Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

QUY TRÌNH NHẬP KHẨU HÀNG hóa tại CÔNG TY cổ PHẦN THƯƠNG mại và DỊCH vụ HBS VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.59 KB, 65 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
------------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
QUY TRÌNH NHẬP KHẨU HÀNG HÓA TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI
VÀ DỊCH VỤ HBS VIỆT NAM
Chuyên ngành : Hải quan và Nghiệp vụ ngoại thương
Mã số

: 05

Giảng viên hướng dẫn:

Hà Nội – Năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết quả nêu trong
luận văn tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập.

Sinh viên


(Ký và ghi rõ họ tên)

Trần Thị Loan


MỤC LỤC
TRANG BÌA……………………………………………………..……………i



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CTCP

: Công ty cổ phần

XK

: xuất khẩu

NK

: nhập khẩu

XNK

: xuất nhập khẩu

PTVT

: phương tiện vận tải

L/C

: Letter of Credit

VNACCS/VCIS

: Hệ thống thông quan tự động



DANH MỤC CÁC BẢNG



MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh và sâu sắc.
Đó là xu thế tất yếu khách quan và là một quy luật mà mọi quốc gia trong khu vực và trên thế giới
đều phải tuân theo. Biểu hiện rõ nhất của xu thế này là quá trình tự do hóa buôn bán trong khu vực
và phạm vi toàn cầu.
Thực hiện đường lối chuyển đổi nền kinh tế của đất nước, hội nhập với nền kinh tế thế giới,
Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là
trong lĩnh vực hợp tác quốc tế. Trong đó, thương mại quốc tế là lĩnh vực quan trọng để Việt Nam
dần có chỗ đứng trong khu vực và trên phạm vi thế giới, thực hiện mục tiêu mà Đại hội Đảng đề ra:
“Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại…
xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới…”.
Việt Nam đang trên đường hội nhập với nền kinh tế thế giới, các hoạt động giao thương quốc tế
ngày càng được mở rộng, không chỉ là các mối quan hệ hợp tác, giao lưu đối ngoại mà còn là các
hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá. Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm vừa
qua đã có nhiều thành tựu đáng khích lệ. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm đều có những tăng
trưởng nhất định. Trong đó, hoạt động nhập khẩu hàng hóa mang lại nhiều lợi thế cho nền kinh tế,
góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế quốc gia.
Công Ty Cổ Phần Thương Mại & Dịch Vụ HBS Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh đất nước
đang chuyển mình mạnh mẽ để hội nhập kinh tế Quốc tế, chuyên kinh doanh trong lĩnh vực xuất
nhập khẩu. Với hướng đi đúng đắn trong những năm qua công ty đã tạo được niềm tin nơi khách
hàng và không ngừng phát triển. Đối với mỗi doanh nghiệp tham gia vào hoạt động nhập khẩu nói
riêng, việc xây dựng một quy trình nhập khẩu hàng hóa đơn giản, hợp lý và hiệu quả có ý nghĩa
quan trọng với quá trình nhập khẩu hàng hóa của doanh nghiệp. Nó giúp hoạt động nhập khẩu diễn

ra một cách trơn tru và nhanh chóng hơn, tiết kiệm nguồn lực và mang lại lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Do đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp nhập khẩu phải không ngừng hoàn thiện quy trình nhập
khẩu hàng hóa của mình cho phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp và những biến động
của thị trường trong nước cũng như thế giới. Nhận thấy vai trò quan trọng của quy trình nhập khẩu
hàng hóa với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, do đó trong thời gian thực tập và tìm hiểu tại


Công ty, với kiến thức đã học được em quyết định lựa chọn đề tài: “Quy trình nhập khẩu hàng hóa
tại công ty Cổ Phần Thương Mại & Dịch Vụ HBS Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2.Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu lý luận và thực tiễn quy trình Nhập khẩu hàng hóa tại CTCP Thương Mại & Dịch Vụ
HBS Việt Nam, dựa vào tình hình thực tế và so sánh với lý thuyết nhằm rút ra những khác biệt và
những kinh nghiệm thực tiễn.
Phân tích để tìm ra những ưu, nhược điểm của quy trình này và đưa ra một số giải pháp để
hoàn thiện quy trình nhập khẩu hàng hóa,nâng cao hoạt động nhập khẩu tại công ty Cổ Phần
Thương Mại & Dịch Vụ HBS Việt Nam.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề về quy trình Nhập khẩu hàng hóa tại CTCP Thương
Mại & Dịch Vụ HBS Việt Nam trong giai đoạn 2016 – 2018 và đưa ra giải pháp hoàn thiện quy
trình này.
4.Phương pháp thực hiện
Để thực hiện luận văn này, em đã sử dụng các tài liệu được công ty cung cấp, đồng thời tìm
thêm tư liệu trên các phương tiện thông tin về đề tài nghiên cứu. Các phương pháp nghiên cứu sử
dụng trong luận văn bao gồm: phương pháp thống kê, diễn giải, quy nạp; quan sát,so sánh, phân
tích, tổng hợp và đánh giá dựa trên các số liệu thu thập được tại đơn vị thực tập.
5.Kết cấu của luận văn tốt nghiệp
Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, bảng biểu, sơ đồ, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo thì nội dung chính của đề tài được trình bày trong 3 chương:
CHƯƠNG 1: Những lý luận cơ bản về quy trình nhập khẩu hàng hóa.
CHƯƠNG 2: Quy trình nhập khẩu hàng hóa tại CTCP Thương Mại & Dịch Vụ HBS Việt Nam.

CHƯƠNG 3: Một số giải pháp hoàn thiện quy trình nhập khẩu hàng hóa tại CTCP Thương
Mại & Dịch Vụ HBS Việt Nam.


CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUY TRÌNH NHẬP KHẨU HÀNG HÓA

1.1.Một số vấn đề cơ bản về nhập khẩu hàng hóa
1.1.1.Khái niệm nhập khẩu hàng hóa
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa,hoạt động trao đổi hàng hóa dịch vụ là điều kiện quan
trọng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Các hoạt động trao đổi ấy gọi chung là hoạt động
thương mại. Trước đây, hoạt dộng thương mại chỉ là hoạt động mua bán hàng hóa, tuy nhiên, quan
niệm này không còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay.
Theo điều 3 Luật Thương mại năm 2005, hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Thương mại quốc tế là hoạt động thương mại có yếu tố nước ngoài tham gia, là quá trình trao
đổi hàng hoá giữa các nước thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Trao đổi hàng hoá là
một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những
người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Thương mại quốc tế là một lĩnh
vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát
triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. Ngày nay, thương mại quốc tế không chỉ mang ý nghĩa đơn
thuần là buôn bán mà là sự phụ thuộc tất yếu giữa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Vì
vậy, phải coi thương mại quốc tế như một tiền đề một nhân tố phát triển kinh tế trong nước trên cơ
sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế.
Thương mại quốc tế một mặt phải khai thác được mọi lợi thế tuyệt đối của đất nước phù hợp
với xu thế phát triển và quan hệ kinh tế quốc tế. Mặt khác, phải tính đến lợi thế tương đối có thể
được theo quy luật chi phí cơ hội. Phải luôn luôn tính toán cái có thể thu được so với cái giá phải trả
khi tham gia vào buôn bán và phân công lao động quốc tế để có đối sách thích hợp. Vì vậy để phát
triển thương mại quốc tế có hiệu quả lâu dài cần phải tăng cường khả năng liên kết kinh tế sao cho

mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn.
Trước đây, thương mại quốc tế thường được điều chỉnh bằng các hiệp định thương mại song
phương giữa hai nước. Trước thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa trọng thương còn chiếm ưu thế, đa số các
nước áp đặt những mức thuế cao cùng nhiều hạn chế thương mại khác đối với hàng nhập khẩu. Kể
từ thế kỷ XIX, tư tưởng về thương mại tự do dần dần nổi lên giữ vai trò chủ đạo ở các nước phương


Tây, đặc biệt là ở Anh. Trong những năm kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, các hiệp định
thương mại đa phương như GATT và WTO đã cố gắng xây dựng một cơ chế thương mại quốc tế có
sự thống nhất điều chỉnh trên phạm vi toàn cầu.
Hướng tới thương mại tự do, các hiệp định thương mại không chỉ đàm phán việc giảm thuế mà
còn đàm phán cả các biện pháp phi thuế như hạn chế số lượng nhập khẩu, cấp phép nhập khẩu, vệ
sinh kiểm dịch, đầu tư nước ngoài, mua sắm chính phủ và tạo thuận lợi cho thương mại bằng cách
đơn giản hóa các thủ tục hải quan.
Theo Luật Thương mại 2005, nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt
Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải
quan riêng theo quy định của pháp luật.
Hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ được coi là hoạt động thương mại, nó bao gồm hoạt
động nội thương và hoạt động ngoại thương trong đó ngoại thương bao gồm xuất khẩu và nhập
khẩu.
Hoạt động nhập khẩu là việc mua hàng hoá, dịch vụ từ các tổ chức kinh tế hay các doanh
nghiệp nước ngoài theo các nguyên tắc thị trường quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước hoặc
tái xuất khẩu để tìm kiếm lợi nhuận.
Hoạt động nhập khẩu là một bộ phận rất quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế, nó
thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Từ đó thấy
được lợi thế so sánh về vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ,... để có chính
sách khai thác hợp lý và có lợi nhất.
Xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá trên thế giới diễn ra khá mạnh mẽ, đó là sự hình thành các
khu vực mậu dịch, các liên minh kinh tế như AFTA, NAFTA,... đã cho thấy khối lượng giao dịch
giữa các quốc gia ngày càng lớn và rõ ràng vai trò nhập khẩu là không thể thiếu, nó không chỉ quan

trọng đối với một quốc gia mà còn đối với cả sự ổn định kinh tế chung của khu vực. Ở một giới hạn
nhất định nhập khẩu có thể quyết định tới sự sống còn của nền kinh tế nước đó đã thống nhất dưới
một mái nhà chung của nền kinh tế thế giới.
1.1.2.Vai trò của nhập khẩu hàng hóa
Một điều khẳng định rằng, trên thế giới nơi nào có hoạt động thương mại, đặc biệt là thương
mại quốc tế phát triển thì nơi đó có nền kinh tế phát triển. Trước đây một số nước như Trung Quốc,
Liên Xô (cũ), Việt Nam đã coi độc lập kinh tế là vấn đề trên hết và có ý thức xây dựng một nền kinh


tế tự cung tự cấp. Nhưng thực tế đã thất bại, sự khan hiếm hàng hoá trầm trọng đã ảnh hưởng đến
kinh tế cũng như xã hội. Bài học này cho thấy rằng hoạt động ngoại thương là vô cùng quan trọng,
phải biết kết hợp cả nội lực và ngoại lực, ngoại lực là yếu tố quan trọng còn nội lực là yếu tố quyết
định. Trong thực tế không có quốc gia nào là có lợi thế về tất cả các mặt hàng, các lĩnh vực, sự bổ
sung hàng hoá giữa các quốc gia đã đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Những quốc gia phát triển
thường xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu rất nhiều và ngược lại những nước kém phát triển thì kim
ngạch nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu. Nhận thức được vấn đề này, các quốc gia đã tích cực tham gia
vào các tổ chức thương mại quốc tế nơi thúc đẩy sự trao đổi buôn bán giữa các nước diễn ra một
cách mạnh mẽ và có hiệu quả hơn. Và thành phần không thể thiếu, đó là nhập khẩu đã đóng vai trò
quan trọng của nền kinh tế quốc gia cũng như đối với sự phát triển của thương mại quốc tế.
Thứ nhất, nhập khẩu góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội, cải thiện và nâng cao tính
cạnh tranh, giảm độc quyền.
Nhờ hoạt động này mà một quốc gia có thể tiêu dùng vượt khả năng sản xuất của mình. Cũng
nhờ có hoạt động nhập khẩu cơ cấu hàng hoá lưu thông trên thị trường trở nên phong phú hơn cả về
quy cách, chất lượng, chủng loại, mẫu mã thoả mãn được nhu cầu trong nước ở mức độ cao đặc biệt
đối với hàng hóa trong nước chưa sản xuất được. Bên cạnh đó nó cũng tạo ra sự cạnh tranh mạnh
mẽ giữa hàng sản xuất trong nước và hàng ngoại nhập, thanh lọc các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu
quả và khuyến khích các doanh nghiệp nội địa vươn lên. Nó xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ
triệt để nền kinh tế đóng, chế độ tự cung tự cấp. Mặt khác, hoạt động nhập khẩu còn góp phần cải
thiện điều kiện làm việc cho người lao động thông qua việc nhập khẩu các phương tiện, công cụ lao
động mới, tiên tiến và an toàn.

Việt Nam hiện nay vẫn đang trong quá trình đổi mới, do đó vẫn còn khá nhiều tàn dư mà thời
bao cấp để lại như là tình trạng độc quyền của một số tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước, tác
phong quản lý mệnh lệnh tập trung và quan liêu, hiệu quả sản xuất thấp. Hoạt động nhập khẩu sẽ
giúp cho hàng hóa dịch vụ ở thị trường trong nước trở lên phong phú hơn, làm cho các doanh
nghiệp muốn tồn tại thì phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình về chất lượng, giá cả, thái độ
phục vụ khách hàng.
Thứ hai, nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá-Hiện đại hóa


Không phải tất cả các quốc gia trên thế giới đều có thể tự sản xuất được tất cả hàng hoá phục
vụ cho tiêu dùng hay xây dựng, để rồi tự trang bị cho mình, đặc biệt là các nước đang phát triển như
Việt Nam, nhu cầu về cải thiện cơ sở hạ tầng rất lớn và việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại
tất yếu phải thông qua con đường nhập khẩu.
Hoạt động nhập khẩu phát triển sẽ điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Nhờ có nhập khầu, hoạt động
thương mại phát triển hơn, ngân hàng, vận tải, bảo hiểm… cũng thêm được cơ hội để hướng ra thế
giới bên ngoài, mở rộng quy mô, tăng cường tiềm lực phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển của
nhập khẩu sẽ đẩy mạnh sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ do áp dụng những thành tựu
khoa học trên thế giới, qua đó tỉ trọng ngành dịch vụ và công nghiệp tăng còn tỉ trọng ngành nông
nghiệp giảm dần.
Thứ ba, nhập khẩu giúp tận dụng năng lực sản xuất của quốc gia khác, làm cho thị trường hàng
hóa dịch vụ trong nước thêm phong phú.
Vì một lý do nào đó tác động đến cân bằng cung cầu và cung không đáp ứng đủ cầu trong
nước. Mục tiêu hiệu quả kinh tế làm cho các quốc gia tham gia vào phân công lao động quốc tế, tập
trung phát triển mặt hàng lợi thế. Hàng loạt các nhu cầu không thể đáp ứng bằng nguồn lực sản xuất
nội địa mà phát sinh nhu cầu nhập khẩu mang tính chu kỳ và khá ổn định. Tham gia hoạt động nhập
khẩu, sự mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu được khắc phục nghĩa là góp
phần làm cho quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra thường xuyên và ổn định. Không chỉ nhập
khẩu trực tiếp hàng hoá thiết yếu mà thị trường nội địa còn khan hiếm mà cả máy móc, nguyên phụ
liệu, công nghệ giúp cho sản xuất trong nước phát triển, năng suất lao động cao hơn, hàng hoá sản

xuất ra dồi dào và ngoài ra còn có tác dụng giữ giá ổn định trên thị trường, hạn chế sự leo thang của
giá cả bằng cách tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh-chất lượng và giá cả được quan tâm.
Thứ tư, nhập khẩu thúc đẩy sự đổi mới về thiết bị và công nghệ
Nhập khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất và kinh doanh vì nó cung cấp nguyên phụ liệu để
sản xuất hàng hoá trong nước, tỷ lệ nguyên phụ liệu này tuỳ thuộc vào từng quốc gia với nhu cầu
của họ, đem lại nhiều trình độ công nghệ khác nhau phù hợp với từng vùng, địa phương với quy mô
và khả năng sản xuất được nâng cao, năng suất lao động tăng. Quá trình nhập khẩu hàng hóa cũng
tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp nội địa được tiếp cận với quy trình sản xuất và trang
thiết bị hiện đại thông qua quá trình chuyển giao khoa học kỹ thuật và công nghệ từ nước xuất khẩu


sang nước nhập khẩu. Từ đó tạo điều kiện cho quá trình đổi mới công nghệ sản xuất của doanh
nghiệp nhập khẩu và của cả quốc gia.
Với các quốc gia đang phát triển, hoạt động nhập khẩu đem lại sự chuyển giao khoa học công
nghệ, máy móc thiết bị. Nhờ đó góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền
kinh tế và thu hẹp khoảng cách về trình độ khoa học công nghệ giữa các quốc gia trên thế giới.
Thứ năm, nhập khẩu giúp cân bằng cán cân thanh toán
Một quốc gia không thể chỉ có xuất khẩu mà không nhập khẩu. Thông qua xuất nhập khẩu có
thể làm tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách nhà nước. Nhập
khẩu là một trong hai hoạt động chính của hoạt động ngoại thương, nó một mặt làm cân bằng cán
cân thanh toán quốc tế, một mặt thúc đẩy xuất khẩu phát triển, đây là hai hoạt động không thể tách
rời nhau của một nền kinh tế.
Nhập khẩu và xuất khẩu có mối quan hệ khăng khít với nhau. Hiện nay trên thế giới, các nước
đều nhấn mạnh đến hoạt động xuất khẩu nhưng không vì thế mà nhập khẩu bị coi nhẹ. Có những
mặt hàng nguyên phụ liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài, cá biệt có thể là 100%, mà lợi thế so sánh
chỉ là giá nhân công rẻ hoặc được hưởng ưu đãi nào đó. Đối với những nước kém về công nghệ thì
việc nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị giúp cho hàng hoá sản xuất chất lượng cạnh tranh trên
thị trường quốc tế. Ngược lại, nhập khẩu phải có lượng dự trữ ngoại tệ, khoản này không thể chỉ
trông mong từ hoạt động đi vay từ các tổ chức quốc tế mà nó cần thiết phải được lấy ra từ hoạt động
xuất khẩu và các nước đều cân đối để cán cân thương mại được cân bằng.

1.1.3. Các phương thức nhập khẩu hàng hóa
Nhập khẩu đơn thuần chỉ là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá qua biên giới nhưng trong
thực tế có nhiều phương thức nhập khẩu, mỗi loại có những điều kiện nhất định, ưu điểm, nhược
điểm riêng.Để phù hợp với đặc điểm riêng của từng doanh nghiệp và phân tán rủi ro, hiện nay, trong
thương mại quốc tế tồn tại rất nhiều phương thức nhập khẩu khác nhau. Mỗi doanh nghiệp thực hiện
kinh doanh nhập khẩu theo một hay một số phương thức xác định phù hợp với điều kiện và mục tiêu
cụ thể của mình. Dưới dây, là các phương thức nhập khẩu chủ yếu sau
1.1.3.1. Nhập khẩu trực tiếp
Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu mà người mua và người bán hàng háo
trực tiếp giao dịch với nhau, quá trình mua và bán không hề rang buộc lẫn nhau. Bên mua có thể
mua và bên bán có thể bán và ngược lại. Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu độc


lập của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước,
tính toán đầy đủ các chi phí đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng phương hướng, chính sách luật pháp
của Nhà nước cũng như quốc tế.
Trong hoạt động nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, doanh nghiệp hoàn toàn nắm quyền chủ động,
doanh nghiệp nhập khẩu tự tìm hiểu thị trường, tìm kiếm và lựa chọn nhà cung cấp, lựa chọn
phương thức giao dịch, đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Đây là điểm khác biệt nhất so với
các hình thức nhập khẩu khác. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm bắt được chất lượng hàng
hoá của đối tác cũng như những thông tin về đối tác để đảm bảo không bị gian lận thương mại.
Trong hình thức này, doanh nghiệp nhập khẩu sẽ phải tự bỏ vốn để chi trả toàn bộ các chi phí phát
sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh và chịu toàn bộ những rủi ro xảy ra nhưng được hưởng
lợi toàn bộ. Các doanh nghiệp sẽ có sự tự chủ trong việc mua hàng hoá hơn so với các hình thức
khác.
1.1.3.2. Nhập khẩu liên doanh
Đây là một hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kỹ thuật một cách tự nguyện giữa
các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ
năng, kỹ thuật để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập
khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên, cùng chia lãi nếu lỗ

thì cùng phải chịu.
Trong hình thức này, các doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh ít chịu rủi ro bởi mỗi doanh
nghiệp liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của
các bên cũng tăng theo số vốn góp, việc phân chia chi phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp, lãi lỗ
hai bên phân chia tuỳ theo thoả thuận dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh
vác.
Tại Việt Nam, hoạt động nhập khẩu liên doanh vẫn đang được áp dụng tại nhiều doanh nghiệp
do một mặt thiếu vốn, năng lực cần thiết; mặt khác do không thể tìm được đối tác có nhu cầu tương
tự.
Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp trong liên doanh phải ký hai loại hợp đồng, một
hợp đồng với đối tác bán hàng nước ngoài và hợp đồng liên doanh với các doanh nghiệp khác.


1.1.3.3. Nhập khẩu uỷ thác
Hoạt động nhập nhẩu uỷ thác được hiểu là hoạt động dịch vụ thương mại, được hình thành
giữa một doanh nghiệp có vốn, ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một loại hàng hoá nào đó
nhưng lại không có khả năng nhập khẩu trực tiếp, do đó doanh nghiệp này sẽ uỷ thác cho một doanh
nghiệp khác có khả năng nhập khẩu trực tiếp hàng hoá theo yêu cầu của mình, còn doanh nghiệp
nhận uỷ thác sẽ thu được lệ phí trong hoạt động nhập khẩu uỷ thác. Quan hệ giữa doanh nghiệp uỷ
thác và doanh nghiệp nhận uỷ thác được quy định đầy đủ trong hợp đồng uỷ thác.
Trước khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác, hai bên sẽ ký kết hợp đồng mà theo đó bên uỷ thác
nhận được hàng hoá theo đúng yêu cầu của mình và phải trả cho bên nhận uỷ thác một khoản tiền
gọi là lệ phí uỷ thác. Bên nhận uỷ thác sẽ thay mặt bên uỷ thác tự tìm kiếm đối tác và thực hiện tất
cả các khâu trong hoạt động nhập khẩu hàng hoá đó. Bên cạnh đó, bên nhận uỷ thác không phải
chịu rủi ro về vốn hay về hoạt động bán hàng vì sau khi nhận được lệ phí uỷ thác, bên nhận uỷ thác
sẽ giao hàng cho bên uỷ thác. Trên thực tế, bên nhận uỷ thác thường là các công ty lớn có khả năng
về vốn, nghiệp vụ và có uy tín trên thị trường.
Hoạt động nhập khẩu sẽ đem lại lợi ích cho cả bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác. Trong khi bên
nhận uỷ thác kiếm được một khoản lệ phí uỷ thác, còn bên uỷ thác vẫn có những hàng hoá mà mình
mong muốn mặc dù điều kiện để nhập khẩu trực tiếp không cho phép. Bên uỷ thác cũng sẽ tiết kiệm

được thời gian khi không phải làm các thủ tục để có thể nhập khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, về lâu dài
các doanh nghiệp uỷ thác sẽ mất lợi thế về chi phí trong hoạt động bán hàng và đôi khi hàng hoá
không đảm bảo đúng yêu cầu về chất lượng, kỹ thuật như trong hợp đồng uỷ thác.
Hoạt động nhập khẩu hàng hoá có nhiều hình thức, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu cần xác định chính xác tiềm lực của mình không chỉ về tài chính mà bên cạnh đó là các nghiệp
vụ trong hoạt động nhập khẩu hàng hoá sao cho lợi ích đem lại là tối ưu.
1.1.3.4. Nhập khẩu tái xuất
Là hình thức mà doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu hàng hoá từ một nước khác, sau đó xuất
khẩu chính hàng hóa đó ra khỏi Việt Nam sang một nước thứ ba mà không qua các khâu gia công,
chế biến hay sản xuất.
Đặc điểm đặc trưng của hình thức nhập khẩu này là có ba chủ thể kinh tế ở ba quốc gia khác
nhau: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Giao dịch này bao gồm cả nhập khẩu và


xuất khẩu với mục đích thu lại lượng ngoại tệ lớn hơn số vốn ban đầu đã bỏ ra. Khi tiến hành tạm
nhập tái xuất, doanh nghiệp cần tiến hành đồng thời hai hợp đồng riêng biệt, gồm: hợp đồng mua
hàng ký với thương nhân nước xuất khẩu và hợp đồng bán hàng ký với thương nhân nước nhập
khẩu.
Để áp dụng hình thức này, doanh nghiệp cần có sự nghiên cứu thị trường của các nước để đảm
bảo nguồn cung ứng và đầu ra cho hoạt động kinh doanh không chỉ là về giá cả, mặt hàng mà còn là
luật pháp, tập quán từng nước.
1.1.3.5. Nhập khẩu hàng đổi hàng
Đây là phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập
khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với số lượng
hàng nhận về.
Trong nghiệp vụ này, các bên trao đổi với nhau những hàng hoá tương đương và việc giao
nhận hàng diễn ra gần như đồng thời, có thể thanh toán bằng tiền. Các bên trao đổi hàng hoá với
nhau trên cơ sở ghi sổ giá trị hàng giao. Đến cuối kì hạn, hai bên mới so và đối chiếu giá trị hàng đã
giao và trị giá đã nhận, nếu sau khi thực hiện nghiệp vụ bù trừ, tiền hàng còn dư thì số tiền đó được
giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ hoặc có thể được ghi vào sổ nghiệp vụ bù trừ năm

sau.
Hình thức này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm rõ được thị trường nước ngoài về giá cả, mặt
hàng cũng như biến động khác để có được sự chính xác, chặt chẽ trong các hợp đồng mua bán quốc
tế.
Hoạt động nhập khẩu khá đa dạng về hình thức, mỗi loại có những ưu, nhược điểm riêng,
doanh nghiệp nhập khẩu cần phải chọn những phương thức giao dịch phù hợp với mình về khả năng
tài chính, về nghiệp vụ ngoại thương, về mối quan hệ với khách hàng sao cho lợi ích thu được là tối
ưu.
1.2.Quy trình của hoạt động nhập khẩu hàng hóa
Nhập khẩu là việc mua hàng hoá của nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đời
sống, là những hoạt động rất phức tạp, hàm chứa nhiều rủi ro đòi hỏi người thực hiện phải có trình
độ nghiệp vụ, năng lực chuyên môn. Hoạt động nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp
vụ nhiều khâu từ điều tra nghiên cứu thị trường nhập khẩu, lựa chọn hàng hoá, đối tác nhập khẩu,


tiến hành giao dịch đàm phán, ký két hợp đồng và tổ chức thực hiện hợp đồng. Mỗi khâu, mỗi
nghiệp vụ phải được nghiên cứu thực hiện đầy đủ, kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ lẫn nhau,
tranh thủ nắm bắt được những lợi thế đảm bảo cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu đạt hiệu quả
cao nhất. Như vậy cho dù nhập khẩu hình thức nào đi nữa thì các bước tiến hành nhập khẩu ở các
doanh nghiệp xuất khẩu đều bao gồm các trình tự sau:

Đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu
Nghiên cứu thị trường nhập khẩu.
Tổ chức vàTổthực
chức
hiện
khiếu
hợpnại
đồng
và giải quyết tranh chấp (nếu có)


Hình 1.1: Sơ đồ quy trình hoạt đông nhập khẩu hàng hóa
1.2.1.Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Khác với mua bán trong nước, hoạt động nhập khẩu diễn ra trên thị trường thế giới, các daonh
nghiệp thường ở các nước khác nhau, hàng hoá buôn bán được chuyển qua biên giới của mỗi
nước,mỗi nước lại có một chính sách, thể lệ và tập quán thương mại khác nhau. Do đó, nghiên cứu
thị trường là nghiệp vụ đầu tiên đặt ra cho bất kỳ một doanh nghiệp nào nhằm giúp họ nắm vững
đặc điểm của từng thị trường như thị hiếu, phương thức tiêu dùng và các phong tục tập quán của thị
trường đó để có những điều chỉnh phù hợp. Đây là quá trình phức tạp đòi hỏi sự chính xác để đưa ra
các kết luận và các phương án đúng đắn nhằm giảm thiểu rủi ro và tiết kiệm chi phí.
Khi tiến hành nghiên cứu thị trường, điều quan trọng mà doanh nghiệp cần quan tâm đến đó là
khả năng sản xuất và tiêu dùng hàng hoá của thị trường. Điều này thể hiện ở số lượng hàng hoá,
chất lượng của hàng hoá đó, thị hiếu của thị trường đối với hàng hoá hay các phong tục tập quán
ảnh hưởng đến việc sản xuất và tiêu dùng hàng hoá đó. Bên cạnh đó, chu kỳ sống của sản phẩm
cũng là vấn đề mà doanh nghiệp cần quan tâm để có thể biết được hàng hoá đó đang nằm trong giai
đoạn nào của chu kỳ sống. Với những hàng hoá đang nằm ở giai đoạn bão hoà, doanh nghiệp cần
xem xét và dự đoán xu thế sử dụng hàng hoá trong thời gian tới để có thể đáp ứng nhu cầu của thị
trường một cách kịp thời. Còn với những hàng hoá đang trong thời kì đầu của chu kỳ sống, giai


đoạn giới thiệu và phát triển, doanh nghiệp cần nghiên cứu thời gian hàng hoá đó đứng vững trên thị
trường. Nếu đó là thời gian dài thì cần có những phương án nhập khẩu những hàng hoá có cùng tính
năng nhưng có khả năng cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã và phong phú về chủng loại trong cùng
một mặt hàng.
Dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp sẽ có những thông tin về thị trường, về
nhà cung cấp và những hàng hoá cần nhập khẩu. Doanh nghiệp sẽ có cơ sở để xây dựng chiến lược,
kế hoạch và phương án nhập khẩu hàng hoá tránh tình trạng nhập khẩu ồ ạt một loại hàng hoá mà
mẫu mã kém phong phú gây lãng phí nguồn lực.
Lập một phương án kinh doanh là việc chỉ rõ những đặc điểm của hàng hoá cần nhập, đặc điểm
của đối tác, những lợi ích mà doanh nghiệp đạt được,… và trong phương án kinh doanh cũng cần

phải có những chỉ tiêu đã dự tính: doanh thu, lợi nhuận, hiệu quả của phương án,… Cuối cùng là
những lời kết luận và kiến nghị để phương án được thực thi một cách có hiệu quả nhất.
Doanh nghiệp không chỉ xây dựng một phương án nhập khẩu mà còn phải xây dựng những
phương án nhập khẩu khác nhằm duy trì liên tục hoạt động nhập khẩu và đưa hàng nhập khẩu vào
thị trường mà doanh nghiệp đã hướng tới.
1.2.2.Đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu
Đàm phán là một quá trình trong đó các bên tiến hành thương lượng, thảo luận về các mối
quan tâm chung và những điểm bất đồng, để đi đến một thỏa thuận thống nhất. Mục đích của cuộc
đàm phán là tìm ra các giải pháp nhằm giải quyết các mâu thuẫn còn tồn tại giữa các bên tham gia
đàm phán. Vì vậy, đàm phán thương mại quốc tế là quá trình đàm phán trong đó có ít nhất hai bên
chủ thể có trụ sở thương mại ở những nước khác nhau tham gia đàm phán để xác lập hợp đồng
thương mại quốc tế
Đàm phán bắt đấu từ một cuộc nói chuyện, tuy nhiên là một cuộc nói chuyện có chủ đích. Đó
là quá trình các bên đưa ra ý định muốn ký kết hợp đồng và thăm dò ý kiến của đối tác. Nếu quá
trình này thất bại các bên sẽ phải tốn một số chi phí đàm phán và không chỉ vậy mà còn bỏ lỡ các cơ
hội làm ăn khác mà lẽ ra họ đã nắm được nếu không tốn thời gian theo đuổi cuộc đàm phán. Do đó
đòi hỏi các bên phải chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, xác định rõ mục tiêu đàm phán một cách khoa
học, kết hợp hài hòa giữa bảo vệ lợi ích của phía mình với việc duy trì và phát triển mối quan hệ với
các đối tác và phải đảm bảo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, các bên phải lấy luật pháp thương mại
quốc tế làm chuẩn và lấy tập quán thương mại quốc tế làm cơ sở.


Có ba hình thức đàm phán thương mại quốc tế được sử dụng là:
-

Đàm phán bằng cách gặp trực tiếp: Các bên sẽ gặp gỡ trực tiếp với nhau, để trao đổi về
mọi điểu kiện giao dịch, về mọi vấn đề liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán, và
là hình thức đàm phán đặc biệt quan trọng. Hình thức này sẽ đẩy nhanh tốc độ giaiar quyết mọi vấn
đề giữa hai bên và nhiều khi là lối thoát cho những đàm phán bằng thư tín hoặc điện thoại đã kéo
dài quá lâu mà không có kết quả. Hình thức này có thể làm tốn kém về chi phí, thời gian đối với

những nước có vị trí địa lý cách xa nhau nhưng hiệu quả thường rất cao, giúp giảm thiểu rủi ro. Do
đó, nó thường được sử dụng trong những trường hợp đặc biệt khi có nhiều điều kiện phải giải thích
cặn kẽ để thuyết phục nhau hoặc những hợp đồng với số lượng hàng hóa lớn, giá trị cao, phức tạp.

-

Đàm phán qua thư tín vẫn còn là một hình thức chủ yếu để giao dịch giữa các nhà kinh doanh xuất
nhập khẩu. So với việc gặp trực tiếp thì giao dịch qua thư tín tiết kiệm được nhiều chi phí, trong
cùng một lúc có thể giao dịch được với nhiều đối tác ở các nước khác nhau. Người viết thư có điều
kiện tham khảo ý kiến của nhiều người, dấu kín ý định thực sự của mình. Nhưng hình thức này đòi
hỏi phải có thời gian chờ đợi, thư tín bị thất lạc không đến được tay đối tác.

-

Đàm phán qua điện thoại:việc đàm phán qua điện thoại nhanh chóng giúp các bên tiến hành đàm
phán một cách khẩn trương đúng vào thời điểm cần thiết . Nhưng cước điện thoại giữa các nước sẽ
rất cao, do đó hình thức này thường bị hạn chế về mặt thời gian các bên không thể trình bày chi tiết,
và trao đổi bằng điện thoại là hình thức trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng chứng những
thỏa thuận và quyết định trao đổi. Hình thức này chỉ được dung trong những trường hợp cần thiết,
khẩn trương, sợ lỡ thồi cơ hoặc trong trường hợp chỉ cần chờ xác nhận một vài chi tiết…
Mỗi hình thức đều có những ưu, nhược điểm riêng, tuỳ từng trường hợp giao dịch và điều kiện
cụ thể của doanh nghiệp mà sẽ lựa chọn hình thức đàm phán riêng. Thông thường một cuộc đàm
phán có thể chia thành 3 giai đoạn:

 Giai đoạn chuẩn bị: các bên đàm phán cần xác định rõ mục tiêu của mình trên cơ sở phân biệt

những gì mình muốn và những gì mình thực sự cần, sau đó các bên sẽ thu thập những thông tin cần
thiết để đưa ra đề xuất của mình và tìm hiểu vị thế của đối tác đàm phán. Cuối cùng các bên sẽ
thành lập đoàn đàm phán, lựa chọn chiến lược và chiến thuật đàm phán phù hợp, xác định địa điểm
thời giàn, lịch trình làm việc, chuẩn bị kỹ năng và tài liệu đàm phán.

 Giai đoạn thương lượng: bao gồm các hoạt động cụ thể:


-

Trao đổi thông tin liên quan đến tình huống đàm phán, xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau, thăm dò xem

-

đối tác quan tâm đến điều gì và dự đoán kết quả đàm phán
Đưa ra đề nghị: để thăm dò phản ứng của đối tác, sẽ đặt câu hỏi để làm rõ đề nghị của đối tác, tóm

-

tắt những thông tin đã nhận được và giải đáp bằng một đề nghị phù hợp với nhu cầu của đối tác.
Thương lượng: các bên xem xét lý lẽ và kết quả mà đối tác mong muốn trong quan và kết quả mà

mình mong muốn.
 Giai đoạn kết thúc: các bên sẽ tổng hợp lại toàn bộ kết quả đã đạt được và tìm cách giải quyết một
số vấn đề còn vướng mắc. Sau đó, một bên đàm phán sẽ đưa ra đề nghị cuối cùng

1

Chuẩn bị đàm
phán

2

Xây dụng chiến
lược


3

Tổ chức đàm
phán

4

Kết thúc

Hình 1.2: Quy trình đàm phán thương mại quốc tế
Quá trình đàm phán bao gồm các bước sau:
- Hỏi giá: là việc người mua yêu cầu người bán cung cấp cho mình các thồng tin liên quan
đến hàng hóa và các điều kiện giao dịch. Nội dung của hỏi giá có thể bao gồm: tên hàng, quy cách,
phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng mong muốn. Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm của
người hỏi giá. Người hỏi giá thường hỏi nhiều nơi nhằm nhận được nhiều bản chào hàng cạnh tranh
để so sánh lựa chọn bản chào hàng thích hợp nhất.
- Phát giá: là lời đề nghị ký kết hợp đồng được gửi cho môt hay nhiều người xác định. Một đề
nghị gửi cho những người không xác định chỉ được coi là một lời chào hàng. Trong đơn chào hàng
bao gồm tên hàng, số lượng, phẩm chất, giá cả hàng hóa, phương thức thanh toán, phương thức giao
nhận hàng hóa… Một đơn chào hàng được coi là có giá trị pháp lý khi chủ thể của đơn chào hàng
đó có đủ tư cách pháp lý, đối tượng của đơn chào hàng phải được phép mua bán, nội dung của đơn
chào hàng phải hợp pháp (bằng văn bản).
- Hoàn giá: là sự phúc đáp có khuynh hướng chấp nhận chào hàng nhưng có chứa đựng
những điểm bổ sung, bớt đi hay sửa đổi khác.
- Chấp nhận: Là thông báo của bên được chào hàng chuyển cho bên chào hàng về việc chấp
thuận toàn bộ nội dung đã nêu ra trong đơn chào hàng. Việc chấp thuận phải trong thời hạn hiệu lực
của đơn chào hàng và đơn chấp thuận phải được chuyển đến tay của người chào hàng.



- Xác nhận: Là việc các bên khẳng định lạicác vấn đề thoả thuận giao dịch trước đó. Xác nhận
thường được lập thành hai bản, bên lập xác nhận ký trước rồi gửi cho bên kia. Bên kia ký xong giữ
lại một bản rồi gửi trả một .
Mục đích của bất kỳ cuộc đàm phán đều là ký kết được hợp đồng. Thông thường nội dung của
hợp đồng nhập khẩu gồm có:
-Tên và số hiệu hợp đồng
-Địa điểm và ngày,tháng, năm kí kết hợp đồng và thời hạn thực hiện hợp đồng.
-Tên, địa chỉ các chủ thể tham gia hợp đồng
-Các điều khoản của hợp đồng:
+Tên hàng, số lượng, phẩm chất hàng hóa
+Địa điểm, phương thức giao hàng
+Điều khoản về giá cả, phương thức thanh toán, đồng tiền thanh toán
+Điều khoản về đóng gói, bao bì và ký mã hiệu hàng hóa
+Điều khoản về bảo hành
+Điều khoản về phạt và bồi thường thiệt hại
+Điều khoản về bảo hiểm
+Điều khoản về giải quyết tranh chấp, khiếu nại (nếu có) và luật áp dụng
-Đại diện của các bên ký kết, ký tên và đóng dấu.
1.2.3.Tổ chức và thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Sau khi hợp đồng nhập khẩu hàng hoá đã được ký kết, các doanh nghiệp với tư cách là một
bên ký kết, phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó, các bước để thực hiện hợp đồng theo trình tự thể
hiện qua sơ đồ sau:


Ký hợp
đồng NK

Mở L/C

Xin giấy

phép NK
(nếu có)

Thuê PTVT
(nếu có)

Nhận, kiểm
tra hàng
NK

Làm thủ tục
hải quan

Giao nhận
với hãng
vận chuyển

Mua bảo
hiểm (nếu
có)

Làm thủ tục
thanh toán

Vận chuyển
hàng về kho
bãi

Hình 1.3: Quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu hàng hóa
 Mở L/C (nếu có)


Tín dụng chứng từ (L/C) là cam kết của một ngân hàng (Ngân hàng mở L/C) theo yêu cầu của
khách hàng (người xin mở L/C về việc sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người thụ
hưởng L/C), hoặc sẽ chấp nhận hối phiếu do người thụ hưởng ký phát trong phạm vi số tiền đó, với

-

điều kiện người này xuất trình được bộ chứng từ phù hợp với quy định của L/C.
Nội dung cơ bản của thư tín dụng
Số hiệu L/C: mỗi L/C đều được đánh số nhằm tạo thuận lợi trong việc quản lý và sử dụng thư tín

-

dụng
Địa điểm mở L/C: là nơi mà ngân hàng phát hành L/C viết cam kết trả tiền cho người thụ hưởng
Ngày mở L/C là ngày ngân hàng phát hành L/C viết cam kết trả tiền cho người thụ hưởng, cũng là

-

ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C
Loại thư tín dụng: L/C hủy ngang, L/C không hủy ngang,…
Những người liên quan đến thư tín dụng: tên địa chỉ của người yêu cầu mở L/C, người thụ hưởng

-

L/C, ngân hàng phát hành L/C, ngân hàng thông báo L/C và các ngân hàng khác (nếu có)
Thời hạn hiệu lực: được tính từ ngày mở L/C đến ngày hết hiệu lực của L/C
Thời hạn giao hàng: là thời hạn quy định nhà XK phải giao hàng cho nhà NK kể từ khi L/C có hiệu
lực.



-

Trị giá của thư tín dụng: là số tiền ngân hàng phát hành L/C cam kết thanh toán cho người thụ

-

hưởng
Các quy định về bộ chứng từ thanh toán: các loại chứng từ phải xuất trình, số lượng chứng từ mỗi

-

loại,…
Cam kết trả tiền của ngân hàng
Dẫn chiếu UCP áp dụng
Trong đàm phán để ký kết hợp đồng, hai bên thỏa thuận thanh toán bằng phương thức L/C thì
bên bán mới giao hàng, người nhập khẩu sẽ uỷ quyền cho Ngân hàng của mình mở L/C thanh toán
cho phía ngân hàng bên người bán.

 Xin giấy phép nhập khẩu (nếu có)

Đối với những mặt hàng nằm trong danh mục phải xin giấy phép nhập khẩu quy định tại phụ
lục III kèm theo Nghị định số 69/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ) muốn
được phép nhập khẩu vào Việt Nam thì phải xin giấy phép nhập khẩu của các bộ, cơ quan chuyên
ngành có liên quan. Sau khi đã được cấp phép nhập khẩu, quá trình nhập khẩu hàng hóa diễn ra bình
thường.
 Thuê phương tiện vận chuyển (nếu có)
Thuê phương tiện vận chuyển, tàu thuộc về bên xuất khẩu khi hàng hóa được mua bán theo các
điều kiện thuộc nhóm C,D trong Incoterms.Nếu nhập khẩu theo các điều kiện nhóm E,F trong
Incoterms thì người nhập khẩu phải chịu trách nhiệm thuê phương tiện vận tải. Việc thuê tàu, lưu

cước đòi hỏi có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin về tình hình thị trường thuê tàu và tinh thông
các điều hiện thuê tàu. Vì vậy tronh nhiêu trường hợp, chủ hàng XNK thường ủy thác việc thuê tàu,
lưu cước cho một công ty hàng hải.
 Mua bảo hiểm hàng hoá (nếu có)

Hàng hóa chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro và tổn thất. Vì thế bảo hiểm hàng hóa
vận chuyển bằng đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong vận chuyển hàng hóa thương mại
quốc tế. Việc mua bảo hiểm hàng hóa không phải là bắt buộc với người NK. Nếu điều kiện mua bán
hàng hóa là CIP,CIF thì người XK có nghĩa vụ mua bảo hiểm cho hàng hóa. Trong các điều kiện còn
lại, nếu muốn hàng hóa của mình được đảm bảo thì người Nk có thể tự mua bảo hiểm cho lô hàng
và điều này là không bắt buộc.
 Giao nhận hàng với hãng vận chuyển


Các DN vận tải( ga, cảng) có trách nhiệm tiếp nhận hàng hóa nhập khẩu trên các PTVT từ các
nước ngoài vào, bảo quản hàng hóa trong quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi,và giao cho các đơn vị
đặt hàng theo lệnh giao hàng của doanh nghiệp đã nhập hàng từ đó. Do đó,các doanh nghiệp nhập
khẩu phải trực tiếp hoặc thông qua một đơn vị nhận ủy thác giao nhận ( công ty giao nhận, đại lý hải
-

quan,..) tiến hành:
Ký kết hợp đồng ủy thác cho cơ quan vận tải( ga, cảng) về việc giao nhận hàng từ tàu ở nước ngoài

-

về
Cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc giao nhận hàng hóa (vận đơn, lệnh giao hàng..)
Thông báo cho bên NK về dự kiến ngày hàng về, ngày thực tế tàu chở hàng về đến cảng hoặc ngày

-


to axe chở hàng về sân ga giao nhận
Thanh toán cho hãng vận chuyển các khoản phí tổn về giao nhận, bốc xếp bảo quản và vận chuyển

-

hàng NK
Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc hãng vận tỉa lập những biên bản( nếu có) về hàng hóa và giải

quyết trong phạm vi của mình những vấn đề xảy ra trong giao nhận.
 Làm thủ tục hải quan
Tất cả hàng hóa khi nhập khẩu vào Việt Nam đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan
đối với hàng hóa nhập khẩu thương mại là những công việc mà người khai hải quan và công chức
hải quan phải thực hiện theo quy định của pháp luật Hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu thương
mại. Hiện nay, thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu ở Việt Nam đều đuoẹc thực
hiện theo phương thức khai báo hải quan điện tử trên hệ thống VNACCS/VCIS. VNACCS/VCIS là
hệ thống thông qua hàng hóa tự động Việt Nam. Người NK khai báo các thông tin về hàng hóa NK
và gửi thông tin đến cơ quan hải quan trên phần mềm khai hải quan điện tử. Cơ quan hải quan tiếp
nhận tờ khai, thực hiện tất cả các nghiệp vụ liên quan như kiểm tra, phân luồng, quyết định thông
quan trên hệ thống. Điều này giúp doanh nghiệp giảm thiểu rất nhiều thời gian và tiện lợi trong thực
hiện thủ tục hải quan, góp phần thông quan hàng hóa được nhanh chóng, giảm thiểu chi phí phát
sinh.
Cụ thể, đối với người khai hải quan phải thực hiện các công việc sau:
-

Khai và nộp tờ khai hàng hóa cho cơ quan hải quan.
Đưa hàng hóa đến địa điểm theo quyết định của cơ quan hải quan để thực hiện kiểm tra thực tế hàng

-


hóa (nếu có).
Thực hiện nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.
Thực hiện thông quan hàng hóa.


Đối với công chức hải quan phải thực hiện các công việc sau:
-

Tiếp nhận, đăng ký tờ khai hàng hóa.
Kiểm tra hồ sơ hải quan và kiểm tra thực tế hàng hóa (nếu có).
Thu thuế, phí, lệ phí làm thủ tục hải quan.
Quyết định thông quan hàng hóa.
Bộ chứng từ hải quan thông thường bao gồm: tờ khai hải quan, giấy phép xuất/nhập khẩu (nếu
có), Vận đơn, Hóa đơn thương mại, hợp đồng thương mại quốc tế, packing list, giấy thông báo hàng
đến, giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa,…

 Nhận, kiểm tra hàng nhập khẩu

Người NK có thể tự làm nghiệp vụ kiểm tra hàng hóa nhập khẩu hoặc mời cơ quan giám định
chuyên môn tiến hành nghiệp vụ kiểm tra hàng hóa NK. Mục địch là nhằm để kiểm tra kết quả đánh
giá sự phù hợp, nhãn hàng hóa, dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy và các tài liệu kèm theo sản phẩm,
hàng hóa cần kiểm tra hoặc có thể thử nghiệm mẫu theo tiêu chuẩn đã công bố áp dụng, quy chuẩn
kỹ thuật tương ứng khi cần thiết.
 Làm thủ tục thanh toán

Khi hợp đồng NK quy định thanh toán bằng L/C, bên NK phải mở L/C để thực hiện hợp đồng.
Khi bộ chứng từ gốc từ nước ngoài về đến ngân hàng mở L/C, người NK phải kiểm tra chứng từ và
nếu chứng từ hợp lệ, trả tiền cho người XK. Sau đó người NK mới nhận được bộ chứng từ để đi
nhận hàng.
Nếu hợp đồng nhập khẩu thanh toán bằng phương thức nhờ thu thì sau khi nhận hàng chứng từ

ở nhân hàng ngoại thương, người NK được kiểm tra chứng từ trong một thời gian nhất định. Nếu
trong thời gian này, người NK không có lý do chính đáng từ chối thanh toán thì ngân hàng xem như
yêu cầu đòi tiền hợp lệ
Nếu hợp đồng mua bán hàng hóa, hai bên thỏa thuận thanh toán bằng phương thức chuyển tiền.
Người mua sẽ yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người hưởng lợi, các
ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian giữa người chuyển tiền và người nhận tiện. Ngân hàng được
nhận hoa hồng thanh toán và không bị rang buộc bởi bất kỳ trách nhiệm nào trong quan hệ của
người chuyển tiền và nhận tiền
 Vận chuyển hàng về kho bãi


×