Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

QUAN HỆ THƯƠNG MẠI MỸ TRUNG VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.22 KB, 14 trang )

QUAN HỆ THƯƠNG MẠI MỸ - TRUNG VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆT NAM

Mỹ và Trung Quốc là hai nền kinh tế hàng đầu thế giới chi phối thương mại
toàn cầu đồng thời cũng là hai đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt
Nam. Vì vậy, quan hệ thương mại Mỹ - Trung tác động rất mạnh đến thương
mại nói riêng, đến kinh tế của Việt Nam nói chung. Bài viết này tập trung phân
tích những tác động chủ yếu của quan hệ thương mại Mỹ - Trung đến Việt Nam
dựa trên nguồn số liệu của WTO (tính đến cuối năm 2017), TCTK và TCHQ
Việt Nam tính đến cuối năm 2017, cập nhật 9 tháng 2018 và dự báo đến 2021.
ĐẶC ĐIỂM QUAN HỆ THƯƠNG MẠI MỸ - TRUNG
Quan hệ giữa hai đối tác khổng lồ trên thị trường quốc tế
Theo số liệu của WTO năm 2017, Mỹ có qui mô GDP đứng đầu thế giới với
gần 19,39 ngàn tỷ USD trong khi Trung Quốc đứng thứ 2 với hơn 12 ngàn tỷ đều cao hơn nhiều lần so với nền kinh tế ở vị trí thứ 3 là Nhật Bản chỉ có hơn
4,87 ngàn tỷ USD cũng như so với quốc gia nòng cốt của EU là Đức với GDP
hơn 3,68 ngàn tỷ USD (EU có tổng GDP hơn 17,3 ngàn tỷ USD). Tuy nhiên,
GDP bình quân đầu người của Trung Quốc thấp xa so với các cường quốc kinh
tế thương mại thế giới khi giai đoạn 2015-2017 chỉ đạt 8.309 USD, tương
đương 1/7 của Mỹ, gần 2/9 của Nhật Bản, gần ¼ của EU và hơn 2/11 của Đức.
Rõ ràng mặc dù Trung Quốc đã và đang khẳng định vị thế cường quốc kinh tế
thế giới song xét về trình độ và mức độ phát triển thì vẫn còn khoảng cách rất
xa so với nhóm các cường quốc còn lại như Mỹ, Nhật Bản và Đức. Hơn nữa,
nếu so sánh về thương mại dịch vụ thì Trung Quốc chỉ đứng thứ 5 về xuất khẩu
nhưng lại đứng thứ 2 về nhập khẩu còn Mỹ dẫn đầu thế giới cả về xuất khẩu lẫn
nhập khẩu dịch vụ trong khi vị trí số 3 thuộc về Đức.
Do lấy phát triển thương mại làm trụ cột cho tăng trưởng kinh tế nên Trung
Quốc đã nhanh chóng trở thành cường quốc thương mại toàn cầu với vị trí nhà
xuất khẩu hàng hoá số 1 và nhà nhập khẩu hàng hoá số 2 trong khi Mỹ lại chính
là nhà xuất khẩu số 2 và nhà nhập khẩu số 1 còn Đức chiếm vị trí số 3 thế giới
cả về xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Số liệu năm 2017 của WTO cho thấy
Trung Quốc chiếm 12,77% kim ngạch xuất khẩu và 10,22% kim ngạch nhập
1




khẩu toàn cầu trong khi các con số tương ứng của Mỹ là 8,72% và 13,37% và
cả 2 quốc gia đều vượt xa so với tỷ trọng của các cường quốc thương mại còn
lại như Đức (lần lượt là 8,17% và 6,47%) hay Nhật Bản (lần lượt là 3,94% và
3,73%).
Nền kinh tế phụ thuộc vào thương mại ở mức độ khác nhau
Tuy đều là cường quốc hàng đầu thế giới về kinh tế và thương mại song mức độ
phụ thuộc của kinh tế Trung Quốc và Mỹ vào thương mại lại hoàn toàn khác
nhau nên có ảnh hưởng mạnh mẽ đến chính sách thương mại của mỗi quốc gia
với tính nhạy cảm cao hơn hẳn của Trung Quốc so với Mỹ. Đến lượt mình,
chính sách thương mại và mối quan hệ thương mại Trung - Mỹ có ảnh hưởng
lớn và ngay lập tức đến thương mại toàn cầu. Kể từ khi cải cách kinh tế năm
1978, Trung Quốc nhất quán quan điểm thúc đẩy xuất khẩu còn Mỹ vẫn duy trì
chủ trương tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào nhu cầu trong nước. Theo đó
trong giai đoạn 2015-2017, thương mại của Mỹ chỉ chiếm 13,4%GDP trong khi
tỷ lệ này của Trung Quốc là 19,1%GDP còn của Nhật Bản là 17,1%GDP - đều
cao hơn so với Mỹ nhưng vẫn thấp xa so với Đức (thương mại của Đức tương
đương 42,7%GDP. Suốt giai đoạn 2010-2017, tốc độ tăng trưởng thương mại
hàng hoá của Mỹ chỉ đạt 3%/năm trong khi tăng trưởng xuất khẩu của Trung
Quốc giai đoạn này lên tới 5%/năm còn tăng trưởng nhập khẩu là 4%. Cũng
trong bối cảnh đó, Nhật Bản và Đức đều ở chiều ngược lại khi xuất khẩu của
Nhật Bản giảm tới 1% và nhập khẩu không thay đổi còn xuất khẩu của Đức chỉ
tăng 2% và nhập khẩu tăng 1%. Trong điều kiện thương mại toàn cầu gặp khó
khăn những năm 2015-2016 thì ngay lập tức xuất khẩu của Trung Quốc suy
giảm liên tiếp 3% (2015) và tới 8% (2016) trước khi tăng mạnh 8% năm 2017
cũng như xuất khẩu của Mỹ cũng sụt giảm tới 7% (2015) và 3% (2016). Tương
tự như xuất khẩu, Trung Quốc cũng giảm mạnh nhập khẩu tới 14% (2015) và
5% (2016) nhưng Mỹ lại chỉ giảm nhập khẩu 4% (2015) và 3% (2016) trước
khi tăng tới 7% năm 2017. Bức tranh suy thoái thương mại thế giới 2015-2016

đối với Trung Quốc và Mỹ còn rõ nét hơn khi xuất khẩu của Nhật Bản năm
2016 tăng trở lại 3% sau khi sụt giảm tới 9% năm 2015 trước khi tiếp tục tăng
7% năm 2017 còn nhập khẩu của Nhật Bản giảm sâu tới 20% năm 2015 trước
khi tiếp tục giảm 6% năm 2016 rồi lại tăng tới 11% năm 2017 hay xuất khẩu
2


của Đức cũng tăng nhẹ 1% năm 2016 sau khi giảm tới 11% năm 2015 rồi lại
tăng 9% năm 2017 còn nhập khẩu của Đức năm 2016 chấm dứt suy giảm sau
khi đã tụt mạnh tới 13% năm 2015 trước khi tăng vọt 11% năm 2017.
Mất cân bằng thương mại theo chiều đối nghịch
Cả Mỹ và Trung Quốc đều có nền thương mại mất cân bằng lớn giữa xuất khẩu
và nhập khẩu với cán cân thương mại cả hàng hoá và dịch vụ ngược chiều nhau
rõ rệt. Cán cân thương mại hàng hoá của Mỹ luôn ở trong tình trạng thâm hụt
nặng nề và lên tới xấp xỉ 800 tỷ USD năm 2016 và hơn 860 tỷ USD năm 2017,
ngược lại Trung Quốc thường xuyên thặng dư cán cân thương mại hàng hoá ở
mức kỷ lục và lên tới gần 511 tỷ USD vào năm 2016 và hơn 420 tỷ USD năm
2017, trong đó phần quan trọng nhất trong thâm hụt thương mại hàng hoá của
Mỹ là với Trung Quốc còn phần thặng dư thương mại lớn nhất của Trung Quốc
cũng chính là từ thương mại với Mỹ (khoảng 350 tỷ USD năm 2017). Nhật Bản
và Đức cũng đều xuất siêu song qui mô xuất siêu của Nhật Bản năm 2016 chỉ
có 38 tỷ USD và 26 tỷ USD năm 2017 còn của Đức là 285 tỷ USD năm 2016
và 281 tỷ USD năm 2017 (cả EU xuất siêu 43,5 tỷ USD năm 2016 và chỉ có 25
tỷ USD năm 2017).
Ngược lại, Mỹ có thặng dư cán cân thương mại dịch vụ tới 250 tỷ USD năm
2016 và 245 tỷ USD năm 2017 với tốc độ tăng xuất và nhập khẩu dịch vụ tới
5% trong giai đoạn 2010-2017 còn Trung Quốc lại thâm hụt cán cân thương
mại dịch vụ tới trên dưới 240 tỷ USD năm 2016-2017 do năm 2016 xuất khẩu
dịch vụ giảm 4% và nhập khẩu dịch vụ lại tăng 4% so với năm trước và năm
2017 lại tăng tương ứng 9% và 3%. Cũng năm 2016, tỷ trọng của Mỹ trong

xuất khẩu dịch vụ thế giới là 15,24% còn của Trung Quốc chỉ là 4,31% với tỷ
trọng trong nhập khẩu dịch vụ thế giới tương ứng là 10,27% và 9,58%. Sang
năm 2017, tỷ trọng của Mỹ trong xuất khẩu dịch vụ thế giới là 14,43% còn của
Trung Quốc vẫn chỉ là 4,29% với tỷ trọng trong nhập khẩu dịch vụ thế giới
tương ứng là 10,17% và 9,15%. Mặc dù vậy, cán cân thương mại tổng thể của
Mỹ vẫn thâm hụt nặng nề dẫn đến tài khoản vãng lai thâm hụt tới 2,6%GDP
năm 2016 và 2,4%GDP năm 2017 trong khi Trung Quốc lại thặng dư 1,8%GDP
năm 2016 và 1,4% năm 2017. Tuy thặng dư tài khoản vãng lai năm 2016 của
Nhật Bản là 3,9%GDP và của Đức tới 8,5%GDP (năm 2017 lần lượt là 4% và
3


8%) song do qui mô GDP nhỏ hơn nhiều so với Trung Quốc nên khối lượng
xuất siêu quá lớn của Trung Quốc trở thành trọng tâm trong các chỉ trích và
trừng phạt của Mỹ liên quan đến mất cân bằng thương mại. Kết quả liên tục
thặng dư cán cân thanh toán đã biến Trung Quốc trở thành quốc gia có dự trữ
ngoại hối lớn nhất thế giới tới hàng ngàn tỷ USD và đóng vai chủ nợ lớn mua
trái phiếu Chính phủ Mỹ trong khi Mỹ lại đóng vai trò con nợ lớn nhất thế giới
với nợ Chính phủ lên tới trên 10 ngàn tỷ USD. Theo đó, xung đột thương mại
Trung - Mỹ đã và đang dẫn đến xung đột tài chính tiền tệ, biến tỷ giá hối đoái
giữa NDT với USD cũng như đầu tư của Trung Quốc vào Mỹ thành con tin.
Hơn nữa, mô hình kinh tế dựa vào xuất khẩu của Trung Quốc đối lập với mô
hình kinh tế tiêu dùng kể cả phải nhập khẩu của Mỹ càng khiến cho quan hệ
thương mại Trung - Mỹ thêm gay gắt, nhất là khi chính quyền Mỹ quan tâm
hơn đến bảo vệ sản xuất và việc làm trong nước với khẩu hiệu “Nước Mỹ trên
hết” như dưới thời Tổng thống Donald Trump.
Chính mối quan hệ thương mại mất cân bằng là cội nguồn của các tranh chấp
thương mại trong và ngoài khuôn khổ WTO giữa Mỹ với các nước xuất siêu
sang Mỹ, đặc biệt là với Trung Quốc và Đức, thậm chí leo thang thành chiến
tranh thương mại, ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại và kinh tế thế giới.

Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu mất cân đối
Trong khi Mỹ theo đuổi mô hình nhập khẩu chủ yếu để phục vụ sản xuất và tiêu
dùng trong nước thì Trung Quốc lại nhập khẩu chủ yếu để phục vụ sản xuất
hàng xuất khẩu với mục đích biến Trung Quốc thành “công xưởng của thế giới”
và hàng hoá Trung Quốc thực tế đã tràn ngập mọi ngóc ngách của thế giới, từ
thị trường phát triển như Mỹ, Nhật Bản, EU,... đến thị trường chậm phát triển
như châu Phi hay Nam Á. Số liệu năm 2016 của WTO cho thấy, Mỹ duy trì sự
cân đối trong cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu với tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm
công nghiệp chế biến chế tạo chiếm 74,9%, sản phẩm nông nghiệp chiếm
11,1%, sản phẩm năng lượng và khoáng sản chiếm 8,7% còn tỷ trọng nhập
khẩu tương ứng lần lượt là 79%, 7,1% và 9,2%. Ngược lại, sự mất cân đối thể
hiện rất rõ trong cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá của Trung Quốc khi xuất khẩu
sản phẩm công nghiệp chế biến chế tạo chiếm tới 93,7% tổng kim ngạch xuất
khẩu trong khi nhập khẩu chỉ chiếm 64,9% tổng kim ngạch nhập khẩu. Các con
4


số tương ứng xuất nhập khẩu nông sản của Trung Quốc là 3,6% và 9,8% còn
xuất nhập khẩu năng lượng và khoáng sản là 2,4% và 20,5%. Theo đó, xung đột
thương mại Mỹ - Trung nóng bỏng nhất chính là thị trường xuất khẩu nông sản
của Mỹ vào Trung Quốc và thị trường xuất khẩu sản phẩm chế biến chế tạo của
Trung Quốc vào Mỹ, kể cả sản phẩm thép và nhôm đang trở thành đối tượng
đánh thuế tới 25% (đối với thép) và 10% (đối với nhôm) trong chính sách
thương mại của Mỹ giữa năm 2018.
Sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu hàng đầu của Mỹ là đậu tương (xuất khẩu tới
22,9 tỷ USD năm 2016 và 21,7 tỷ USD năm 2017), ngô (xuất khẩu hơn 10,3 tỷ
USD năm 2016 và 9,6 tỷ USD năm 2017), lạc nhân và các loại hạt khác (năm
2016 xuất khẩu gần 7,4 tỷ USD và 7,9 tỷ USD năm 2017) còn nhập khẩu nhiều
nhất là cồn dưới 80 độ (7,9 tỷ USD năm 2016 và xấp xỉ 8 tỷ USD năm 2017),
rượu vang nho và cà phê (đều nhập khẩu gần 6 tỷ USD mỗi loại năm 2016 và

hơn 6 tỷ USD năm 2017) và bia (năm 2016 nhập khẩu 5 tỷ USD và 5,3 tỷ USD
năm 2017). Đối với hàng hoá phi nông nghiệp, năm 2016, Mỹ xuất khẩu nhiều
nhất là dầu thô tới 64 tỷ USD (năm 2017 là 77,8 tỷ USD), ô tô trị giá 53,8 tỷ
USD (năm 2017 g ần 53,6 tỷ USD), linh kiện xe có động cơ đạt hơn 42,8 tỷ
USD (năm 2017 là 44,9 tỷ USD), sản phẩm điện tử đạt gần 35,5 tỷ USD (năm
2017 là 38,4 tỷ USD) và thiết bị xử lý thông tin tự động với xấp xỉ 26,6 tỷ USD
(năm 2017 g ần 33,3 tỷ USD) còn nhập khẩu nhiều nhất là ô tô tới trên 173,3 tỷ
USD (năm 2017 là g ần 180 t ỷ USD), dầu thô nhập khẩu 108 tỷ USD (năm 2017
là 139 t ỷ USD), thiết bị xử lý thông tin tự động hơn 86,7 tỷ USD (năm 2017 là
116,4 t ỷ USD), dược phẩm với 67,5 tỷ USD (năm 2017 nhập khẩu máy xử lý
thông tin tự động là 97,2 tỷ USD) và linh kiện xe có động cơ đạt 66,6 tỷ USD
(bằng năm 2017).
Cũng năm 2016 ở phía bên kia, hàng hoá phi nông nghiệp mà Trung Quốc nhập
khẩu nhiều nhất là hàng điện tử tới 229,2 tỷ USD, dầu thô (116,2 tỷ USD), sắt
thép (57,1 tỷ USD), ô tô (xấp xỉ 44 tỷ USD) và xuất khẩu nhiều nhất là máy xử
lý dữ liệu tự động (138,4 tỷ USD), điện thoại vô tuyến (gần 126 tỷ USD), điện
thoại có dây (85,5 tỷ USD), hàng điện tử (63,7 tỷ USD), đèn và thiết bị chiếu
sáng (31,1 tỷ USD). Đối với nông sản năm 2016, Trung Quốc nhập nhiều nhất
chính là đậu tương xấp xỉ 34 tỷ USD, men bia (3,5 tỷ USD), sản phẩm thịt (3,2
5


tỷ USD), dầu cọ và chế phẩm (gần 2,9 tỷ USD) còn xuất khẩu nhiều nhất là các
loại rau củ quả với kim ngạch xuất khẩu 5 nhóm hàng đầu đạt gần 13 tỷ USD.
Theo số liệu của WTO năm 2017, hàng hoá phi nông nghiệp mà Trung Quốc
nhập khẩu nhiều nhất là hàng điện tử tới 228,3 tỷ USD, dầu thô (116,66 tỷ
USD), v àng (64 tỷ USD), sắt thép (58 tỷ USD), ô tô (44 tỷ USD) và xuất khẩu
nhiều nhất là máy xử lý dữ liệu tự động (138,3 tỷ USD), điện thoại vô tuyến
(125,5 tỷ USD), điện thoại có dây (85,3 tỷ USD), hàng điện tử (62,5 tỷ USD),
đèn và thiết bị chiếu sáng (xấp xỉ 30 tỷ USD). Đối với nông sản năm 2017,

Trung Quốc nhập nhiều nhất chính là đậu tương xấp xỉ 34 tỷ USD, men bia
(3,46 tỷ USD), sản phẩm thịt (3,19 tỷ USD), dầu cọ và chế phẩm (gần 2,9 tỷ
USD) còn xuất khẩu nhiều nhất là các loại rau củ quả với kim ngạch xuất khẩu
5 nhóm hàng đầu đạt gần 13 tỷ USD.
Bên cạnh đó, các sản phẩm công nghệ thông tin và kỹ thuật số của Trung Quốc
xuất khẩu sang Mỹ cũng thường xuyên chịu sức ép và vấp phải nhiều rào cản,
thậm chí cấm vận cục bộ từ phía Mỹ với lý do liên quan đến sở hữu trí tuệ hay
an ninh quốc gia.
Cơ cấu thương mại dịch vụ cũng tương tự như hàng hoá với đặc trưng cân đối ở
Mỹ và mất cân đối ở Trung Quốc. Trong kim ngạch xuất khẩu dịch vụ của Mỹ
năm 2016, dịch vụ vận tải chiếm 11,6% (84,6 tỷ USD) và du lịch chiếm 28,2%
(206,8 tỷ USD) còn dịch vụ liên quan đến hàng hoá chiếm 3,6% (gần 26,5 tỷ
USD) trong khi tỷ trọng tương ứng trong kim ngạch nhập khẩu lần lượt là
20,2% (97,2 tỷ USD) và 25,2% (121,5 tỷ USD) và 1,8% (8,7 tỷ USD). Cùng
thời gian đó, Trung Quốc xuất khẩu du lịch đạt gần 44,5 tỷ USD (21,4% kim
ngạch xuất khẩu dịch vụ), vận tải đạt gần 33,9 tỷ USD (16,3%) và dịch vụ liên
quan đến hàng hoá hơn 23,7 tỷ USD (11,5%) đồng thời nhập khẩu nhiều nhất là
du lịch tới gần 261,5 tỷ USD (58,1% kim ngạch nhập khẩu dịch vụ), vận tải gần
80,7 tỷ USD (17,9%) còn nhập khẩu dịch vụ liên quan đến hàng hoá chỉ chiếm
vỏn vẹn có 0,5% kim ngạch nhập khẩu dịch vụ với hơn 2,1 tỷ USD.
Rõ ràng quan hệ thương mại Trung - Mỹ cơ bản bị chi phối bởi quan hệ đối tác
khi những sản phẩm xuất nhập khẩu chủ yếu không những không có tính cạnh
tranh trực tiếp mà còn bổ sung và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng chặt chẽ. Quan
hệ đối thủ trong thương mại có thể dẫn đến xung đột hay cả chiến tranh thương
6


mại tập trung vào một số sản phẩm xuất nhập khẩu thứ yếu có kim ngạch không
lớn hoặc xuất phát từ lo ngại khả năng tiếp cận quá nhanh của Trung Quốc với
công nghệ cao mà Mỹ đang nắm giữ. Mỹ vẫn dẫn đầu thế giới về quyền sở hữu

trí tuệ khi năm 2016 Mỹ có tới 605.571 đăng ký phát minh sáng chế (trong đó
của người thường trú là 295.327 đăng ký), 393.210 đăng ký nhãn mác (người
thường trú đăng ký 300.550) và 42.762 đăng ký kiểu dáng công nghiệp (người
thường trú đăng ký 24.325) song Trung Quốc năm 2016 có tới 1.338.503 đăng
ký phát minh sáng chế (trong đó của người thường trú là 1.204.981 đăng ký),
năm 2014 có 2.104.407 đăng ký nhãn mác (người thường trú đăng ký
1.997.034) và năm 2016 có 650.344 đăng ký kiểu dáng công nghiệp (người
thường trú đăng ký 631.949). Vì vậy, xung đột trong quan hệ thương mại Trung
- Mỹ hiện không chỉ dừng ở tính chất đe doạ, răn đe và phòng ngừa nguy cơ
trong tương lai mà còn có khả năng leo thang thành chiến tranh thương mại trên
qui mô rộng lớn và lan sang chiến tranh công nghệ, tiền tệ và quân sự.
Đa dạng hoá thị trường làm giảm sự phụ thuộc lẫn nhau
Trung Quốc không phải là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của Mỹ mà là
EU 28 của 28 thành viên với tỷ trọng trong kim ngạch xuất khẩu của Mỹ năm
2016 tới 18,7% (18,3% năm 2017), đứng thứ hai là Canada chiếm tỷ trọng
18,3% và vị trí thứ ba thuộc về Mexico với 15,9% (15,7% năm 2017) còn
Trung Quốc đứng thứ 4 với 8% (8,4% năm 2017) và Nhật đứng thứ 5 với 4,4%.
Tuy nhiên, Mỹ lại nhập khẩu nhiều nhất từ Trung Quốc với tỷ trọng đạt 21,4%
tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2016 (21,8% năm 2017), tiếp theo là EU
(chiếm 18,9% và 18,5% năm 2017), Mexico (13,2%), Canada (12,6%) và Nhật
Bản (5,8% năm 2017). Đối với Trung Quốc, Mỹ là thị trường xuất khẩu quan
trọng nhất chiếm 18,3% kim ngạch xuất khẩu năm 2016 (18,4% năm 2017), thứ
hai là EU chiếm 16,1%, vị trí thứ ba thuộc về Hongkong với 13,8% còn Nhật
Bản và Hàn Quốc đứng thứ 4 và thứ năm với tỷ trọng lần lượt là 6,1% và 4,5%
song Mỹ lại chỉ chiếm vị trí số 5 trong số các thị trường xuất khẩu sang Trung
Quốc với 8,5% kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc năm 2016. Trung Quốc
nhập khẩu nhiều nhất là từ EU (13,1% kim ngạch nhập khẩu), Hàn Quốc
(10%), Nhật Bản (9,2%) và Đài Loan (8,8%). Để so sánh có thể lấy trường hợp
Nhật Bản năm 2015 khi Mỹ là đối tác xuất khẩu quan trọng nhất của Nhật Bản
7



(chiếm 23,6% kim ngạch xuất khẩu) đồng thời Nhật Bản cũng nhập khẩu nhiều
nhất từ Mỹ (tới 30,2% kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản) hay trường hợp của
Đức khi ngoại trừ EU 28 chiếm tới 50,5% kim ngạch xuất khẩu và 56,9% kim
ngạch nhập khẩu năm 2016 thì Mỹ đứng ngay vị trí số hai với tỷ trọng tương
ứng lần lượt là 15,6% và 14,6% - vượt xa vị trí số ba của Thuỵ Sỹ với tỷ trọng
tương ứng là 8,7% và 4,5%.
TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆT NAM
Theo TCTK, năm 2017, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đạt
213,77 tỷ USD, tăng 21,1% so với năm 2016 (năm 2016, kim ngạch hàng hóa
xuất khẩu đạt 175,9 tỷ USD, tăng 8,6% so với năm 2015), trong đó, xuất khẩu
Điện thoại và linh kiện đạt 45,1 tỷ USD, tăng 31,4% (năm 2016 đạt 34,5 tỷ
USD, tăng 14,4%); dệt may đạt 25,9 tỷ USD, tăng 8,8% (năm 2016 đạt 23,6 tỷ
USD, tăng 3,3%); điện tử, máy tính và linh kiện đạt 25,9 tỷ USD, tăng 36,5%
(năm 2016 đạt 18,5 tỷ USD, tăng 18,4%); giày dép 14,6 tỷ USD, tăng 12,6%
(năm 2016 đạt 12,9 tỷ USD, tăng 7,6%); máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt
12,8 tỷ USD, tăng 26,4% (năm 2016 đạt 10,5 tỷ USD, tăng 28,4%); thủy sản đạt
8,4 tỷ USD, tăng 18,5% (năm 20016 đạt 7 tỷ USD, tăng 6,8%); gỗ và sản phẩm
gỗ đạt 7,6 tỷ USD, tăng 9,2%; Cà phê đạt 3,2 tỷ USD, giảm 3,7%; hạt tiêu đạt
1,1 tỷ USD, giảm 21,7%; hàng thủy sản đạt 8,4 tỷ USD, tăng 18,5%.
Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với 41,5 tỷ USD, tăng
8% so với năm 2016 (năm 2016 dẫn đầu với 38,1 tỷ USD, tăng 14% so với năm
2015). Tiếp đến là EU đạt 38,3 tỷ USD, tăng 12,8% (năm 2016 đạt 34 tỷ USD,
tăng 10%); Trung Quốc đạt 35,3 tỷ USD, tăng 60,6% (năm 2016 đạt 21,8 tỷ
USD, tăng 26,3%); thị trường ASEAN đạt 21,7 tỷ USD, tăng 24,5% (năm 2016
đạt 17,4 tỷ USD, giảm 4,8%); Nhật Bản đạt 16,8 tỷ USD, tăng 14,2% (năm 2016
đạt 14,6 tỷ USD, tăng 3,4%); Hàn Quốc đạt 15 tỷ USD, tăng 31,1% (năm 2016
đạt 11,5 tỷ USD, tăng 29%).
Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam năm 2017 đạt 211,1 tỷ USD,

tăng 20,8% so với năm 2016, trong đó, kim ngạch nhập khẩu Điện tử, máy tính
và linh kiện đạt 37,5 tỷ USD, tăng 34,4%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng
đạt 33,6 tỷ USD, tăng 17,9%; điện thoại và linh kiện đạt 16,2 tỷ USD, tăng
8


53,2%; vải đạt 11,4 tỷ USD, tăng 9,2%; sắt thép đạt 9,1 tỷ USD, tăng 13%;
chất dẻo đạt 7,4 tỷ USD, tăng 17,5%; xăng dầu đạt 7 tỷ USD, tăng
37,7%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép đạt 5,5 tỷ USD, tăng 8%; kim loại
thường đạt 5,4 tỷ USD, tăng 13,1%; sản phẩm chất dẻo đạt 5,4 tỷ USD, tăng
22,7%; sản phẩm hóa chất đạt 4,6 tỷ USD, tăng 19,6%; hóa chất đạt 4,1 tỷ
USD, tăng 27,5%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,2 tỷ USD, tăng 16,5%; Ô tô đạt 5,3
tỷ USD, giảm 10,5% (ô tô nguyên chiếc đạt 2,2 tỷ USD, giảm 9,6%); thức ăn
gia súc và nguyên phụ liệu đạt 3,2 tỷ USD, giảm 6,3%; phương tiện vận tải
khác và phụ tùng đạt 830 triệu USD, giảm 40,3%.
Năm 2017, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với
kim ngạch đạt 58,5 tỷ USD, tăng 16,9% so với năm 2016 (năm 2016 đạt 49,8
tỷ USD, tăng 0,5% so với năm 2015); tiếp đến là Hàn Quốc đạt 46,8 tỷ USD,
tăng 45,5% (năm 2016 đạt 31,7 tỷ USD, tăng 14,6%); ASEAN đạt 28 tỷ USD,
tăng 16,4% (năm 2016 đạt 23,7 tỷ USD, giảm 0,3%); Nhật Bản đạt 16,5 tỷ
USD, tăng 9,7% (năm 2016 đạt gần 15 tỷ USD, tăng 4,3%); EU đạt 12 tỷ USD,
tăng 7,7% (năm 2016 đạt 11,1 tỷ USD, tăng 6,7%); M ỹ đạt 9,1 tỷ USD, tăng
4,9% (năm 2016 đạt 8,7 tỷ USD, tăng 11,6%).
Năm 2017 Việt Nam xuất siêu 2,7 tỷ USD (năm 2016 xuất siêu 2,68 tỷ USD),
trong đó Hàn Quốc trở thành thị trường nhập siêu lớn nhất với 31,8 tỷ USD,
tăng 53,4% so với năm 2016 (năm 2016 là 20,2 tỷ USD, tăng 8%); Trung Quốc
ở vị trí thứ hai với mức nhập siêu 23,2 tỷ USD, giảm 17,4% (Trung Quốc là thị
trường mà Việt Nam nhập siêu lớn nhất với 28 tỷ USD trong năm 2016); nhập
siêu từ ASEAN là 6,3 tỷ USD, giảm 6% (năm 2016 là hơn 6,3 tỷ USD, tăng
12,5%). Hai thị trường vẫn giữ được mức xuất siêu là Mỹ với 32,4 tỷ USD,

tăng 9% so với năm 2016 (năm 2016 l à 29,4 tỷ USD, tăng 14,8% so với năm
2015); EU là 26,3 tỷ USD, tăng 15% (năm 2016 là 22,9 tỷ USD, tăng 12,3%).
Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2017 đạt 13,1 tỷ USD, tăng 7% so với năm
2016 (năm 2016 đạt 12,3 tỷ USD, tăng 8,9% so với năm 2015), trong đó xuất
khẩu dịch vụ du lịch đạt 8,9 tỷ USD, chiếm 67,6% tổng kim ngạch xuất khẩu
và tăng 7,4% (năm 2016 đạt 8,3 tỷ USD, chiếm 67,3% và tăng 12,2%); dịch vụ
vận tải 2,6 tỷ USD, chiếm 19,7% và tăng 5,7% (năm 2016 đạt 2,4 tỷ USD,
9


chiếm 20% và tăng 0,7%). Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ năm 2017 đạt 17 tỷ
USD, tăng 1,6% so với năm trước (năm 2016 đạt 16,7 tỷ USD, tăng 7% so với
năm trước), trong đó nhập khẩu dịch vụ vận tải đạt 8,2 tỷ USD, chiếm 47,9%
tổng kim ngạch nhập khẩu và giảm 2,8% (năm 2016 đạt 8,9 tỷ USD, chiếm
50,6% và tăng 3,8%); dịch vụ du lịch đạt 5,1 tỷ USD, chiếm 29,8% và tăng
12,7% (năm 2016 đạt 4,5 tỷ USD, chiếm 25,4% và tăng 27,9%). Nhập siêu
dịch vụ năm 2017 là 3,9 tỷ USD, bằng 29,9% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ
(năm 2016 là 5,4 tỷ USD, bằng 44,1% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ).
Theo TCHQ, trong số 41,6 tỷ USD hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ
năm 2017 thì lớn nhất là dệt may với 12,28 tỷ USD, thứ hai là giày dép đạt 5,11
tỷ USD, thứ ba là điện thoại và linh kiện 3,7 tỷ USD, thứ tư là máy tính, điện tử
và linh kiện với 3,44 tỷ USD, thứ năm là gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,27 tỷ USD,
máy móc thiết bị đạt 2,43 tỷ USD đứng thứ 6, túi xách, va li, mũ và ô dù ở vị trí
số 7 được 1,34 tỷ USD, hàng thuỷ sản chỉ đứng thứ 8 với 1,41 tỷ, hạt điều đứng
thứ 9 đạt 1,22 tỷ USD và phương tiện vận tải ở vị trí số 10 với 1,18 tỷ USD. Tất
cả các mặt hàng còn lại đều có kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ dưới 1 tỷ USD
trong năm 2017, trong đó xuất khẩu sắt thép chỉ có 523,5 ngàn tấn trị giá hơn
425,4 triệu USD (năm 2016 xuất khẩu 931.116 tấn sắt thép trị giá 568.53 triệu
USD) và sản phẩm từ sắt thép được 368,5 triệu USD (năm 2016 xuất khẩu
339,6 triệu USD) còn sản phẩm kim loại khác được 258 triệu USD (năm 2016

xuất khẩu 191,46 triệu USD). Năm 2017, Việt Nam nhập khẩu từ Mỹ vỏn vẹn
9,2 tỷ USD và nhiều nhất là máy tính, điện tử và linh kiện (2,78 tỷ USD), bông
(1,18 tỷ USD) và máy móc thiết bị (997 triệu USD) còn sản phẩm quan trọng
như đậu tương thì Việt Nam cũng chỉ nhập khẩu có 330,8 triệu USD từ Mỹ.
Năm 2017, theo TCHQ, Việt Nam xuất khẩu được hàng hoá trị giá 35,46 tỷ
USD sang Trung Quốc, trong đó lớn nhất là xuất khẩu điện thoại và linh kiện
(7,15 tỷ USD), máy tính, điện tử và linh kiện (6,86 tỷ USD), rau quả (2,65 tỷ
USD), máy ảnh và quay phim (2,09 tỷ USD), xơ và sợi dệt (2,04 tỷ USD), máy
móc thiết bị (1,57 tỷ USD), cao su (1,45 tỷ USD), giày dép (1,14 tỷ USD), dệt
may (1,1 tỷ USD), thuỷ sản (1,09 tỷ USD), gỗ và sản phẩm gố (1,07 tỷ USD),
dầu thô (1,05 tỷ USD), gạo (1,03 tỷ USD). Ngược lại, Việt Nam nhập khẩu tới
58,23 tỷ USD từ Trung Quốc, trong đó nhập khẩu nhiều nhất là máy móc thiết
10


bị (10,87 tỷ USD), điện thoại và linh kiện (8,75 tỷ USD), máy tính, điện tử và
linh kiện (7,06 tỷ USD), vải (6,08 tỷ USD), sắt thép (4,1 tỷ USD - thấp hơn so
với 4,45 tỷ USD năm 2016), nguyên phụ liệu dệt may da giày (2,05 tỷ USD),
sản phẩm từ chất dẻo (1,89 tỷ USD), hoá chất (1,26 tỷ USD), sản phẩm hoá
chất (1,21 tỷ USD), sản phẩm từ sắt thép (1,16 tỷ USD – cao hơn so với 1,06 tỷ
USD năm 2016), kim loại khác (896,5 triệu USD - thấp hơn hẳn so với 1,52 tỷ
USD năm 2016), chất dẻo nguyên liệu (892,4 triệu USD) và xơ sợi dệt (857,77
triệu USD).
Mỹ và Trung Quốc đều là hai đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt
Nam, đặc biệt là Mỹ trên thị trường xuất khẩu và Trung Quốc trên thị trường
nhập khẩu. Tuy nhiên, một mặt do qui mô nền kinh tế và qui mô thương mại
của Việt Nam còn quá nhỏ bé so với qui mô của Mỹ và Trung Quốc. Theo số
liệu của WTO về Việt Nam năm 2017, qui mô GDP chỉ có 220,4 tỷ USD với
GDP bình quân đầu người 2.205 USD còn tỷ trọng thương mại tới 94,4%GDP
trong khi cán cân thương mại hàng hoá thặng dư 2,8 tỷ USD song cán cân

thương mại dịch vụ lại thâm hụt 3,8 tỷ USD nên cán cân vãng lai thặng dư
4,1%GDP. Năm 2017, tỷ trọng của Việt Nam trong tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá toàn cầu vỏn vẹn có 1,21% còn trong tổng kim ngạch nhập khẩu toàn
cầu là 1,17%. Mặt khác, cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam nói
chung, hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam với Mỹ và Trung Quốc nói
riêng gần như không liên quan đến các hàng hoá là nguyên nhân chủ yếu gây ra
xung đột thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc nên quan hệ thương mại Mỹ Trung hầu như không tác động trực tiếp đến thương mại và đầu tư của Việt
Nam mà tác động gián tiếp là quan trọng nhất, cụ thể trên các mặt:
1. Quan hệ thương mại Mỹ - Trung chi phối sự phát triển của thương mại và
đầu tư toàn cầu nên xung đột thương mại Mỹ - Trung có thể làm giảm tốc
thương mại quốc tế, qua đó ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu của Việt
Nam kể cả về lượng và về giá, đặc biệt khi độ mở của nền kinh tế Việt Nam
quá lớn với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã lên đến gần 200%GDP vào
cuối năm 2017 và đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm khoảng ¼ tổng vốn đầu
tư toàn xã hội, đóng góp khoảng ¾ tổng kim ngạch xuất khẩu. Thực tế kim
11


2.

3.

4.

5.

ngạch xuất khẩu hàng hoá 9 tháng năm 2018 vẫn tăng 15,4% so với cùng kỳ
năm 2017 và nhập khẩu tăng 11,8%.
Việt Nam liên tục xuất siêu sang Mỹ với hàng chục tỷ USD mỗi năm có thể
khiến cho các biện pháp trừng phạt thương mại mà Mỹ dành cho Trung

Quốc với lý do thâm hụt thương mại nặng nề với Trung Quốc cũng có thể
mở rộng áp dụng đối với cả Việt Nam với lý do tương tự mặc dù với mức độ
và qui mô thấp hơn. Để giảm thặng dư thương mại với Mỹ nhằm tránh nguy
cơ bị trừng phạt “lây”, Việt Nam có thể phải điều chỉnh chính sách thương
mại theo hướng tăng cường nhập khẩu từ Mỹ, đặc biệt là nhập khẩu các sản
phẩm công nghệ cao và một số nông sản là thế mạnh của Mỹ.
Sức ép từ phía Mỹ có thể khiến Trung Quốc điều chỉnh bớt dòng xuất khẩu
hàng hoá sang các thị trường khác, trong đó có Việt Nam khiến cho thâm hụt
thương mại với Trung Quốc ngày càng thêm nặng nề, nhất là bên cạnh
thương mại chính thức còn có thương mại phi chính thức mà Việt Nam chưa
kiểm soát được. Thực tế 9 tháng năm 2018 cho thấy, xuất khẩu từ Việt Nam
sang Mỹ được 34,9 tỷ USD, tăng 12,5% so cùng kỳ năm trước song xuất
khẩu sang Trung Quốc còn tăng tới 26,6% đạt 28,1 tỷ USD. Trong khi đó,
nhập khẩu từ Mỹ tuy tăng vọt tới 39,6% so với cùng kỳ năm trước (riêng
nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu tăng 183,1%) nhưng cũng chỉ
đạt 9,7 tỷ USD còn nhập khẩu từ Trung Quốc tới 47,1 tỷ USD tuy chỉ tăng
12,4% (riêng nhập khẩu xăng dầu tăng 98,9%). Theo đó, sau 9 tháng năm
2018 Việt Nam vẫn có thặng dư thương mại với Mỹ tới 25,2 tỷ USD và
thâm hụt thương mại với Trung Quốc khoảng 19 tỷ USD.
Chưa có bằng chứng thực tế song có thể có khả năng Trung Quốc “lách”
trừng phạt của Mỹ bằng cách xuất khẩu sang Mỹ qua cửa Việt Nam đối với
một số mặt hàng như sắt thép và kim loại khác (Mỹ đã cảnh báo về nguy cơ
này) thông qua hoạt động thương mại và đầu tư sản xuất chế biến gia công
tại Việt Nam.
Các biện pháp trừng phạt và cấm vận liên quan đến sở hữu trí tuệ mà Mỹ áp
dụng đối với Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận của Việt
Nam với một số công nghệ cao của Mỹ, đặc biệt trong lĩnh vực điện tử, viễn
thông, công nghệ sinh học, kỹ thuật số và trí tuệ nhân tạo (AI) do mối quan
12



hệ thương mại và kinh tế tương đối chặt chẽ cũng như vị trí địa lý gần kề
giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tiềm lực khoa học công nghệ của Việt Nam
còn rất thấp kém khi năm 2016 chỉ có 5.228 đăng ký bằng sáng chế (trong
đó người thường trú đăng ký có 560), 48.915 đăng ký nhãn mác (người
thường trú đăng ký 34.971) và 2.868 đăng ký kiểu dáng công nghiệp (người
thường trú đăng ký 1.851).
6. Cuộc chạy đua kinh tế và thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc tập trung vào
hàng hoá và dịch vụ công nghệ cao sẽ buộc Trung Quốc phải thay đổi công
nghệ theo hướng hiện đại đủ sức cạnh tranh với công nghệ của Mỹ. Vì vậy,
những công nghệ lạc hậu bị thải loại của Trung Quốc có thể tìm “bến đỗ” ở
Việt Nam. Thực tế nhập khẩu máy móc thiết bị dây chuyền sản xuất từ
Trung Quốc vào Việt Nam tăng mạnh trong những năm gần đây thông qua
sự hỗ trợ của cả đầu tư trực tiếp lẫn các khoản cho vay của Trung Quốc. Bên
cạnh đó, để tránh chiến tranh thương mại, một phần dòng vốn FDI rút ra từ
Trung Quốc có gắn với công nghệ cao có thể chọn Việt Nam làm điểm đến.
Tuy nhiên, khả năng này chưa thành hiện thực khi sau 9 tháng năm 2018,
FDI đăng ký mới vào Việt Nam mới có 2.182 dự án với tổng vốn đăng ký
14,1 tỷ USD, tăng 18,3% về số dự án nhưng lại giảm 3% về vốn đăng ký so
cùng kỳ năm 2017 trong khi vốn FDI thực hiện cũng chỉ tăng 6% và đạt
13,25 tỷ USD.
7. Để cân bằng và dành ưu thế với Mỹ trong các cuộc tranh chấp thương mại,
Trung Quốc sẽ tranh giành ảnh hưởng về thương mại, kinh tế, đầu tư, tài
chính (thậm chí cả chính trị, quân sự và văn hoá) với Mỹ trên phạm vi toàn
cầu, trong đó có khu vực Đông Nam Á, qua đó tác động mạnh đến sự phát
triển và xu hướng phát triển kinh tế, thương mại hàng hoá và dịch vụ, đầu tư
và tài chính tiền tệ của Việt Nam. Điển hình là tác động của RCEPT đối diện
với CP TPP, của AIIB với ADB và WB, của chiến lược “một vành đai, một
con đường”, v.v.
8. Lựa chọn “nước Mỹ trên hết” của chính quyền Donald Trump không chỉ

định dạng lại vai trò và vị thế của Mỹ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
quân sự, ngoại giao, tài chính tiền tệ,... mà còn là khởi nguồn cho những
xung đột, tranh chấp, thậm chí chiến tranh thương mại giữa Mỹ với Trung
13


Quốc và các đối tác thương mại hàng đầu khác của Mỹ như EU, Canada,
Mexico, Nhật Bản, Đức, v.v. “Cháy thành vạ lây” nên Việt Nam có thể chịu
tác động tiêu cực từ các chính sách thương mại cứng rắn của Mỹ và hàng
hoá xuất khẩu của Việt Nam vấp phải các rào cản do các cường quốc thương
mại dựng lên trong các cuộc chiến tranh thương mại mặc dù Việt Nam
không phải là một bên tham chiến.
9. Quan hệ thương mại Mỹ - Trung luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ xung đột, tranh
chấp, thậm chí chiến tranh thương mại và kéo theo chiến tranh tiền tệ nên
Việt Nam phải luôn sẵn sàng chuẩn bị các phương án tối ưu để giảm thiểu
tác động tiêu cực đối với thương mại, đầu tư và tài chính tiền tệ, đảm bảo
thương mại và mở cửa hội nhập tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong một vài thập kỷ tới. Việc USD liên
tục lên giá do kinh tế Mỹ tăng trưởng cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp và FED
tăng lãi suất USD trong khi NDT mất giá mạnh do hậu quả chiến tranh
thương mại Mỹ - Trung gây sức ép lên chính sách điều hành tỷ giá hối đoái
của Việt Nam./.

Tài liệu tham khảo
/> /> /> /> /> /> /> />Group=C%u00f4ng+b%u1ed1+th%u00f4ng+tin
/>Language=E&Country=CN%2cDE%2cJP%2cUS%2cVN
/>14




×