Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Phân tích phương thức đấu thầu quốc tế và đánh giá tình hình hoạt động đấu thầu quốc tế tại việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.8 KB, 48 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thuật ngữ “ đấu thầu” đã trở nên quen thuộc trong những năm gần đây ở Việt
Nam mặc dù nó đã được xuất hiện từ lâu trên thế giới. Trước đây khi nền kinh tế Việt
Nam còn ở trong chế độ bao cấp, người bán chỉ sản xuất và bán những gì mình có và
không quan tâm đến nhu cầu của người mua, do đó người mua không có quyền lựa
chọn cho mình những hàng hoá phù hợp. Chỉ đến khi nền kinh tế Việt Nam chuyển
dần sang hướng thị trường thì tính cạnh tranh xuất hiện, khái niệm về đấu thầu cũng
dần dần được hình thành và được chấp nhận như một điều tất yếu.
Hiện tại, Việt Nam là một nước đang phát triển. Sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế là mơ ước của toàn dân. Trong bối cảnh đó
thì đấu thầu cạnh tranh càng trở thành một phương pháp quan trọng trong việc tiếp
thu nguồn lực bên ngoài phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước. Đây vẫn là một lĩnh
vực mới mẻ đối với Việt Nam và còn có nhiều điểm cần học hỏi và hoàn thiện để
công tác đấu thầu quốc tế thực sự phát huy hết vai trò của mình trong việc lựa chọn
nguồn lực bên ngoài phù hợp nhất cho sự phát triển của đất nước. Vì vậy, phân tích
phương thức đấu thầu quốc tế và có kiến thức cơ bản về tình hình hoạt động của
phương thức này tại Việt Nam cũng là điều cần thiết không chỉ đối với mỗi doanh
nghiệp Việt Nam nói chung mà còn đối với mỗi sinh viên kinh tế nói riêng. Với lý do
như trên, bài thảo luận dưới đây của nhóm 1 xin trình bày những hiểu biết của nhóm
về vấn đề này với đề tài: Phân tích phương thức đấu thầu quốc tế và đánh giá tình
hình hoạt động đấu thầu quốc tế tại Việt Nam hiện nay.

1


I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẤU THẦU QUỐC TẾ
I.1. Khái niệm
Đấu thầu là một phương thức giao dịch đặc biệt, trong đó người gọi thầu
(người mua) công bố trước các điều kiện mua hàng để người dự thầu (người bán) báo
giá và các điều kiện chất lượng của hàng hóa, các điều kiện thương mại khác để
người mua chọn được người bán đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của mình.


Đấu thầu quốc tế là cuộc đấu thầu có các nhà thầu( cá nhân, tổ chức) trong và
ngoài nước tham gia.
Những bên liên quan:


Bên mời thầu: là chủ đầu tư hoặc tổ chức chuyên môn có đủ năng lực và

kinh nghiệm được chủ đầu tư sử dụng để tổ chức đấu thầu theo các quy định của pháp
luật về đấu thầu


Bên nhà thầu: là tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài có năng

lực pháp luật dân sự, đối với cá nhân còn phải có năng lực hành vi dân sự để kí kết và
thực hiện hợp đồng. Nhà thầu phải đảm bảo sự độc lập về tài chính của mình.
Nhà thầu có thể phân loại: nhà thầu chính và nhà thầu phụ
+ Nhà thầu chính: là nhà thầu chịu trách nhiệm về việc tham gia đấu thầu,
đứng tên dự thầu, kí kết và thực hiện hợp đồng nếu được lựa chọn . Nhà thầu tham
gia đấu thầu một cách độc lập gọi là nhà thầu độc lập. Nhà thầu cùng với một hoặc
nhiều nhà thầu khác tham gia đấu thầu trong một đơn vị dự thầu thì gọi là nhà thầu
liên danh (Khoản 12, điều 4, luật đấu thầu 2005)
+ Nhà thầu phụ: là nhà thầu thực hiện một phần công việc của gói thầu trên cơ
sở thảo thuận hoặc hợp đồng được kí với nhà thầu chính. Nhà thầu phụ không phải là
nhà thầu chịu trách nhiệm về việc tham gia đấu thầu.
Các đối tượng tham gia gián tiếp:

2


+Cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát;

+Tổ chức, công ty kiểm toán độc lập;
+Công luận, các cơ quan báo chí;
+ Sự tham gia của cộng đồng với vai trò giám sát.

I.2. Đặc điểm
1-Đấu thầu là một phương thức giao dịch đặc biệt, chỉ diễn ra ở một địa
điểm, trong một thời gian xác định trước
Thời gian và địa điểm của mỗi cuộc đấu thầu được nêu rõ trong các thông báo
mời thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền
hình… và trong thư mời thầu.
2- Đối tượng mua bán không nhất thiết là hàng hoá có sẵn mà mua bán dựa
vào tiêu chuẩn kỹ thuật, có thể là hàng hoá hữu hình hay dịch vụ
Nhà thầu có thể biết tiêu chuẩn về kỹ thuật của hàng hoá mà bên mời thầu yêu
cầu khi nhận được hồ sơ mời thầu. Các yêu cầu về kỹ thuật của hàng hoá trong thư
mời thầu thường rất chi tiết thể hiện rõ mặt hàng trong đấu thầu thường có quy cách
phẩm chất phức tạp, giá trị cao.
Đấu thầu không chỉ áp dụng trong mua sắm hàng hoá hữu hình mà còn trong
lĩnh vực cung ứng dịch vụ. Trong ngành dầu khí, do đặc điểm riêng của ngành nên
lĩnh vực này rất được quan tâm. Công ty dịch vụ kỹ thuật dầu khí thuộc Tổng công ty
DKVN chuyên cung cấp các dịch vụ khác nhau từ đơn giản đến phức tạp như dịch vụ
tàu thuyền, dịch vụ trực thăng, bảo hiểm, dịch vụ chống dầu tràn, cung cấp lao động
kỹ thuật cao, cho thuê văn phòng.. .
3-Trong đấu thầu chỉ có một người mua nhưng có nhiều người bán( thị
trường của người mua) và giá thành là giá thấp nhất (giá sàn)

3


Đây là đặc điểm nổi bật nhất của hoạt động đấu thầu. Đấu thầu thực sự đem lại
lợi ích cho người mua vì nó tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt, khách quan và công khai

giữa các nhà thầu có năng lực. Các nhà thầu muốn trúng thầu thì phải tính toán đưa ra
giá thấp nhất. Tất nhiên giá cả không phải là yếu tố duy nhất quyết định thắng thầu vì
còn nhiều yếu tố khác như tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng, quan hệ làm ăn giữa hai
bên. Thực tế, người thắng thầu không phải là người đưa ra giá thấp nhất mà là người
có uy tín trong các lần quan hệ làm ăn trước đây.
4-Mọi điều kiện đều được quy định sẵn trừ giá cả
Trong bất cứ thư mời thầu nào, bên mời thầu thường đưa ra các điều kiện về
mặt hàng, số lượng, quy cách, phẩm chất, thời gian giao hàng và ngay cả Hợp đồng
kinh tế cũng được nêu ra trước. Tuy nhiên, giá cả là là điều kiện quan trọng nhất để
lựa chọn người thắng thầu nên được quyết định cuối cùng.
5-Đấu thầu thường bị chi phối từ cơ quan quản lý nguồn vốn đầu tư về một
số các điều kiện cũng như các thủ tục pháp lý
Các tổ chức tài chính Quốc tế như WTO, IMF ... thường có các quy chế đấu
thầu hướng dẫn các nước vay khi sử dụng vốn vay. Riêng nguồn vốn ODA thì các
công ty của nước cấp ODA thường thắng thầu trong các cuộc đấu thầu sử dụng vốn
này vì hầu hết các nước cung cấp ODA đều quy định các nước vay phải sử dụng ODA
để mua hàng hoá và dịch vụ cung cấp bởi nước cấp ODA.

I.3. Các loại hình đấu thầu quốc tế.
1-Căn cứ vào đối tượng đấu thầu:





Đấu thầu mua sắm hàng hoá (Tender for Procurement goods)
Đấu thầu xây dựng công trình (Tender for Works)
Đấu thầu tuyển chọn tư vấn (Tender for Consulting Services)
Đấu thầu dự án hoặc đấu thầu lựa chọn đối tác thực hiện dự án (Tender for
Project)

2-Căn cứ vào hình thức lựa chọn nhà thầu:

4










Đấu thầu rộng rãi (open bidding hay international competitive)
Đấu thầu hạn chế (limited bidding)
Chỉ định thầu (Single bidding)
Chào hàng cạnh tranh
Mua sắm trực tiếp
Tự thực hiện (Tự thầu)
Mua sắm đặc biệt
3- Căn cứ vào hình thức báo thầu:

• Đấu thầu 1 túi hồ sơ (1 phong bì)
• Đấu thầu 2 túi hồ sơ (2 phong bì)
4-Căn cứ vào hình thức xét thầu:
• Đấu thầu 1 giai đoạn
• Đấu thầu 2 giai đoạn

I.4. Vai trò của đấu thầu quốc tế
1-Sự cần thiết của đấu thầu quốc tế

Thực tế cho thấy, đấu thầu được thực hiện một cách đúng đắn thì tiết kiệm
được vốn đầu tư vì khi đó nó có tác dụng làm các chủ đầu tư, các nhà dự thầu phải
tính đến hiệu quả của hoạt động trước khi tiến hành ký kết hợp đồng. Công tác đấu
thầu là một đòi hỏi thiết yếu để đảm bảo thành công cho các nhà đầu tư dù đó là đầu
tư trong nước hay đầu tư nước ngoài. Do tính chất công bằng và cạnh tranh công khai
nên đấu thầu quốc tế tạo ra một môi trường bình đẳng cho các nhà kinh doanh từ các
quốc gia khác nhau trong việc tổ chức, thực hiện hợp đồng. Đồng thời, đấu thầu quốc
tế cũng giúp cho các nhà đầu tư mua được những thiết bị với giá rẻ, đạt yêu cầu về
chất lượng, kỹ thuật và các điều kiện khác. Như vậy, đấu thầu quốc tế đem lại lợi ích
cho các bên tham gia.
2- Ý nghĩa của đấu thầu Đấu thầu quốc tế ngày càng đóng vai trò quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đặc biệt là với các nước đang

5


phát triển như Việt Nam bởi tính hữu ích đối với chủ đầu tư, với các nhà thầu và
Chính phủ.
a, Đối với Nhà nước:
Thực hiện đấu thầu quốc tế là biện pháp quản lý tài chính có hiệu quả và tăng
cường các lợi ích kinh tế xã hội khác. Đấu thầu quốc tế là cơ sở để đánh giá khả năng
của các đơn vị cơ sở, các đối tác nước ngoài, ngăn chặn được các biểu hiện tiêu cực,
sự thiên vị, móc ngoặc riêng làm mất đi tính cạnh tranh trong kinh doanh. Đồng thời,
thông qua đấu thầu quốc tế mà đất nước thu được những công nghệ mới, hệ thống
trang thiết bị, máy móc hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến, những kiến
thức về kỹ thuật, tư vấn của các chuyên gia, đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề ...
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
b, Đối với chủ đầu tư:
Áp dụng đấu thầu quốc tế là phương thức thích hợp để lựa chọn các nhà thầu
có năng lực nhất đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật đặt ra đồng thời cũng có được giá

thành và điều kiện tín dụng hợp lý nhất. Đấu thầu chống tình trạng độc quyền của các
nhà thầu. Chủ đầu tư giảm được giá vốn đầu tư do có sự cạnh tranh giữa các nhà thầu.
Thực tế, giá chào thầu của các nhà thầu chênh nhau từ 30-40% trên cùng một
mặt bằng kỹ thuật. Do vậy, các đơn vị trúng thầu có giá trúng thầu giảm từ 20-30% so
với các đơn vị chào thầu cao nhất và giảm từ 10- 15% so với giá chào ban đầu của
chính đơn vị trúng thầu. Thông qua đấu thầu, chủ đầu tư có thể chọn được thiết bị
công nghệ tiên tiến, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật. Công nghệ và kỹ thuật là điều kiện
tiên quyết đảm bảo khả năng trúng thầu cho các nhà thầu.
Ngoài ra, thông qua việc tham khảo ý kiến của các nhà thầu, các chủ đầu tư
còn thu được những thông tin hữu ích cho việc đầu tư, xây dựng các tiêu chuẩn tối ưu
trong hồ sơ mời thầu.
c, Đối với nhà thầu:

6


Đấu thầu quốc tế là hình thức bảo đảm công bằng và cơ hội tương đối cho tất
cả các nhà cung ứng tiềm năng. Đấu thầu quốc tế kích thích các nhà thầu nâng cao
trình độ kỹ thuật, công nghệ để đáp ứng các yêu cầu của chủ đầu tư nhằm tăng khả
năng cạnh tranh. Thông qua đấu thầu quốc tế, các nhà thầu trong nước có thể tiếp cận
được những kỹ thuật công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý để nâng cao
năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế.

I.5. Nguyên tắc của đấu thầu quốc tế
Hiện nay trên thế giới đang tồn tại nhiều quy chế đấu thầu khác nhau như quy
chế đấu thầu của FIDIC, WB, ADB ... Mỗi bản quy chế đấu thầu đều có những
nguyên tắc riêng phù hợp với mục đích của mình. Nhưng nhìn chung các nguyên tắc
đấu thầu quốc tế chủ yếu như sau:
1- Nguyên tắc cạnh tranh công khai với điều kiện ngang nhau
Mỗi cuộc đấu thầu đều phải được thực hiện với sự tham gia của một số nhà

thầu có đủ năng lực để hình thành một cuộc cạnh tranh mạnh mẽ. Điều kiện đặt ra với
các đơn vị ứng thầu (dự thầu) và thông tin cung cấp cho họ phải ngang nhau, nhất
thiết không có sự phân biệt đối xử.
2- Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ
Các nhà thầu phải nhận được đầy đủ tài liệu đấu thầu với các thông tin chi tiết
rõ ràng và có hệ thống về quy mô, khối lượng, quy cách, yêu cầu chất lượng, tiến độ
và điều kiện thực hiện công trình. Điều này có nghĩa là chủ công trình phải nghiên
cứu, tính toán và cân nhắc kỹ lưỡng để tiên liệu chính xác về mọi yếu tố có liên quan
đến công trình, tránh tình trạng chuẩn bị sơ sài, tắc trách.
3- Nguyên tắc đánh giá công bằng
Các hồ sơ dự thầu phải được đánh giá một cách không thiên vị theo cùng một
chuẩn mực và được đánh giá bởi một Hội đồng xét thầu có đủ tư cách và năng lực. Lý
do để "được chọn" hay "bị loại" đều được giải thích đầy đủ tránh sự ngờ vực.

7


4- Nguyên tắc trách nhiệm phân minh
Không chỉ các nghĩa vụ và quyền lợi của các bên liên quan được đề cập và chi
tiết hoá trong hợp đồng mà phạm vi trách nhiệm của mỗi bên ở từng phần việc đều
được phân minh, rạch ròi để không một sai sót nào không có người chịu trách nhiệm.
Mỗi bên có liên quan đều biết rõ mình phải gánh chịu những hậu quả gì nếu có sơ
suất và sai phạm và do đó mỗi bên phải nỗ lực tối đa trong việc kiểm soát bất trắc và
phòng ngừa rủi ro.
5- Nguyên tắc "ba chủ thể"
Thực hiện dự án theo thể thức đấu thầu quốc tế luôn có sự hiện diện đồng thời
của ba chủ thể: bên mời thầu, nhà thầu và các nhà tư vấn. Trong đó, kỹ sư tư vấn hiện
diện như một nhân tố bảo đảm cho hợp đồng luôn thực hiện nghiêm túc đến từng chi
tiết, mọi sự bất cập về kỹ thuật hoặc tiến độ đều được phát hiện kịp thời, những biện
pháp điều chỉnh đều được đưa ra đúng lúc. Đồng thời, kỹ sư tư vấn cũng chính là

nhân tố hạn chế tối đa những mưu toan thông đồng hoặc thoả hiệp gây thiệt hại cho
những người chủ đích thực của dự án. Có nhiều điều khoản được thi hành để buộc các
kỹ sư tư vấn phải là những chuyên gia có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất và phải
làm đúng vai trò của những nhà trọng tài công minh được cử đến từ một công ty tư
vấn chuyên ngành, công ty này cũng phải được lựa chọn thông qua quá trình đấu thầu
theo một quy trình chặt chẽ.
6- Nguyên tắc bảo lãnh, bảo hành và bảo hiểm chính đáng
Các khoản mục về bảo lãnh, bảo hành, bảo hiểm … cũng được đề cập trong hồ
sơ mời thầu hay hồ sơ dự thầu một cách rõ ràng để các bên liên quan cùng hiểu rõ.
Chính sự tuân thủ các nguyên tắc này đã nói lên ý nghĩa, tác dụng tích cực của
phương thức đấu thầu. Đấu thầu nhằm kích thích nỗ lực của các bên và thúc đẩy sự
hợp tác giữa các bên để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về chất lượng, tiến độ, tài chính
của dự án và do đó bảo đảm lợi ích chính đáng cho cả bên mời thầu và nhà thầu, góp
phần tiết kiệm các nguồn lực xã hội. Trước hết đối với chủ đầu tư, căn cứ vào kết quả
đấu thầu, chủ thầu chọn lựa nhà thầu có đủ năng lực đáp ứng các yêu cầu của mình về

8


kỹ thuật, trình độ thi công, bảo đảm kế hoạch tiến độ và giá cả hợp lý. Đối với nhà
thầu, đấu thầu đảm bảo tính công bằng giữa các nhà thầu ở mọi thành phần kinh tế.
Do phải cạnh tranh với nhau cho nên mỗi nhà thầu đều phải cố gắng tìm tòi và đổi
mới những kỹ thuật công nghệ tiên tiến, có trách nhiệm cao với dự án, các loại vật tư
thiết bị được đem chào với mức giá có tính cạnh tranh cao hơn.

I.6. Quy trình nghiệp vu
Bước 1: Chuẩn bị thầu
Phân chia đối tượng thầu thành các gói thầu theo yêu cầu của dự án, phù hợp
với luật định.
Bước 2: Tiến hành đấu thầu: 3 giai đoạn

Theo Hiệp hội quốc tế các kỹ sư tư vấn (FIDIC) thì có 3 giai đoạn khi tiến
hành đấu thầu quốc tế:
Giai đoạn 1: Sơ tuyển ( áp dụng đối với đấu thầu mở rộng).Giai đoạn này
là giai đoạn xác định các chỉ tiêu chủ yếu của công trình.
+ Thông báo cho những người có khả năng dự thầu, tuỳ theo loại hình đấu thầu
mà thông báo trên các báo chí tập san hoặc gửi thư riêng đến các hãng kinh doanh,
nhiệm vụ của ban tổ chức là chọn thời điểm và phương thức hợp lý sao cho những
người dự thầu có đủ thời gian chuẩn bị và nghiên cứu mà không thể có đủ thời gian
để liên kết với nhau để lũng đoạn giá.
Nội dung thông báo phải nêu rõ các yêu cầu của công trình và những địa chỉ
liên hệ cần thiết. Trên cơ sở thông báo, người dự thầu phải làm.
+ Đơn: Kèm theo một loạt các văn bản có liên quan (văn bản tài chính cần
thiết, văn bản chứng minh khả năng kỹ thuật – có bao nhiêu công trình sư, có bao
nhiêu kỹ sư .v.v.)
+ Các văn bản xác nhận uy tín

9


+ Các giấy tờ chứng minh khả năng cung cấp vốn (Nếu công trình xây dựng
bằng vốn ODA phải có vốn đối ứng).
Luật Việt Nam quy định: Khi thực hiện công trình ở Việt Nam các nhà thầu
nước ngoài phải liên doanh với một pháp nhân Việt Nam, do vậy cần phải có thêm
các văn bản xác nhận liên doanh liên kết . Ngoài ra các nhà thầu phải có khả năng
cung cấp 65% số vốn , do vậy phải có văn bản chứng minh khả năng tài chính.
Trên cơ sở các giấy tờ (hồ sơ) người gọi thầu sẽ tiến hành sơ tuyển. Những
người dự thầu được mời đến dự sơ tuyển. Họ nhận được các tài liệu sơ tuyển để kê
khai, và ban tổ chức (người gọi thầu) xem xét, phân tích các văn bản mà họ đã nộp và
chọn người dự thầu. Đây là một công việc rất quan trọng, cần phải tiến hành thận
trọng nếu chọn người không đúng rất dễ hỏng việc hoặc có những công trình kém

chất lượng.
Sau khi sơ tuyển ban tổ chức lập short list và gọi mời những người trong short
list đến dự thầu .Trên thế giới danh sách short list thường chỉ có 7-8 người, còn ở Việt
Nam có khi có đến trên 30 người và chí có trường hợp lên đến 100 người.
Giai đoạn 2: Giai đoạn mở thầu.
Giai đoạn này trước hết là phải xây dựng bản điều lệ đấu thầu (biding
documents) trong đó nêu rõ những mặt hàng và dịch vụ là đối tượng đấu thầu.
+ Tiến hành làm hồ sơ mời thầu.Trong quá trình làm hồ sơ mời thầu có khi cần
cả dịch vụ tư vấn để tư vấn về các vấn đề tài chính, kỹ thuật đây là một việc rất khó
khăn và tốn kém.
+ Tiến hành cung cấp hồ sơ mời thầu cho những người trong short list. Hồ sơ
được bán cho những dự thầu ở nước ngoài giá dao động từ 30 đến 50 USD , đây là
khoản phí không hoàn lại. Nhưng ở Việt Nam giá này thường cao hơn rất nhiều do
vậy các nhà thầu nước ngoài phản đối rất mạnh. Công việc chuẩn bị hồ sơ rất tốn
kém, phải in ấn nhiều, phải khảo sát kỹ thuật v.v…

10


+ Tổ chức cho những người dự thầu đi thăm thực địa, nơi xây dựng công trình
để họ tính toán cho việc thi công về sau.
+ Tiến hành giải đáp những thắc mắc của người dự thầu.
+ Thu nhận báo giá: Căn cứ vào đơn chào hàng cùng với giấy chứng nhận đặt
cọc lần 1, thường thì có giá trị từ 1% đến 5%, nhưng ở Việt Nam lại quy định từ 1 đến
3%. Số tiền này phải trả lại cho người không trúng thầu. Tiền đặt cọc có thể quy định
bằng một số tiền nhất định.
Về nguyên tắc khi nhận giấy báo giá (offer) ban tổ chức phải giữ kín, kể cả
tiền ký quỹ thầu (bid bond).
+ Mở thầu: Vào ngày giờ đã định cuộc đấu thầu được khai mạc tại địa điểm
quy định, với sự có mặt của những người dự thầu. Ban tổ chức lúc này mới được mở

các phong bì công bố công khai nội dung các báo giá và yêu cầu người tham gia ký
vào văn bản xác nhận.
Ban tổ chức thường không công bố kết quả ngay mà công bố sau đó một thời
gian.
Giai đoạn 3: Giai đoạn này là giai đoạn đánh giá, lựa chọn người trúng
thầu ký hợp đồng.
Thời gian từ 3 tháng đến 6 tháng. Đây là giai đoạn có nhiều phức tạp, các bên
dự thầu chạy đua đưa ra các điều kiện ưu đãi cạnh tranh nhau, bằng mọi biện pháp để
thắng thầu, họ không ngần ngại gì khi sử dụng các biện pháp tiêu cực.
Ban tổ chức phải so sánh và đánh giá các báo giá (bid valuation) để đánh giá
người ta hay đưa về một cơ sở thống nhất. Ở Việt Nam thường dùng thang điểm cho
các phần, ví dụ: Về phần giá được bao nhiêu điểm, về phần kỹ thuật được bao nhiêu
điểm, thang điểm càng cao càng chính xác.

11


Lập hồ sơ xét thầu: Hồ sơ được đưa lên hội đồng xét thầu và thành phần hội
đồng tuỳ theo công trình: Nguyên tắc lựa chọn:
+ Giá thấp.
+ Chọn người có điểm cao nhất
+ Những người có điều kiện thuận lợi nhất.
Vấn đề này cũng rất phức tạp và có nhiều tiêu cực. Thông thường người cấp
vốn là người thắng thầu.
Hội đồng chỉ công bố người thắng và không giải thích lý do không thắng. Ai
có thắc mắc sẽ được tiếp riêng và được giả thích trực tiếp. Khả năng thắng thầu phụ
thuộc rất nhiều yếu tố, kể cả những yếu tố tiêu cực.
Bước 3: Đàm phán ký kết hợp đồng
Ngay sau khi thông báo kết quả đánh giá người trúng thầu ký kết hợp đồng với
ban tổ chức và nộp tiền bảo đảm thực hiện hợp đồng (performance bond), theo quy

định của bản điều lệ . Những người không trúng lấy lại số tiền đã ký quỹ dự thầu.
Thường là ký các hợp đồng soạn sẵn (hợp đồng mẫu). Thông lệ Việt Nam và
thế giới không giống nhau.
Việt Nam: Có lệ mặc cả trong khi đàm phán ký kết hợp đồng cho nên trong khi
báo giá họ hay nâng giá vì trong quá trình đàm phán có thể hạ được giá xuống, nhưng
với nước ngoài thì giá trong chào hàng là không đổi, đàm phán chỉ để chi tiết hóa
hoặc cụ thể hoá các công việc đã được đem ra đấu thầu.
Qua đàm phán xây dựng nội dung hợp đồng, và người thắng sẽ đặt cọc lần hai,
như trên đã nói và giá trị của lần đặt cọc này từ 10 đến 15 % giá trị hợp đồng

II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU QUỐC TẾ TẠI
VIỆT NAM HIỆN NAY
12


II.1. Điều kiện đấu thầu quốc tế tại Việt Nam
1-Luật Đấu Thầu năm 2005
Theo Điều 13. Đấu thầu quốc tế- Luật Đấu Thầu 2005 số 61/2005/QH11
thì:
1. Việc tổ chức đấu thầu quốc tế được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
a) Gói thầu thuộc dự án sử dụng vốn ODA mà nhà tài trợ quy định phải đấu
thầu quốc tế;
b) Gói thầu mua sắm hàng hóa mà hàng hóa đó ở trong nước chưa đủ khả năng
sản xuất;
c) Gói thầu mà nhà thầu trong nước không có khả năng đáp ứng các yêu cầu
của hồ sơ mời thầu hoặc đã tổ chức đấu thầu trong nước nhưng không chọn được nhà
thầu trúng thầu.
2-Luật Đấu Thầu năm 2013
Theo Điều 15. Đấu thầu quốc tế- Luật Đấu Thầu 2013 số 43/2013/QH13
quy định:

1. Việc tổ chức đấu thầu quốc tế để lựa chọn nhà thầu chỉ được thực hiện khi
đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:
a) Nhà tài trợ vốn cho gói thầu có yêu cầu tổ chức đấu thầu quốc tế;
b) Gói thầu mua sắm hàng hóa mà hàng hóa đó trong nước không sản xuất
được hoặc sản xuất được nhưng không đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng, giá.
Trường hợp hàng hóa thông dụng, đã được nhập khẩu và chào bán tại Việt Nam thì
không tổ chức đấu thầu quốc tế;
c) Gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, xây lắp, hỗn hợp mà
nhà thầu trong nước không có khả năng đáp ứng yêu cầu thực hiện gói thầu.

II.2. Tình hình hoạt động đấu thầu quốc tế tại Việt Nam hiện nay
13


1-Các lĩnh vực đấu thầu quốc tế tại Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam: Có bốn lĩnh vực đấu thầu quốc tế đang tồn tại như sau:
+ Đấu thầu về tư vấn: Là đấu thầu về tổ chức đấu thầu tuyển chọn tư vấn để
thực hiện công tác tư vấn như tư vấn chuẩn bị dự án, tư vấn thực hiện dự án,...
+ Đấu thầu về mua sắm thiết bị máy móc: Là dạng đấu thầu theo nội dung đấu
thầu hàng hoá.
+ Đấu thầu xây, lắp: Là đấu thầu về các công trình mang tính chất xây dựng
cơ sở hạ tầng. Đây là loại đấu thầu được sử dụng nhiều nhất ở Việt Nam. Do tính chất
xây dựng ở Việt Nam còn non kém, cơ sở hạ tầng chưa đầy đủ, vấn đề xây lắp là tất
yếu cho nên có rất nhiều công trình để xây dựng. Trong quá trình này, nhiều công ty
trong nước cũng như nước ngoài muốn mình đứng ra làm chủ công trình cho nên sản
sinh ra việc đấu thầu trong xây lắp là công việc cần làm. Hơn thế nữa ở Việt Nam, các
lĩnh vực về đấu thầu khác như tư vấn, mua sắm hàng hoá hoặc dự án và nó quá mới
mẻ với nhà thầu Việt Nam hoặc là quá ít, việc đấu thầu chưa phải là cấp thiết, sống
còn đối với nhà thầu ở Việt Nam. Cho nên, họ chỉ tập trung vào lĩnh vực đấu thầu xây
lắp.

+ Đấu thầu dự án: Là loại đấu thầu các dự án mà các chủ đầu tư muốn nhà
thầu quản lý dự án đó theo tiến độ công việc được giao cho nhà thầu mà chủ dự án
mong muốn.
2-Sự yếu kém của các nhà thầu Việt Nam khi cạnh tranh với các nhà thầu
quốc tế trong đấu thầu tại Việt Nam
Vài năm nay, tổng mức đầu tư của Việt Nam bình quân đạt khoảng 600.000 tỷ
đồng và theo xu hướng năm sau cao hơn năm trước.
Trong đó, vốn đầu tư xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng cao. Tuy nhiên, hầu hết
các dự án với quy mô lớn hoặc đầu tư từ nguồn vốn nước ngoài đã từ chối các nhà
thầu trong nước để lựa chọn nhà thầu nước ngoài.

14


a, Tham gia các cuộc đấu thầu quốc tế ở Việt Nam thời gian qua chủ yếu
là các nhà thầu nước ngoài. Các cuộc đấu thầu dự án công trình có vốn FDI hay
ODA không hoàn lại thường được tổ chức ở nước ngoài.
* Tham gia các cuộc đấu thầu quốc tế ở Việt Nam thời gian qua chủ yếu là các
nhà thầu nước ngoài.
Theo Vụ Kế hoạch Ðầu tư (Bộ Giao thông vận tải), tính đến tháng 6 năm
2014, ngành Giao thông vận tải( GTVT) hiện đang triển khai gần 40 dự án
ODA( nguồn vốn vay ưu đãi từ nước ngoài), tổng mức đầu tư hơn 16 tỷ USD. Các
nhà tài trợ đến từ JICA (Nhật Bản), WB (Ngân hàng Thế giới), ADB (Ngân hàng Phát
triển châu Á), EDCF (Hàn Quốc),... hầu hết đều có những quy định ngặt nghèo về
nhà thầu xây lắp. Các nhà tài trợ không cho phép các doanh nghiệp thuộc Bộ GTVT
tham gia đấu thầu các dự án do bộ hoặc một đơn vị trực thuộc thực hiện. Ðiều này đã
biến các nhà thầu trong nước đành chấp nhận làm thầu phụ cho nhà thầu nước ngoài,
điển hình như tuyến cao tốc Nội Bài - Lào Cai, các dự án ODA lớn khác như cầu
Nhật Tân, đường vành đai III giai đoạn 2,... chủ yếu do các nhà thầu quốc tế làm nhà
thầu chính.

Nhìn chung các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thì các nhà thầu Việt Nam
hầu như ít được làm tổng thầu, tỉ lệ thầu chính thấp, các nhà thầu Việt Nam chủ yếu
tham gia với tư cách là các nhà thầu phụ hoặc một bên liên doanh với nước ngoài, đặc
biệt trong lĩnh vực xây dựng. Những gói thầu chính trúng thầu phần lớn là những gói
thầu san nền, làm móng hoặc xây dựng phần thô. Những gói thầu làm tổng thầu có
thiết kế, công nghệ cao nhà thầu Việt Nam chưa đủ khả năng dự thầu. Hình thức phụ
cũng rất đa dạng, có công trình thầu phụ dưới dạng hợp tác với nhà thầu chính nước
ngoài, có công trình thông qua bản ghi nhớ, cung cấp giá cho nhà thầu nước ngoài
đứng ra đấu thầu, cũng có công trình chỉ nhận thầu phần nhân công. Nhưng giá cả
làm thầu phụ thường bị các nhà thầu chính nước ngoài bắt chẹt dưới các hình thức gọi
phiếu chào giá từng công việc tới nhà thầu Việt Nam, rồi sau đó chọn giá thấp nhất để
hợp đồng giao việc. Có nhà thầu Việt Nam tham gia đấu thầu bằng văn bản ghi nhớ,
nhưng khi thắng thầu chỉ được làm một phần, còn lại nhà thầu nước ngoài giao cho

15


nhà thầu phụ Việt Nam khác với giá thấp hơn. Có trường hợp nhà thầu nước ngoài
đơn phương cắt hợp đồng đối với nhà thầu Việt Nam hoặc nhà thầu thắng thầu bán lại
cho các nhà thầu khác.
Ở Việt Nam thời gian qua cũng có nhiều liên doanh trong lĩnh vực xây dựng
ra đời nhưng vốn rất nhỏ, khả năng cạnh tranh thấp, phần lớn các công ty liên doanh
đều bị thua lỗ vì không giành được công ăn việc làm. Để tham gia và thắng thầu các
doanh nghiệp Việt Nam phải liên kết với nhau dùng sức mạnh tổng hợp của Tổng
công ty, đây là vấn đề khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt.
Về phương pháp xét thầu, đôi khi chỉ dựa vào Hồ sơ dự thầu của các nhà
thầu, thiếu thông tin thực tế, do đó khi đánh giá năng lực nhà thầu chưa đảm bảo độ
chính xác. Việc đánh giá cho điểm chưa công bằng, tuy có điểm chuẩn nhưng các chỉ
tiêu đặt ra chưa định hướng được, dẫn đến việc cho điểm còn mang tính chủ quan, có
khi thiên vị.

* Các cuộc đấu thầu dự án công trình có vốn FDI hay ODA hoàn lại thường
được tổ chức tại nước ngoài.
- Mặc dù quy chế đấu thầu của Việt Nam có quy định áp dụng đấu thầu đối với
các doanh nghiệp liên doanh, hợp đồng - hợp tác – kinh doanh hoặc chính quyền có
sự tham của các tổ chức kinh tế nhà nước từ 30% trở lên nhưng việc áp dụng còn có
chừng mực. Nguyên nhân là do tỷ lệ góp vốn quyết định. Các xí nghiệp 100% vốn
nước ngoài, các xí nghiệp tư nhân hầu như chưa biết tới quy chế. Các xí nghiệp này
khi xây dựng hầu hết là tổ chức đấu thầu tại nước ngoài, sau đó đơn vị thắng thầu sẽ
thuê các công ty Việt Nam xây dựng.
Các công trình có vốn ODA không hoàn lại cũng diến ra tương tự, đại đa số
được tổ chức tại nước ngoài, đặc biệt là các công trình có vốn của các tổ chức Chính
phủ các nước cho Việt Nam vay ( Nhật bản, Pháp, Tây Ban Nha…). Do tổ chức tại
nước ngoài nên cơ hội tham gia cạnh tranh của các nhà thầu trong nước bị hạn chế,
không có dịp để cọ sát, khi nhận thầu lại các công ty Việt Nam đã chịu nhiều thiệt
thòi, nhiều ràng buộc khắt khe.

16


b, Thực trạng các nhà thầu Trung Quốc trúng thầu tại Việt Nam
Hiện nay GDP (Tổng sản phẩm nội địa) của Việt Nam là 176 tỉ USD, độ
tăng trưởng là 5.4%. Với đối tác Trung Quốc, Việt Nam xuất khẩu chỉ khoảng 13 tỉ
USD mà nhập khẩu tới 37 tỉ USD, chủ yếu nhập nguyên vật liệu và hàng phụ trợ phụ tùng công nghiệp, tiền tuồn sang Trung Quốc như vậy là xấp xỉ 24 tỉ USD, tương
ứng khoảng 18% lưu lượng thương mại (volume of trade) Việt Nam là giao thương
với Trung Quốc. Trong số nhập khẩu 37 tỉ USD với Trung Quốc ấy thì có đến hơn
70% là nhập nguyên vật liệu cho xây dựng cơ sở hạ tầng mà các nhà thầu Trung Quốc
thắng thầu tại Việt Nam, một con số mất mát quá lớn đối với các doanh nghiệp Việt
cho việc cung ứng sản phẩm để xây dựng ngay trên đất nước mình.
Số liệu của Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội công bố cho thấy, tính
đến năm 2010, có đến 90% các dự án tổng thầu EPC của Việt Nam là do các nhà thầu

Trung Quốc đảm nhiệm, trong đó chủ yếu là dầu khí, hóa chất, điện, dệt kim. Trong
số này, các doanh nghiệp đến từ bên kia biên giới (khoảng 30 doanh nghiệp Trung
Quốc) thực hiện tới 30 dự án trọng điểm quốc gia, trong đó có nhiều dự án “tỷ đô”
của ngành điện. Tiêu biểu phải kể đến dự án điện Quảng Ninh 1, 2 với giá trị 400
triệu USD, điện Mỹ Tân 2 với số vốn 1,3 tỷ USD, điện Duyên Hải 1 là 4,4 tỷ
USD...Việt Nam hiện có 20 dự án nhiệt điện thì có 15 công trình được phía Trung
Quốc làm tổng thầu. Mặc dù 58% số hợp đồng EPC nhiệt điện đốt than nhà thầu
Trung Quốc có được là do được chỉ định thầu nhưng không thể phủ nhận một con số
tương đối lớn (42%) hợp đồng mà nhà thầu Trung Quốc giành được là nhờ trúng thầu
thông qua đấu thầu rộng rãi quốc tế. Bên cạnh đó, với xi măng, tuy không nêu cụ thể
nhưng đối với các dự án do Trung Quốc làm tổng thầu (trong tổng số 24 dự án), tỷ lệ
nội địa hóa cơ bản được xác định là không có gì hết, tức 0%, và các lĩnh vực kinh tế
khác cũng tương tự như vậy, phần tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam trong các
gói thầu EPC hầu như là không có, hoặc có tham gia cũng chỉ là nhà thầu phụ không
mấy quan trọng.
Tính đến hiện tại( năm 2014) thì trong 10 năm qua, đối với gói thầu EPC (tư
vấn, thiết kế - cung cấp thiết bị - xây lắp, vận hành) sử dụng vốn ngân sách Nhà nước,

17


nhà thầu Việt Nam thắng thầu ở 67% số lượng gói thầu, nhưng trị giá gói thầu chỉ đạt
39%, trong khi tỷ lệ này đối với nhà thầu Trung Quốc là 48%.
Cụ thể trong năm 2014, Hiệp hội Cơ khí Việt Nam (VAMI) cho biết, hiện
nay nhà thầu Trung Quốc đang làm tổng thầu EPC 5 trong tổng số 6 dự án hóa chất,
tất cả dự án chế biến khoáng sản, 49 trong tổng số 62 dự án về xi măng, 16 trong tổng
số 27 dự án nhiệt điện và nhiều dự án về giao thông.
Một vài số liệu:



Tổng công suất các dự án điện của Việt Nam do Trung Quốc làm tổng

thầu EPC, BOT và sử dụng thiết bị Trung Quốc lên đến gần 15.500 MW/ 31.000 MW
tổng công suất điện quốc gia (chiếm hơn 48%).
+ Về nhiệt điện: 21/36 dự án (hơn 58% tổng dự án) do các doanh nghiệp
Trung Quốc làm tổng thầu EPC và BOT, trong đó có 10 dự án đã đi vào hoạt
động, 11 dự án đang xây dựng với công suất xấp xỉ 8.000 MW, chiếm hơn 45%
công suất nhiệt điện chạy than và khí.
+ Về thuỷ điện: nhà thầu Trung Quốc cung cấp thiết bị, máy móc, công nghệ
cho hầu hết trong số gần 100% thuỷ điện nhỏ (với hơn 400 dự án, tổng công
suất 4.000 MV), 75% thuỷ điện vừa và lớn (18/24 dự án, trong đó 14 đã đi vào
hoạt động, 4 đang xây dựng với công suất 3.630 MW).


Về khoáng sản: Trung Quốc trúng thầu hơn 87%, trong đó phân đạm và

hoá chất chiếm khoảng 60%. Nhiều dự án lớn đã lọt vào tay nhà thầu Trung Quốc
như: Alumin Nhân Cơ, Alumin Tân Rai, đạm Hà Bắc, đạm Cà Mau, đạm Ninh Bình;
mỏ Quý Sa và nhà máy gang thép Lào Cai, mở rộng nhà máy gang thép Thái Nguyên
giai đoạn hai… Riêng về xuất khẩu sang Trung Quốc, hơn 63% than đá, hơn 66%
quặng và khoáng sản khác.


Về xi măng: Trung Quốc nắm giữ vai trò thiết kế dây chuyền đồng bộ

hoặc những công đoạn chủ yếu sử dụng thiết bị, công nghệ Trung Quốc trong 41/76
dự án sản xuất xi măng (khoảng 54%) với công suất trên 40 triệu tấn.

18





Về xuất khẩu nông sản: sự phụ thuộc lớn vào thị trường Trung Quốc

thể hiện ở một vài con số: sắn và sản phẩm từ sắn (86%), cao su (46%), gạo (gần
35%), hoa quả (nếu tính cả tiểu ngạch là hơn 56%).


Về nhập siêu: năm 2012 nhập siêu hơn 16 tỉ USD (gấp 85 lần năm

2001), năm 2013 nhập siêu hơn 20 tỉ USD (chiếm hơn 28% tổng kim ngạch
nhập khẩu. Trong đó, điện thoại và linh kiện điện tử chiếm hơn 70%, hơn 35%
nguyên liệu và phụ kiện ngành dệt may, gần 47% giống lúa lai, hơn 50% phân bón,
hơn 44% thuốc bảo vệ thực vật.
(Tổng hợp từ nguồn tài liệu chuyên gia tham dự Diễn đàn kinh tế mùa xuân
2014- Báo Người Đô Thị số ra ngày 26-07-2014)
Từ nay đến năm 2025, Việt Nam cần 117 tỷ USD phục vụ cho các công trình
xây dựng hạ tầng, nếu vẫn để tình trạng Trung Quốc trúng thầu hầu hết các gói thầu
xây dựng thì dẫn theo lời bà Phạm Thị Loan-Ủy viên Ủy ban tài chính và ngân sách
Quốc hội: "Việt Nam cần xây dựng nhiều dự án hạ tầng lớn. Nếu các gói thầu trọng
điểm tiếp tục rơi vào tay Trung Quốc thì vấn đề an ninh năng lượng, an ninh quốc gia
thực sự đang rất đáng lo ngại". Vấn đề Trung Quốc làm chủ sân chơi đấu thầu quốc tế
tại Việt Nam sẽ tiếp tục gây ra nhiều hệ lụy liên quan đến các vấn đề kinh tế, an sinh
xã hội, thậm chí cả vấn đề chính trị và an ninh quốc gia.
2-Chất lượng thực hiện các dự án đấu thầu quốc tế tại Việt Nam do Trung
Quốc nhận thầu
Các dự án do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận phần lớn đều có ý nghĩa quan
trọng trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, chất lượng các nhà thầu Trung Quốc và hệ
quả gây ra ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế-xã hội Việt Nam như: kéo dài thời gian thi

công, làm đội vốn đầu tư, chất lượng thiết bị kém...
a, Các dự án bị chậm tiến độ
Thông tin từ hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho biết hầu hết các dự án
nguồn điện trong Quy hoạch điện 6 (giai đoạn 2006-2010) đều bị chậm tiến độ như

19


các nhà máy thuỷ điện sông Ba Hạ, Pleikrông, Bản Vẽ...; các nhà máy nhiệt điện:
Uông Bí (mở rộng 1), Hải Phòng 1, Quảng Ninh 1, Vũng Áng 1, Sơn Động, Mạo
Khê, Nông Sơn, Ô Môn 1. Đặc biệt, các dự án điện do các nhà thầu Trung Quốc đảm
nhận như: Hải Phòng 1, Hải Phòng 2, Cẩm Phả 1, Cẩm Phả 2, Quảng Ninh 1, Quảng
Ninh 2, Mạo Khê, Thái Nguyên, Vĩnh Tân 2, Duyên Hải 1 và nhà đầu tư tư nhân
Trung Quốc như Kiên Lương... đều bị chậm; có những dự án đến nay chưa triển khai,
chậm tiến độ từ hai - ba năm.
Nguồn thông tin từ EVN cũng cho thấy, đặc điểm chung nhiều dự án xây
dựng nhà máy nhiệt điện do ngành này quản lý, làm chủ đầu tư, dù được nhà thầu
Trung Quốc bỏ thầu giá rẻ nhưng lại bị chậm tiến độ gây thiệt hại khó thống kê được.
Như nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn bị chậm 28 tháng, nhiệt điện Sơn Động chậm 24
tháng, nhiệt điện Nông Sơn chậm 20 tháng, nhiệt điện Cẩm Phả 1 chậm 10 tháng,
nhiệt điện Cẩm Phả 2 chậm ba tháng. Các dự án do ngành điện quản lý và đầu tư như
nhiệt điện Hải Phòng 1, 2 và nhiệt điện Quảng Ninh 1, 2 đều chậm từ 18-24 tháng,
đến nay vẫn chưa thể bàn giao được.
Với khai thác khoáng sản, tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam
(Vinacomin) cũng cho biết trong báo cáo gửi bộ Công Thương, ước tính việc chậm
tiến độ các dự án của đơn vị do nhà thầu Trung Quốc thi công gây thiệt hại hàng trăm
tỷ đồng mỗi năm.
Một số dự án khác do nhà thầu Trung Quốc đang thực hiện cũng trong tình
trạng chậm tiến độ như vậy, như: Dự án Gang Thép Thái Nguyên giai đoạn 2 do nhà
thầu MCC (Trung Quốc) làm tổng thầu EPC. Sau khi trúng thầu, không những họ

không tiếp tục triển khai, mà còn đề nghị tăng giá mới tiến hành, làm cho tổng mức
đầu tư tăng và cũng khiến dự án chậm hơn ba năm. Hay như Dự án sản xuất Alumin
Tân Rai do nhà thầu Chalieco (Trung Quốc) trúng thầu (tháng 10/2013) cũng làm
tăng tổng mức đầu tư của Dự án thêm 35,37% và khiến tiến độ dự án chậm gần hai
năm, hay như Dự án xây dựng nhà máy sản xuất phân bón DAP Đình Vũ Hải Phòng
của Tập đoàn Hoá chất Việt Nam khởi công từ ngày 27/7/2003, sau 7 năm xây dựng

20


nhưng vẫn chưa thể bàn giao hoặc Dự án nhà máy Đạm Ninh Bình sau 20 tháng triển
khai cũng chậm 6 tháng so với kế hoạch ban đầu.
Dự án chậm tiến độ đã làm tăng chi phí như tăng khoản lãi vay, tăng chi phí
quản lý dự án, chi phí thuê tư vấn, tăng chi phí chuẩn bị sản xuất... Điều này được thể
hiện qua việc nhiều dự án điện bị đội mức đầu tư khá nhiều sau khi hoàn thành.
b, Các dự án bị đội vốn đầu tư
Đầu tiên là dự án trị giá 1,2 tỉ USD của Tổng công ty Điện lực thuộc Tập
đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) sau 6 dự án điện làm với nhà thầu Trung
Quốc khi giá hoàn thành bị đội lên rất nhiều so với giá trúng thầu ban đầu.
Theo đó, lần lượt, dự án nhiệt điện Cao Ngạn (công suất 100MW), nhiệt điện
Sơn Động (200 MW), nhiệt điện Nông Sơn (30 MW), nhiệt điện Cẩm Phả 1 (310
MW), nhiệt điện Cẩm Phả 2 (300MW) rồi nhiệt điện Mạo Khê (440MW) do TKV
làm chủ đầu tư đều rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc, ước tính tổng giá trị hợp đồng
EPC do các nhà thầu Trung Quốc đảm trách tại 6 dự án lên tới 1,2 tỉ USD. Tuy nhiên,
kinh nghiệm làm tổng thầu EPC của các nhà thầu Trung Quốc còn ít, khi triển khai dự
án gặp nhiều khó khăn, việc tiếp cận với các tiêu chuẩn quốc tế của các nhà thầu chưa
tốt vì đa số các nhà thầu thiết kế, thi công xây dựng của Trung Quốc chỉ quen với các
tiêu chuẩn của Trung Quốc... Và dù nhà thầu Trung Quốc thường chấp nhận tất cả các
yêu cầu của Hồ sơ mời thầu nhưng khi bắt đầu vào thi công, thực hiện hợp đồng mới
bộc lộ những khó khăn. Bên cạnh đó, trong quá trình thi công nhà thầu thường hay đề

xuất thay đổi so với hợp đồng như: Thay đổi nhân sự, thầu phụ cung cấp thiết bị, thầu
phụ xây lắp, thay đổi các điều khoản kỹ thuật... Việc này làm mất thời gian để đàm
phán, xem xét, gây khó khăn, phức tạp trong quản lý dự án của chủ đầu tư.
Cuối cùng Tổng công ty Điện lực TKV nhận được kết quả: Thực tế cho thấy
tất cả các dự án nhiệt điện đốt than thực hiện tại Việt Nam trong thời gian vừa qua của
Trung Quốc đều bị chậm tiến độ từ 1-2 năm hoặc hơn đã làm tăng chi phí đầu tư của
dự án, nhưng việc đàm phán để nhà thầu EPC Trung Quốc nộp khoản phạt chậm tiến
độ là công việc rất khó khăn và thường bị kéo dài.

21


Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) cũng gặp vấn đề giống TKV, như dự án
nhiệt điện Hải Phòng 1 (tại huyện Thủy Nguyên, TP. Hải Phòng), nhà thầu Trung
Quốc là Tập đoàn Điện khí Đông Phương trúng thầu. Thời điểm cuối năm 2008 đầu
năm 2009, Tập đoàn Điện khí Đông Phương đã liên tiếp phát văn bản nói rằng do
biến động đồng nhân dân tệ đang từ 8,2 tệ/USD xuống 6,8 tệ/USD nên họ thiệt hại
gần 100 triệu USD. Họ đề nghị Việt Nam bù giá, nếu không họ sẽ không thi công nữa
vì hết tiền.
Tình trạng chung của hầu hết các dự án do Trung Quốc nhận thầu là giá
trúng thầu ban đầu rất thấp và đội giá sau khi hoàn thành lại là một con số không nhỏ.
c, Chất lượng các dự án sau khi hoàn thành thấp và những vấn đề kinh tếxã hội khác
Ví dụ với gói thầu 6 dự án điện của Tổng công ty Điện lực thuộc Tập đoàn
Than – Khoáng sản Việt Nam, so sánh thực tế vận hành ở nhà máy điện Na Dương
(do MC làm tổng thầu, các thiết bị chính xuất xứ từ Nhật Bản và các nước G7) với
nhiệt điện Cao Ngạn (do HPE làm tổng thầu, các thiết bị chính xuất xứ từ Trung
Quốc), Sơn Động, Cẩm Phả, cho thấy chất lượng thiết bị xuất xứ từ Trung Quốc cũng
như các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật (hiệu suất nhà máy) thấp hơn các thiết bị của các
nước châu âu, G7.
Tương tự như vậy, Dự án Đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông có gói thầu

chính do Công ty trách nhiệm hữu hạn Tập đoàn Cục 6 đường sắt (Trung Quốc) thực
hiện theo hình thức tổng thầu EPC, nhưng kinh nghiệm của nhà thầu lại là “lần đầu
tiên” làm tổng thầu EPC trên lĩnh vực đường sắt đô thị, dự án chưa hoàn thành nhưng
với một phần đã hoàn thành hiện nay cũng bộc lộ sự kém chất lượng khi kiểm tra,
đánh giá.
Trái ngược về chất lượng kém từ các dự án nhà thầu Trung Quốc làm tổng
thầu, dẫn chứng về chất lượng nhà máy nhiệt điện Phả Lại 2 (600MW) mà chịu trách
nhiệm thi công công trình là tổ hợp các nhà thầu nước ngoài như Sumitomo (Nhật
Bản), Hyundai (Hàn Quốc), Stone & Webster (Mỹ), Mitsui Babcock (Anh) cùng một

22


số công ty xây lắp của Việt Nam như Lilama, Licogi... thì dự án này hoàn thành từ
năm 2001 và đến nay vẫn vận hành tốt, không hề có bất cứ dấu hiệu về xuống cấp.
Bởi tất cả những thiết bị, máy móc ở nhà máy nhiệt điện này đều được nhập từ các
nước G7 và các công ty Việt Nam. Ví dụ như nồi hơi của Anh, thiết bị điện của Mỹ,
tuốc bin, máy phát của Nhật.
Không chỉ vấn đề chậm tiến độ, chất lượng thấp, đội giá khi hoàn thành, các
dự án do Trung Quốc nhận thầu còn dẫn tới nhiều nghi ngại về các vấn đề an ninh xã
hội như đảm bảo an ninh năng lượng khi 90% các nhà máy nhiệt điện, thủy điện do
Trung Quốc thi công hay vấn đề Trung Quốc nhập khẩu hoàn toàn lao động từ bên họ
sang Việt Nam làm việc, không tạo cơ hội cho công nhân Việt Nam, hoặc vấn đề phá
vỡ hợp đồng, kéo dài thời gian hoàn thành có mục đích chính trị, ảnh hưởng đến tổng
thể kinh tế- xã hội Việt Nam…
3-Nguyên nhân của tình trạng Trung Quốc làm chủ, nhà thầu nội chưa
tham gia nhiều trong đấu thầu quốc tế tại Việt Nam
Thứ nhất, theo Luật Đấu thầu 2005 (Luật cũ), tiêu chí có giá rẻ nhất luôn được
ưu tiên trong lựa chọn nhà thầu. “Nguyên tắc này không giống bất cứ nước nào trên
thế giới!”. Chúng ta luôn có tư duy chọn nhà thầu bỏ giá rẻ và điều đó vô tình biến

đấu thầu thành đấu giá. Việc ưu tiên giá rẻ khiến các nhà thầu Việt Nam và nhà thầu
quốc tế có chất lượng cao không có cơ hội trúng thầu. Các nước trên thế giới lại
không chọn những nhà thầu bỏ giá quá rẻ, mà họ chọn nhà thầu bỏ giá hợp lý nhất có
thể.
Chính vì ưu tiên giá rẻ nên các nhà thầu Trung Quốc đã thắng thầu hầu hết các
dự án lớn ở Việt Nam, bởi nói về giá thì cả thế giới đều phải thua Trung Quốc. Các
nhà thầu Trung Quốc thường ra giá thầu thấp hơn giá chuẩn từ 20%-30%, nên khó ai
cạnh tranh được. Và thực tế “tiền nào của ấy” cũng cho thấy những hậu quả nhãn tiền.
Thứ hai, Luật cũ thiếu hướng dẫn về hệ số quy đổi liên quan đến xuất xứ vật
tư, phụ kiện hàng hóa khi xét giá, đánh giá gây nhiều khó khăn trong công tác xét
thầu, vì thế chỉ chọn được nhà thầu với giá thấp. Nhiều chuyên gia và các nhà thầu

23


đến từ khối các nước công nghiệp phát triển (G7) đều phản ánh, Luật Đấu thầu năm
2005 của chúng ta bỏ qua điều khoản nêu xuất xứ thiết bị để có hệ số đánh giá các
tiêu chuẩn kỹ thuật và giá trị.
Bên cạnh đó, việc tính điểm thưởng, phạt các nhà thầu không công bằng, nhiều
nhà thầu vi phạm ở các dự án khác hoặc không trung thực lại không bị trừ điểm.
Thậm chí, một số nhà thầu bị đánh giá kém ở công trình trước, đáng ra phải bị loại bỏ
tham gia thầu ở các dự án về sau của chủ đầu tư công trình. Nhưng thực tế, sau một
thời gian ngắn, các nhà thầu này lại vẫn được tiếp tục tham gia dự thầu và trúng thầu.
Thứ ba, do sự ràng buộc khi dự án sử dụng vốn tài trợ của nước ngoài. Các dự
án sử dụng nguồn vốn nước ngoài thông thường phải tổ chức đấu thầu quốc tế. Khi
vay vốn ưu đãi, các nước có quan hệ song phương, hầu hết họ có điều kiện là dành
công việc cho nhà thầu của nước họ làm, đây gần như là thông lệ trên thế giới.
Đơn cử như các dự án nhiệt điện, vì nước ta thiếu vốn, một số dự án nhiệt điện
vay vốn từ ngân hàng của Trung Quốc, nên buộc phải chỉ định nhà thầu Trung Quốc,
như các dự án nhiệt điện: Quảng Ninh 1, Vĩnh Tân 1, Duyên Hải 1; hoặc đấu thầu hạn

chế trong số các nhà thầu Trung Quốc (như dự án Nhiệt điện Cao Ngạn).
Thứ tư, chủ đầu tư ra "đầu bài" mời thầu chưa sát thực tế. Khi lập dự án, Việt
Nam luôn tính suất đầu tư quá thấp. Chẳng hạn như một dự án có thiết bị và công
nghệ hiện đại, thì suất đầu tư cần là 1 tỷ USD mới có thể mời các nhà thầu Nhật Bản
và nhà thầu châu Âu tham gia, nhưng nếu chỉ lập ra dự án với mức đầu tư 700 triệu
USD, thì chỉ phù hợp với nhà thầu của Trung Quốc.
Có thể thấy rõ điều này khi so sánh chi phí thực hiện gói thầu Nhiệt điện Nghi
Sơn 1 với Nhiệt điện Hải Phòng 1 (hai nhà máy cùng quy mô công trình là hai tổ máy
300MW). Nhiệt điện đốt than Nghi Sơn 1 được tài trợ bởi nguồn vốn ODA của Nhật
Bản có giá ký hợp đồng giữa chủ đầu tư và nhà thầu Marubeni (Nhật Bản) quy đổi là
959 triệu USD (hợp đồng có hiệu lực từ ngày 22/7/2010). Ở dự án Nhiệt điện Hải
Phòng 1, giá ký hợp đồng giữa chủ đầu tư và nhà thầu liên danh Đông Phương (Trung
Quốc) và Marubeni là 480 triệu USD (hợp đồng được ký kết vào ngày 26/11/2005).

24


Cho dù vật giá thay đổi nhiều sau 5 năm thi công, từ năm 2005-2010, nhưng giá trúng
thầu của dự án Nhiệt điện Nghi Sơn 1 đã tăng lên gấp đôi giá Nhiệt điện Hải Phòng 1.
Điều đó chắc chắn cũng đã phản ánh phần nào chất lượng mỗi công trình. Nghịch lý
“giá thầu thấp - thành cao, giá thầu cao - thành thấp” là câu chuyện có thật, không
phải hoang đường.
Bên cạnh việc dự toán thấp khiến nhà thầu có chất lượng không tham gia
được, còn có việc xác định các yêu cầu tối thiểu về kinh nghiệm và năng lực không
hợp lý, làm mất cơ hội của nhà thầu nội. Một công việc chỉ yêu cầu có kinh nghiệm 1
năm, nhưng chủ đầu tư lại yêu cầu nhà thầu có kinh nghiệm tới 5-10 năm hoặc ra điều
kiện là nhà thầu phải có năng lực tài chính hơn nhiều lần giá trị gói thầu...
Thứ năm, năng lực của chủ đầu tư yếu kém. Việc xác định năng lực thực tế
của các nhà thầu rất cần thiết, nhưng các quy định, văn bản pháp luật liên quan vấn đề
này thiếu chi tiết, cụ thể. Mặt khác, sự phối hợp của các cơ quan chức năng, đặc biệt

là chủ đầu tư, ban quản lý dự án, tư vấn giám sát… trong đánh giá nhà thầu thiếu chặt
chẽ, thực hiện quản lý giám sát dự án lỏng lẻo.
Việc thương thảo và ký kết hợp đồng chưa chặt chẽ, chưa quyết liệt thực hiện
các biện pháp xử lý vi phạm của nhà thầu. Đồng thời, Việt Nam cũng chưa có chế tài
đủ mạnh để xử lý nghiêm các chủ đầu tư không quản lý tốt các dự án.
Những dự án lớn cần thời gian chuẩn bị dài, tính toán đầy đủ mọi yếu tố công
nghệ, môi trường, xã hội, nhưng vì chạy theo chỉ tiêu kế hoạch, nên chủ đầu tư đôi
khi dành thời gian chuẩn bị cho dự án ngắn, hệ lụy là ra đầu bài mời thầu thường sơ
sài. Do vậy, với các dự án vốn ngân sách, luật cần quy định rõ chủ đầu tư phải đáp
ứng và tuân thủ đầy đủ các quy định về chuyên môn, trình độ kỹ thuật.
Thứ sáu, các chủ đầu tư dự án lớn dùng vốn nhà nước do muốn “an nhàn”,
nên thường thích đấu thầu theo hình thức EPC, ngại trong việc tách các phần công
việc để có các gói thầu phù hợp với điều kiện của nhà thầu trong nước. Điều này là
nguyên nhân khiến nhà thầu nội mất cơ hội do thầu EPC đòi hỏi vốn lớn, may ra mới
dành được vai thầu phụ cho nhà thầu ngoại.

25


×