Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH TRONG Y HỌC CỔ TRUYỀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (765.86 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA HÓA

========

========

BÁO CÁO CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH
TRONG Y HỌC CỔ TRUYỀN

Đà Nẵng, 8/2017

Sinh viên thưc hiên
Nhóm học phần
Lớp

:
: 14CHD


A- GIỚI THIỆU CHUNG
-Y học cổ truyền(hay còn gọi là đông y) là nền y học có từ xa xưa. Dựa trên lý luận
phương đông và nền tảng triết học cơ sở: Âm Dương ngũ hành cân bằng thì cơ thể
khỏe mạnh.
Xác định được nguyên nhân gây bệnh trong y học cổ truyền là một việc rất phức
tạp, vì có nhiều yếu tố, nguyên nhân gây bệnh. Dựa vào các nhân tố chính gây nên
bệnh, Y học cổ truyền đã chia ra làm những loại sau:
-Hoàn cảnh thiên nhiên (khí hậu, địa lý…) ảnh hưởng đến con người và thường
gom vào 6 loại gọi chung là 6 khí: Phong (gió), Hàn (lạnh), Thử (nóng), Thấp (ẩm
ướt), Táo (khô ráo), Hỏa (nhiệt) tức lục dâm gọi là nguyên nhân bên ngoài.


-Hoàn cảnh gây ra những rối loạn Tâm sinh lý do 7 thứ tình (vui, buồn, giận, lo,
nghĩ, kinh, sợ) gọi là nguyên nhân bên trong.
-Các nguyên nhân khác như: đàm ẩm, chấn thương, rắn cắn…
B. NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH
I.NGUYÊN NHÂN BÊN NGOÀI


Sáu khí(Phong, Hàn, Thử, Thấp,Táo, Hỏa) của khí hậu, khi biến đổi bình
thường thì cơ thể thích nghi dễ dàng. Tuy nhiên khi khí hậu biến đổi bất thường hay
còn gọi là trái gió, trở trời thì lại là nguyên nhân gây bệnh gọi là lục dâm, lục tà.
Các tà khí này , nhân cơ hội cơ thể bị suy yếu(chính khí hư) liền xâm nhập vào
cơ thể gây bệnh(tà khí thịnh).
Tà khí luôn quan hệ với thời tiết, gây bệnh vào một mùa thích hợp như: mùa
xuân hay gặp phong tà, mùa hè hay gặp bệnh do hỏa tà và thử tà,…
Mỗi tà khí, khi cảm nhiễm, thường dễ làm tổn thương tạng có quan hệ với ngũ
hành như: Phong tà hay làm hại can, hàn tà hay làm hại Thận,…
Mỗi bệnh có thể do nhiều tà khí nhiễm vào và phối hợp với nhau: Phong- Hàn,
Phong-Thấp…
Cần phân biệt các trường hợp bệnh do ngoại cảm: Phong , Hàn, Thử , Thấp,…
với trường hợp cũng do Phong Hàn,… bên trong cơ thể gây ra: Nội phong, nội
nhiệt,… tuy nhiên, mỗi loại tà khí đều có hội chứng riêng, cần phân tích kĩ chứng
trạng bệnh để tìm ra nguyên nhân.
1.

Phong

1.1 Phân loại
Có hai loại phong là ngoại Phong và nội Phong.
-Ngoại Phong thường gặp nhất ở mùa xuân. Thường gây bệnh với tạng Can, sách
Nội Kinh: Can ố Phong.



-Nội Phong: do rối loạn chức năng của can gây nên, thường gọi là “Can Phong Nội
Động”
1.2 Đặc tính
-Phong mang đặc tính dương mà dương thì động nên hay gây co rút, kinh giật.
-Phong là gió, gió nhẹ nên gây bệnh phần trên cơ thể như đầu hay mặt bịmiệng giật,
miệng méo, mắt xếch,…và đi ra ngoài trời thì sợ gió, gai rét…
-Phong khí gắn với mộc khí, chỉ sự chuyển động do đó hay di chuyển chổ này chổ
khác, gọi là “ Phong động”, thường gặp trong các chứng đau nhức xương khớp.
Ngoài ra, phong di động mau lẹ nên gây bệnh cũng nhanh và rút đi cũng nhanh.
-Sách “ Y Tông Kim Giám”: trên trời là Phong, dưới đất là Mộc, ở người là Can…
do đó, Can khí và Phong khí có liên hệ với nhau. Các bệnh về Phong khí đều thuộc
về can.
1.3.Bệnh chứng của Phong
Phong có thể kết hợp với các tà khí khác để gây ra bệnh, chủ yếu kết hợp với
Hàn Tà, Nhiệt tà và Thấp tà.
-Phong hàn do Phong tà và Hàn tà kết hợp với nhau, tuy nhiên trên thực tế lâm sàng
chứng này cho Hàn tà nhiều hơn.
+ Cảm lạnh: chảy nước mũi, sợ lạnh(biểu hiện của hàn) sợ gió, mạch phù(biểu hiện
của Phong).
+ Thời tiết lạnh(Hàn tà) làm đau dây thần kinh ngoại biên (Phong)
+ Dị ứng lạnh(hắt xì, ban chẩn) và đau khớp do lạnh.
-Phong nhiệt: kết hợp Phong tà và nhiệt tà, chủ yếu do nhiệt tà ảnh hưởng đến
phong tà:
+ Cảm sốt: sốt, họng viêm, nước tiểu vàng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng(là dấu hiệu
của Hỏa vượng), mạch phù, sợ gió(dấu hiệu của Mộc).
+ Mắt(dấu hiệu của Can Mộc): viêm, đau, đỏ(dấu hiệu của Hỏa Vượng)
-Phong thấp: kết hợp giữa Phong tà và Thấp tà, do Thấp tà gây ra nhiều hơn:
+ Viêm khớp dạng thấp(do máu huyết không thông bị ứ trệ, Tỳ ố thấp, Thấp khí

làm cho tỳ suy, không thông được huyết, huyết bị đình trệ gây ra tê mỏi, đau nhức
các phần thần kinh ngoại biên).
-Nội Phong: do Can bị rối loạn gây ra:


+ Can chủ cân, Can khí vượng lên, gây ra co giật.
+ Can dương vượng lên, gây ra nhức đầu, chóng mặt, huyết áp cao,…
+ Can huyết hư không nuôi dưỡng được gân cơ, sinh ra liệt, chân tay co quắp,…
2. Hàn
2.1. Phân loại: Hàn có hai loại:
- Ngoại hàn: Khí lạnh , hơi lạnh, thường gặp vào mùa đông, trời mưa, về khuya.
Hàn khí xâm nhập vào cơ thể bằng 2 cách:
+ Thương hàn: Hàn tà phạm vào phần biểu bên ngoài.
+ Trúng Hàn: Hàn tà nhập thẳng vào tạng phủ.
- Nội Hàn: do dương khí trong cơ thể suy, không chống nổi Hàn(dương hư sinh
ngoại Hàn).
2.2. Đặc tính
- Hàn là âm tà, do đó, thường làm hại dương(trong cơ thể phần Biểu, ngoài da,
Liên hệ đến Dương), do đó, Hàn tà dễ xâm nhập vào da, cơ, vệ, khí của cơ thể. Hàn
tà xâm nhập vào Tỳ làm Tỳ dương hư, không vận hóa được thức ăn gây ra tiêu
chảy, chân tay lạnh.
- Hàn tà có tính ngưng trệ , do đó khi xâm nhập vào cơ thể làm cho máu huyết đình
trệ, đau nhức.
- Hàn có tính co rút do đó thường gây ra chứng co rút các cơ, chuột rút, cổ vẹo khó
xoay trở. Sách “Y Tông Kinh Giám”: Trên trời là Hàn, dưới đất là Thủy, ở người là
Thận, vì thế, Thận khí thông với Hàn khí, các bệnh liên quan đến Hàn khí đều có
liên hệ đến Thận.
2.3. Bệnh chứng của Hàn
Hàn thường kết hợp với Phong và Thấp, gây ra Phong hàn và Hàn thấp, Hàn
thấp thường biểu hiện: tiêu chảy, nôn do lạnh, bụng đau âm ỉ.

Cần chú ý: Hàn tà vào tạng phủ thì nôn ra nước trong, tiêu lỏng, bụng đau, thích
chườm nóng, chân tay lạnh, mạch Trầm Trì.
2.4. Chứng nội Hàn
Chứng nội Hàn hầu hết do dương hư (dương hư sinh ngoại Hàn), người dương
hư, rất dễ bị cảm lạnh.
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:


+ Tỳ vị hư Hàn: Tỳ dương suy kém, không vận hóa được thức ăn, gây nên: đi ngoài
lỏng, đầy bụng, ăn kém, bụng đau âm ỉ.
+ Thận dương hư: Thận ố hàn, Thận dương hư sinh ra sợ lạnh , tay chân lạnh, tiểu
tiện nhiều.
+ Tâm dương hư: Tâm chủ huyết, tâm dương hư, không chuyển được huyết, gây ứ
trệ, làm tắc động mạch vành.
+ Phế dương hư: Phế chủ khí, Phế dương hư, không thông được khí, gây khí nghịch
làm khó thở, hen suyễn.
3.Thử
Thử là nắng thường gặp vào mùa hè.

3.1 Đặc tính
+ Thử là dương tà, nên mang đặc tính sốt viêm nhiệt.
+ Tính hay thăng tán do đó dễ làm tiêu hao tân dịch… vào mùa hè, những ngày
nắng trời, người ta thường mất nhiều mồ hôi, khát nóng sốt.
+ Thường phối hợp với Thấp, nhất là từ hè sang thu, gây ra chứng lị, tiêu chảy.
3.2 Chứng bệnh của Thử
Sốt cao, nhức đầu, khát nước, người buồn bực khó chịu, có mồ hôi, mạch hồng
sát, chia làm 3 loại:
-Dương Thử hay còn gọi là trúng Thử: do ở lâu ngoài nắng, bỗng lăn ra mê man,
không biết gì, bản chất là nhiệt.



-Âm Thử, còn gọi là Thương Thử: do mùa hè, chỉ ở trong mát, ăn nhiều thức ăn
sống lạnh làm âm khí lấn át dương khí gây ra: sốt cao, sợ lạnh, đầu đau, bụng đau,
thổ tả, bản chất của Hàn.
-Thử thấp: do mùa hè lội nước, dầm mưa ở nơi ẩm thấp làm cho Thử hợp với Thấp
xâm nhập vào ruột gây ra lị hoặc thổ tả.
4. Thấp
4.1. Phân loại: có 2 loại Thấp:
+ Ngoại Thấp: khí ẩm thấp, thường gặp vào mùa hè, thường gặp ở những nơi có độ
ẩm thấp, đầm lầy…
+ Nội Thấp: do Tỳ dương hư, không vận hóa được thủy dịch, làm thủy dịch ứ đọng
lại gây bệnh.
4.2. Đặc tính của Thấp
+ Thấp chỉ sự nặng nề, đình trệ, do đó các chứng có kèm thêm Thấp thường thấy
tay chân nặng nề.
+ Thấp hay gây dính, nhớt: miệng dính nhớt, tiểu khó.
+ Thấp bài tiết chất đục (trọc khí): đại tiện lỏng, nước tiểu đục, huyết trắng…
+ Thấp là âm tà, thường làm hại dương khí gây trở ngại cho vận hành. Thí dụ: Thấp
làm dương khí của Tỳ giảm sút, ảnh hưởng đến sự vận hóa thủy dịch, gây phù
thũng, tiêu hóa kém…
+ Sách “Y Tông Kim Giám” : trên trời là Thấp, dưới đất là Thổ, ở người là Tỳ,
Thấp khí thông với Tỳ khí, vì vậy các bệnh gây nên bởi Thấp khí đều thuộc về Tỳ.
4.3. Chứng bệnh của Thấp
Thấp khí kết hợp với các tà khí khác gây ra bệnh như: Phong thấp, Hàn thấp, Thử
thấp, Thấp nhiệt.
+ Thấp nhiệt là sự kết hợp giữa nhiệt và Thấp, chủ yếu do Nhiệt: kiết lị, nhiễm
khuẩn ở bộ phận sinh dục, tiết niêu…
4.4. Chứng nội Thấp
Do Tỳ hư không vận hóa được Thủy thấp.
+ Ở Thượng tiêu: gây ra đau đầu nặng, mắt hoa, ngực sườn đầy tức.

+ Ở Trung tiêu: gây ra bụng đầy trướng, kém ăn, chậm tiêu, miệng dính, chân tay
nặng nề.


+ Ở Hạ tiêu: gây phù chân, nước tiểu ít, huyết trắng.
5. Táo
5.1. Phân loại: Có 2 loại Táo:
+ Ngoại Táo: là độ khô ráo, hay gặp vào mùa thu, chia làm 2 loại: Ôn Táo và
Lương Táo, thường xâm phạm từ mũi, miệng, phế và vệ khí vào bên trong cơ thể.
+Nội Táo: do tân dịch, khí huyết suy giảm gây nên.
5.2. Đặc tính
Táo có tính cách khô ráo, do đó, hay làm tổn thương tân dịch và thủy dịch trong
cơ thể gây ra: mũi khô, họng khô, da khô, đại tiện táo, nước tiểu ít, ho khan, ít đờm.
-Sách ‘Y Tông Kim Giám’: trên trời là Táo, dưới đất là Kim, ở người là Phế, Táo
khí thông với Phế khí, vì thế các bệnh gây ra bởi Táo khí đều thuộc về Phế.
5.3 Bệnh chứng của Táo
- Lương Táo: Cảm phải gió heo may hiu hắt của mùa Thu (còn gọi là Phong Táo)
gây ra: sốt, sợ lạnh. Đầu đau, ho khan, họng khô, mũi nghẹt, không có mồ hôi…
- Ôn Táo: cảm phải khí mùa Thu, lạnh lâu không mưa gây nên ( còn gọi là Nhiệt
Táo) gây nên: sốt cao, ít sợ lạnh, đầu đau, ngực đau, mũi khô, miệng khát, trong
người bứt rứt, lưỡi đỏ… Hay gặp trong các bệnh truyền nhiễm về mùa Thu như: sốt
xuất huyết, viêm não…
- Ôn Táo hay làm khô tân dịch, do đó dễ gây mất điện giải sinh ra nhiễm độc hệ
thần kinh hay vận mạch: hôn mê, vật vã, xuất huyết…
5.4. Chứng nội Táo
Do tân dịch khô kiệt, âm hư, dùng thuốc cay đắng và thuốc hạ lâu ngày làm da
nhăn nheo, môi nứt nẻ, móng tay chân khô, khát nhiều, táo kết…
6.Hỏa



6.1. Phân loại
Hỏa hay nhiệt, thường có 2 loại:
-Hư Hỏa: do âm hư, không kiềm chế nổi Hỏa, khiến Hỏa vượng lên, thường gặp
trong các chứng Âm hư hỏa vượng.
-Thực nhiệt: do Hỏa khí và nhiệt khí bên ngoài gây nên. Thí dụ: đi nắng hoặc đứng
gần lửa cháy, Hỏa khí trong người bị bùng theo lên gây ra nóng.
6.2. Đặc tính
-Thiên ‘ Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận’ (TVấn 5) ghi: ‘Phương Nam sinh
nhiệt’, do đó Hỏa khí thường gây sốt: sốt cao, họng đỏ, mặt đỏ…
- Hỏa hay bốc lên (như hình dáng ngọn lửa bốc cháy) vì thế hay gây ra viêm nhiệt ở
phần trên. Thí dụ: Hỏa của Vị vượng, gây lở loét môi miệng, lợi răng… (Tỳ khai
khiếu ở miệng).
+ Hỏa của Can vượng gây nên mắt sưng, mắt đau, mắt đỏ… (Can khai khiếu ở mắt)
+ Hỏa của Tâm vượng gây nên lưỡi lở loét sưng dộp… (Tâm khai khiếu ở lưỡi)
-Tâm chủ huyết do đó, Hỏa dễ gây chảy máu: chảy máu cam (Hỏa của Phế vượng),
tiểu ra máu (Hỏa của Thận vượng), ói ra máu (Hỏa của vị vượng)…


-Hỏa vượng lên, phản khắc lại Thủy, do đó thường làm hao đốt tân dịch (thủy khí),
gây ra khát nước, miệng khô, táo bón…
-Sách ‘Y Tông Kim Giám’: trên trời là Hỏa, dưới đất là nhiệt, ở người là Tâm…
Hỏa khí thông với Tâm khí, do đó, các bệnh gây nên bởi Hỏa khí đều thuộc về
Tâm.
6.3. Chứng bệnh của Hỏa
- Hỏa sinh Nhiệt, nhiệt có thể kết hợp với các khí khác gây nên bệnh như: Phong
Nhiệt, Thấp Nhiệt, Thử Nhiệt, Táo Nhiệt…
- Vào mùa hè (Hỏa khí vượng), hay gây nên các bệnh nhiễm khuẩn: mụn nhọt, phổi
viêm, họng viêm… Nếu nhiệt quá độ, thanh Hỏa, gây sốt rất cao, có khi mê sảng,
phát cuồng…
- Gây các chứng bệnh truyền nhiễm ở thời kỳ toàn phát, có hoặc không có biến

chứng mất nước, nhiễm độc thần kinh, chảy máu: mặt đỏ, mắt đỏ, sợ nóng, khát,
tiểu ít, đỏ, chảy máu cam, đại tiện ra máu…
6.4. Chứng hư nhiệt
Do Âm hư sinh nội nhiệt: gò má đỏ, trong lòng phiền nhiệt, ra mồ hôi trộm…
Cũng do thất tình gây nên: giận quá, làm Can hỏa bốc lên, Phòng dục quá độ làm
Tường hỏa động, buồn thương quá làm Hỏa bốc lên Phế…
7. Dịch lệ
Cũng 1 loại bệnh do tà khí lục dâm cảm nhiễm vào cơ thể gây nên, nhưng có
tính chất lây lan thành những vụ dịch lớn, nhỏ như: cúm, sởi, quai bị…
II. NGUYÊN NHÂN BÊN TRONG (nội nhân)
1.Thất tình


Nguyên nhân bên trong chủ yếu do thất tình gây nên: vui(hỷ), giận (nộ), buồn
(ai), thương (ái), ghét (ố), sợ (cụ), muốn (dục). Bảy tình này kích thích quá độ hoặc
kéo dài, sẽ ảnh hưởng đến sự tuần hoàn của khí huyết làm rối loạn chức năng của
tạng phủ gây nên bệnh: huyết áp cao, bao tử loét, thần kinh suy nhược…
2. Thất tình và tạng phủ
-Tình chí bị kích động, tạng phủ sẽ biến hóa ra thất tình: can sinh ra giận dữ, tâm
sinh ra vui mừng, tỳ sinh ra nghĩ, phế sinh ra lo, thận sinh ra sợ…
-Thất tình gây tổn thương tinh, khí, huyết của cơ thể: giận quá hại can(nộ thương
can), mừng quá hại tâm (hỷ thương tâm), lo quá hại tỳ (ưu thương tỳ), buồn quá hại
phế (bi thương phế), sợ quá hại thận (khủng thương thận).
-Thất tình làm ảnh hưởng đến sự thăng giáng khí của tạng phủ: sách Nội Kinh:
‘Giận làm khí bốc lên, mừng làm khí hãm, buồn làm khí tiêu, sợ làm khí hạ, kinh
làm khí loạn, nghĩ làm khí kết…’
Triệu chứng chung là: tính tình thay đổi, mừng giận buồn vui thất thường, mất
ngủ, mộng nhiều, ăn kém, không biết đói, đầu đau, ngực tức, hay ngáp vặt, thở dài,
mệt mỏi, nặng hơn thì tinh thần hốt hoảng, dễ kinh sợ, nói năng sai lạc, điên dại,
ngẩn ngơ… Kèm theo những hội chứng rối loạn của tạng phủ như : tiểu nhiều

(thận), thở mệt (phế)…
Thất tình thường gây nhiều bệnh ở 3 tạng chính là tâm, tỳ và can.
+Tâm: ngực đau tức, mất ngủ, hay quên, tinh thần không ổn định, cười nói huyên
thuyên, điên cuồng…
+ Can: hay cáu gắt, hông sườn đầy tức, kinh nguyệt không đều…
+Tỳ: ăn uống kém, biếng ăn, rối loạn tiêu hóa…
Có thể hiểu: thất tình, biểu hiện của âm chứng: buồn, lo… Âm sinh âm, do đó,
thường làm cho phần âm của cơ thể bị tổn hại, phần âm của cơ thể giữa gặp nhất
chính là huyết. Ba tạng Tâm, Can, Tỳ liên hệ trực tiếp đến huyết (Tâm chủ huyết,
Can tàng huyết và Tỳ thông huyết), do đó 3 tạng này thường chịu ảnh hưởng nhiều
của thất tình.
III. NHỮNG NGUYÊN NHÂN KHÁC
1.Ăn uống


- Ăn uống không điều độ: ăn quá đói làm cho nguồn sinh huyết không đầy đủ làm
cho cơ thể mệt mỏi. Ăn quá no làm tổn thương tỳ vị, tiêu hóa rối loạn, gây bội thực,
trẻ em thành chứng cam tích, người lớn phát sinh bệnh tỳ vị.
- Ăn uống không sạch: gây bệnh ở vị trường hoặc bệnh kí sinh trùng đường ruột, ăn
chất ôi thiu sinh đau bụng, nôn, thậm chí hôn mê, tử vong.

- Ăn uống thiên lệch: chỉ thích ăn một thứ nào đó, thức ăn không cung cấp đủ
lượng sinh tố cần thiết cho cơ thể gây suy dinh dưỡng sinh bệnh tật. Ăn quá nhiều
chất hàn lương làm tổn thương tỳ vị dương khí, gây nên hàn thấp nội sinh, ăn quá
nhiều chất cay làm cho vị trường tích nhiệt gây táo bón, ăn quá mặn làm cho mạch
ngưng sáp, mặt mất sang nhuận…
- Thức ăn chế biến không đúng quy cách: như luộc rau quá nhừ làm mất sinh tố,
chiên xào với quá nhiều mỡ dễ gây ra chứng xơ vữa động mạch, rán nướng quá
cháy dễ gây ung thư…
2. Lao lực quá độ

- Lao động quá sức: lâu ngày tích lao thành tật, làm tạng khí hư thiếu, xuất hiện
thiếu khí, vô lực, tứ chi mỏi, tinh thần uể oải, hình thể tiều tụy…


- Lao thần quá độ: lo lắng buồn phiền quá độ làm hao thương tâm khí, tổn thương
tỳ khí sinh ra tâm quý, mất ngủ, hay mê, ăn ít, bụng đầy, tiện lỏng.
- Phòng lao quá độ: làm hao thương thận tinh, gây nên đau lưng mỏi gối, chóng mặt
ù tai, nam giới thì di tinh hoạt tiết, nặng thì liệt dương.
- Không lao động, không hoạt động làm ảnh hưởng khí huyết vận hành, gân cốt
mềm.
3. Ứ huyết: là sự vận hành khí huyết không thông, xung huyết hoặc xuất huyết cục
bộ. Thường do khí hư, khí trệ khiến cho huyết ngưng trệ hoặc xuất huyết trong cơ
thể.

* Đặc điểm gây bệnh: ảnh hưởng đến toàn thân, vận hành huyết ở toàn thân hay cục
bộ, sinh ra đau nhức, chảy máu, ứ tắc kinh mạch
*Những biểu hiện của ứ huyết:
- Đau: do xung huyết gây chèn ép, thường đau cố định một chỗ, đau dữ dội, bệnh
kéo dài.
- Sưng: thành khối hay gặp trong các bệnh ngoại khoa như gãy xương, ngã, bong
gân,… hoặc ứ huyết ở các tạng phủ.
- Xuất huyết nội: như đại tiện ra máu, rong huyết,… hoặc xuất huyết dưới da như
trong trường hợp sốt xuất huyết, ngộ độc….
4. Đàm ẩm
Đàm là chất đặc, ẩm là chất trong loãng. Đàm ẩm sau khi sinh ra sẽ gây ra những
chứng bệnh mới, phạm vi gây bệnh rất rộng không chỉ trong bệnh phế quản ho khạc
đờm.


Khi một trong 3 tạng tỳ, phế, thận bị rối loạn, suy kém không vận hóa được tân

dịch. Tân dịch đọng lại gây nên đàm ẩm. Sau khi hình thành, đàm ẩm theo khí vận
chuyển trong cơ thể, gây ảnh hưởng đến sự vận hành khí huyết, gây ra bệnh.
*Bệnh chứng của đàm ẩm:
- Đàm: + Đàm đình trệ ở phế gây hen suyễn, khạc đàm..
+ Đàm đình trệ ở tâm, che lấp làm tâm không khai thông được sinh ra điên
cuồng, lưỡi cứng không nói được
+ Đàm đình trệ ở ngực gây ra tức ngực, suyễn.
+ Đàm nghịch lên ở phía trên gây ra triệu chứng chóng mặt.
+ Đàm đình trệ ở kinh thiếu dương gây ra bệnh sốt rét.
-Ẩm: + Ẩm tràn ra cơ nhục gây phù thũng
+ Ẩm tràn ra ngực sườn gây ho suyễn
+ Ẩm vào tỳ gây sôi bụng, đầy bụng, kém ăn
*Hội chứng bệnh do đàm ẩm gây ra:
- Phong đàm: hoa mắt, chóng mặt, đột nhiên ngã quỵ, miệng méo, lưỡi cứng không
nói được hoặc nói ngọng (tai biến do các nguyên nhân cao huyết áp), hoặc đột
nhiên bất tỉnh nhân sự, sủi bọt mép, co giật (thường gặp ở người động kinh).
- Nhiệt đàm: đầu mặt nóng, táo bón, họng đau, điên cuồng.
- Hàn đàm: ho ra đàm lỏng,xương đau dữ dội.
- Thấp đàm: cơ thể nặng nề, mệt mỏi.
- Lao hạch: thường ở cổ, không nóng đau khi vỡ hay loét ra khó lành miệng vết
thương.
- Huyễn ẩm: mạn sườn đau, ho, khó thở, thường gặp trong chứng tràn dịch màng
phổi.
- Yêm ẩm: cơ thể cảm thấy nặng nề, phù tay chân, không có mồ hôi, sợ lạnh.
- Hen suyễn: bệnh hen phế quản, khó thở không nằm được, mặt phù.
5. Tác nhân bên ngoài
Các vết thương do dao kiếm, súng đạn bắn, bỏng, té ngã, côn trùng cắn, rắn
cắn….



Nếu tổn thương ở da cơ xương khớp: sưng nề, chảy máu, ứ ban, bong gân, sai
khớp.
Nếu tổn thương ở tạng phủ gây xuất huyết nhiều, hôn mê thậm chí tử vong.
NHỮNG THUẬT NGỮ TRONG Y HỌC CỔ TRUYỀN
- Can bệnh : ( bệnh chứng của can tạng ) : Đau dưới 2 cạnh sườn , đau sang bụng
trên và bệnh nhân hay giận dữ.Tạng can yếu thì mắt mờ, tai nghe không rõ và hay
sợ, thường nằm mộng gặp điều khủng khiếp sợ hãi.
- Can hỏa viêm : các bệnh có biểu hiện mắt kéo gân đỏ ,chảy máu mũi, máu miệng,
và ho khí, khạc ra máu.
- Can uất kết : Bệnh do tinh thần bị kích động làm can khí uất gây cho khí huyết
vận hành không thông : hông sườn đau tức,vùng gan đầy ức, người bực dọc, giận
dữ, hay ợ, co giật ....
- Can kinh hàn trệ : bệnh đau nhức các cơ khớp khó di động .
- Can kinh thấp nhiệt : Do thấp nhiệt bên trong làm khí của can kinh bị ứ trệ , người
nóng bức có thể ăn không tiêu, gây vàng da, phù.....
- Can nhiệt động phong : nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt, mắt đỏ , vật vã, miệng
khô, lưng gáy cứng đờ , co giật từng cơn thân lưỡi đỏ , mạch huyền.
- Can thận âm hư : Chóng mặt, hoa mắt, ù tai, đau mạng sườn,lưng gối mềm yếu,
họng khô, má đỏ, ra mồ hôi trộm ,tiểu đêm, tâm phiền nhiệt, di tinh, kinh nguyệt
không đều, lưỡi đỏ, mạch tố (tế) sác ( mạch nhanh ).
- Can tỳ bất hòa : Ngực sườn đầy tức, tinh thần uất ức, hay xúc động ăn kém ,bụng
trướng sôi bụng, trung tiện nhiều, đại tiện lỏng.
- Can vị bất hòa : ngực sườn đấy tức , thượng vị đau tức, ợ hơi, ợ chua, rêu lưỡi
vàng, mạch huyền.
-Đàm ẩm: chất đòm, chất cặn bã của tân dịch.
-Huyết ứ : hiện tượng xung huyết tại chỗ ở phủ tạng.
- Chẩn : (ban chẩn ) mụn lấm tấm mọc cao hơn mặt da như hạt gạo, lấm tấm nhìn
rõ hình sờ vướng tay thường mọc khắp người,sau khi khỏi có bông vẩy nhưng ít khi
có lở loét.



- Chân hàn : bụng đau, tay chân lạnh, nói nhỏ, hơi thở ngắn, ăn ít, bụng đầy, nôn
mửa, mạch đi chậm ( mạch trì ).
- Chân hàn giả nhiệt : do chuyển hóa " hàn cực sinh nhiệt "
- Phong dâm : gió độc ngấm vào tứ chi người ngay đơ ra .
- Phong đàm : chứng trúng phong làm hoa mắt chóng , đột nhiên ngã vật ra , đờm
kéo lên , khò khè , miệng méo , mắt lệch, lưỡi cứng, không nói được, hôn mê, sùi
bọt mép( động kinh )
- Phong thủy bệnh : Chứng tạng sợ gió, cả người đều thấy nặng, mạch phù, không
khát, mồ hôi đổ ra liên miên, không nóng lắm.
- Phong ý : đột nhiên ngã ra hôn mê không biết gì.
- Lục dâm : nói chung chỉ về những nhân tố gây bệnh từ bên ngoài gọi là ngoại
cảm.
- Âm chứng : Thường bao gồm các chứng hư, hàn, tinh thần mệt mỏi, thở ngắn,
nhỏ, ưa quay mặt vào trong tường .
- Âm dâm : khí âm ngấm vào thành ra chứng hàn mà sợ rét, dùng thuốc để ôn .
- Âm khí : đối xứng với dương khí .Nói đến phủ tạng thì khí của ngũ tạng.Nói tới
khí của dịch, là dịch âm khí, nói về phương hướng vận động là sự vận hành bên
trong (nội lý ), là hướng đi xuống, là sự ức chế, sự giảm nhược .
- Âm hư : phiền nhiệt, ra mồ hôi trộm, nhức trong xương, ho khan, họng khô, khó
ngủ, gò má đỏ, vật vã ....
- Âm quyết : là hàn quyết ,do nội tạng hư hàn, dương khí không tỏa đến chân tay
,do đó mà quyết nghịch .
- Âm vong : hiện tượng mất nước do ra mồ hôi nhiều, tiêu chảy nhiều, không làm
chủ được tiêu .
* Sách “ Y Tông Kim Giám”:
Ngô Khiêm, tự Lục Cát, người An Huy, Thiệp Huyện, sinh sống quãng niêu hiệu
Ung Chính, Càn Long nhà Thanh (1723-1795). Niêu hiệu Càn Long (1736-1795),



ông làm Thái y viện Viên phán phục vụ cho nội đình (Vua + tam cung lục viện).
Niên hiệu Càn Long năm thứ 4 (1789), tháng một (11) vâng mệnh Vua, cùng với
Lưu Dụ Phong làm ‘Tổng tu quan’ tập Hợp các sách thuốc và các phương thuốc bí
truyền trong thiên hạ biên soạn lại. Ban đầu tính biên làm hai bộ: một bộ giản minh
cho người sơ học, một bộ tường tận làm tài liệu cho thầy thuốc tham khảo. Sau vì
muốn công việc mau xong nên quyết định soạn chung một bộ. Sau ba năm công
tác, vào niêu hiệu Càn Long năm thứ 7 (1742), tháng chạp, hai ông biên soạn xong
bộ sách, Vua Càn Long đặt tên là ‘Y Tông Kim Giám’ cho ấn hành. Bộ sách thuốc
này là một loại sách có tính tổng hợp tối giảm yếu, tối hoàn bị của Trung Quốc,
thời ấy dùng làm giáo tài của Thái y viện. Trong sách, hình vẽ (đồ), thuyết minh
(thuyết), phương thuốc (phương), biện luận (luận) đầy đủ đồng thời có phụ lục các
bài ‘ca quyết’ giúp dễ học dễ nhớ; các phương thuốc chú trọng ‘hàn nhiệt bất chấp
thành kiến, công bổ vô sở thiên thi’ (không câu nệ hàn nhiệt, không riêng trị, bổ mà
phối hợp cả hai), phối hợp lâm sàng và thực dụng. Vì thế mà sách được lưu truyền
rộng rãi, có ảnh hưởng rất to lớn. Sách này được xem là sách mà người học ngành y
Trung Quốc cần tìm đọc; sách có giá trị tham khảo cao ở cả hai mặt nghiên cứu và
lâm sàng.
C. KẾT LUẬN
Ba loại nguyên nhân trên liên hệ mật thiết với nhau. Nguyên nhân bên ngoài khó
xâm nhập vào cơ thể nếu cơ thể khỏe mạnh. Nguyên nhân bên trong cũng phát sinh
và phát triển mạnh hơn nhờ sự hỗ trợ của các nguyên nhân khác.
Y học cổ truyền dựa vào các biểu hiện lâm sàng, phân tích các chứng trạng để
tìm nguyên nhân, làm căn cứ để sử dụng thuốc sau này.
Việc xác định rõ nguyên nhân gây bệnh là cực kì quan trọng để từ đó đưa ra
nguyên tắc điều trị phù hợp.



×