhạt, cho thuốc vào sao tiếp tục đến khi có thuốc khói
trắng bay lên, vị thuốc chuyển sang màu vàng tối, sàng bỏ cám để thuốc nguội.
Tiêu chuẩn: vị thuốc màu vàng tối, mùi thơm đặc trưng của cám rang.
Chú ý: để đảm bảo sản phẩm sao đạt tiêu chhuaarn, trong quá trình sao cần
chú ý:
Nhiệt độ sao: chủ động điều chỉnh nhiệt độ sao bằng cách đun lửa ở nhiều
nhiệt độ khác nhau: nhỏ, vừa, to.
Đảo thuốc: đảo ở mức độ khác nhau: nhanh, vừa, chậm.
Quan sát khói thuốc: khói tráng, đen, vàng, nâu.
Tiêu chuẩn sản phẩm dựa chủ yếu vào vị thuốc: màu bề mặt ngoài thuốc và
màu bên trong nó.
e.
Sấy:
Sấy thuốc trên than, trong lò sấy. Sấy khô: cúc hoa, kim ngân hoa, sayys
vàng khô giòn như: thủy diệt, manh trùng.


f.

Chích:
Chích là sao có tẩm mật, đường và các thành phần khácđến khi không dính là
được. Chính để làm tăng tác dụng của vị thuốc, như chích cam thảo vơi mật để làm
tăng tác dụng dinh dưỡng, nhuận phế.
4.2.2. Dùng nước (thủy chế)
4.2.2.1.
Định nghĩa
Sử dụng tác động của nước hay dịch phu liệu ở điều kiện nhiệt độ tự nhiên
nhằm các mục đích khác nhau. Chủ yêu là dùng nước làm cho vị thuốc sạch, mềm

dễ thái giảm độc tính.
4.2.2.2.
Mục đích.
Giảm độc tính, tác dụng bất lợi.
Thay đổi tác dụng: đường khử/can địa hoàng tăng 10% so với sinh địa hoàng
2% sau ủ.
Giảm tính bền vững: hút nước trương nở, tăng hiệu xuất chiết.
Làm mềm dễ phân chia
Định hình, bảo vệ thuốc trong nước vôi, phèn chua, nước muối.
4.2.2.3.
Phương pháp.
a.
Rửa: làm sạch chất bẩn, đất. Đối với dược liệu xốp, nhẹ, dễ hú nước thì phải
rửa nhanh: dương quy,...
b.
Giặt sạch: lâu công hơn rửa, dùng nguồn nước tưới vào thuốc cho trôi tạp
chất.
c.
Ngâm: dùng nước nguội hay nước sôi để ngâm. Đào nhân ngâm ước dễ bị
bóc vỏ. Nếu vị thuốc cứng phải ngâm lâu cho mềm dễ thái, giảm độc tính.
d.
Tẩm: ngâm cho mềm vị thuốc dễ bào nhỏ.
e.
Thủy phi: cho thêm ngước vào ngiền chung với thuốc để tán nhỏ mịm và
thuốc không bay ra như hoạt thạch, chu sa, thanh đại.
4.2.3. Phối hợp dùng lửa, nước (thủy hỏa hợp chế).
4.2.3.1.
Định nghĩa.
Sử dụng tác động của nước/dịch phụ liệu ở nhiệt độ sôi lên thuốc.
4.2.3.2.

Mục đích.
Biến đổi tính chất của dược liệu qua thủy phân (chế thục địa, hạ thủ ô đỏ,
hoàng tinh,...)
Hạn chế tác dụng KMM (hạ thủ ô đỏ, hoàng tinh, bấn hạ,..).
Giảm độc tính (chế phu tử).
Tăng khả năng bảo quản (diệt men, vi khuẩn, nấm,..)
Làm mềm dược liệu tiện cho bào, thái phân chia miếng được dễ.
4.2.3.3.
Phương pháp.
a.
Chưng :
Chưng cách thủy cho chín, hoặc chưng với rượu như thục địa để làm mất
tính đắng lanh của thuốc, thay đổi công hiệu.
b.
Nấu:


Đem thuốc nấu với nước, nước sắc vị thuốc khác, giấm. Nấu lấy tinh chất
hòa tan rồi cô thành cao.
c.
Tôi:
Đem vị thuốc nung đỏ tôi với nước, giấm làm cho tan rã và ngậm nước
thường dùng cho các loại khoáng vật.
Ngoài ra còn dùng giấm, rượu, nước cơm, nước muối ăn mà chế chung với
các cách tẩm, ngâm nước, nướng, sao, chưng, để đạt yêu cầu chữa bệnh: rượu dưa
lên, gừng phát tán, muối vào thận, giấm vào can.
5. Tính năng dược vật
Tính năng dược vật là tác dụng dược lí của vị thuốc để điều chỉnh lại sự mất
thăng bằng về âm dương trong cơ thể.
Tính năng của vị thuốc gồm : khí vị, thăng giáng, phù trầm và bổ tả.

5.1. Tứ khí
Thuốc cổ truyền có tứ khí (bốn khí) gồm : nhiệt (nóng), ôn (ấm), lương
(mát), hàn (lạnh). Tứ khí chỉ mức độ làm nóng, lạnh khác nhau của các vị thuốc;
đương nhiên tính hàn có mức độ lạnh hơn tính lương; tương tự tính nhiệt có mức
độ nóng hơn tính ôn. Ở giữa mức độ của hàn lương, ôn nhiệt còn có tính bình. Như
vậy tính của vị thuốc tồn tại một cách khách quan và mang tính chất tương đối.
Tính của mỗi vị thuốc được quyết định thông qua tác dụng của chúng với những
bệnh có tính đối lập.
5.1.1. Tính hàn, lương
Những vị thuốc được gọi là thuốc chữa có tính hàn hoặc lương là trên thực
tế, chúng có thể được dùng để điều trị những bệnh thuộc chứng nhiệt.
Ví dụ: Thạch cao có tính hàn có tác dụng đối với bệnh sốt cao ; Hoàng liên
cũng có tính hàn vì nó có tác dụng thanh tâm hỏa; Miết giáp có tính hàn vì nó có
thể trừ nhiệt phục do thể âm hư. Trong khi đó Mạch môn, kim tiền thảo, lạc tiên..
có tính lương vì tính lạnh của nó thấp hơn, mạch môn có tác dụng chữa bệnh ho do
nhiệt, kim tiền thảo chữa bàng quang thấp nhiệt dẫn đến tiểu tieẹn vàng, đỏ, buốt,
dắt…
Tóm lại thuốc có tính hàn, lương có tác dụng thanh nhiệt tả hỏa, lương
huyết(làm mát máu) giải độc, lợi tiểu…thường được dùng để chữa sốt, chữa chứng
âm hư gay nóng trong cơ thể, hoặc chữa mụn nhọt, mẫn ngứa, dị ứng. Nói một cách
khác chúng có tác dụng ức chế sự hưng phấn quá mức của cơ năng toàn bộ hay cục
bộ như ức chế trung khu điều hòa nhiệt độ, ức chế hệ thống thần kinh, giảm trương
lực hoặc nhu động ruột. Về thành phần hóa hóa, các vị thuốc mang tính hàn lương,
phần lớn trong thành phần có các hợp chất glycozid, alcaloid, chất đắng…
5.1.2. Tính nhiệt, ôn


Những vị thuốc được gọi là có tính nhiệt hoặc ôn trên thực tế chúng được
dùng để điều trị các bệnh thuộc chứng hàn.
Ví dụ: Quế nhục, phụ tử… có tính nhiệt vì chúng tác dụng với các bệnh

chứng hàn :hàn nhập lý( dùng quế nhục), thận hư hàn( dùng phụ tử). Trong khi đó
ma hoàng, tía tô, kinh giới có tính ôn nó chữa các bệnh có tính hàn song ở mức độ
thấp hơn như đau bụng, cảm mạo phong hàn.
Tóm lại, các thuốc có tính nhiệt hoặc ôn có tác dụng giải cảm hàn, phát hàn,
thông kinh, thông mạch hoạt huyết, giảm đau, hồi dương cứu thoát… Nói cách
khác nó có tác dụng hưng phấn đối với sự suy nhược của cơ năng cục bộ hay toàn
bộ, ví dụ chức năng tuần hoàn tiêu hóa kém, chuyển hóa cơ bản thấp, suy nhược cơ
thể, suy nhược hô hấp hoặc khả năng tạo huyết kém… về thành phần hóa học, các
vị thuốc mang tính nhiệt, ôn được thể hiện rõ trong thành phần có các hợp chất tinh
dầu ( đa phần chứa nhân thơm) : quế, đại hồi, xương bồ, đinh hương…
5.1.3. Tính bình
Các vị thuốc có tính bình trên thực tế chúng có tác dụng lợi thấp, lợi tiểu, hạ
khí, long đờm, bổ tỳ vị : hoài sơn, cam thảo, bạch cương tằm, tỳ giải, kim tiền thảo,
râu ngô…
5.2. Ngũ vị
Mỗi dược liệu được đặc trưng bởi một hay nhiều vị do cảm giác của lưỡi
đem lại; có thể chỉ có một vị đắng; có thể có hai vị đắng lại ngọt; hoặc vừa đắng lại
vừa cay; vừa cay lại vừa mặn; cay mà chua. Cũng có khi có 3 vị như tê giác : đắng,
chua, mặn. Cá biệt có tới 5 vị như vị tử : chua, cay , đắng, măn, ngọt. Trên thực tế
còn có vị nhạt, chát là những vị thứ yếu.
5.2.1.Vị cay (vị tân)
Có tính chất phát tán, giải biểu, phát hãn, hành khí, hành huyết giảm đau, có
tác dụng bổ dưỡng các chứng hư, hòa hoãn để giảm cơn đau, bớt độc tính của thuốc
hay giảm độc cơ thể khi dùng làm thuốc. Thướng dùng vị cay cho các bệnh nhân
cảm mạo hoặc các bệnh đầy bụng, trướng bụng, đau bụng, dùng thuốc cay với tính
chất khử hàn ôn trung chỉ thống: chữa đau răng, đau buốt cơ nhục…
Tác dụng bất lợi : gây táo, tổn thương tân dịch, thận trọng âm hư, biểu hư,
mồ hôi nhiều…
Về thành phần hóa học, vị cay chủ yếu là vị của các thành phần tinh dầu
trong dược liệu, đôi khi là alcaloid. Ví dụ : Đẳng sâm, Hoàng kỳ bổ khí; Thục địa,

Mạch môn bổ âm…
5.2.2. Vị ngọt (vị cam)
Có tác dụng hòa hoãn, giải co quắp của cơ nhục, tác dụng nhuận tràng, làm
cơ thể tỉnh taó và bồi bổ cơ thể. Ví dụ : mật ong, cam thảo, di đường, cam giá…
Tác dung bất lợi : hay nê trệ hại tỳ, thận trọng tỳ hư, đầy chướng…
Về thành phần hóa học: vị ngọt chủ yếu là do các loại đường…Nhiều loại
thuốc khi dùng với tác dụng bổ còn trích với mật ong để tăng vị ngọt. Ví dụ: Hoàng
kỳ, đảng sâm, cam thảo trích với mật ong để bổ tỳ, kiện vị…


5.2.3. Vị đắng(vị khổ)
Có tác dụng thanh nhiệt( thanh nhiệt tả hỏa và thanh nhiệt táo thấp), chống
viêm nhiễm, sát khuẩn, chữa mụn nhọt hoặc chữa rắn độc, côn trùng cắn.
Tác dụng bất lợi : dùng lâu sẽ gây táo, ảnh hưởng xấu đến thần kinh vị giác
làm cho ăn uống không biết ngon; kích thích niêm mạc dạ dày ruột( đặc biệt lúc
đói) tạo ra cảm giác buồn nôn khó chịu.
Về thành phần hóa học: chứa các hợp chất glycozid, alcaloid,còn các thành
phần polyphenol flavonoid thường cho vị đắng nhẹ.
5.2.4. Vị chua (vị toan)
Có tác dụng thu liễm( làm săn da), liễm hãn(giảm ra mồ hôi), cố sáp( làm
chắc chắn lại), chỉ ho, chỉ tả, sát khuẩn, chống thối, chữa mồ hôi nhiều, tiểu nhiều
lần…
Về thành phần của thuốc là vị của các hợp chất hữu cơ : acid ascorbic,
oxalic, malic…
5.2.5. Vị mặn(vị hàm)
Có tác dụng nhuyễn kiên(làm mềm khối rắn), nhuận hạ, tiêu đờm, tán kết, bổ
thận, tráng dương, chữa ứ trệ, táo bón,ung nhọt, bướu cổ…
Nói chung vị mặn có tác dungj dẫn thuốc vào kinh thận; tuy nhiên đối với
từng loại bệnh thận cụ thể phải có cách trích muối sao cho phù hợp, tránh các tác
dụng phụ.

Ngoài 5 vị chính trên còn có các vị thường xuất hiện sau:
5.2.6. Vị nhạt (vị đạm)
Có tác dụng làm tăng tính thẩm thấp tăng lợi thủy, lợi tiểu, có tác dụng thanh
lọc, thanh nhiệt. Thường dùng các vị thuốc nhạt để trị các bệnh phù thũng, ung
nhọt, nhiệt độc, viêm nhiễm,sốt cao hoặc chứng nhiệt trong cơ thể, các trường hợp
tiểu tiện bí dắt, nước tiểu vàng đỏ… Những vị thuốc có vị nhạt thường có thể chất
nhẹ, màu trắng như: bạch mao căn, đăng tâm thảo, thông thảo, bạch phục linh…
5.2.7. Vị chát
Có tác dụng như thu liễm, cố sáp như vị chua. Tính chất sát khuấn, chống
thối của vị chát mạnh hơn vị chua. Ngoài ra còn có tác dụng kiện tỳ, sáp tinh.
Thường dùng vị thuốc có vị chát để điều trị các bệnh tiết tả, di tinh, bỏng, mụn nhọt
vỡ loét hoặc lâu liền miệng.
Ví dụ: thạch lựu bì, búp ổi, búp sim, liên nhục, khiếm thực. Bài thuốc nổi
tiếng của vị chát là “thủy lục nhị tiên đơn” trị bệnh thận hư gây dị tinh, hoạt tinh,
mồ hôi trộm…


5.3.

Mối quan hệ giữa khí và vị
Khí và vị của các vị thuốc trên thực tế không thể tách rời nhau; có quan hệ
một cách rất hữu cơ. Ví dụ: vị thuốc có tính hàn thường có vị đắng, mặn… thuốc có
tính nhiệt thường có vị cay, ngọt; thuốc có tính bình có vị nhạt… Khi nhận xét về vị
của vị thuôcs ta cần lưu ý đối với một số vị thuốc cho nhiều vị như sơn thù du vừa
chát lại vừa chua, long cốt vừa ngọt lại vừa chát. Vì thế khi sắp xếp vị của nó, ta ưu
tiên cho những vị sẽ cho công năng rõ hơn lên trên. Ví dụ: ngũ vị tử có năm vị,
song vị chua được xếp ưu tiên trước nhất….
Ngoài ra cần quan tâm đến một số mối quan hệ sau:
5.3.1. Các vị thuốc có khí và vị giống nhau
Các vị thuốc có khí và vị giống nhau thì tác dụng của nó giống nhau hoặc

gần giống nhau.
Ví dụ: hoàng bá, hoàng cầm đều có vị đắng tính hàn, chúng đều tác dụng
thanh nhiệt, táo thấp, chống viêm, thoái nhiệt.
Do đó trong những trường hợp cần thiết, ta có thể dùng chúng thay thế cho
nhau mà vẫn đạt được những hiệu quả mong muốn. Tùy nhiên ở nhưng trường hợp
cụ thể cũng cần xem xét đến tác dụng đặc thù của từng vị thuốc. Ví dụ: bạch chỉ tán
hàn giải biểu, giảm đau, song conf có tác dụng bài nùng( làm hết mủ) ; quế chi
cũng có tác dụng giải biểu, tán hàn, song lại tác dụng ứ huyết thông kinh bế, trục
thai chết lưu…
5.3.2. Một số vị thuốc cùng khí nhưng khác vị, tác dụng cũng khác nhau
Ví dụ: Hoàng liên, sinh địa cùng tính hanf, nhưng hoàng liên vị đắng, sinh
địa đắng nhẹ, ngọt. Hoàng liên có tác dụng táo thấp; sinh địa có tác dụng tư âm,
lương huyết, sinh tân, chỉ khát. Hoặc ma hoàng tính ấm vị cay có tác dụng phát
hãn. Hạnh nhân, tính ấm vị đắng tác dụng hạ khí.
5.3.3. Một số vị thuốc có khí khác nhau, vị giống nhau, tác dụng cũng khác
nhau
Ví dụ: bạc hà vị cay, tính lương có tác dụng giải cảm nhiệt. Tô diệp vị cay,
tính ôn tác dụng giải cảm hàn. Hoặc: thạch cao vị cay tính hàn tác dụng thanh nhiệt,
giải hỏa. Sa nhân vị cay tính ấm tác dụng hành khí, giảm đau kiện tỳ, hóa thấp.
5.3.4. Những vị thuốc có khí và vị khác nhau, tác dụng khác hẳn nhau
Nhục quế vị cay ngọt, tính đại nhiệt tác dụng khử hàn ôn trung. Hoàng liên
vị đắng, tính hàn, tác dụng thanh nhiệt táo thấp. Ô mai vị chua tính ấm tác dụng thu
liễm, chỉ ho, sinh tân, chỉ khát.
5.3.5. Khí và vị của thuốc cũng thay đổi khi tiến hành chế biến nó bằng các
phương pháp chế của dược cổ truyền, và tác dụng của nó cũng thay đổi
Ví dụ: sinh địa đắng tính hàn tác dụng lương huyết. Sau khi chế biến thành
thục địa, tính trở nên ấm, vị trở nên ngọt, tác dụng bổ huyết. Đỗ trọng vị ngot hơi
cay sau khi trích muối, đỗ trọng thêm vị mặn, tăng cường tác dụng bổ thận. Cam



thảo vị ngọt tính bình. Sau khi trích mật ong tính trở nên ấm hơn, tác dụng kiện vị
chỉ ho tốt hơn.
5.4. Khuynh hướng thăng, giáng, phù, trầm của vị thuốc
5.4.1. Định nghĩa
Thăng, giáng, phù, trầm chỉ 4 khuynh hướng tác dụng của thuốc cổ truyền.
Cần nắm chắc các khuynh hướng tác dụng của chúng để phát huy hiệu quả sử dụng.
Khuynh hướng tác dụng của thuốc , đa số các trường hợp luôn luôn ngược với
chiều của bệnh tật mới đạt kết quả tốt trong điều trị, hoặc cùng chiều vơi chiều của
bệnh như thế mới phát huy được tác dụng về mặt điều trị.
5.4.2. Thăng
Khuynh hướng của khí vị thuốc hướng lên thượng tiêu, sau khi uống thuốc
vào cơ thể, với mục đích để chữa các bệnh có khuynh hướng sa giáng( sa dạ dày, sa
lá lách, gan, tử cung, trĩ ) để đưa các tạng phủ đó về vị trí nguyên thủy. Các vị
thuốc chủ thăng thường có tính chất kiện tỳ ích khí thăng dương khí như hoàng kỳ,
đảng sâm, thăng ma, sài hồ.
5.4.3. Giáng
Khuynh hướng của khí vị thuốc hướng xuống hạ tiêu sau khi uống vào cơ
thể, với mục đích để chữa các bệnh có khuynh hướng đi lên thượng tiêu( thượng
nghịch) như bệnh hen suyễn khó thở, ho đờm, nôn mửa. Các vị thuốc chủ giáng
thường có tính chất hạ khí, giáng khí, bình suyễn như ma hoàng, hạnh nhân, cát
cánh…
5.4.4. Phù
Khuynh hướng cua khí vị thuốc hướng ra phía ngoài( phía biểu) với mục
đích để chữa các bệnh có xu hướng lấn sâu vào phía trong( phía lý). Ví dụ các bệnh
cảm mạo phong hàn, cảm mạo phong nhiệt. Các vị thuốc chủ phù thường có tính
chất phát hãn, phát tán giải biểu, hạ nhiệt. Đó là các vị thuốc tân ôn giải biểu như
quế chi, phòng phong, tế tân, bạch chỉ… hoặc các vị thuốc giải biểu như cát căn,
tang diệp, cúc hoa, mạn kinh tử.
5.4.5. Trầm
Khuynh hướng của khí vị thuốc đi vào phía trong( phiá lý) với mục đích để

chữa các bệnh có xu hướng phù nổi ra phía biểu như bênh đạo hãn, tự hãn, bệnh
phù thũng, bệnh mụn nhọt, ban chẩn, dị ứng, mẩn ngứa. Đó là các vị thuốc thẩm
thấp lợi niệu như kim tiền thảo, xa tiền tử, tỳ giải… hoặc thuốc tả hạ như đại
hoàng, mang tiêu, trầm hương, tô mộc hoặc thuốc thanh nhiệt, giải độc như liên
kiều, bồ công anh, kim ngan hoa, sài đất.
Tóm lại các vị thuốc có tính thăng phù có tác dụng phát biểu( thoát ra phía
ngoài), thăng dương, tán hàn; còn các vị thuốc có tính trầm giáng có tính chất tiềm
dương giáng nghịch, thanh nhiệt, thẩm thấp, tả hạ, thu liễm. Tuy nhiên mỗi vị thuốc
đều có khuynh hướng tác dụng của nó, song không cố định mà có tính chất tương


đối. Thông qua sao tẩm chế biến hoặc thông qua phối ngũ với các vị thuốc khác có
thể là thay đổi hoặc giảm nhẹ khuynh hướng tác dụng của nó.
Trong khi bào chế cần chú ý đến một số nguyên tắc sau: đối với vị thuốc có
tính thăng phù không nên đun lâu và nên dùng lửa nhỏ còn các vị thuốc trầm giáng
thì có thể dùng lửa tovaf thời gian đun lâu hơn, cũng không ảnh hưởng đến dược
tính của nó.
6. Sự quy khinh của các vị thuốc
6.1. Định nghĩa
Sự quy nạp khí vị tinh hoa( hoạt chất) của các vị thuốc vào tạng, phủ, kinh
mạch nhất định, nói các khác là sự quy nạp tác dụng của thuốc vào tạng phủ kinh
mạch, được gọi là quy kinh.
Mỗi vị thuốc có thể quy vào một hoặc nhiều kinh khác nhau. Quy vào 1 kinh
như tang bạch bì, quy tơí 10 kinh như đại hoàng, quy tới 12 kinh như cam thảo…Dĩ
nhiên khi sắp xếp thứ tự thì ưu tiên những kinh mà nó có tác dụng nhất.
6.2. Cơ sở của sự quy kinh thuốc y học cổ truyền
6.2.1. Dựa vào lý luận y học cổ truyền
Trên thực tế dựa vào thuyết ngũ hành, tạng tượng, kinh lạc. Dựa vào màu sắc
mùi vị của thuốc như thuốc có màu xanh, vị chua quy vào hành mộc( tạng can, phủ
đờm). Thuốc có màu đỏ, vị đắng quy vào hành hỏa( tâm, tiểu tràng), Thuốc có màu

vàng, vị ngọt quy vao hành thổ( tỳ vị ). Thuốc có màu trắng, vị cay quy vào hành
kim( phế, đại tràng). Thuốc có màu đen, vị mặn quy vào hành thủy( thận, bàng
quang).
Tuy nhiên sư quy kinh mang tính chất tương đối. Trên thực tế lâm sàng
người ta thường dùng vị thuốc có màu vàng, vị ngọt để kiện tỳ như mật ong, cam
thảo, hoàng kỳ… Vị thuốc chữa tâm như liên tâm, hoàng liên…
6.2.1. Dựa vào thục tiễn lâm sàng
Người ta tổng kết dựa vào sự tác dụng của vị thuốc với tạng phủ và kinhlạc
nhất định. Từ đó biết được sự quy kinh của thuốc như hạt sen có tác dụng cầm ỉa
chảy, cầm di tính, an thần vào kinh tỳ, thận, tâm. Ô mai vào kinh phế, tỳ, can nên
có tác dụng chữa ho, cầm ỉa chảy, chữa đau bụng giun.
6.2.2. Chế biến làm tăng sự quy kinh của thuốc
Chế biến có thể làm tăng sự quy kinh của thuốc.
Đối với sự quy kinh của thuốc, để phát huy thêm khả năng nạp cuả chúng
vào những kinh cụ thể, có thể tiến hành chế biến chúng với các phụ liệu nhất định.
Ví dụ: đỗ trọng, hương phụ, trạch tả trích với muối ăn để cho chúng tăng nhập vào
kinh thận; diên hồ sách tẩm giấm để tăng nhập vào kinh can; xương bồ tẩm chu sa
để tăng nhập vào kinh tâm…. Cũng có thể đem sao (ở muức độ khác nhau) để vị
thuốc có màu sắc đen, để chúng tăng quy nạp vào kinh thận, ví dụ: hà diệp, trắc
bách diệp, hoa hòe sao cháy…
Trên thực tế lâm sàng cho thấy, khi dùng thuốc đúng kinh mà chúng quy nạp
thì phát huy được tác dụng. Ví dụ: đau đầu, đau vùng trán và xương lông mày là
đau theo kinh dương minh vị và đại tràng, dùng bạch chỉ thì phát huy được các tác


dụng, nếu đau hai bên thái dương hoặc đau nửa đầulà đau theo kinh thiếu dương
đởm, dùng mạn kinh tử thì phát huy tác dụng. Nếu đau vùng chẩm, vùng gáy, là
đau theo đường kinh bàng quang, dùng cát căn thì phát huy tác dụng. Đau ở chính
đỉnh đầu là đau theo đường kinh can, dùng cảo bản thì phát huy tác dụng.
Mặt khác mỗi vị thuốc có quy vào mỗi kinh nhất định, cho nên khi sử dụng

cần quan tâm đến sự quy kinh của nó; điều đó cũng còn có ý nghĩa khi ta tiến hành
phối hợp các vị thuốc trong đơn thuốc với nhau.
Đồng thời cần quan tâm đến mối quan hệ giữa sự quy kinh của vị thuốc , khí
của vị thuốc với tính của bệnh. Ví dụ: khi nói đến các vị thuốc chữa ho ta có thể
dùng một số vị thuốc quy vào kinh phế như ma hoàng, hạnh nhân, mạch môn,
hoàng cầm,…Nhưng nếu ho tính nhiệt thì ta dùng tiền hồ, tang bạch bì(vì chúng có
tính hàn); còn nếu ho do tính hàn thì ta dùng bách bộ, hạnh nhân bì hai vị thuốc này
có tính ấm. Nếu ho do tính thực( phế thực) thì dùng tang bạch bì, đình lịch tử vì
chúng đều quy kinh phế song lại có tác dụng lợi tiểu để bớt thực chứng ở phế. Nếu
ho do phế hư( ho lao, ho lâu ngày) dùng nhân sâm, đảng sâm vì chúng đều quy vào
kinh phế, song lại mang tính chất bổ tỳ kiện vị, ích khí.
7.
Bảy trường hợp phối ngũ của các vị thuốc
7.1. Đơn hành (tác dụng của một vị thuốc)
Khi chỉ dùng riêng một vị thuốc cũng có thể phát huy được hiệu quả chữa
bệnh của nó.
Ví dụ: dùng riêng nhân sâm cũng có tác dụng bổ khí, nhất là khi cơ thể ở
trạng thái vô lực, thoát dương, mệt mỏi… Một vị tam thất cũng có tác dụng chỉ
huyết, bồi bổ cơ thể, nhất là đối với phụ nữ sau khi sinh đẻ. Mooth vị cà gai leo có
hiệu quả chữa rắn độc cắn…
7.2. Tương tu (tác dụng hiệu đồng của hai vị thuốc)
Hai vị thuốc có tính vị giống nhau khi phối hợp lại thì tác dungj điều trị tốt
hơn.
Ví dụ: Kim ngân phối hợp với liên kiều tăng sức thanh nhiệt, giải độc dùng
trong các bệnh mụn nhọt, mẩn ngứa, dị ứng. Sinh địa phối hợp với huyền sâm sẽ
tăng tác dụng luoưng huyết….
7.3. Tương úy (ức chế độc tính của nhau)
Khi hai vị thuốc dùng chung, vị này ức chế tính độc của vị kia(nếu có) thì
được gọi là tương úy.
Ví du: Bán hạ úy sinh khương: bán hạ dùng với sinh khương thì sinh khương

làm mất hoạt tính kích thích họng của bán hạ, dống thời làm mất tác dụng phụ của
bán hạ như buồn nôn, lợm ngóng. Chính vì vậy, trong chế biến ngưới ta dùng sinh
khương để chế bán hạ.
7.4. Tương ác (kiềm chế tính năng, tác dụng của nhau)
Khi hai vị thuốc dùng chung, vị này kiềm chế tính năng của vị kia gọi là
tương ác.


Ví dụ: Hoàng cầm dùng với sinh khương : hoàng cầm vị đắng tính hàn, sinh
khương vị cay tính ấm, khi dùng chung tính hàn của hoàng cầm sẽ kiềm chế tính
ấm của sinh khương…
7.5. Tương sử (tác dụng hiệp đồng của hai vị thuốc có tính vị khác nhau)
Hai vị thuốc có khí và vị khác nhau, khi dùng chung, tác dụng tăng lên.
Ví dụ: Liên kiều vị đắng tính hàn, ngô thù du vị cay tính ấm, khi dùng chung
tác dụng cầm nôn. Đó chính là do chúng có khả năng hạn chế tiết dịch nước bọt và
dịch vị, trên cơ sở đó có thể chữa chứng ợ chua của bệnh đau dạ dày.
7.6. Tương sát (tiêu trừ độc tính của nhau)
Khi dùng phối hợp, vị thuốc này có thể làm mất độc tính của vị thuốc kia.
Ví dụ: phòng phong trừ độc của thạch tín, đậu xanh trừ độc của ba đậu. Vì
Vậy, vận dụng tương sát để giai dộc khi bị ngộ độc asen hoặc ba đậu…
7.7. Tương phản
Hai vị thuốc được gọi là tương phản là khi dùng phối hợp chúng sẽ gây ra
những phản ưngs không tốt cho cơ thể và sẽ gây thêm độc tính cho cơ thể.
Ví dụ: Ba đậu phản khiêu ngưu; cam thảo phản cam toại; bạch cập phảu bán
hạ…Về nguyên tắc các vị thuốc tương phản nhau thì khoong thể dùng chung cới
nhau được; điều đó cần hết sức chú ý. Ví dụ: dùng tế tân với lệ nô gây mù mắt cho
bệnh nhân, nguyên hoa khi dùng chung với cam thảo gây tăng độc tính của nguyên
hoa.
Tuy nhiên trong thực tế một số người có kinh nghiệm đã lợi dụng tính chất
tương phản của một số vị thuốc để chưã bệnh. Ví dụ: cam thao phản cam toại song

người ta đã dung hai vị thuốc này ( trong bài cam toại tán) với mục đích trục đờm
ẩm.
Tóm lại khi tiến hành phối hợp các vị thuốc trong một đơn thuốc cần chú ý
tới bảy tình huống trên, trong YHCT gọi là thất tình hòa hợp. Cần khai thác mặt tốt
của chúng để chữa bệnh và chế biến; đồng thời cần hết sức tránh các trương hợp
tương phản, tương ác… để tránh các hậu quả khi dùng thuốc cũng như tác dụng
kém của thuốc.
8. Sự cấm kỵ khi dùng thuốc
8.1. Kỵ thai
Những vị thuốc có độc tính cao, tác dụng mạnh,hành khí, phá huyết, tả hạ,
trục thủy mạnh.
Loại cấm dùng: Ba đậu( tả hạ), Khiêu ngưu, Đại kích, Thương lục( Trục thủy
mạnh) , Tam thất( hoạt huyết), Sạ hương( phá khí), Manh trùng( phá huyết), Nga
trục, Thủy diệt
Loại dùng thận trọng: Đào nhân,, Hồng hoa( hoạt huyết), bán hạ, Đại
hoàng( tả hạ), Nhục quế( đại nhiệt); Phụ tử, Can khương…
8.2. Cấm kị khác
Một nhân bị cao huyết áp, đang có xuất huyết, trầm cảm, tiểu đường, suy
tim,.. cần lưu ý khi dùng thuốc.
8.3. Kiêng trong ăn uống


Cam thảo, Hoàng liên, Cát cánh, Ô mai : kiêng thịt lợn, Bạc hà: kiêng Ba ba;
Phục linh: kiêng giấm.
- Thuốc hàn để chữa bệnh nhiệt : không ăn, uống thức ăn cay, nóng.
- Thuốc nhiệt để chữa bệnh hàn: không ăn, uống thức ăn lạnh, mát.
- Thuốc an thần : không ăn thức ăn kích thích.
- Thuốc gây nê trệ: không ăn thức ăn tanh lạnh.
- Tùy bệnh cụ thể : kiêng ăn thức ăn cho phù hợp.
9.

Chú ý khi sử dụng thuốc Y học cổ truyền
- Liều lượng: sử dụng không nghiêm ngặt( trừ thuốc độc), giao động lớn vì:
+ Thuốc YHCT là dược liệu, không phải là chất tinh khiết.
+ Liều chủ yếu là sao chép các sách, chưa phải liêù có tác dụng.
+ Bài thuốc phối hợp nhiều vị thuốc, tác dụng là chung của bài, liều của một
vị ảnh hưởng rất ít.
+ Thuốc thông thường rất ít độc, ít tác dụng phụ, tác dụng phụ phản ứng không
quá dữ dội.
- Những cơ sở để xác định liều thích hợp:
+ Người bệnh
+ Tuổi và giới tính
+ Tính chất và tình trạng bệnh
+ Đặc điểm của thuốc
+ Khí vị của thuốc
+ Tỷ trọng của thuốc
+ Cách phối ngũ
+ Dạng thuốc: thuốc thang nhiều, cao đơn hoàn tán ít.
+ Địa phương, khí hậu: ở mỗi nơi thu hái sẽ có liều lượng thích hợp.
- Cách sắc:
+ Dụng cụ: ấm sắc, ấm đất hoặc men là tốt nhất.
+ Ngâm thuốc trước khi sắc: khoảng 1 giờ.
+ Lượng nước: ngập thuốc.
+ Điều chỉnh lửa: lúc đầu để lửa vũ, sau khi sôi lửa văn.
+ Thời gian sắc: Tùy theo thể chất cứng chắc, lá mỏng manh
Thuốc bổ thời gian lâu, thuốc tả, có tinh dầu thời gian ngắn.
+ Cách cho thuốc vào sắc: Cho trước, sau, bọc vào, sắc riêng, hòa vào để
uống…
- Cách uống:
+ Uống trước bữa ăn: 1 giờ.
+ Uống sau bữa ăn: thuốc kích thích dạ dày.

+ Uống lúc đói: thuốc bổ.
+ Uống lúc đi ngủ: an thần hoặc xổ giun.
+ Bệnh cấp tính uống bất kì lúc nào.
10.

Quy chế thuốc độc y học cổ truyền


Thuốc cổ truyền được dùng lâu đời ở nước ta, trong các phòng mạch tư nhân,
trong dân gian nhiều bài thuốc hay, nhiều kinh nghiệm quý đã được lưu truyền qua
sách vở hoặc bằng miệng từ đời nay qua đời khác. Thực hiện đường lối kế thừa,
phát huy phát triển Y học cổ truyền, từ năm 1958 đến nay, Ngành Y tế đã sưu tầm,
tập hợp được nhiều bài thuốc cổ truyền. Một số thuốc cổ truyền đã được nghiên
cứu một cách hệ thống và khoa học song còn nhiều bài thuốc chưa được tổng kết
đánh giá bằng phương pháp khoa học do đó hiệu lực của thuốc chưa rõ.Để đảm bảo
tính mạng và sức khỏe cho người sử dụng, Bộ Y tế đã ban hành một số quy chế thử
nghiệm độc tính của thuốc YHCT như sau:
Xác định độc tính của thuốc cổ truyền :
1. Xác định độc tính: cấp, bán cấp, trường diễn của thuốc .
2. Các phương pháp thực nghiệm (phải là phương pháp chuẩn quốc gia hoặc quốc
tế) gồm:
- Phương pháp thử nghiệm dược lực, dược lý cơ bản tiến hành trên mô hình động
vật hoặc thực nghiệm sinh học có liên quan chặt chẽ với người bệnh.
- Phương pháp thử độc tính trên động vật:
+ Độc tính toàn thân (thay đổi sinh lý, sinh hoá, huyết học, giải phẫu...)
+ Độc tính cấp diễn (độc tính xuất hiện trong vòng 24-36 giờ).
+ Độc tính trường diễn (xuất hiện trong thời gian dùng thuốc đưa đánh giá kéo
dài từ 3 đến 6 tháng). Có thể thử nghiệm độc tính bán cấp với thời gian 2 tháng.
+ Độc tính tại chỗ (tính kích ứng của thuốc, sự hấp thu của cơ thể).
+ Độc tính chuyên biệt (đặc biệt) nói chung không thử nghiệm song nếu được

yêu cầu thì phải thực hiện.
Khảo sát độc tính của thuốc cổ truyền bao gồm:
10.1. Thử nghiệm về độc tính cấp diễn
1. ở nước ta hiện nay dùng chuột nhắt trắng, cả đực lẫn cái chọn giống tuỳ thí
nghiệm, số lượng tuỳ phương pháp từ 30 - 100 con.
2. Trọng lượng chuột từ 16-22 gram nhưng thông dụng nhất là 19+1 gram,
45 ngày tuổi.
3. Nếu dùng đường uống thì cho vào dạ dày chuột 0,20 ml thuốc cho 10
gram chuột. Với trọng lượng 19 g + 1 thì đồng loạt cho chuột uống 0,4 - 0,5 ml
thuốc bằng kim hơi cong có đầu tù với độ dài đưa vào đến dạ dày chuột.


4. Với điều kiện hiện nay ở nước ta nói chung số chuột cung cấp có trọng
lượng tương đối đồng nhất cho mỗi đợt nghiên cứu còn khó khăn (chỉ có độ 40
chuột). Với phương pháp tính của Behrens, số chuột trên đã có thể cho biết kết quả
LD 50 với sai số bé.
5. Khi chọn được liều thích hợp thì sẽ có cả liều tối đa an toàn và liều tối
thiểu chí tử tạo thuận lợi cho các thí nghiệm khác. Chia số chuột đó ra thành nhiều
lô, tối thiểu là 5 lô và mỗi lô tối thiểu là 6 chuột.
6. Theo dõi sát suốt quá trình 24 giờ là chính. Sau đó nếu thấy cần thì theo
dõi thêm đến 36 - 48 giờ. Ghi chép đầy đủ chi tiết mỗi diễn biến trong thời gian đó.
Ghi giờ cho uống thuốc, giờ xuất hiện các triệu chứng khác thường, giờ chết. Sau
24 giờ thu số liệu để tính kết quả. Có thể theo dõi 36 - 48 giờ để tham khảo đánh
giá tính độc trong thời gian đó.
7. Theo dõi tác dụng phụ cấp diễn.
7.1. Trên thí nghiệm độc tính cấp diễn có thể quan sát thấy các triệu chứng
bệnh lý quan trọng ở chuột không chết hoặc trước khi chết như: gãi mõm liên tục,
chạy hoảng loạn, ngã xiêu vẹo, co giật, run rẩy, ra mồ hôi, tím tái ở tai, chân, đuôi,
tư thế nằm, đứng... Những triệu chứng này phải được ghi lại đầy đủ trong phần kết
quả.

7.2. Trên điện tâm đồ, điện não đồ: theo dõi sự biến đổi về hình thái, biên độ
và tần số của các sóng.
7.3. Trên huyết áp hô hấp: theo dõi sự biến đổi về dạng, biên độ và tần số của
các sóng.
Trong nhiều thí nghiệm của thuốc cổ truyền, những tác dụng phụ cấp diễn đã cung
cấp nhiều thông tin thuận lợi để có nhận xét đầy đủ hơn về tính an toàn của thuốc
cổ truyền.
8. Phải xét nghiệm đại thể ngay sau khi chết đối với chuột bị chết, và làm xét
nghiệm đại thể sau khi kết thúc thí nghiệm đối với chuột còn sống. Nếu cần thiết thì
tiến hành xét nghiệm vi thể một số phủ tạng hoặc tất cả các phủ tạng theo yêu cầu
của đề tài và tình hình bệnh lý của phủ tạng có nghi vấn. Nếu nhìn chung không
thấy có gì đặc biệt thì chỉ làm xét nghiệm gan, thận, ruột.
9. Một số vấn đề cần quan tâm.
9.1. Nếu một thí nghiệm độc cấp diễn được tiến hành thuận lợi thì thu được
LD50 (để đánh giá mức độ độc, để cảnh giác khi sử dụng), thu được liều tối đa an
toàn cho các thí nghiệm khác, thu được một số triệu chứng quý giá có giá trị gợi ý
cho việc tìm cơ chế gây độc và theo dõi trên lâm sàng.


9.2. Khi tiến hành thí nghiệm độc tính cấp diễn thuốc cổ truyền có thể gặp
phải một số phức tạp như sự khác biệt với lý thuyết y học cổ truyền hoặc y học hiện
đại, không xử lý được dạng thuốc để thử bằng chính đường uống và tình hình súc
vật chết không theo quy luật lượng đổi, chất đổi.
9.3. Khi đánh giá độc tính của một thuốc cổ truyền để đem ra sử dụng thì:
a.
Không nên chỉ dựa vào LD50, mà phải quan tâm cả đến tác dụng phụ không
có lợi.
b.
Không nên so LD50 của thuốc cổ truyền được nghiên cứu với LD50 của các
thuốc cổ truyền khác đã không được tiến hành trong cùng điều kiện thí nghiệm.

c.
Không nên so LD50 của thuốc cổ truyền với LD50 của thuốc hiện đại là hoạt
chất của thuốc cổ truyền như so LD50 của phụ tử với LD50 của Aconitin, LD50
của mã tiền với LD50 của Strychnine.
10.2. Thử nghiệm về độc tính trường diễn
Do thuốc cổ truyền phần lớn dùng dài ngày mới thấy rõ tác dụng nên thí
nghiệm trường diễn có nhiều ý nghĩa thực tiễn hơn.
1.Tuỳ đề tài để chọn súc vật thí nghiệm về loài (gậm nhấm, không gậm
nhấm), giống, cân nặng, tuổi sinh trưởng... Trong điều kiện khó khăn thì thỏ được
dùng phổ biến cho các thí nghiệm trường diễn.
2. Số thỏ tối thiểu được dùng là 6 (3 đực, 3 cái). Số lượng tương đối là 10 12 để có thể tính được độ tin cậy. Trọng lượng 2,5 - 3 kg/con.
3. Thời gian thực nghiệm tuỳ thuộc vào loại thuốc được sử dụng trên lâm
sàng. Nói chung với thời gian dùng thuốc trong thực nghiệm gấp 4 lần thời gian
dùng thuốc trên lâm sàng, và cho thuốc hàng ngày.
Một thí nghiệm độc tính bán cấp phải tiến hành trong thời gian tối thiểu là 1 tháng
rưỡi. Song nên tiến hành trong thời gian 2 tháng, như vậy mới có số liệu để đảm
bảo một cách tương đối cho việc nhận định kết quả.
4. Đường cho thuốc thường dùng là đường uống bằng ống cao su. Liều cho
mỗi thỏ mỗi lần tính từ liều dưới liều tối đa an toàn của chuột hoặc tính từ liều
dùng thông thường trên người. Thể tích thuốc cho mỗi thỏ mỗi lần là uống 10 ml,
tiêm 3 ml.
5. Các chỉ tiêu quan sát sẽ tuỳ thuộc đề tài. Những chỉ tiêu hay dùng cho bất
cứ đề tài nào là:
5.1. Về máu: lượng hồng cầu, bạch cầu, công thức bạch cầu, tỷ lệ huyết sắc
tố, thời gian máu đông, máu chảy, tốc độ huyết trầm, urê và đường huyết, diện đi


prôtêin huyết thanh. Kiểm tra 1 lần trước khi cho thuốc, ít nhất một lần trong khi
dùng thuốc và một lần trước khi giết động vật.
5.2. Về nước tiểu: Khối lượng, tỷ trọng, hồng cầu, trụ niệu, albumin. Kiểm

tra trước khi cho thuốc và ít nhất 1 lần trong khi dùng thuốc.
5.3. Phân: hình thái rắn, nhão, ỉa chảy có kèm ký sinh trùng hay không.
5.4. Lượng thức ăn tiêu thụ và thể trạng chung, trọng lượng, lông, hoạt động
của động vật.
6. Xét nghiệm về tổ chức học (đại thể và vi thể) của động vật phải được tiến
hành mỗi khi có động vật chết trong quá trình nghiên cứu và động vật bị giết chết
sau khi đã kết thúc đợt thí nghiệm.
7. Phải đảm bảo các điều kiện cơ sở vật chất cho thí nghiệm dài ngày.
10.3. Thử nghiệm về độc tính tại chỗ
Dùng các lô chứng, trị, kiểm tra. Theo dõi diễn biến thực thể và chức năng
tại chỗ và toàn thân đại thể và vi thể, sinh hoá, huyết học... trên mô hình bệnh lý
hoặc bình thường. Cần đảm bảo vệ sinh môi trường tránh gây nhiễm vi sinh vật.
Báo cáo của nhóm chuyên gia của Tổ chức y tế thế giới khu vực Tây Thái
bình dương (WP) TRM/TCP/TRM/002 - series No RS/92/GE/15 (PHL) tháng 3
năm 1993 đã đề xuất như sau:
Thử nghiệm sự mẫn cảm của da:
1. Các chế phẩm thuốc dùng trị bệnh ngoài da cần phải thử bao gồm:
- Các chế phẩm rắn:Chuẩn bị làm thử nghiệm bằng cách làm ướt chế phẩm với
nước hay một dung môi thích hợp để có một dạng đồng nhất để đắp vào da.
- Chế phẩm mềm: Cũng được thử như những chế phẩm không pha loãng.
- Chế phẩm lỏng: Cũng được thử như những chế phẩm không pha loãng.
Tuy nhiên, nếu cần thì có thể pha loãng để dùng.
2. Động vật thí nghiệm:
Sử dụng các loại có tính mẫn cảm cao. Loài chuột lang được coi là động vật
thích hợp nhất.
3. Phương pháp thử nghiệm:
3.1. Thử nghiệm bằng trợ chất và bằng gạc có tẩm thuốc.


3.2. Thử nghiệm Buehler.

3.3. Thử nghiệm Draize.
3.4. Thử nghiệm với trợ chất Freund toàn bộ.
3.5. Thử nghiệm tối đa (maximization test)
3.6. Thử nghiệm trên da mở (open epicutaneous test)
3.7. Thử nghiệm tối ưu (optimization test).
3.8. Thử nghiệm với trợ chất tách ra (Split adjuvant test).
Cũng nên nhận thấy rằng các phương pháp nói trên khác nhau về xác suất và
mức độ đáp ứng đối với các chất gây mẫn cảm. Tuy nhiên nói chung người ta đều
chấp nhận rằng dùng thử nghiệm trợ chất Freund toàn bộ sẽ làm tăng tính mẫn cảm
và do đó khả năng phát hiện các chất có tiềm năng mẫn cảm yếu".
Ở nước ta các phương pháp thử nghiệm thường dùng là: thử nghiệm 3.1, 3.4
và 3.6.
4. Đánh giá các kết quả thử nghiệm.
Phản ứng da của mỗi động vật phải được đánh giá theo các chuẩn của
phương pháp thử nghiệm đã dùng.
10.4. Các thử nghiệm độc tính đặc biệt
1. Trong nghiên cứu đánh giá thuốc cổ truyền, nói chung ít sử dụng các thử
nghiệm độc tính đặc biệt vì:
1.1. Trên thực tế thuốc cổ truyền dùng theo đúng kinh điển đã được chứng
minh qua nhiều thế hệ là an toàn, chưa thấy xuất hiện độc tính đặc biệt.
1.2. Thuốc cổ truyền khó cho ta những thông tin cần thiết trên các thử
nghiệm độc tính đặc biệt. Vì thuốc cổ truyền không phải là tính chất mang hoạt lực
mạnh như hoá dược, mà là toàn bộ hoặc dịch chiết toàn phần của thuốc, do đó
nhiều khi rất khó phát hiện các tác dụng dược lý.
1.3. Tuy vậy, nếu có điều kiện cũng nên khảo sát độc tính đặc biệt của một số
thuốc độc (đại độc) của y học cổ truyền (ví dụ thạch tín, cây vòi voi)
1.4. Những thử nghiệm có thể tiến hành trong một số phòng thực nghiệm của
Việt Nam là:
a.


Thí nghiệm về tính đột biến cấu trúc nhiễm sắc thể.


b.

Thí nghiệm về khả năng gây ung thư.

c.
Thí nghiệm độc tính trên khả năng sinh sản: gây sẩy thai, đẻ non, chết thai và
phát triển .
1.5. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, trong lĩnh vực thuốc cổ truyền hiện nay,
nội dung này chỉ được đề ra mỗi khi thấy cần thiết, do yêu cầu của một công trình
cụ thể. Lúc đó sẽ đặt vấn đề mời một đơn vị chuyên khoa thích hợp làm theo quy
định chung của Tổ chức y tế thế giới vận dụng vào Việt Nam.
Tóm lại, trong nghiên cứu cận lâm sàng thuốc cổ truyền cần:
1. Dành thời gian thích đáng cho giai đoạn thăm dò kỹ thuật tiến tới ổn định
kỹ thuật thử thuốc cổ truyền, bởi vì từ trước đến nay hầu như mới chỉ mượn kỹ
thuật nghiên cứu thuốc hiện đại, và rõ ràng là có những kỹ thuật hiện đại không đáp
ứng những yêu cầu của nghiên cứu thuốc cổ truyền.
2. Xác định thời điểm đọc kết quả thí nghiệm của thuốc cổ truyền. (Mô hình
viêm, mô hình lợi tiểu, độc cấp diễn và bán cấp).
3. Ngoài ra cũng cần làm điều tra cơ bản một số vấn đề của thuốc cổ truyền
như LD50 của các thuốc cổ truyền rất độc, hơi độc, không độc... tác dụng của bào
chế cổ truyền.
10.5. Các giai đoạn đánh giá hiệu quả lâm sàng
Được tiến hành sau khi đã xác minh quy cách chất lượng thuốc và xác định
được độc tính, tác dụng dược lý của thuốc.
1. Giai đoạn 1: Quan sát sơ bộ hiệu lực của thuốc để làm cơ sở cho các giai
đoạn đánh giá tiếp.
- Có phác đồ điều trị phù hợp.

- Tiến hành trên một số ít (10-30) người khoẻ mạnh (20-30 tuổi), các chức
năng gan, tim, thận bình thường, không có tiền sử dị ứng với thức ăn, thuốc (cũng
có thể tiến hành trên một số bệnh nhân tình nguyện).
- Xác định liều dùng, đường dùng thuốc.
- Quan sát ghi chép theo đề cương.
- Phân tích, đánh giá.
- Báo cáo kết quả.
2. Giai đoạn 2: Xác định hiệu lực và khẳng định thêm tính an toàn của thuốc
đưa đánh giá.


- Có phác đồ điều trị thích hợp.
- Tiến hành trên một số bệnh nhân hạn chế (30-50) và chia làm 2 nhóm:
nhóm thuốc đánh giá và nhóm đối chứng (cũng có thể chỉ có nhóm bệnh nhân dùng
thuốc cần đánh giá). Các bệnh nhân này phải được theo dõi nội trú.
- Phân nhóm: Nếu là 2 nhóm thì dùng phương pháp so sánh đối tượng bệnh
nhân phải giống nhau cả về số lượng, giới tính, thời gian mắc bệnh: thuốc dùng để
so sánh phải là loại thuốc đã xác định hiệu quả hoặc dùng placêbo (thuốc vờ). Nếu
chỉ có một nhóm dùng thuốc đưa đánh giá thì dùng phương pháp tự đối chiếu.
- Liều lượng thuốc hàng ngày và thời gian điều trị phải xác định rõ và tuân
thủ đúng phác đồ.
- Theo dõi ghi chép đúng, không sai, không sót các biến đổi lâm sàng; kiểm
tra cận lâm sàng, tác dụng xấu hoặc tác dụng phụ của thuốc trên người nếu có.
- Đánh giá tác dụng điều trị theo 4 mức:
+ Khỏi hẳn.
+ Có tiến bộ rõ.
+ Có tiến bộ.
+ Không có tiến bộ.
- Xử lý số liệu bằng xác suất thống kê.
- Báo cáo kết quả.

3. Giai đoạn 3: Triển khai đánh giá lâm sàng trên phạm vi rộng lớn hơn để
xác định kết quả của giai đoạn 2.
- Đề cương đánh giá như ở giai đoạn 2.
- Số lượng bệnh nhân khoảng 100-150: phương pháp đánh giá là phương
pháp mù kép.
- Cách tiến hành giống như giai đoạn 2: thực hiện ở 3 trung tâm có điều kiện
trang bị kỹ thuật và cán bộ có năng lực.
- Theo dõi ghi chép, đánh giá tác dụng điều trị và báo cáo kết quả như giai
đoạn 2.
4. Giai đoạn 4: Khi thuốc đã được sản xuất và sử dụng rộng rãi, nếu cần phải
phát hiện những trường hợp độc hại mà các giai đoạn nêu trên không phát hiện
được thì tiến hành tiếp giai đoạn 4. Số lượng bệnh nhân khoảng 200 bệnh nhân trở


lên và được thực hiện ở nhiều trung tâm của nhiều vùng trong cả nước. Cách tiến
hành như giai đoạn 2 và 3.
5. Giai đoạn 5: Khi phát hiện thấy thuốc đang dùng có tác dụng cho một chỉ
định mới, phải tiến hành đánh giá hiệu quả bằng giai đoạn 5 để khẳng định chỉ định
mới của thuốc. Cách tiến hành như giai đoạn 2 và 3. Số lượng bệnh nhân khoảng
100 bệnh nhân trở lên.



×