Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

BÀI TẬP NHÓM MÔN ICT101-phương pháp tự học tập, những khó khăn và kỹ năng để tự học hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.2 KB, 17 trang )

T

BÀI TẬP NHÓM MÔN ICT101
NHÓM 1 – LỚP ONE141
Tự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học
tập tại các trường đại học. Anh/Chị và nhóm của mình hãy viết thu hoạch
trình bày về phương pháp học tập này? Theo các anh chị để tự học hiệu
quả, chúng ta cần vượt qua những khó khăn gì và cần những kỹ năng
nào?
I . GIẢI PHÁP GÓP PHẦN THÚC ĐẨY VIỆC TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN
TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO THEO HỌC TỪ XA (TÍN CHỈ)
1. Hoạt động tự học của sinh viên
1.1 Hoạt động tự học
a/ Vì sao phải tự học
Khoa học hiện nay phát triển như vũ bão, khoảng 2 năm khối lượng kiến thức
của toàn nhân loại tăng lên 2 lần, nhưng thời gian dành cho đào tạo ở hệ đại học
không thay đổi. Vậy bằng cách nào để người học có thể nắm bắt được kiến thức
của nhân loại mà không bị quá tải hay hụt hẫng? Nếu trước đây việc tìm kiếm tri
thức là quan trọng hàng đầu trong cuộc đấu tranh sinh tồn, việc tích lũy kiến
thức bằng việc nhớ là ưu tiên số một thì ngày nay khi phương tiện lưu trữ đã quá
đầy đủ và thông tin thay đổi liên tục thì ưu tiên một không còn là việc nhớ mà
thay bằng khả năng tiếp cận tri thức mới, khả năng vận dụng tri thức mới và làm
cho nó sản sinh ra tri thức mới... Do đó, hoạt động học trở thành trung tâm của
quá trình dạy - học.
Hình thức tổ chức dạy học theo học chế tín chỉ qui định hoạt động tự học của sinh
viên trở thành phần bắt buộc trong đề cương chi tiết học phần và là một nội
dung quan trọng trong việc đánh giá kết quả học tập. Hình thức tự học có thể
không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa giảng viên (GV) và sinh viên (SV); tức là
GV giao nội dung để SV tự học, tự nghiên cứu, tự thực hành và sẵn sàng tư vấn
khi được yêu cầu. Vai trò của người dạy từ truyền thụ kiến thức một cách thụ
động sẽ chuyển sang vai trò người hướng dẫn người học các quá trình tìm kiếm


tri thức, gợi mở những con đường phát hiện tri thức, qua đó trau dồi khả năng
độc lập tư duy và sáng tạo.
Với quan điểm dạy - học “lấy người học làm trung tâm”, coi sinh viên là chủ
thể của quá trình dạy và học, giảng viên không chỉ dạy những kiến thức cơ bản,
mà còn hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra quá trình học của sinh viên; nhất là
không làm thay người học. Sinh viên phải được khuyến khích cao độ việc chủ
động tìm kiếm kiến thức, tham khảo mở rộng kiến thức qua các tài liệu sách vở,
dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên. Nếu GV rèn luyện được cho người
học có được phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ
lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ
được nhân lên gấp bội. GV không đơn thuần đóng vai trò là người truyền đạt
ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

1


T

kiến thức

trở
thành
người hướng dẫn cho SV trên con đường đi tìm tri thức.

“Chỉ có thể bằng con đường tự học sinh viên mới có thể học hỏi được điều gì
đó. Nhiệm vụ duy nhất của Nhà trường là tạo thuận lợi cho quá trình tự
học. Nếu như không làm được điều này, Nhà trường sẽ đánh mất ý nghĩa tồn tại
của mình”. (Isaac Asimov)
“Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, tư duy
sáng tạo của người học; bồi dưỡng năng lực tự học của người học, lòng say mê

học tập và ý chí vươn lên”.(Luật Giáo dục VN, chương I điều 4)
Quy chế đào tạo Tín chỉ số 43 (gọi tắt Quy chế 43) Khoản 3 điều 3 của quy chế
43 quy định: Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để
tiếp thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.
b/ Thực trạng tự học của SV năm thứ I
Tự học là một quá trình học tập, một quá trình nhận thức không trực tiếp có thầy
giáo, đó là một quá trình “lao động khoa học” vất vả hơn nhiều so với nghe thầy
giáo giảng bài. Có thể nói, quá trình tự học của sinh viên đòi hỏi SV phải nỗ lực,
quyết tâm, tích cực mới hy vọng đạt được mục tiêu học tập. Nếu thiếu các yếu
tố đó thì sinh viên không thể đạt kết quả tốt. Đây cũng chính là điều kiện để sinh
viên nâng cao chất lượng học tập của bản thân và các trường đại học nâng cao
chất lượng đào tạo.
Qua khảo sát sơ bộ các lớp học phần (HP) sinh viên năm thứ nhất, đa số sinh viên
đều hiểu được vai trò quan trọng của tự học. Tuy nhiên, do thói quen, do chưa
biết phương pháp tự học nên sức ì và tính thụ động của sinh viên rất lớn. Từ đó,
dẫn đến hoạt động tự học mang tính hình thức, đối phó với các bài kiểm tra.
Đối với các HP Lý luận chính trị (LLCT), động cơ học tập của sinh viên chủ yếu
là để thi, để “trả nợ”, SV chưa thấy được vai trò, tầm quan trọng của các học
phần LLCT trong việc hình thành thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp
luận; nhiều sinh viên chưa tự giác, chưa tích cực và chưa chủ động chiếm lĩnh
tri thức LLCT mà còn thụ động, phụ thuộc nhiều vào những gì GV giảng dạy,
nhu cầu mở rộng hiểu biết, phát huy sáng tạo, đào sâu kiến thức LLCT không
cao… Từ đó, phần nhiều sinh viên ít đọc giáo trình và rất ít khi đọc sách tham
khảo. Một số ít sinh viên đọc các bài tham khảo LLCT chủ yếu trên các trang
web.
Chương trình giáo dục quá tải so với thời gian tổ chức dạy- học. Kiến thức lý luận
với thực tiễn còn vênh nhau quá nhiều, làm cho SV giảm bớt niềm tin và từ đó
dẫn đến giảm bớt hứng thú trong học tập. Về phía GV, đa phần GV đã cố gắng
đổi mới phương pháp GD, quan tâm đến việc tự học của SV nhiều hơn, nhưng
do thói quen, do lúng túng trong thực hiện thao tác, quy trình đổi mới… nên

việc đổi mới phương pháp GD trong thực tế chưa đạt như mong muốn. Hiện
ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

2


T

tượng GV
thuyết
trình một
chiều, đọc chép, chiếu chép… không phải là hiện tượng hiếm thấy., GV đã vô
tình góp phần trong việc hạn chế đến việc tự học của SV.Từ thực tiễn trên,
người GV có vai trò rất quan trọng trong hoạt động tự học của SV. Muốn làm tốt
vai trò của mình người GV cần quan tâm thực hiện một số giải pháp sau.

2. Một số giải pháp của giảng viên góp phần thúc đẩy hoạt động tự học của
SV đạt hiệu quả tốt nhất.
2.1 Xây dựng nội dung bài giảng để thúc đẩy SV tự học, GV lưu ý:
a/ nội dung một bài giảng LLCT trong hệ thống tín chỉ thường gồm 3 thành
phần chính:
- (1) Nội dung cốt lõi buộc SV phải: nhớ- biết (Nội dung 1/ND1) là những kiến
thức, nguyên lý, khái niệm cơ bản, chủ yếu nhất, đòi hỏi SV phải hiểu, phải nhớ
để vận dụng vào lĩnh vực chuyên môn hẹp. ND1 sẽ được GV giảng trực tiếp trên
lớp.
- (2) Nội dung cần biết buộc SV phải biết vận dụng kiến thức lý luận để làm cơ sở
lý luận và giải quyết những vấn đề của thực tiễn đất nước, thời đại. Nội dung
2/ND2, GV có thể giảng hoặc gợi mở trực tiếp trên lớp nhằm hướng dẫn sinh
viên tự học, tự nghiên cứu ở ngoài lớp.
- (3) Nội dung nên biết buộc SV phân biệt được khái niệm, nội dung trong bài với

các khái niệm khác hay khoa học khác (Nội dung 3/ND3) gồm các kiến thức
khoa học liên quan đến nội dung dạy-học. Phần này SV tự học, chuẩn bị bài, làm
bài tập, thảo luận nhóm, xemina, làm thí nghiệm….
Như vậy, kiến thức của mỗi môn học được phát triển thông qua những tìm tòi của
người học dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của giảng viên. Nếu sinh viên không tự
học thì họ mới chỉ lĩnh hội được một phần khối lượng kiến thức của môn học; và
như vậy, đồng nghĩa với việc họ không đạt được yêu cầu của môn học đó.
b/ Nội dung soạn bài yếu tố quan trọng quyết định PPGD và tự học của SV
Trong đào tạo theo tín chỉ, nội dung ND2, ND3 như đã đề cập ở trên là những nội
dung cơ bản của hoạt động tự học. Giảng viên cần thiết kế các nhiệm vụ tự học
cụ thể cho sinh viên để họ có thể tự chiếm lĩnh được các nội dung này, đáp ứng
mục tiêu và yêu cầu của từng bài học trong một khoảng thời gian định trước. Để
giúp sinh viên thực hiện được nhiệm vụ tự học của mình, giảng viên cần giới
thiệu đầy đủ các tài liệu bắt buộc, tài liệu tham khảo, cách thu thập, tra cứu và
xử lý thông tin trong tài liệu với những hướng dẫn chi tiết, cụ thể. Bên cạnh đó,
giảng viên cần tăng cường hướng dẫn, giúp đỡ sinh viên xây dựng kế hoạch tự
học khoa học, hợp lý, phù hợp với điều kiện của mình để đạt tới đích một cách
hiệu quả nhất. Một số công việc cụ thể của GV:

ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

3


T

+ (1) Nội
dung tự
học được
thể hiện thành các câu hỏi nhỏ; các chủ đề thuyết trình, xemina; các ví dụ giúp

làm rõ nội dung kiến thức; câu hỏi với tính chất ý nghĩa phương pháp luận để
vận dụng vào thực tiễn cuộc sống;
+ (2) Gợi mở phương pháp giải quyết từng nội dung; chuẩn bị bài theo cá nhân
hay nhóm.
+ (3) Hướng dẫn tài liệu tham khảo: Thư viện, web, sách tham khảo, báo chí…

Việc tự học trước hết là tính tự giác của SV. Nếu SV không tự học thì dù sử dụng
nhiều giải pháp thì hiệu quả đạt được vẫn không như ý muốn. Để tự học đạt hiệu
quả, GV cần khơi dậy ham thích của người học với môn học. Để SV ham thích
thì việc soạn giảng sao cho dễ hiểu- gắn lý luận với thực tiễn (học lý luận có ý
nghĩa) không giáo điều, không hô hào dạng khẩu hiệu, không có tính thuyết
phục… là việc làm vô cùng quan trọng và tốn nhiều công sức của GV. Nếu GV
giảng bài hấp dẫn và gắn với thực tiễn thì sẽ thu hút, lôi cuốn SV đam mê môn
học thì việc tự học sẽ hiệu quả cao.
Khi soạn bài phải chuẩn bị kỹ phần nào GV sẽ giảng sâu, phần nào SV phải lên
thư viện đọc sách tham khảo và phần nào phải tự học, phải thảo luận ở tổ nhóm.
2.2 Xây dựng hệ thống câu hỏi để làm ngân hàng đề thi, GV nên lưu ý:
Hệ thống câu hỏi trắc nghiệm, tự luận là những yêu cầu cụ thể về kiến thức môn
học mà người học phải tự tích lũy. GV và BM khi xây dựng hệ thống câu hỏi cần
chú ý:
- (1) Số lượng câu hỏi phải đảm bảo phủ kín kiến thức cơ bản trong giáo trình; cần
có một tỷ lệ nhất định các câu hỏi vận dụng mà kiến thức thuộc giáo trình nhưng
SV chỉ khi nghe giảng mới có thể trả lời tốt được (SV chăm đến lớp hơn);
- (2) Những nội dung cơ bản nhất, trọng tâm nhất trong chương trình vừa thể hiện
bằng câu hỏi trắc nghiệm và vừa tự luận; câu hỏi tự luận phải xây dựng thành
các chủ đề thảo luận trong chương trình xemina.
2.4 Một số hoạt động trên lớp của GV góp phần thúc đẩy SV tự học
a/ Đánh giá chuyên cần bằng hình thức cho điểm
Khoản 1 điều 19 Quy chế 43 quy định điểm học phần, bao gồm: điểm kiểm tra
thường xuyên trong qúa trình học tập; điểm đánh giá nhận thức và thái độ tham

gia thảo luận; điểm đánh giá phần thực hành; điểm chuyên cần; điểm thi giữa
học phần… Quy chế 43 không khống chế buộc SV phải nghe giảng tại lớp,
nhưng quy định chuyên cần có thể được đánh giá bằng cột điểm quá trình. GV
nên cho điểm này để khuyến khích sinh viên đến lớp. Thực tiễn học kỳ qua, có
ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

4


T

cột điểm
này tỷ lệ
đến lớp
nghe giảng rất cao ở tất cả các lớp.
Việc SV đến lớp nghe giảng bài phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
+ (1) Chất lượng bài giảng của GV dễ hiểu, hấp dẫn có sức thu hút SV;
+ (2) Gợi mở, định hướng giúp SV vận dụng kiến thức đã học vào lý giải các vấn
đề sống động của thực tiễn một cách sinh động;
+ (3) Hướng dẫn SV tự học, tự nghiên cứu có chất lượng.
Có ý kiến cho rằng GV dạy tốt thì SV tự đến lớp nghe giảng không cần phải điểm
danh. Ý kiến này có thể đúng trong một vài trường hợp, nhưng trong thực tế
nhiều lúc không phải như vậy, bởi vì:

+ (1) Không phải SV nào cũng chăm học các học phần LLCT;
+ (2) Trong kiến thức LLCT giữa lý luận với thực tiễn luôn có độ vênh nên SV
thấy có nhiều lý luận bất lực trước thực tiễn;
+ (3) Âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch tác động không nhỏ đến
tư tưởng, tình cảm của một bộ phận SV;
+ (4) Những tiêu cực của đời sống XH, của cán bộ… đã tác động và làm giảm

niềm tin của SV đối với Đảng, với chủ nghĩa Mác -Lênin)
Việc sắp xếp lớp có số lượng SV quá đông, dẫn đến thái độ coi thường môn học,
coi thường việc đổi mới đối với các học phần LLCT; việc lớp đông SV dẫn đến
điểm danh hàng ngày rất mất thời gian, không chính xác. Khắc phục tình trạng
này chúng ta nên cải tiến bằng các cách sau:
+ (1) GV chỉ cần đếm tổng số SV đến nghe giảng, sau đó GV đưa danh sách lớp
cho từng SV ký tên vào danh sách trong mỗi buổi học.
+ (2) Tiết đầu tiên GV đọc danh sách và cho SV biết và nhớ số thứ tự của mình
trên danh sách (Khi điểm danh hay vô điểm GV dùng số thứ tự này). Kết quả
kiểm diện và khi vào điểm rất nhanh.
Khi bắt đầu một môn học, giảng viên cần giới thiệu và cung cấp cho sinh viên đề
cương chi tiết học phần. Nội dung phổ biến cần tập trung:
- Mục đích - mục tiêu môn học, nội dung chi tiết của môn học, điều kiện tiên
quyết, hình thức tổ chức và phương pháp dạy - học cho từng nội dung của môn
học, hình thức kiểm tra - đánh giá của từng hoạt động học tập…Qua đó, sinh viên
chủ động lên kế hoạch tự học, tự nghiên cứu để thực hiện được các mục tiêu của
môn học. Giảng viên cần phải tuân thủ theo đúng kế hoạch trong đề cương và yêu
cầu sinh viên nghiêm túc thực hiện đề cương này.
- Trong từng nội dung của đề cương chi tiết học phần cần chỉ rõ người học cần
phải đọc những tài liệu nào, thậm chí từ trang… đến trang hoặc tham khảo các
ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

5


T

tài liệu
hay các
trang

web… chỉ rõ tên bài, trang thứ mấy?
Đào tạo theo học chế tín chỉ, đòi hỏi hoạt động tự học là thành phần bắt buộc
trong cơ cấu thời khóa biểu thì cần phải có các hình thức kiểm tra - đánh giá hoạt
động này. Nếu giảng viên chỉ giao nhiệm vụ tự học mà không tổ chức kiểm tra,
đánh giá thì hoạt động học tập này chỉ mang tính hình thức, đối phó mà không
đem lại kết quả như mong muốn. Đặc biệt là trong điều kiện SV chưa có thói
quen, chưa có phương pháp tự học thì vai trò của kiểm tra càng quan trọng hơn
trong việc hình thành thói quen, phương pháp tự học cho SV.
Để phát huy tốt vai trò, chức năng của kiểm tra, đánh giá giảng viên phải thường
xuyên đánh giá sinh viên trong suốt quá trình của môn học thông qua các hình
thức kiểm tra đa dạng như:
- (1) Kiểm tra với nội dung SV chuẩn bị bài mới: GV sử dụng các câu hỏi đã cho
SV chuẩn bị ở nhà để trao đổi trước lớp. Nếu SV trả lời chứng tỏ có học thì ghi

điểm cộng [+] cho mỗi lần phát biểu, tùy số lần phát biểu trong lớp GV có thể quy
đổi thành điểm cộng thêm vào điểm quá trình. Hoặc tổ chức kiểm tra, chấm
điểm quá trình chuẩn bị bài cũ trên các tài liệu ghi chép của SV theo yêu cầu của
GV.
- (2) Kiểm tra SV chuẩn bị tự học với nội dung bài cũ:
+ (2.1) Kiểm tra bằng các câu trắc nghiệm GV cần chia số lượng câu trắc nghiệm
trong mỗi chương (Hay phần đã học trong một buổi) chia làm nhiều đề khác
nhau và đánh số thứ tự đề mỗi đề khoảng 12- 15 câu và in vào trang A4 để phát
cho mỗi SV một đề và ½ tờ giấy làm bài trắc nghiệm (SV ngồi gần nhau có nội
dung đề khác nhau) đầu hay cuối mỗi buổi học có thể yêu cầu 20-30 SV kiểm tra
trắc nghiệm (Kiểm tra xong thu lại đề để kiểm tra ở lớp khác). Thời gian kiểm
tra khoảng 15 phút/ lần.
+ (2.2) Kiểm tra bằng các câu tự luận:
* Sau mỗi buổi học GV cần cho SV một số câu hỏi ôn tập ngắn gọn, yêu cầu SV
về nhà phải chuẩn bị bài để buổi học sau- kế tiếp tiến hành kiểm tra vấn đáp
trước lớp. Nội dung thuộc về phần kiến thức bắt buộc và vận dụng kiến thức đó

vào thực tiễn cuộc sống;
* Sau mỗi chương, trong Đề cương chi tiết HP, Bộ môn đã ấn định nội dung chính
- trọng tâm của mỗi chương và được diễn đạt bằng các câu hỏi hay các chủ đề để
xemina. GV yêu cầu SV chuẩn bị và tổ chức tiến hành xemina tại lớp. Sau khi
tiến hành xemina sẽ tổ chức kiểm tra phần tự luận. Tất cả các chủ đề xemina sẽ
diễn đạt dưới dạng câu hỏi ngắn gọn, có vận dụng để SV chuẩn bị. GV chia số
câu hỏi của mỗi chương thành nhiều đề và trước hay sau buổi học chương kế
tiếp yêu cầu 20-30 SV ở lại kiểm tra, mỗi sinh viên 01 đề, mỗi đề có thể 1-2 nội
dung (tùy thuộc nội dung dài hay ngắn)- Thời gian kiểm tra khoảng 15 phút/lần.
ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

6


T

Bất kể hình
thức kiểm
tra
nào
thì buổi học sau công bố kết quả kiểm tra để SV biết và có ý thức học chuẩn bị
cho buổi học tiếp theo.
+ (2.3) Thi giữa HP nên sử dụng đề chung của BM, nhằm đảm bảo công bằng khi
đánh giá SV, nếu sĩ số lớp quá đông khi thi giữa HP nên chia thành 2 đợt.
Tóm lại, đào tạo theo học chế tín chỉ yêu cầu SV phải có tính chủ động tự học rất
cao và không được thụ động chờ giảng viên cung cấp tri thức như trước đây.
Việc tự học của SV là một quá trình đòi hỏi sự kiên trì và nỗ lực to lớn của bản
thân, không thể thành công ngay trong ngày một, ngày hai mà phụ thuộc rất lớn
vào tinh thần tự giác, cố gắng vươn lên, nỗ lực chứng tỏ bản thân của mỗi SV.
Đồng thời, sự hướng dẫn, giúp đỡ tạo điều kiện và tích cực tổ chức kiểm tra

đánh giá của GV, nhằm tạo hỗ trợ SV hình thành phương pháp học tập đúng đắn,
hình thành thói quen tự học theo học chế tín chỉ thì mới giúp quá trình dạy- học
lấy người học làm trung tâm mới đạt hiệu quả cao nhất.
II. VAI TRÒ CỦA GIẢNG VIÊN TRONG VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC
TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN. VẬN DỤNG TRONG GIẢNG DẠY

Để nâng cao năng lực tự học, ngoài ý thức và sự cố gắng nỗ lực của người học
còn cần phải kể đến vai trò của người giảng viên vì theo phương pháp dạy học
hiện đại với quan niệm lấy người học làm trung tâm, người giảng viên đóng vai
trò là người cung cấp dịch vụ thông qua các phương pháp, các hành động hướng
dẫn để kích thích người học tự tìm tòi, say mê nghiên cứu, đào sâu suy nghĩ, tranh
luận, thảo luận xử lý tình huống và xây dựng kế hoạch học tập một cách hiệu quả.
Bài viết bàn về vai trò, tác động của giảng viên đối với quá trình tự học của sinh
viên, vận dụng trong giảng dạy học phần Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin, nhằm giúp sinh viên thu nhận được tri thức và kỹ năng tốt nhất.
1. Khái niệm tự học và vai trò của tự học đối với quá trình học tập, nhận
thức của sinh viên
1.1. Khái niệm tự học
Tự học là hình thức hoạt động nhận thức của người học nhằm chiếm lĩnh
tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo; giúp người học tìm ra tri thức mới, cách
thức hành động mới bằng chính nỗ lực của bản thân.
Trong quá trình tự học, người học có thể tự mình khám phá, tìm tòi tri thức
nhằm đáp ứng nhu cầu hiểu biết, bổ sung và mở rộng tri thức ngoài chương trình
được dạy ở nhà trường. Đối với sinh viên ở bậc cao đẳng, đại học, hoạt động tự
học về bản chất là hoạt động nhận thức độc lập và có nhiều hình thức cũng như
phạm vi rộng lớn như: tự học trên lớp với sự hướng dẫn trực tiếp của giảng viên,
tự học ngoài lớp với sự hướng dẫn gián tiếp của giảng viên hoặc tự học một cách
hoàn toàn độc lập.

ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning


7


T

1.2.
Vai trò
của
tự
học đối với quá trình học tập, nhận thức của sinh viên
Có thể nói, hoạt động tự học luôn giữ một vai trò rất quan trọng trong quá
trình học tập của người học. Tự học là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả
của hoạt động học tập của sinh viên, vì:
Thứ nhất, tự học có vai trò quan trọng giúp cho sinh viên có cái nhìn đúng
đắn về vị trí, vai trò của môn học trong việc tích lũy tri thức để phát triển con
người toàn diện, khả năng ứng xử linh hoạt, khả năng khái quát, hình thành kỹ
năng sống phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay. Tự học là cách thức
học tập nhằm khai thác triệt để quỹ thời gian nhàn rỗi trong sinh viên và là cơ
hội để sinh viên đào sâu suy nghĩ, nghiền ngẫm những kiến thức mà giảng viên
đã hướng dẫn, giảng giải trên lớp.
Thứ hai, tự học giúp sinh viên phát huy tính tự giác, tích cực và năng lực
đọc giáo trình, sách, văn kiện, tạp chí… để tìm tòi, nghiên cứu, biến “quá trình
đào tạo thành quá trình tự đào tạo” của sinh viên. Việc tự học giúp sinh viên có
nếp sống kỷ luật và làm việc một cách khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, tính
kiên nhẫn, óc phê phán, tạo sự hứng thú học tập, say mê và khát khao vươn tới
những đỉnh cao của khoa học, sống có lý tưởng, hoài bão, dám ước mơ.

Thứ ba, tự học giúp khơi dậy ở sinh viên năng lực tự thể hiện mình và hợp tác với
các thành viên khác trong tập thể khi cùng đảm nhận nhiệm vụ thuyết trình, thảo

luận do giảng viên phân công. Vì thông qua hành động hợp tác giữa các thành
viên trong nhóm, sinh viên phải nỗ lực tự thể hiện mình, tức là phải tự mình giải
quyết tình huống, giải quyết vấn đề; từ đó khơi dậy tính chủ động, sáng tạo, tự
giác học tập, nghiên cứu và lĩnh hội tri thức, khắc phục tính thụ động của sinh
viên trong quá trình học tập.
Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là hạ thấp vai trò của giảng viên vì
chính giảng viên là nhân tố có tác dụng to lớn trong việc động viên, khuyến
khích và hướng dẫn sinh viên tự học một cách đúng hướng và hiệu quả khi tiếp
cận nội dung cũng như phương pháp học tập của môn học.
2. Vai trò của giảng viên trong việc nâng cao năng lực tự học của sinh viên
trong giảng dạy.
Dạy học là một nghề sáng tạo vì người giảng viên không chỉ là người có
kiến thức chuyên môn vững vàng mà còn là người rất thuần thục, nhuần nhuyễn
về phương pháp và sử dụng phương pháp linh hoạt cho từng đối tượng dạy học
cụ thể. Vai trò của người giảng viên đối với việc nâng cao năng lực tự học của
sinh viên thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, giảng viên là nhân tố đóng vai trò chủ đạo trong việc xác định
cho sinh viên đối tượng, động cơ, mục đích học tập
ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

8


T

Một số
sinh viên
cho rằng, các học phần lý luận chính trị nói chung, học phần Những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin nói riêng là những môn học thuần túy chính
trị, không liên quan gì đến chuyên môn cũng như công việc sau này nên dẫn tới

động cơ học tập không cao, thái độ học tập chưa đúng đắn, học chỉ để thi cho
qua, học mang tính đối phó. Vì vậy, trong buổi lên lớp đầu tiên, giảng viên cần
xác định cho sinh viên những nội dung khái quát của môn học và trả lời cho
được những câu hỏi: Học cái gì? Học để làm gì? Và học như thế nào?... Giảng
viên cần phân tích, giúp cho sinh viên thấy được tầm quan trọng, tính thiết thực
của môn học để sinh viên có động cơ và mục đích học tập đúng đắn, từ đó tạo
niềm say mê, hứng thú học tập và hình thành nên mục đích tự học, tự tìm hiểu để
lĩnh hội tri thức của sinh viên.
Đối với học phần Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin,
trong buổi lên lớp đầu tiên, giảng viên cần giới thiệu cho sinh viên đề cương chi
tiết học phần của bộ môn, giới thiệu một cách khái quát nội dung của học phần
và phân tích cho sinh viên hiểu được vai trò của học phần là nhằm góp phần hình
thành, bồi dưỡng thế giới quan và phương pháp luận khoa học, xây dựng niềm
tin và lý tưởng cách mạng cho sinh viên, trang bị những kiến thức cơ bản về chủ
nghĩa Mác – Lênin là cơ sở giúp sinh viên tiếp cận với học phần tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và các môn khoa
học chuyên ngành; đồng thời định hướng cho sinh viên phương pháp học tập,
nghiên cứu học phần nhằm đạt kết quả tốt nhất.

Thứ hai, giảng viên là người hướng dẫn, phác thảo cho sinh viên xây dựng
phương pháp học tập phù hợp
Khi tiếp cận với các học phần lý luận chính trị nói chung, học phần Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin nói riêng, sinh viên cần phải có
khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa, hệ thống hóa thông qua việc hệ thống
các khái niệm, phạm trù, quy luật,… Điều này trái ngược với thực tiễn là đa
phần thời lượng giảng dạy các học phần này là năm thứ nhất và năm thứ hai
trong khóa đào tạo nên không tránh khỏi những khó khăn nhất định cho sinh
viên khi tiếp thu. Nhiều sinh viên không hiểu và không thể diễn đạt được các nội
dung cơ bản của môn học dẫn đến tình trạng tỏ ra chán học và kết quả học tập
không cao. Vì vậy, giảng viên sẽ là người hướng dẫn cho sinh viên phương pháp

tự học một cách khoa học ở các khâu: đọc hiểu giáo trình, tài liệu, cách phát hiện
vấn đề khi nghiên cứu, cách ghi chép lại chuỗi thông tin có liên quan đến vấn đề
cần giải quyết, cách tổng hợp thông tin thu thập được, cách đánh giá các sự kiện,
dữ liệu,… Đối với những nội dung yêu cầu sinh viên phải tự nghiên cứu (được
thể hiện trong đề cương chi tiết học phần của bộ môn), giảng viên cần giới thiệu
những tài liệu có liên quan đến nội dung nghiên cứu của sinh viên, mục đích
kiến thức cần đạt được qua mỗi phần nội dung, các tiêu chí và hình thức đánh
giá kết quả tự nghiên cứu, tìm tòi của sinh viên để giúp quá trình tự học của sinh
ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

9


T

viên
kết
tốt…
nhiên, trong quá trình hướng dẫn, giảng viên cần tránh làm
tưởng ỷ lại, dựa dẫm vào người khác.

đạt
quả
Tuy
cho sinh viên có tư

Cụ thể, để giúp sinh viên đọc, nghiên cứu sách, tài liệu một cách hiệu quả,
giảng viên cần hướng dẫn sinh viên thực hiện những bước sau:
- Một là, phải lựa chọn sách, tài liệu hợp lý. Khi giảng dạy, giảng viên cần
giới thiệu cho sinh viên những quyển sách, tài liệu liên quan đến nội dung học

phần. Tuy nhiên, bản thân sinh viên đôi khi không thể đọc hết tất cả những tài
liệu đó, do đó, sinh viên nên tìm đọc những quyển sách phù hợp với kiến thức
môn học, phù hợp với nội dung cần nghiên cứu nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Sinh viên trước khi tìm kiếm sách nên đặt cho mình câu hỏi: Đọc cái gì? Đọc để
làm gì? để từ đó định hướng cho việc khai thác kiến thức cũng như tìm được
những cuốn sách hay, phù hợp để phục vụ cho việc tự học nâng cao kiến thức. Ví
dụ, khi muốn nghiên cứu về phép biện chứng duy vật, sinh viên có thể lựa chọn
đọc, nghiên cứu giáo trình Triết học, giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tác phẩm kinh điển “Biện chứng của tự nhiên” của
Ph.Ăngghen,… do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành.
- Hai là, nắm vững các cách đọc sách khác nhau. Mỗi một loại sách, tài
liệu có cách đọc khác nhau, đòi hỏi sinh viên cần biết cách đọc sao cho bản thân
cảm thụ và hiểu rõ vấn đề của từng loại sách, tài liệu. Để đạt hiệu quả, sinh viên
có thể đọc theo cách sau:
+ Đọc lướt qua một lần nhằm hiểu khái quát nội dung sách hay tài liệu như
đọc trang đầu, xem mục lục, xem phần kết luận.

+ Đọc trọn cuốn sách hay tài liệu, từ đây, sinh viên có thể nhận xét, đánh giá nội
dung chi tiết, văn phong, kết cấu và tự mình rút ra những điều bổ ích cho việc
học tập của bản thân.
+ Đọc theo hướng trọng điểm, nghiền ngẫm kỹ những luận điểm quan
trọng, những phần có liên quan đến vấn đề nghiên cứu hoặc vận dụng những
điều được đọc vào giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
+ Bên cạnh đó, sinh viên cần chú ý đến tốc độ đọc, tức là phải học cách
đọc nhanh, đọc bằng mắt, vừa đọc vừa ghi nhớ.
Ba là, tích cực tư duy và ghi chép một các khoa học. Tư duy khi đọc sách
là một phần rất quan trọng giúp sinh viên có thể hình dung ý tưởng, đối chiếu, so
sánh các ý tưởng đó, từ đó phát hiện ra nội dung của cuốn sách hay tài liệu, rút
ra kết luận đúng đắn về những vấn đề được nêu trong sách. Bên cạnh đó, sinh
viên nên ghi lại những nội dung quan trọng, có ý nghĩa trong việc giải quyết mục

đích học tập hay nhu cầu cá nhân. Đọc và ghi chép luôn đi liền với nhau, tác
động bổ sung cho nhau trong quá trình tự học và hiệu quả của việc đọc sách
ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

10


T

được thể
hiện ở kết
quả ghi
chép khi đọc.
Thứ ba, giảng viên là chủ thể xây dựng các đề tài, chủ điểm và tổ chức tốt
việc thảo luận, tranh luận đối với từng nội dung của môn học
Có thể nói, hình thức thảo luận có vai trò rất quan trọng trong quá trình
dạy và học (chiếm 30% thời lượng trong học phần). Bởi vì hoạt động thảo luận
sẽ tạo cơ hội tối đa cho mọi thành viên trong nhóm được bộc lộ sự hiểu biết của
mình, tạo nên sự dạn dĩ cho các thành viên khi tham gia phát biểu, tranh luận.
Trong quá trình thảo luận, giảng viên có vai trò là người hỗ trợ, định hướng, hệ
thống hóa kiến thức và khái quát hóa các kết luận sau khi các nhóm đã thuyết
trình, thảo luận. Giảng viên không chỉ là người truyền thụ thông tin khoa học,
chuẩn xác mà quan trong hơn là dạy cho sinh viên phương pháp suy nghĩ, phát
triển khả năng tư duy khoa học, biết nêu vấn đề, nhận xét, đánh giá, phản biện và
từ đó đi đến khái quát hóa nội dung. Bên cạnh đó, việc mạnh dạn đưa ra những
quan điểm trái chiều của giảng viên sẽ kích thích cho sinh viên thảo luận và định
hướng cho sinh viên. Tuy nhiên, liều lượng kiến thức phải sát với thực tiễn, gắn
lý luận với thực tiễn, phải phù hợp với trình độ, phù hợp với chuyên ngành sinh
viên đang theo học. Quá trình phân công nhiệm vụ trong việc chuẩn bị các đề
tài, chủ điểm còn giúp cho sinh viên tạo dựng thói quen tổ chức, phân bổ công

việc và làm việc nhóm, tương tác trong tập thể một cách hiệu quả.
Trong giảng dạy học phần Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, ngay từ buổi đầu lên lớp, giảng viên có thể chia lớp thành những nhóm
học tập, mỗi nhóm từ 03 đến 05 sinh viên tùy theo sĩ số lớp (trong đó có một
nhóm trưởng), có thể chia nhóm theo vị trí chỗ ngồi hoặc theo danh sách lớp tùy
theo tình hình của lớp sao cho sinh viên làm việc nhóm đạt kết quả tốt nhất. Sau
đó, phân công mỗi nhóm phụ trách một nội dung trong chương trình học (vừa có
lý luận, vừa gắn với thực tiễn) đã chuẩn bị sẵn (đó là những nội dung trọng tâm
của chương và bám sát theo đề cương chi tiết học phần của bộ môn) theo hình

thức chỉ định hoặc bốc thăm ngẫu nhiên. Đến giờ thảo luận của nội dung nào thì
nhóm phụ trách nội dung đó sẽ lên thuyết trình, các nhóm còn lại giữ vai trò
phản biện. Sau đó, giảng viên nhận xét, đánh giá và kết luận vấn đề. Ví dụ, khi
giảng về nội dung dân chủ (chương VIII), có thể đưa ra câu hỏi thảo luận như
sau: Qua tìm hiểu về khái niệm dân chủ và những đặc trưng của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, anh (chị) hãy phân tích nhận định “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản”. Hãy cho biết xã hội ta hiện nay đã thật sự
dân chủ chưa? Anh (chị) hãy nêu một số quan điểm, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta thể hiện sự dân chủ. Liên hệ việc thực hiện dân chủ ở địa phương
mà anh (chị) đang sống và làm việc,…
Thứ tư, giảng viên tác động đến quá trình hình thành thói quen, kỹ năng
sưu tầm, tra cứu tài liệu và sử dụng các phương tiện học tập một cách hiệu quả
của sinh viên
ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

11


T



hội hiện
đại đang
khiến phần lớn sinh viên rời xa việc đọc sách và chỉ chú ý đến phương tiện nghe
nhìn khác. Vì vậy, vai trò của giảng viên thể hiện ở chỗ chỉ ra được việc đọc
sách là phương pháp tự học rẻ tiền và hiệu quả nhất. Việc rèn luyện thói quen
đọc sách là một công việc không thể tách rời trong quá trình tự học. Bên cạnh
giáo trình, giảng viên có thể hướng dẫn cho sinh viên đọc thêm tài liệu ở thư
viện, nhà sách, truy cập thông tin trên mạng internet và các phương tiện khác
làm phong phú, đa dạng nguồn dữ liệu. Dạy cho sinh viên cách thức tổ chức,
điều khiển hoạt động tự nhận thức và hình thành cho sinh viên nhu cầu thường
xuyên tự học tập, tìm tòi kiến thức, trang bị cho sinh viên năng lực tổ chức lao
động trí óc một cách hợp lý, làm cho sinh viên định hướng được kiến thức bài
học và tự khai thác tri thức.
Trong buổi đầu tiên lên lớp, giảng viên có thể yêu cầu mỗi sinh viên có
một chiếc USB để chứa đựng những thông tin đã đọc, tổng hợp, sưu tầm tư liệu
được để trình bày, báo cáo trước lớp. Cuối mỗi buổi lên lớp, giảng viên có thể
yêu cầu sinh viên sưu tầm tài liệu, tư liệu liên quan đến nội dung buổi học sau
(chủ yếu những tư liệu nhằm minh họa, làm rõ hơn nội dung bài học) để buổi
học sau báo cáo trước lớp phần chuẩn bị của mình. Thiết nghĩ, việc làm này sẽ
khuyến khích được tính tự học, tự tìm tòi nghiên cứu và rèn luyện kỹ năng sưu
tầm, tra cứu tài liệu hiệu quả cho sinh viên.
Thứ năm, giảng viên có tác động đến quá trình lập kế hoạch học tập của
sinh viên
Để tạo cho sinh viên lập kế hoạch học tập một cách khoa học, ngay từ buổi
lên lớp đầu tiên lên lớp, giảng viên cần cung cấp cho sinh viên đề cương chi tiết
học phần, giới thiệu giáo trình, tài liệu tham khảo, hình thức điểm danh, số
lượng bài kiểm tra, hình thức thảo luận trên lớp, cách tính điểm chuyên cần,
điểm kiểm tra thường xuyên, điểm thi giữa học phần, hình thức thi kết thúc học
phần, hướng dẫn sinh viên tự học ở nhà… Từ đó giúp sinh viên có thể khái quát

và hình thành nên kế hoạch học tập phù hợp. Vai trò của giảng viên thể hiện ở
việc quán triệt cho sinh viên hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng dựa trên
những mục tiêu cụ thể và hoàn toàn có thể phấn đấu thực hiện được. Trong đó,

cần xác định nội dung nào nên giải quyết trước và vấn đề nào nên giải quyết sau.
Làm như thế sẽ giúp cho sinh viên góp nhặt được những tri thức, tích lũy kết quả
học tập một cách bền vững và hiệu quả.
Tuy nhiên, việc tự học của sinh viên chỉ có kết quả tốt khi có sự theo dõi,
kiểm tra và đánh giá thường xuyên của giảng viên, bởi vì chỉ thông qua kiểm tra,
đánh giá mới giúp sinh viên biết rõ ưu, khuyết điểm của mình để có thể điều
chỉnh hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả học tập.
Để kiểm tra, đánh giá quá trình tự học của sinh viên, giảng viên có thể
thực hiện những việc sau:
ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

12


T

Mộ
t là, đánh
giá một
cách thường xuyên trong suốt quá trình học tập. Sau mỗi buổi học, giảng viên có
thể yêu cầu sinh viên chuẩn bị nội dung tự học, tự nghiên cứu ở nhà. Việc kiểm
tra, đánh giá quá trình tự học của sinh viên nên được kiểm tra đều đặn vào mỗi
buổi lên lớp.
- Với việc chuẩn bị nội dung bài mới:
+ Đối với việc chuẩn bị những nội dung câu hỏi trong đề cương chi tiết
học phần, giảng viên có thể giao công việc kiểm tra hàng ngày cho lớp phó học

tập phụ trách. Nhóm trưởng của mỗi nhóm có nhiệm vụ báo cáo với lớp phó về
công việc chuẩn bị bài mới và chịu trách nhiệm với báo cáo của mình. Lớp phó
có nhiệm vụ kiểm tra tính chính xác báo cáo của các nhóm, sau đó tổng kết và
báo cáo cho giảng viên. Vào mỗi buổi học, giảng viên nên dành một lượng thời
gian nhất định (khoảng 3 - 5 phút) để kiểm tra công việc này, có thể kiểm tra một
vài nhóm ngẫu nhiên hoặc cả lớp tùy tình hình cụ thể. Kết quả tự học này được
đánh giá vào cột điểm thường xuyên.
+ Đối với việc sưu tầm tài liệu, tư liệu phục vụ cho nội dung bài mới: Khi
giảng đến nội dung có yêu cầu sinh viên sưu tầm tư liệu ở nhà, giảng viên có thể
yêu cầu sinh viên trình bày phần chuẩn bị của mình trước lớp (với hình thức
xung phong hoặc chỉ định) và nhận xét, cho điểm. Nếu sinh viên chuẩn bị bài
tốt, giảng viên ghi nhận và cộng vào điểm quá trình, ngược lại, sẽ trừ điểm đối
với những sinh viên không chuẩn bị bài hoặc chuẩn bị bài chưa tốt tùy theo mức
độ.
- Với việc chuẩn bị nội dung bài cũ: Nhằm giúp cho sinh viên nhớ lại kiến
thức cũ làm cơ sở tiếp cận tri thức mới cũng như để tích lũy dần kiến thức,
chuẩn bị cho kỳ thi kết thúc học phần đạt kết quả tốt, giảng viên có thể kiểm tra
việc chuẩn bị bài cũ của sinh viên (kiểm tra ngẫu nhiên và có lưu ý đối với
những sinh viên lười học) vào đầu giờ của mỗi buổi lên lớp (khoảng 10 – 15
phút). Như vậy, bằng hình thức này, mỗi sinh viên có thể có nhiều cột điểm. Sau
đó, lấy trung bình cộng của những lần kiểm tra thành một cột điểm kiểm tra
thường xuyên.
Hai là, đa dạng hóa các hình thức đánh giá nhằm đảm bảo tính hiệu quả,
hiện thực. Trong quá trình kiểm tra thường xuyên, giảng viên có thể thường
kiểm tra bằng nhiều hình thức khác nhau: trắc nghiệm, trả lời ngắn, tự luận, vấn

đáp, báo cáo nhóm,… thậm chí trong các bài báo cáo nhóm, giảng viên cho sinh
viên chất vấn trực tiếp để được tính điểm tích lũy. Với sự đa dạng về hình thức
đánh giá như vậy sẽ kích thích sinh viên nâng cao năng lực tự học bằng việc chủ
động thay đổi thái độ học tập từ buộc phải học sang muốn được học, muốn được

khẳng định bản thân.

ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

13


T

Ba
là, không
chỉ đánh
giá về kiến thức mà còn đánh giá về năng lực tự học, khả năng tư duy sáng tạo,
giải quyết vấn đề và ứng dụng kiến thức vào thực tiễn. Trong quá trình lên lớp,
giảng viên không chỉ thuần túy trao đổi với sinh viên những kiến thức trong giáo
trình mà ở mỗi chương, mỗi nội dung bài học, giảng viên nên có những câu hỏi
gợi mở, liên hệ với thực tiễn, đưa ra những bài tập tình huống nhằm giúp sinh
viên làm quen với việc phân tích và giải quyết vấn đề, vận dụng thực tiễn,…
Những sinh viên có cách giải quyết vấn đề tốt nhất sẽ được cộng vào điểm quá
trình.
Sau gần hai năm thực hiện chủ trương của Khoa Lý luận chính trị về
hướng dẫn sinh viên tự học và đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá nhằm
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường, tôi nhận thấy việc thực
hiện chủ trương này đối với học phần Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin trong những lớp phụ trách như sau: Lúc đầu, sinh viên chưa quen
với cách học theo học chế tín chỉ, còn thụ động, thiếu tích cực trong học tập.
Nhưng với những yêu cầu đặt ra cho việc tự học, tự nghiên cứu cùng với sự
kiểm tra, đánh giá một cách thường xuyên, chặt chẽ của giảng viên đã làm cho
phần lớn sinh viên có sự chuyển biến trong quá trình học tập, có ý thức, chủ
động hơn trong việc chiếm lĩnh tri thức. Tuy vẫn còn một số sinh viên vẫn chưa

quen với cách học theo học chế tín chỉ, vẫn còn thụ động trong việc tiếp nhận tri
thức mới nhưng tôi tin rằng cùng với sự nhiệt tình, tâm huyết của giảng viên
luôn nỗ lực trau dồi chuyên môn và tìm tòi phương pháp giảng dạy tích cực
nhằm kích thích tính tự giác, chủ động trong học tập, nghiên cứu của sinh viên
thì chất lượng đào tạo của trường ta sẽ được nâng lên trong thời gian không xa.
III. KẾT LUẬN
Trong quá trình hình thành và nâng cao chất lượng tự học cho sinh viên,
ngoài sự cố gắng đầy ý chí, nghị lực của chính sinh viên còn có một nhân tố
quan trọng từ sự tận tâm, nhiệt huyết và chu toàn trong vai trò hướng dẫn của
người giảng viên. Mỗi giảng viên cần xác định cho sinh viên động cơ học tập
đúng đắn, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, xem tự học như là một tiêu
chí hàng đầu trong quá trình đào tạo để hình thành phương pháp tự học, tạo nền
tảng cho năng lực tự học cho sinh viên. Dạy học trên giảng đường không phải là
cung cấp một khối lượng kiến thức hàn lâm kinh điển mà dạy cho người học
phương pháp tiếp cận thông tin, phương pháp tư duy, xử lý thông tin để họ có
thể tiếp tục học, nghiên cứu sau khi ra trường.

NHỮNG KỸ NĂNG VÀ PHƯƠNG PHÁP CẦN CÓ ĐỂ HỌC ĐẠI HỌC E –
LEARNING .

ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

14


T

Khối
lượng kiến
thức giảng

dạy ở bậc ĐH là vô cùng lớn, phương pháp giảng dạy và môi trường học tập
cũng khác xa bậc học phổ thông. Vì vậy, các bạn sinh viên (SV) cần có được
phương pháp học tập thích hợp để có thể tiếp thu hết khối kiến thức đồ sộ đó.
Bước vào ĐH, không ít các bạn tân SV bỡ ngỡ vì cách học, cách dạy mới. Do
SV được coi là những con người đã trưởng thành, việc học và dạy ở ĐH nhấn
mạnh đến sự tự giác và tự chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mỗi cá
nhân, vì vậy, cách học ở ĐH nói chung và học Đại học E-learning luôn xoay
quanh vấn đề: làm sao để tự nỗ lực mà đạt kết quả học tập cao nhất. Để giải
quyết vấn đề nêu trên điều đầu tiên chúng ta phải thực hiện tốt hình thức “Tự
học”.
Muốn tự học tốt chúng ta cần cần vượt qua những khó khăn và cần có những kỹ
năng tự học sau:
* Một là, Nắm vững mục tiêu học tập của từng bài; xây dựng kế hoạch tự học
khoa học; biết khai thác các nguồn thông tin trong quá trình tự học:
- Để tự học có hiệu quả, điều đầu tiên bạn phải nắm vững mục tiêu học tập vì:
mục tiêu chính là động lực thúc đẩy chúng ta đến thành công.
+ Khi không có mục tiêu, chúng ta không biết tập trung vào việc gì và có khuynh
hướng làm những việc mà chúng ta quan tâm vào thời điểm đó. Chúng ta di
chuyển khắp mọi hướng để rồi quay về lại đúng chỗ cũ thay vì tiến lên theo một
hướng nhất định. Nói khác hơn chúng ta hành động theo đám đông, bạn bè. Vậy ta
xác định mục tiêu như thế nào? Cần xác định những mục tiêu to lớn, hấp dẫn. Đó
là những mục tiêu vượt xa ngoài khả năng hiện tại của chúng ta và điều quan
trọng nhất là ý nghĩ đạt được những mục tiêu ấy thật sự làm chúng ta cảm thấy hết
sức hạnh phúc, phấn khởi. Chính cảm giác vui sướng đặc biệt này thúc đẩy ta thức
đêm thức hôm học hành chăm chỉ. Tạo ra quyết tâm, động lực để hành động kiên
trì.
+ Nắm mục tiêu môn học sẽ chỉ ra sự thay đổi về kiến thức, kỹ năng và thái độ mà
chúng ta cần đạt được sau khi hoàn thành từng bài hoặc cả môn học. Nắm vững
mục tiêu sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hướng và cách học tập. Khi nắm rõ được mục
tiêu chúng ta sẽ: tập trung vào phần quan trọng trong nội dung bài học; hưng phấn

hơn vì có phương hướng rõ ràng; biết được cái gì cần học trước, cái gì cần ưu tiên,
phân bổ được thời gian hợp lý cho các nội dung; cảm nhận được sự đánh giá công
bằng của giảng viên.
- Để học tập tốt bạn phải nắm chắc kế hoạch học tập của lớp đồng thời xây dựng
kế hoạch học tập cụ thể phù hợp với điều kiện của bản thân. Với phương châm
“Mọi lúc mọi nơi”, E-Learning cho chúng ta sự thuận tiện để lựa chọn thời gian
học tập. Tuy nhiên, dù sự lựa chọn tự do đến đâu, chúng ta cũng cần bám sát kế
hoạch học tập của lớp. Kế hoạch tự học luôn được xác định rõ ràng và sát với kế
hoạch học tạp của lớp như:
+ Nội dung kiến thức tự học cần tiếp thu theo từng tuần;
+ Các mốc thời gian công việc tự học;
+ Các nguồn thông tin trong quá trình tự học.

ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

15


T

* Hai là,
Có kỹ năng tự học khoa
học:
Kỹ năng tự học giúp con người thành công trong mọi việc Ta không thể chỉ bằng
lòng với cách học thuộc các công thức, quy luật, nguyên lý nêu trong tài liệu, mà
phải tự tìm hiểu sâu thêm về những điều đã học. Phải tập luyện kết hợp ba khả
năng: nghe, xem và ghi. Trí nhớ âm thanh sẽ được kết hợp với trí nhớ hình ảnh, ấn
tượng của kiến thức dễ ăn sâu vào trong vỏ não. Thoạt đầu, thì hai loại trí nhớ này
hoạt động tách rời, chú ý nghe thì quên ghi hay trái lại. Nhưng chỉ sau một thời
gian chú tâm tập luyện, ai cũng có thể kết hợp các khả năng này. Tính cẩn thận, tỉ

mỉ, chính xác và khả năng tập trung chú ý phải được rèn luyện mới có chứ không
do bẩm sinh tự nhiên mà được. Ngoài ra, rèn luyện sự chú tâm học cả những môn
không thích, ta sẽ đồng thời rèn luyện được nghi lực, chủ động tập trung khi cần
thiết. Đây là khả năng quý giá giúp con người thành công không chỉ trong học tập
mà còn trong tất cả mọi việc. Để tự học có hiệu quả chúng ta cần có kỹ năng và
phương pháp tự học khoa học. Nếu tự học mà không có khoa học thì năng suất
học tập thấp, kiến thức tiếp thu không vững chắc và khó ứng dụng kiến thức trong
thực tế. Muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả tự học, phải có kỹ năng và phương
pháp trong tất cả các khâu trong quá trình tự học như:
- Kỹ năng tìm kiếm - sử dụng tài liệu: Tài liệu, sách vở ở bậc ĐH cũng đồ sộ như
khối lượng kiến thức cần tiếp thu. Thông thường, ở buổi học mở đầu của môn
học, thầy cô sẽ giới thiệu các quyển sách cần dùng cho học phần, các quyển sách
có thể tham khảo thêm. Bạn không cần mua tất cả những quyển sách này, nhưng
nên họp nhóm và chia nhau mua đầy đủ các sách mà thầy cô nêu ra. Có thể, bạn
không dùng hết kiến thức của sách, nhưng sẽ cần một vài điều, một vài công thức
mà sách giáo trình không có. Không phải tài liệu đó không hay, mà có thể kiến
thức viết trong tài liệu đó không phù hợp hay quá cao với chương trình mà môn
học.
- Kỹ năng đọc sách: Đọc sách là kỹ năng không thể thiếu bởi học đại học sẽ phải
học rất nhiều. Theo đó, đầu tiên các bạn phải chọn một khối lượng vừa đủ để bắt
đầu, cố gắng nắm được cách bố trí, hệ thống của tư liệu, nếu có phần tóm lượt của
tư liệu thì cần phải đọc ngay nó. Sau đó, đọc những gì bạn hiểu rõ nhất để xác
định độ khó, chừa lại những gì không hiểu. Đừng nản chí nếu không hiểu. Bạn
nên dùng bút đánh dấu những chỗ quan trọng hay chưa hiểu để có thể xem lại.
Trong khi đọc, thỉnh thoảng dừng đọc và đặt những câu hỏi kích thích và tự tìm
câu trả lời.
- Kỹ năng tiếp thu bài giảng ở học liệu đa phương tiện: Hiện nay, nhiều bạn tiếp
thu bài giảng một cách không khoa học còn phổ biến. Người tiếp thu bài giảng,
hoặc cặm cụi ghi chép mà không hiểu người giảng nói gì, hoặc suy nghĩ mung
lung về bài giảng, hoặc nghĩ đến việc khác. Kết quả là sau đó, đầu óc người nghe

không có ý niệm rõ ràng hoặc có một mớ hỗn độn các ý niệm, hoặc không có ý
niệm gì trong đầu. Đây quả là sự lãng phí lớn về thời gian và sức lực của cả người
giảng lẫn người nghe. Học hiệu quả là thu nhận được nhiều kiến thức nhất, mau
chóng nắm được các vấn đề một cách trực tiếp nhất, chính xác nhất, tiết kiệm thời
gian nhất. Để có thể nắm được các tri thức hiệu quả nhất không chỉ là hình thức có
mặt đầy đủ trong các buổi học mà nên nhìn vào thực chất vấn đề, đó là: Hiệu quả
của sự ý thức chăm chú lắng nghe: Giúp bạn rút ngắn thời gian ôn tập sau này;
Làm bài tập nhanh chóng và dễ dàng hơn; Không ngỡ ngàng khi đọc lại các đề

ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

16


T

cương học tập; Nắm được trọng tâm, trọng điểm bài học; Tự tin và hứng thú khi
đi học. Những điều lưu ý khi nghe giảng bài; Không được bỏ qua hoặc xem nhẹ
thời gian đầu của tiết học; Tập trung theo dõi bài giảng, nói chung chưa nên nghĩ
đến việc sẽ làm gì vì điều đó sẽ phá vỡ logic của quá trình nghe giảng; Tập trung
nghe, hiểu vấn đề rồi ghi chép theo ý hiểu của mình. Chú ý ghi dàn bài để nhìn
được khái quát cấu trúc chung của bài giảng, chú ý tới trọng tâm, mấu chốt của
vấn đề; Tập trung vào những nội dung chính, những điểm quan trọng nhất mà
giảng viên thường nhấn mạnh qua ngữ điệu, qua việc nhắc lại nhiều lần; Chú ý
đến các bảng tóm tắt, các sơ đồ và các tài liệu trực quan khác mà giảng viên đã
giới thiệu, vì đây là lúc người thầy hệ thống hóa, so sánh, phân tích... để nắm
được trình tự tiến dần đi đến kết luận và rút ra cái mới; Khi gặp chỗ khó, không
hiểu hãy tạm thời gác lại và sẽ cố gắng tìm hiểu những điều đó sau để quá trình
nghe giảng không bị gián đoạn; Khi bài giảng dừng lại, có thể nêu câu hỏi để đào
sâu kiến thức, liên hệ thực tiễn và làm rõ những chỗ chưa hiểu; Nên dành vài phút

để đọc lướt qua một lượt tài liệu sẽ học trước khi nghe giảng. Biết được những
vấn đề khó để nhắc mình chăm chú hơn khi nghe giảng.
- Kỹ năng ghi nhớ: Để có một trí nhớ tốt hãy chọn cho mình một thói quen như
khi đến trường kiểm tra sách vở; nên ghi danh sách các việc cần làm vào một tờ
giấy nhỏ và thỉnh thoảng kiểm tra xem tiếp theo mình cần phải làm gì. Chỉ ghi
chép những gì mà chúng ta chưa biết, những điều quan trọng mà sách không có.
Ngoài ra, ghi nhớ qua các chi tiết quan trọng, các key words, các hình ảnh minh
họa.
- Kỹ năng giải tỏa stress: Bằng cách nghỉ ngơi, thư giãn, tạo cho mình một khoảng
thời gian ngắn mỗi ngày hoặc vận động như đi bộ, tập thể dục, trò chuyện cùng
bạn bè. Sau khi đã cảm thấy thoải mái hơn hãy bắt đầu giải quyết vấn đề, xem
xung quanh bạn có việc gì mà bạn có thể thay đổi để xoay chuyển tình hình. Đừng
để tâm vào những việc lặt vặt.
* Ba là, Để tự học có hiệu quả chúng ta cần tìm một chỗ yên tĩnh, tránh tiếng ồn.
Bạn nên chọn một thời gian học cố định và tạo cho mình thói quen học thời gian
đó. Ngoài ra, cần có lịch học thật hợp lý, kết hợp giữa học tập và giải trí như có
thể một bản nhạc nhẹ nhàng, hoặc một bài tập thể dục. Nếu bạn học phải phần khó
hiểu thì để lại, học những phần khác dễ hiểu hơn, sau khi thư giãn, thoải mái thì
học tiếp

ICTONE141_01_Bai tập Internet E-Learning

17



×