Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Bồi dưỡng năng lực tạo lập lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ thông qua việc làm quen với tác phẩm thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON

======
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG

BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TẠO
LẬP LỜI NÓI MẠCH LẠC
CHO TRẺ MẪU GIÁO NHỠ THÔNG QUA
VIỆC GIÚP TRẺ LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM
THƠ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Mầm non

HÀ NỘI - 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON

======
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG

BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TẠO
LẬP LỜI NÓI MẠCH LẠC
CHO TRẺ MẪU GIÁO NHỠ THÔNG QUA
VIỆC GIÚP TRẺ LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM
THƠ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Mầm non
Người hướng dẫn khoa học



ThS. GVC. PHAN THỊ THẠCH

HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường ĐHSP Hà Nội 2, các
thầy cô giáo khoa Giáo dục Mầm non đã giúp đỡ em trong quá trình học tập tại
trường và tạo điều kiện cho em thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Đồng thời em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo ThS. Phan Thị
Thạch, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thành khoá luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè đã luôn giúp đỡ
động viên em trong quá trình học tập và thực hiện khóa luận.
Quá trình nghiên cứu đề tài, em không tránh khỏi những thiếu sót và hạn
chế. Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và các bạn để
khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 16 Tháng 05 năm 2018
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Phương


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, những số liệu và
kết quả trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Đề tài chưa được công bố trong
bất cứ một công trình khoa học nào.
Hà Nội, ngày 16 Tháng 05 năm 2018

Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Phương


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Viết đầy đủ

MGN

Mẫu giáo nhỡ

NXBGD

Nhà xuất bản giáo dục

VD

Ví dụ

GV

Giáo viên


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 3
4. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 4
6. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 4
7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 4
8. Cấu trúc khóa luận...................................................................................... 4
NỘI DUNG.................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ....... 5
1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................ 5
1.1.1. Một số vấn đề chung về năng lực.......................................................... 5
1.1.1.1. Thế nào là “ Năng lực”? .................................................................... 5
1.1.1.2. Năng lực hành động.......................................................................... 5
1.1.1.3. Năng lực cốt lõi ................................................................................. 5
1.1.2. Cơ sở ngôn ngữ học.............................................................................. 6
1.1.2.1. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là gì?......................................... 6
1.1.2.2. Các nhân tố tham gia hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ .................. 6
1.1.2.3. Hoạt động tạo lập lời nói trong giao tiếp bằng ngôn ngữ.................... 9
1.1.2.4. Văn bản ............................................................................................. 9
1.1.3. Cơ sở tâm lý học................................................................................. 10
1.1.3.1. Sự hoàn thiện hoạt động vui chơi và sự hình thành “Xã hội trẻ em”
với trẻ mẫu giáo nhỡ..................................................................................... 10
1.1.3.2. Sự phát triển chú ý và ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ..................... 11
1.1.3.3. Sự phát triển quá trình nhận của trẻ mẫu giáo nhỡ ........................... 12


1.1.3.4. Sự phát triển xúc cảm, tình cảm, ý chí của trẻ mẫu giáo nhỡ........... 13
1.1.3.5. Sự phát triển động cơ và sự hình thành hệ thống động cơ của trẻ mẫu
giáo nhỡ ....................................................................................................... 14

1.1.4. Cơ sở giáo dục học ............................................................................. 15
1.1.4.1. Khái niệm lời nói mạch lạc .............................................................. 15
1.1.4.2. Các kiểu lời nói mạch lạc................................................................. 15
1.1.4.3. Đặc trưng lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo nhỡ ............................. 16
1.1.4.4. Phương pháp, biện pháp phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo
..................................................................................................................... 16
1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 17
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 20
CHƯƠNG 2 BIỆN PHÁP CHO TRẺ MẪU GIÁO NHỠ LÀM QUEN VỚI
TÁC PHẨM VĂN HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG GIÚP TRẺ BỒI DƯỠNG
NĂNG LỰC TẠO LẬP LỜI NÓI MẠCH LẠC........................................... 21
2.1. Chọn cách đặt vấn đề độc đáo để gây ấn tượng cho trẻ mẫu giáo nhỡ khi
cho trẻ làm quen với tác phẩm thơ................................................................ 21
2.2. Kết hợp đọc mẫu với biện pháp dùng câu hỏi gợi mở để giúp trẻ ghi nhớ
tác phẩm thơ................................................................................................. 23
2.3. Dùng câu mẫu kết hợp với biện pháp đàm thoại để giúp trẻ mẫu giáo nhỡ
tạo ra câu nói diễn đạt mạch lạc nội dung cần thông báo. ............................. 25
2.4. Sử dụng tranh minh họa kết hợp với biện pháp dùng lời dể giúp trẻ MGN
phát triển lời nói mạch lạc thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm thơ. 27
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 31
CHƯƠNG 3 THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM .................................... 32
KẾT LUẬN.................................................................................................. 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 50


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1



Nếu gọi toàn bộ hệ thống giáo dục là một công trình kiến trúc thì bậc học
Mầm non sẽ là nền móng cho công trình đó. Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu
tiên của quá trình đào tạo nhân cách con người.
Như U.Sinxki nhận định: “ Tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển, là
vốn quý của mọi tri thức”. Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp, tư duy và là
phương tiện để trẻ phát triển toàn diện. Do đó, phát triển ngôn ngữ cho trẻ đóng
vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
Phát triển ngôn ngữ ở độ tuổi mẫu giáo là vô cùng quan trọng, việc thực
hiện nội dung này giúp trẻ mẫu giáo hiểu và biết sử dụng từ để truyền đạt thông
tin một cách rõ ràng, chính xác. Ở độ tuổi 4-5 tuổi, ngôn ngữ của trẻ đã phát
triển hơn trẻ mẫu giáo bé nhưng trẻ mẫu giáo nhỡ sắp xếp lời nói còn chưa mạch
lạc, trẻ nói còn chưa rõ câu, chưa đúng trọng tâm. Chính vì vậy việc bồi dưỡng
năng lực tạo lập lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ là rất cần thiết.
Đối với trẻ mầm non, làm quen với các tác phẩm thơ là hoạt động hấp dẫn,
thu hút sự quan tâm đặc biệt chú ý của trẻ. Những vẻ đẹp của thế giới xung quanh,
vẻ đẹp của tự nhiên và xã hội đã được trẻ cảm nhận thông qua những câu thơ hay
trong bài thơ. Điều này góp phần to lớn đối với việc phát toàn diện của trẻ. Những
câu thơ với hình tượng trong sáng, nhạc điệu diễn đạt có sức lôi cuốn trẻ, nuôi
dưỡng trong trẻ tình yêu đối với thơ ca, để rồi thích nghe đọc, để rồi giúp trẻ
yêu thích đọc thơ ngay từ tuổi ấu thơ.

Hiện nay việc đưa ngôn ngữ thơ đến với trẻ được áp dụng trên nhiều hoạt
động, không chỉ ở lĩnh vực phát triển ngôn ngữ mà trẻ còn được lồng ghép qua
các hoạt động phát triển thẩm mĩ, phát triển nhận thức. Như vậy những năng lực
của trẻ như: Năng lực ngôn ngữ, năng lực tư duy, năng lực sáng tạo… và cả
năng lực tạo lập lời nói mạch lạc cảu trẻ được phát triển. Tuy vậy, việc thực hiện
nội dung này không dễ dàng do nhiều lí do, việc bồi dưỡng năng lực tạo lập lời
nói mạch lạc cho trẻ MGN thông qua việc làm quen với tác phẩm thơ chưa thực


2


sự được phát huy tối đa trong chương trình giáo dục Mầm non. Phần lớn thời
lượng tiết học giáo viên chỉ chú tâm vào nội dung chính bài học, chưa dành sự
quan tâm nhiều tới việc bồi dưỡng năng lực này cho trẻ.
Từ những lí do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu: “ Bồi
dưỡng năng lực tạo lập lời nói mạch lạc cho trẻ MGN thông qua việc làm quen
với tác phẩm thơ”.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về tính chất mạch lạc của lời nói và việc phát triển lời nói mạch
lạc cho trẻ MGN không phải là vấn đề mới , bởi vì trước đây đã có nhiều người
tìm hiểu. Có thể kể ra đây công trình nghiên cứu của một số tác giả tiêu biểu:
Diệp Quang Ban (2003) trong cuốn: “ Giao tiếp. Văn bản. Mạch lạc. Liên
kết. Đoạn văn” đã dành riêng phần thứ ba trong năm phần chính của công trình
để tìm hiểu về mạch lạc của văn bản. Ở phần này, tác giả đã trình bày những vấn
đề có tính chất lý thuyết khái quát như: Định nghĩa sơ bộ về mạch lạc, những
biểu hiện của mạch lạc, mỗi quan hệ giữa mạch lạc và liên kết.
Nguyễn Xuân Khoa (2004) là một trong những nhà khoa học giáo dục đầu
tiên có công trình về “ Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo ”. Đó
là cuốn giáo trình gồm 12 chương. Trong đó, tác giả dành ra chương III để trình
bày những vấn đề chung về mạch lạc và phương pháp phát triển cho trẻ hai kiểu
lời nói mạch lạc ( đối thoại và độc thoại ).
Đinh Hồng Thái (2005) trong cuốn giáo trình: “Phương pháp phát triển lời
nói trẻ em” đã dành chương VI trong năm chương thuộc phần thứ ba của giáo
trình để trình bày các nội dung sau:
- Khái niệm lời nói mạch lạc
- Những đặc trưng lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo
- Các hình thức, phương pháp phát triển lời nói mạch lạc
Những đóng góp về mặt lí luận liên quan đến mạch lạc và phương pháp

phát triển lời nói mạch lạc của ba tác giả trên rất đáng quý cho những người
quan tâm đến việc dạy trẻ để phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non.
3


Bên cạnh đó cũng có một số khóa luận của sinh viên khoa Giáo dục Mầm
non nghiên cứu về năng lực tạo lập lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo như:
Nguyễn Thị Thu ( 2017) với đề tài: “ Phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ
mẫu giáo lớn thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo ở trường mầm non
Xuân hòa”. Trong khóa luận này, tác giả đã tập trung nghiên cứu phát triển lời
nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn, gồm những nội dung sau:
- Khái niệm lời nói mạch lạc
- Các kiểu lời nói mạch lạc
- Đặc trưng lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo lớn
- Sự cần thiết phải phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn
Vũ Thị Thu Uyên (2017) với đề tài: “Phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ
mẫu giáo lớn thông qua dạy trẻ kể lại chuyện theo đồ chơi, theo tranh”, khóa
luận đã tập trung phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn với những nội
dung sau:
- Lời nói mạch lạc và đặc trưng lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo lớn
- Sự cần thiết phải phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn
- Nhiệm vụ phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn
Thông qua việc tổng thuật một số công trình nghiên cứu về lời nói mạch lạc
từ các góc độ khác nhau chúng ta có thể thấy: Đây không phải là nội dung mới,
nhưng trong các công trình nghiên cứu đã nêu, không có công trình nào trùng
với đề tài khóa luận mà chúng tôi đã lựa chọn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là: Biện pháp tổ chức các hoạt động
cho trẻ mẫu giáo nhỡ làm quen với tác phẩm thơ nhằm giúp trẻ bồi dưỡng năng
lực tạo lập lời nói mạch lạc.

4. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài khóa luận, chúng tôi nhằm đạt những mục đích sau:
- Việc thực hiện đề tài trước hết giúp tác giả nắm chắc lí luận của việc bồi
dưỡng năng lực tạo lập lời nói mạch lạc cho trẻ MGN.Đồng thời xây dựng được
4


nội dung, biện pháp dạy học tích cực để phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo
nhỡ, trong đó có việc giúp trẻ bồi dưỡng năng lực tạo lập lời nói mạch lạc.
- Góp phần cung cấp một phần tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên
khoa Giáo dục Mầm non và những người quan tâm đến vến đề bồi dưỡng năng
lực tạo lập lời nói mạch lạc cho trẻ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
1.1. Xác định cơ sở lí luận và cơ sở thực tiên cho đề tài
1.2. Đề xuất biện pháp tổ chức cho trẻ mẫu giáo nhỡ làm quen với tác
phẩm thơ để giúp trẻ bồi dưỡng năng lực tạo lập lời nói mạch lạc.
1.3. Thiết kế giáo án thể nghiệm kết quả nghiên cứu khóa luận.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, khóa luận giới hạn tìm hiểu những biện pháp bồi dưỡng năng
lực tạo lập lời nói mach lạc cho trẻ mẫu giáo nhỡ thông qua hoạt động làm
quen với tác phẩm thơ.
- Về phạm vi khảo sát ngữ liệu, khóa luận bước đầu chỉ tập trung thống kê các
tác phẩm thơ trong chương trình giáo dục trẻ MGN.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để xử lí đề tài chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp miêu tả
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm

8. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần Nội dung của khóa luận gồm
các chương sau:
- Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài
- Chương 2: Biện pháp cho trẻ mẫu giáo nhỡ làm quen với tác phẩm thơ theo
định hướng giúp trẻ bồi dưỡng năng lực tạo lập lời nói mạch lạc
- Chương 3: Giáo án thể nghiệm
5


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số vấn đề chung về năng lực
1.1.1.1. Thế nào là “ Năng lực”?
Phạm trù năng lực thường được hiểu theo nhiều cách khác nhau, với mỗi
cách hiểu có thuật ngữ tương ứng:
- Năng lực hiểu theo nghĩa chung nhất là khả năng mà cá nhân thể hiện khi
tham gia một hoạt động nào đó ở một thời điểm nhất định. Chẳng hạn như khả
năng giải toán, khả năng nói tiếng anh thường được đánh giá bằng các trắc
nghiệm trí tuệ.
- Năng lực là khả năng thể hiện hiệu quả một nhiệm vụ, một hành động cụ
thể liên quan đến một lĩnh vực nhất định dựa trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo
và sự sẵn sàng hành động.
1.1.1.2. Năng lực hành động
Khái niệm
Năng lực hành động là khả năng huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng
và thuộc tính tâm lí cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,.. để thực hiện
thành công một loại công việc trong một bối cảnh nhất định.

1.1.1.3. Năng lực cốt lõi
a, Khái niệm
Năng lực cốt lõi (còn gọi là năng lực chung) là năng lực cơ bản, thiết yếu
mà bất kì một người nào cũng cần có để sống, học tập và làm việc.
Tất cả các hoạt động giáo dục ( bao gồm các môn học và hoạt động trải
nghiệm sáng tạo) với khả năng khác nhau nhưng đều hướng tới mục tiêu hình
thành và phát triển các năng lực cốt lõi khác nhau, tuy nhiên trong các hệ thống
này thường gồm có:
- Kĩ năng sống và kĩ năng nghề nghiệp
- Kĩ năng học tập và kĩ năng đổi mới
6


- Kĩ năng về thông tin, đa phương tiện và công nghệ
b, Năng lực cốt lõi của trẻ mẫu giáo nhỡ ở thế kỉ XXI
Theo chúng tôi, ở thế kỉ XXI, Giáo dục Mầm non phải quan tâm bồi dưỡng
để hình thành và phát triển cho trẻ mẫu giáo nhỡ những năng lực cốt lõi sau:
- Năng lực tư duy
- Năng lực ngôn ngữ
- Năng lực giao tiếp
- Năng lực thẩm mĩ
- Năng lực hợp tác
1.1.2. Cơ sở ngôn ngữ học
1.1.2.1. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là gì?
Để xã hội tồn tại và phát triển con người cần phải giao tiếp, con người có
thể giao tiếp bằng nhiều loại phương tiện khác nhau (điệu bộ, ký hiệu, hình vẽ,
âm nhạc, vv…). Hoạt động giao tiếp là hoạt động diễn ra thường xuyên giữa
mọi người trong xã hội. Giao tiếp có ở mọi nơi, mọi lúc, có thể ở dạng lời nói
nhưng cũng có khi tồn tại ở dạng viết. Giao tiếp cũng có thể được tiến hành
bằng nhiều phương tiện “ngôn ngữ” khác nhau: cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, các

phương tiện kĩ thuật (tất cả được gọi là các hành vi siêu ngôn ngữ). Tuy nhiên
phương tiện quan trọng nhất, phổ biến nhất và hiệu quả tối ưu nhất vẫn là ngôn
ngữ. Nhờ ngôn ngữ và giao tiếp, con người trao đổi thông tin, bộc lộ tình cảm,
thái độ, quan hệ,…để tổ chức xã hội hoạt động.
Giao tiếp bằng ngôn ngữ là hoạt động trong đó người nói (người viết) sử
dụng ngôn ngữ để tạo lời nhằm thông báo cho người nghe (người đọc) một nội
dung tư tưởng tình cảm phù hợp với hoàn cảnh cho phép để đạt những mục đích
nhất định.
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là một trong những hoạt động cơ bản
của con người. Hoạt động này bao gồm hai quá trình: Tạo lập văn bản và lĩnh
hội văn bản. Tạo lập văn bản chính là nói hoặc viết để truyền đạt thông tin, lĩnh
hội văn bản chính là nghe hoặc đọc để tiếp nhận thông tin.
1.1.2.2. Các nhân tố tham gia hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
7


Hoạt động giao tiếp có sự tham gia của nhiều nhân tố các nhân tố này vừa
tạo ra chính hoạt động giao tiếp vừa chi phối hoạt động giao tiếp, các nhân tố đó
là:
a, Nhân vật giao tiếp
Nhân vật giao tiếp trả lời cho câu hỏi: Ai nói, ai viết, nói với ai, viết cho ai?
Đó là những người tham gia hoạt động giao tiếp, gồm người phát ( người nói
hoặc người viết) và người nhận (người nghe hoặc người đọc). Thông thường
trong giao tiếp trực tiếp, vai trò của người phát và người nhận sẽ liên tục được
hoán đổi (tôi nói anh nghe, sau đó anh nói tôi nghe). Trái lại trong những cuộc
giao tiếp gián tiếp, vai trò của người phát và người nhận là cố định hoặc khó
thay đổi (ví dụ: Một diễn giả nói trên truyền hình với người nghe là khán giả…).
Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ thơ, sự thể hiện của các nhân vật
giao tiếp khá tinh tế.
VD: Trong bài thơ “ Ước mơ của Tí” của tác giả Lưu Thị Ngọc Lễ

Mẹ! mẹ ơi!

Ngã tư đàng

Đèn xanh mà!

Con học giỏi

Để người sang

Mẹ cười xòa

Mẹ Tí hỏi:

An toàn mãi

Khen Tí giỏi

Giỏi làm gì?

Này dừng lại

Tí phấn khởi

Tí thầm thì:

Đèn đỏ rồi!

Cười ha ha!


Con sẽ đi

Đi chậm thôi

Nhảy quanh nhà

Làm cảnh sát

Đền vàng đấy!

Tí sẽ là

Con đứng gác

Đi thoải mái

Anh cảnh sát!

Ở ví dụ trên, người viết là tác giả Lưu Thị Ngọc Lễ còn người đọc là các
độc giả.
Những người đọc bài thơ – người tiếp nhận bài thơ này còn là những trẻ
mẫu giáo – những người nghe lại bài thơ đó qua giọng đọc của cô giáo. Trong
bài thơ, tác giả đã tái hiện cuộc đối thoại giữa mẹ và Tí. Hai nhân vật đó sống
động nhờ sự hóa thân và sự tưởng tượng của nhà thơ.
8


b, Nội dung giao tiếp
Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, nội dung giao tiếp trả lời cho câu
hỏi: Nói, viết về ai, về cái gì, về việc gì?

Trước hết, đây chủ yếu là phạm vi hiện thực bên ngoài ngôn ngữ. Phạm vi
hiện thực có thể là những gì đã đang hoặc sẽ xảy ra trong thế giới thực tại mà
chúng ta đang sống hoặc một thế giới tưởng tượng. Khi nói đến những phạm vi
hiện thực ngoài ngôn ngữ chúng ta nói đến những sự vật sự việc nào đó, trong
đó sự việc thế nào, vì sao, ai làm, làm gì, với ai, ở đâu, khi nào, nhằm mục đích
gì… thường phải xác định rõ.
c, Hoàn cảnh giao tiếp
Giao tiếp bao giờ cũng được diễn ra trong một hoàn cảnh nào đó. Hoàn
cảnh giao tiếp trả lời cho câu hỏi: Giao tiếp diễn ra ở đâu (không gian) vào lúc
nào (thời gian), giao tiếp diễn ra trong điều kiện tự nhiên, xã hội như thế nào?
d, Mục đích giao tiếp
Tất cả các cuộc giao tiếp đều nhằm một mục đích nào đó. Mục đích giao
tiếp giúp mỗi nhân vật giao tiếp trả lời câu hỏi: Nói, viết như thế để làm gì?
VD : Trong bài thơ “ Các cô thợ” của tác giả Thy Ngọc

9


Cô thợ dệt

Mẹ bảo cháu

Dệt vải hoa

Phải biết ơn

Cô thợ may

Phải biết thương


May thành áo

Các cô thợ

Tác giả Thy Ngọc viết bài thơ này với mục đích giúp trẻ mẫu giáo hiểu rõ
công việc của những người thợ.Từ đó giáo dục các cháu phải biết ơn và có tình
yêu thương chân thành với những người thợ đó.
e, Phương tiện giao tiếp
Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, phương tiện giao tiếp chính là
đơn vị ngôn ngữ (tiếng, từ, cụm từ và câu), những đơn vị đó được người nói sử

10


dụng để tổ chức thành lời nói dạng nói, dạng viết nhằm truyền đạt nội dung giao
tiếp đến người nghe.
Những cách sử dụng các đơn vị ngôn ngữ để tạo câu, tạo lời nói hoàn
chỉnh, việc chọn dạng của lời nói trong giao tiếp thuộc về cách thức giao tiếp.
1.1.2.3. Hoạt động tạo lập lời nói trong giao tiếp bằng ngôn ngữ
Tạo lập và lĩnh hội lời nói là hai hoạt động của nhân vật giao tiếp bằng
ngôn ngữ.
Tạo lập lời nói là hoạt động của người nói trong giao tiếp. Khi tham gia gặp
gỡ, tiếp xúc với người nghe, người nói dựa vào hoàn cảnh giao tiếp, mục đích
giao tiếp từ đó lựa chọn tổ chức các phương tiện ngôn ngữ nhằm tạo ra một sản
phẩm lời nói hoàn chỉnh (ngôn bản, văn bản) để thông báo nội dung giao tiếp.
1.1.2.4. Văn bản
a, Định nghĩa
Văn bản là một chỉnh thể thường được tạo ra từ hai câu trở lên, các câu liên
kết chặt chẽ với nhau và được tổ chức theo kiểu kết cấu nhất định nhằm phản
ánh chọn vẹn, mạch lạc một chủ đề.

b. Đặc trưng của văn bản
b1. Về nội dung
Văn bản bao giờ cũng tập trung nhất quán vào một chủ đề và triển khai chủ
đề đó một cách trọn vẹn.
b2. Về hình thức
- Văn bản thường được tạo ra từ hai câu trở lên. Các câu được tổ chức theo
một cấu trúc nhất định.
- Mỗi văn bản thường gắn với một thể loại nhất định. Mỗi thể loại văn bản
có đặc trưng riêng.
VD: Văn bản thơ thường tổ chức có vần, điệu, tiết tấu. Trong văn bản thơ
cảm xúc đóng một vai trò quan trọng. Cảm xúc của nhà thơ thể hiện rõ trong
hình ảnh, giàu tính gợi hình biểu cảm.


- Các phương tiện ngôn ngữ trong văn bản thơ thường được tổ chức theo
những biện pháp tu từ. Chúng có tính hình tượng, tính biểu cảm, tính truyền
cảm, tính cá thể hóa.
b3. Về mặt tính chất:
- Văn bản có tính hoàn chỉnh, tính liên kết và tính mạch lạc.
- Các câu trong văn bản có sự liên kết với nhau chặt chẽ bằng các liên từ và
liên kết về mặt nội dung. Đồng thời, cả văn bản còn phải xây dựng theo một kết
cấu mạch lạc, rõ ràng.
- Mỗi văn bản thường hướng vào thực hiện một mục đích giao tiếp nhất
định.
- Mỗi văn bản có dấu hiệu hình thức riêng biểu hiện tính hoàn chỉnh về mặt
nội dung: Thường mở đầu bằng một tiêu đềvà có dấu hiệu kết thúc phù hợp với
từng loại văn bản.
1.1.3. Cơ sở tâm lý học
1.1.3.1. Sự hoàn thiện hoạt động vui chơi và sự hình thành “Xã hội trẻ em”
với trẻ mẫu giáo nhỡ

Ở lứa tuổi mẫu giáo bé, hoạt động vui chơi đồ chơi trẻ em mầm non của trẻ
đã phát triển mạnh. Nhưng chỉ ở độ tuổi MGN, hoạt động vui chơi mới mang
đầy đủ ý nghĩa của nó nhất. Có thể nói rằng hoạt động vui chơi ở lứa tuổi
MGN phát triển tới mức hoàn thiện, được thể hiện ở những đặc điểm sau đây:
- Trong hoạt động vui chơi, trẻ thể hiện rõ rệt tính tự lực, tự do và chủ
động.
Trong việc lựa chọn chủ đề và nội dung chơi: Do có ít nhiều vốn sống nhờ
tiếp xúc hằng ngày với thế giới đồ vật, giao tiếp rộng rãi với những người xung
quanh tạo điều kiện cho trẻ tự do lựa chọn chủ đề chơi và phản ánh vào vai chơi
những mảng hiện thực mà mình quan tâm.
Trong việc lựa chọn bạn cùng chơi: Vào cuối tuổi mẫu giáo nhỡ và lớn, cá
tính của trẻ đã bắt đầu bộc lộ rõ rệt, mỗi em có mỗi tính, mỗi nết. Do đó trẻ cần
phải lựa chọn bạn “tâm đầu ý hợp” với mình.


Trẻ tự do tham gia vào trò chơi nào mà mình thích và tự do rút ra khỏi
những trò chơi mà mình đã chán. Khi tự nguyện tham gia vào các cuộc chơi thì
trẻ chơi một cách say sưa, chơi hết mình, nhưng khi đã chán thì cũng sẽ bỏ cuộc
một cách nhẹ nhàng.
- Trong hoạt động vui chơi, trẻ đã biết thiết lập những quan hệ rộng rãi và
phong phú với các bạn cùng chơi: Một xã hội trẻ em được hình thành.
Ở lứa tuổi này, việc chơi của các em tương đối thành thạo và chơi với nhau
trong nhóm bạn đã trở thành một nhu cầu cấp bách. Hoạt động vui chơi, mà đặc
biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề là loại hoạt động cùng nhau đầu tiên của trẻ
em. Không có sự phối hợp với nhau giữa các thành viên thì không thành trò
chơi. Đã chơi thì phải có vai nọ vai kia mới thú vị. Một trò chơi của trẻ mẫu giáo
nhỡ và lớn thường có nhiều vai hơn của trẻ mẫu giáo bé mặc dù có thể cùng một
chủ đề. Như vậy các quan hệ trong trò chơi của trẻ đã được mở rộng hơn nhiều
so với trẻ mẫu giáo bé
Ở tuổi mẫu giáo nhỡ việc chơi trong nhóm bạn bè là một nhu cầu bức

bách. Đặc biệt nhu cầu giao tiếp với bạn bè đang phát triển rất mạnh. Từ đó
những “Xã hội trẻ em ” thực sự được hình thành.
“Xã hội trẻ em ” này còn khác xa so với xã hội người lớn. Hợp rồi tan, tan
rồi hợp, thực và chơi, chơi và thực. Đó chính là nét độc đáo của cái xã hội ấy.
Nhưng chính những mối quan hệ xã hội đầu tiên trong nhóm bạn bè này lại có
một ý nghĩa lớn lao đối với cả đời người sau này.
Nhóm trẻ cùng chơi là một trong những cơ sở xã hội đầu tiên của trẻ em,
do đó người lớn cần tổ chức tốt hoạt động của nhóm trẻ ở lớp mẫu giáo cũng
như ở gia đình, khu tập thể, xóm dân cư… để tạo môi trường lành mạnh có tác
dụng giáo dục tích cực đối với trẻ.
1.1.3.2. Sự phát triển chú ý và ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ
a, Sự phát triển về chú ý của trẻ mẫu giáo nhỡ
Cả hai dạng chú ý có chủ định và không có chủ định đều phát triển mạnh ở
trẻ 4 – 5 tuổi.


Nhiều phẩm chất chú ý có chủ định phát triển nhanh do sự phát triển của
ngôn ngữ và tư duy. Sức tập trung chú ý của trẻ cao, trẻ có thể vẽ, nặn một thời
gian dài.
Sức bền vững của chú ý ở trẻ khá cao ( Trẻ chú ý tới 37 phút với những đồ
vật thích thú – theo A.V Daporozet ). Những công việc mà cha mẹ, cô giáo giao
cho trẻ chính là điều kiện tốt để trẻ phát triển chú ý có chủ định.
Việc giáo dục chú ý có chủ định phụ thuộc vào việc tổ chức nhiệm vụ hoạt
động cho trẻ. Ví dụ giao việc mà trẻ thích sẽ làm tăng năng lực chú ý có chủ
định, cho trẻ tập tìm, quan sát các chi tiết các đồ vật, tranh vẽ… để rèn luyện
chú ý cho trẻ về tính mục đích, tính hệ thống…
Mặc dù chú ý có chủ định phát triển mạnh, nhưng nhìn toàn bộ lứa tuổi thì
tính ổn định chưa cao, do vậy khi giao việc cho trẻ, giáo viên cần giải thích rõ
ràng, nhắc lại khi cần thiết.
b, Sự phát triển về ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ

Ngôn ngữ của trẻ mang tính chất hoàn cảnh, tình huống nghĩa là ngôn ngữ
của trẻ gắn liền với sự vật, hoàn cảnh, con người, hiện tượng đang xảy ra trước
mắt trẻ. Cuối 4 tuổi, ngôn ngữ của trẻ đã bắt đầu biết nối kết giữa tình huống
hiện tại với quá khứ thành một “ Văn cảnh”.
Trẻ đã hình thành những cảm xúc ngôn ngữ qua giọng nói, ngữ điệu, âm
tiết… Tuy nhiên dưới tác động của cảm xúc trẻ có thể nghe nhầm, phát âm
nhầm.
Dưới sự hướng dẫn của cô giáo, đặc biệt trong hoạt động vui chơi, tạo hình,
các tiết kể chuyện, tham quan, âm nhạc, thể dục…và các nhiệm vụ do người lớn
giao cho trẻ, trẻ lĩnh hội được nhiều từ mới và ý nghĩa sử dụng của chúng. Như
vậy vốn từ của trẻ được phát triển. Khả năng nói đúng ngữ pháp của trẻ tiến bộ
hơn trẻ mẫu giáo bé. Đó là những tiền đề quan trọng trong đề tại tạo lập lời nói
mạch lạc.
1.1.3.3. Sự phát triển quá trình nhận của trẻ mẫu giáo nhỡ
a, Về khả năng tri giác của trẻ


- Do tiếp xúc với nhiều đồ vật, hiện tượng, con người… , độ nhạy cảm về
khả năng phân biệt các dấu hiệu thuộc tính bên ngoài của trẻ ngày càng chính
xác và đầy đủ.
- Khả năng quan sát của trẻ được phát triển không chỉ số lượng đồ vật mà
cả các chi tiết, dấu hiệu thuộc tính, màu sắc…
b, Về đặc điểm trí nhớ của trẻ
- Trẻ đã biết sử dụng cơ chế liên tưởng trong trí nhớ để nhận lại và nhớ lại
các sự vật và hiện tượng. Trí nhớ có ý nghĩa đã thể hiện rõ nét khi gọi tên đồ vật,
hoa quả, thức ăn…Đồng thời với trí nhớ hình ảnh về đồ vật thì âm thanh ngôn
ngữ được trẻ tri giác, hiểu và sử dụng chúng như một phương tiện giao tiếp ới
những người xung quanh tuy ở mức độ đơn giản.
- Trí nhớ không chủ định của trẻ ở các dạng hoạt động phát triển khác nhau
và tốc độ phát triển rất nhanh.

- Ở độ tuổi này, các loại trí nhớ: hình ảnh, vận động, từ ngữ đều được phát
triển tuy ở mức độ khác nhau nhưng đều được hình thành và tham gia tích cực
trong các hoạt động vui chơi, lao động, tạo hình… ở trẻ.
c, Về đặc điểm tư duy của trẻ
Ở trẻ 4 – 5 tuổi các loại tư duy đều được phát triển nhưng mức độ khác
nhau.
Tư duy trực quan hành động vẫn tiếp tục phát triển, nhưng chất lượng khác
với trẻ 3 – 4 tuổi ở chỗ trẻ bắt đầu biết suy nghĩ xem xét nhiệm vụ hoạt động,
phương pháp và phương tiện giải quyết nhiệm vụ tư duy.Tư duy trực quan hình
tượng phát triển mạnh mẽ và chiếm ưu thế.
Nhờ có sự phát triển ngôn ngữ, trẻ ở lứa tuổi này đã xuất hiện loại tư duy
trừu tượng.
1.1.3.4. Sự phát triển xúc cảm, tình cảm, ý chí của trẻ mẫu giáo nhỡ
a, Đời sống xúc cảm và tình cảm của trẻ
Các loại tình cảm bậc cao của trẻ phát triển ngày càng rõ nét hơn so với
mẫu giáo bé.


Tình cảm đạo đức của trẻ ngày càng được phát triển do trẻ lĩnh hội được
các chuẩn mực hành vi, quy tắc ứng xử. Trẻ bối rối, cảm thấy có lỗi khi hành vi
phạm sai lầm. Trẻ biết đòi người lớn đánh giá đúng mức hành vi đúng, sai, tốt,
xấu của mình.
Tình cảm trí tuệ cũng phát triển theo hướng mong muốn tìm hiểu nguyên
nhân, cội nguồn các hiện tượng tự nhiên và xã hội, cuộc sống xung quanh.
Về tình cảm thẩm mỹ: Trẻ bức dầu có khả năng tổng hợp nhiều xúc cảm
cùng loại khi rung cảm trước vẽ đẹp của thiên nhiên, con người, cỏ cây, hoa lá…
Nhìn chung xúc cảm và tình cảm của trẻ dần phong phú và có những đặc
điểm nổi bật sau đây: Dễ giao động, dễ thay đổi, dễ khóc, dễ cười.
b, Đặc điểm ý chí của trẻ
- Tính mục đích phát triển từ tuổi lên 2 khi trẻ đã làm chủ được một số

hành vi của mình. Từng bước một, trẻ 4 tuổi có thể điều khiển được quá trình
ghi nhớ và nhớ lại một “tài liệu” nào đó do người lớn giao cho, ghi nhớ một bài
thơ ngắn trẻ thích.
- Do hiểu được nhiều hành vi ngôn ngữ và biết sử dụng những hành vi
ngôn ngữ, trẻ có thể bước đầu vận dụng để lập kế hoạch hành động và chỉ đạo
hành động, trẻ thường nói to khi hành động.
- Để giáo dục ý chí cho trẻ, giáo viên và phụ huynh cần phải giáo dục động
cơ cho trẻ. Bởi vì ở lứa tuổi này, mục đích và động cơ của trẻ thường trùng
nhau, chưa tách bạch thật rõ ràng.
1.1.3.5. Sự phát triển động cơ và sự hình thành hệ thống động cơ của trẻ mẫu
giáo nhỡ
- Cuối tuổi mẫu giáo bé, trong hành vi của trẻ đã xuất hiện những loại động
cơ khác nhau, nhưng những động cơ ấy còn mờ nhạt, yếu ớt, tản mạn.
- Đến cuối tuổi mẫu giáo nhỡ, các động cơ đã xuất hiện ở tuổi mẫu giáo bé
được phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt đến cuối tuổi mẫu giáo nhỡ và lớn thì những
động cơ đạo đức thể hiện thái độ của trẻ đối với những người khác có một ý
nghĩa hết sức quan trọng trong sự phát triển các động cơ hành vi.


- Ở lứa tuổi này đã bắt đầu hình thành quan hệ phụ thuộc theo thứ bậc của
các động cơ, được gọi là hệ thống thứ bậc các động cơ. Đó là một cấu tạo tâm lý
mới trong sự phát triển nhân cách của trẻ mẫu giáo.
- Từ 4 tuổi trở đi, hành vi của trẻ tương đối dễ xác định. Nếu động cơ vì xã
hội chiếm ưu thế thì trẻ sẽ thực hiện những hành vi mang tính đạo đức tốt đẹp.
Ngược lại nếu động cơ nhằm thoả mãn quyền lợi riêng chiếm ưu thế thì trong
nhiều trường hợp trẻ sẽ hành động nhằm tìm kiếm những quyền lợi cá nhân ích
kỷ, dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng về quy tắc đạo đức xã hội. Đối với
những đứa trẻ này cần áp dụng những biện pháp giáo dục thích hợp, có hiệu quả
nhằm thay đổi những cơ sở của nhân cách đã được hình thành một cách bất lợi
này, trước hết phải cảm hoá trẻ bằng tình yêu thương, đồng thời lại đòi hỏi ở

chúng sự yêu thương và quan tâm đến những người xung quanh, tạo ra những
tình huống để gợi lên ở trẻ những hành vi đạo đức tốt đẹp.
1.1.4. Cơ sở giáo dục học
1.1.4.1. Khái niệm lời nói mạch lạc
Có rất nhiều nhà sư phạm đã nêu ra định nghĩa về lời nói mạch lạc của trẻ
em và chúng có những đặc điểm giống và khác nhau. Trong cuốn “Giáo trình
phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non” của PGS.TS Đinh Hồng Thái đã nêu ra định
nghĩa của tiến sĩ ngôn ngữ học Xôkhin người Nga - tác giả của nhiều cuốn sách
giáo khoa, phương pháp về phát triển ngôn ngữ trẻ em. Ông đã định nghĩa như
sau:
“Lời nói mạch lạc được hiểu là sự diễn đạt mở rộng một nội dung xác
định, được thực hiện một cách lôgic,tuần tự, chính xác, đúng ngữ pháp và có
tính biểu cảm”.
1.1.4.2. Các kiểu lời nói mạch lạc
Các nhà ngôn ngữ học đã nghiên cứu và cho rằng có hai kiểu lời nói mạch
lạc đó là hội thoại và độc thoại.
- Lời nói hội thoại là câu chuyện giữa hai hay nhiều chủ thể nói năng, bao
gồm những phản ứng tương hỗ của các cá nhân giao tiếp với nhau, phản ứng tự


pháp một cách bình thường được xác định hoàn cảnh hoặc lời nói của những
người tham gia đối thoại
Có hai hình thức hội thoại đó là nói chuyện và đàm thoại:
- Nói chuyện là hoạt động nói giữa hai hay nhiều người không nhất thiết
phải theo một chủ đề định, được phát triển nhưng không được chuẩn bị kỹ từ
trước. Đây là hình thức đơn giản nhất của ngôn ngữ nói. Nó mang tính hoàn
cảnh và những người nói chuyện hiểu được nhau. Cần nhờ những hình thức diễn
đạt khác nhau như nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, giọng nói…
- Đàm thoại là hoạt động trò chuyện giữa hai người về một chủ đề nào đó
được chuẩn bị kỹ càng với một hệ thống câu hỏi được sắp xếp, tổ chức theo kế

hoạch.
- Lời nói độc thoại là lời nói của một chủ thể nói với chính mình, nói cho
mình nghe.
1.1.4.3. Đặc trưng lời nói mạch lạc của trẻ mẫu giáo nhỡ
Ở trẻ mẫu giáo nhỡ, lời nói mạch lạc đã đạt trình độ cao hơn so với trẻ
MGB.
Trẻ 3 tuổi phù hợp với hình thức đơn giản của lời nói đối thoại (trả lời câu
hỏi) nhưng lời nói trẻ thường xa rời với nội dung câu hỏi, do vốn ngôn ngữ còn
nghèo hoặc do trẻ sao nhãng không tập trung vào điều cần nói. Những lời nói
mạch lạc đầu tiên của trẻ được cấu tạo từ hai đến ba câu.
Đến tuổi mẫu giáo nhỡ sự phát triển lời nói mạch lạc chịu ảnh hưởng lớn
của việc tích cực hóa vốn từ (khối lượng lúc này đã đạt đến khoảng 700 từ). Lời
nói của trẻ trở nên được mở rộng hơn, có trật tự hơn, mặc dù cấu trúc còn chưa
hoàn thiện.
Trẻ mẫu giáo nhỡ bắt đầu được học cách đặt những câu chuyện nhỏ theo
tranh hoặc theo đồ chơi. Nhưng phần lớn câu chuyện của trẻ chỉ đơn thuần là mô
phỏng lại mẫu của người lớn. Ở độ tuổi này, có sự phát triển mạnh mẽ lời nói
văn cảnh. Nghĩa là trong hoàn cảnh nói năng cụ thể chỉ trẻ mới có thể hiểu được
mình nói về điều gì.
1.1.4.4. Phương pháp, biện pháp phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo


×