Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

THỰC TIỄN ÁP DỤNG NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.55 KB, 23 trang )

CHUYÊN ĐỀ: GIẢI QUYẾT ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

ĐỀ TÀI: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

MỞ ĐẦU
Xuất phát từ vị trí, vai trò của gia đình, từ quan niệm gia đình là tế bào của xã
hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và
giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia
đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Để đề cao vai trò
của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy truyền thống và những
phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xoá bỏ những phong tục,
tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình ; Để nâng cao trách nhiệm của công
dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia
đình Việt Nam; Kế thừa và phát triển pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt
Nam;Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013; từ đó đã cho ra đời Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 có hiệu lực từ 01/01/2015, với 10 chương gồm những quy
định pháp lý điều chỉnh về chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lý
cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; trách nhiệm của cá nhân, tổ
chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và
gia đình.
So với Luật hôn nhân và gia đình 2000 thì Luật hôn nhân và gia đình 2014 có
nhiều điểm mới nổi bật, phù hợp hơn với thực tiễn và đảm bảo quyền lợi cho
các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Vì vậy, tôi xin trình đề tài thu
hoạch: “Những điểm mới của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 và thực
tiễn áp dụng”
I.

Những điểm mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và
thực tiễn áp dụng.




So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2015) có một số điểm mới nổi bật như
sau:

1. Tăng cường bảo vệ chế độ Hôn nhân gia đình
Điều 5 quy định bổ sung các hành vi nghiêm cấm, trong đó có: Lợi dụng việc
thực hiện các quyền về HNGĐ để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm
phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi. Đặc biệt, trong
quá trình giải quyết các vụ việc về HNGĐ thì danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí
mật đời tư và các quyền riêng tư khác của các bên được tôn trọng, bảo vệ.
Thực tiễn áp dụng: Đây là một quy định mới của pháp luật và có tác dụng
trong việc xác định tội phạm, đặc biệt là tội phạm nguy hiểm, quy định này
phù hợp với các chiêu trò lừa đảo của nhiều đối tượng hiện nay. Có nhiều đối
tượng đã lợi dụng việc kết hôn để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm
phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi. Nạn nhân
thường là người dân tộc thiếu số, những người nhẹ dạ cả tin, thích lấy chồng
nước ngoài hoặc chồng giàu… Do vậy, quy định trên sẽ góp phần nhằm hạn
chế và chấm dứt tình trạng lợi dụng hôn nhân.
Minh họa: Những năm gần đây, số lượng phụ nữ bị bán qua nước ngoài tăng
nhanh đột biến, chiếm tới 90% trong các vụ mua bán người. Phần lớn những nạn
nhân bị lừa bán đều có hoàn cảnh khó khăn, hoặc ở những vùng sâu bị một số đối
tượng lừa bán qua biên giới. Riêng các tỉnh miền Tây Nam Bộ như: Trà Vinh, Hậu
Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ... tỷ lệ này lên tới 78%.
Tại tỉnh Trà Vinh, mỗi năm có khoảng 200 trường hợp lấy chồng nước ngoài.
Thông qua con đường môi giới bất hợp pháp, nhiều phụ nữ đã trở thành nạn
nhân của bọn buôn người. Thậm chí, họ còn bị chính người thân trong gia đình
lừa bán để kiếm tiền mà không hề hay biết. Hiện nay, hiện tượng môi giới hôn
nhân bất hợp pháp, việc tổ chức các tụ điểm cho người nước ngoài xem mặt

phụ nữ Việt Nam muốn kết hôn với người nước ngoài, hiện tượng mua bán
phụ nữ, trẻ em thời gian gần đây không chỉ là nỗi đau lớn mà còn vi phạm tới
nhân quyền, tới thuần phong mỹ tục Việt Nam.
2. Nâng độ tuổi kết hôn của nam và nữ:
Theo quy định của Luật HNGĐ năm 2000 thì nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18
tuổi trở lên (tức chỉ cần nam đã bước sang tuổi 20, nữ đã bước sang tuổi 18)
là đủ tuổi kết hôn. Tuy nhiên, theo điều 8 Luật HNGĐ năm 2014 thì độ tuổi


kết hôn của nam và nữ sẽ được nâng lên và được tính theo tuổi tròn, bắt buộc
nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn.
Thực tiễn áp dụng: Quy đinh này phù hợp với thực tiễn của Việt Nam hiện
nay, để các bên trong quan hệ hôn nhân chuẩn bị đầy đủ cả năng lực pháp luật
và năng lực chủ thể. Việc quy định như vậy rõ ràng phản ánh sự phù hợp với
mức độ phát triển tâm sinh lý của con người Việt Nam, dựa trên cơ sở khoa
học và cơ sở xã hội xác đáng.
Nam nữ xác lập quan hệ hôn nhân để thực hiện chức năng cơ bản của gia đình
là duy trì nòi giống. Đến độ tuổi này, nam và nữ mới đạt sự phát triển hoàn
thiện. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng: Các bà mẹ sinh con trước tuổi 18
thường hay gặp các vấn đề về sức khỏe.
Không những thế, việc quy định độ tuổi như vậy còn gắn liền với khả năng
phát triển về tư duy nhận thức, gắn với mức độ độc lập, tự chủ của chủ thể để
thực hiện các chức năng gia đình.
Việc tính tuổi tròn như Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 (nam từ đủ 20, nữ từ
đủ 18) sẽ tránh vận dụng tùy tiện các quy định về độ tuổi kết hôn vì theo luật
Hôn nhân và Gia đình 2000 thì chỉ cần bước sang tuổi 18 đối với nữ và 20
tuổi đối với nam là được phép kết hôn. Điều đó dễ dàng tạo ra những ke hở
nhất định để các bên kết hôn vi phạm điều kiện về độ tuổi.
Tuy nhiên, ở các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống lại có hiện
tượng tảo hôn. Và ở một số địa phương có tỷ lệ kết hôn không đăng ký vi

phạm Luật Hôn nhân và Gia đình rất cao, phần lớn các cặp vợ chồng kết hôn
trước tuổi luật định.
Minh họa:
Theo một số liệu thống kê cho thấy: 15 tỉnh, thành phố cả nước có trên 1% trẻ
em ở độ tuổi 14 - 16 đã có vợ chồng. Các tỉnh có tỷ lệ trẻ em tảo hôn cao như
Hà Giang: 5,72%, Cao Bằng: 5,1%, Lào Cai 2,7%, Sơn La 2,6%, Quảng Trị
2,4% và Bạc Liêu 2,1%.
3. Yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật:
Luật HN-GĐ 2000 quy định: Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa
án hoặc đề nghị Viện Kiểm sát yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Còn Điều 10 Luật HN-GĐ 2014 lại bỏ quy định đề nghị Viện Kiểm sát yêu
cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật, mà chỉ còn cá nhân, cơ quan, tổ
chức mới có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.


Thực tiễn áp dụng: Quy định này giúp đảm bảo quyền lợi, bảo vệ được danh
dự nhân phẩm cho những người có hành vi kết hôn trái pháp luật, vì thực tế
có nhiều trường hợp kết hôn trái pháp luật nhưng vẫn muốn đăng ký kết hôn
lại khi đã đủ điểu kiện hết hôn. Vì hậu quả của việc hủy kết hôn trái pháp luật
rất lớn cả vật chất lẫn tinh thần, các nhà làm luật không muốn phải làm việc
này nên đã quy định các điều có lợi hơn cho đối tượng kết hôn trái pháp luật.
Bên cạnh đó, quy định này cũng làm hạn chế bớt quyền tham gia tố tụng của
Viện Kiểm sát.
Minh họa: A và B kết hôn trái pháp luật vì vi phạm điều kiện độ tuổi kết hôn,
thì chỉ những đối tượng được quy định tại điều 10 mới có quyền yêu cầu hủy
kết hôn trái pháp luật giữa A và B. A và B cũng có thể đăng ký kết hôn lại khi
đã đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo luật Hôn nhân và gia đình.
4. Bỏ quy định “Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính”:
Về hôn nhân đồng giới, luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định cấm kết hôn
đồng giới, và vì cấm nên đi kèm sẽ có chế tài, xử phạt.

Nay, theo luật mới, từ 01/01/2015, Luật hôn nhân và gia đình 2014 bỏ quy
định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính”.
Thực tiễn áp dụng: Đây cũng được coi là một bước tiến nhỏ trong việc nhìn
nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính của nhà nước ta trong tình
hình xã hội hiện nay. Một trong những biểu hiện đó là có nhiều cặp đồng giới
đã dám công khai quan hệ với gia đình, bạn bè, xã hội.
Tuy nhiên, khoản 2 Điều 8 của Luật Hôn nhân và Gia đình vẫn quy định rằng
Nhà nước không thừa nhận kết hôn giữa những người cùng giới tính. Như
vậy, mặc dù không cấm nhưng việc kết hôn và chung sống giữa những người
đồng giới vẫn chưa được pháp luật bảo hộ và tiềm ẩn nguy cơ phát sinh
những vướng mắc khó giải quyết khi có tranh chấp xảy ra. Đặc biệt, nhiều
trường hợp, họ nhờ người mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (trên thực tế
hầu hết đều vì mục đích thương mại) hoặc nhận nuôi con nuôi, vậy họ sẽ do
quy định pháp luật nào điều chỉnh? Một vấn đề đáng nói nữa đó là việc những
người nam đồng tính lại có chính con ruột của mình (Lâm Khánh Chi).
Minh họa: Những người đồng tính có thể sống chung với nhau như vợ chồng
mà không bị xem là phạm tội, họ sẽ ít bị kỳ thị như trước đây, và cái nhìn cảu
người thân, gia đình, xã hội cũng không còn quá nặng nề với họ.


Điển hình là cặp đồng tính Bùi Ngọc Việt và Nguyễn Trọng Tân, cặp đôi này
từng “gây sốt” cộng đồng LGBT khi quyết định về chung một nhà và có một
cô bé vô cùng đáng yêu.
5. Tăng cường bảo vệ phụ nữ và con đối với hôn nhân không đăng ký:
Điều 16, có quy định về giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của
nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
Trong đó, đáng chú ý là việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có
liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập. Như
vậy, đối với hôn nhân không đăng ký, mặc dù không được pháp luật công

nhận là vợ chồng nhưng luật mới chú trọng bảo vệ quyền và lợi ích của người
làm công việc nội trợ (đa phần là nữ giới) nên quyền lợi các bên được bảo
đảm tương tự như hôn nhân có đăng ký.
Thực tiễn áp dụng: Quy định này phù hợp với thực tiễn, hiện nay có rất
nhiều trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn, giữa họ cũng phát sinh quan hệ tài sản, quan hệ con cái…khi tranh
chấp xảy ra, rất nhiều người phụ nữ không được chia tài sản vì giữa hai người
không phải là hôn nhân hợp pháp, họ không chứng minh được nguồn gốc tài
sản chung. Việc quy định “công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để
duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập” cũng được xem là
một trong những giải pháp khắc phục tình trạng bất bình đẳng và góp phần
bảo vệ quyền lợi người phụ nữ phải từ bỏ công việc xã hội của mình thực hiện
công việc nội trợ, dù họ không tạo ra thu nhập trực tiếp nhưng công việc này
đóng góp một phần không nhỏ trọng việc làm ra kinh tế gia đình và con đối
với hôn nhân không đăng ký.
Minh họa: Anh A và chị B sống chung như vợ chồng từ năm 2007, không
đăng ký kết hôn và không có con, trong thời gian sống chung có tạo lập được
một mảnh đất và vườn cây thanh long, anh tôi là người đứng tên trên sổ đỏ,
chị B chỉ làm nội trợ, tài sản chủ yếu là nhờ công sức của anh tôi tạo lập, đến
năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn không thể sống với nhau nữa và 2 bên thoả
thuận với nhau, A hổ trợ cho chị số tiền là 5 trăm triệu đồng phần ai nấy sống
không làm phiền cuộc sống của nhau nữa, đã viết giấy cam kết, đến đầu năm
2018 chị B mang tờ giấy cam kết đi kiện yêu cầu phân chia tài sản và toà án
đã thụ lý vụ án.
Theo Điều 14, Điều 16 Luật hôn nhân gia đình 2014 thì việc phân chia tài sản
chung sẽ ưu tiên sự thỏa thuận của các bên, nếu các bên không thỏa thuận


được thì một trong các bên có thể yêu cầu tòa án giải quyết theo quy định
pháp luật. Như vậy, chị B không đồng ý về việc anh A hỗ trợ 5 triệu đồng thì

chị B có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi đó, Tòa sẽ căn cứ vào công sức
đóng góp của anh A và chị B đối với phần tài sản chung để phân chia hợp lý.
6. Quy định chế độ tài sản của vợ chồng:
Điều 28 Luật HNGĐ năm 2014 quy định vợ chồng có quyền lựa chọn áp
dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Điểm
mới ở đây là chế độ tài sản theo thỏa thuận, theo đó nếu hai bên kết hôn lựa
chọn chế độ tài sản này thì phải lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản
có công chứng hoặc chứng thực (điều 41). Chế độ tài sản của vợ chồng theo
thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn. Nội dung cơ bản của
thỏa thuận về tài sản bao gồm: “Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản
riêng của vợ chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài
sản riêng và giao dịch có liên quan, tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của
gia đình; điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế
độ tài sản…”. Thỏa thuận này vẫn có thể được sửa đổi, bổ sung sau khi kết
hôn.
Thực tiễn áp dụng: Một mặt, quy định này góp phần giảm thiểu sự tranh
chấp tài sản sau ly hôn của các cặp vợ chồng trong tình hình hiện nay. Điều
này phù hợp với thực tiễn tranh chấp, vì tài sản là quan hệ tranh chấp chủ yếu
đối với vụ án ly hôn, vì vậy cần phải quy định rõ ràng, đảm bảo được quyền
lợi cho các bên. Thảo thuận về chế độ tài sản của vợ chồng giúp hạn chế ly
hôn vì nó giúp các cặp vợ chồng vượt qua bất đồng về tài chính ngay từ đầu;
nói chuyện tiền bạc trước hôn nhân không phải dễ nhưng lại giúp tránh được
rắc rối về sau, đồng thời giúp hạn chế các tổn thương về tài chính và cả cảm
xúc mà một cuộc ly hôn (nếu buộc phải xảy ra) mang lại.
Mặt khác, Luật HNGĐ năm 2014 không quy định về quyền yêu cầu tuyên bố
vô hiệu đối với việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, và quyền yêu
cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu. Đây cũng
là một thiếu sót đáng kể. Tuy nhiên, Thông tư số 01/2016/TTLT-TANNTCVKSNDTC-BTP có hướng dẫn quyền yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ
tài sản của vợ chồng bị vô hiệu bao gồm: “vợ, chồng hoặc vợ chồng đã thỏa
thuận về chế độ tài sản; người bị xâm phạm, người giám hộ của người bị xâm

phạm quyền và lợi ích hợp pháp do có thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng”. Tuy nhiên, văn bản này lại không hướng dẫn gì về quyền yêu cầu
tuyên bố việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị coi là


vô hiệu. Theo quan điểm của chúng tôi, văn bản hướng dẫn luật cần bổ sung
vấn đề này theo hướng tương tự như quyền yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về
chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu.
Thêm vào đó, trong thực tế, có nhiều trường hợp, một bên vợ chồng muốn
trốn tránh nghĩa vụ tài sản với người thứ ba nên không yêu cầu chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân, điều này làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người thứ ba nếu không cho họ quyền yêu cầu chia tài sản
chung của vợ chồng, nhưng nếu cho người thứ ba được quyền yêu cầu chia tài
sản chung thì có thể dẫn đến trường hợp ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời
sống gia đình như chỗ ở, phương tiện kiêm sống, đi lại của vợ chồng, việc học
hành của con cái… Tuy nhiên, trong quá trình thi hành án, nếu vợ chồng nhất
quyết không chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản của
mình trả nợ thì cơ quan thi hành án sẽ áp dụng Điều 74 về cưỡng chế đối với
tài sản thuộc sở hữu chung của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa
đổi bổ sung năm 2014) để giải quyết.

7. Có thể xin ly hôn giùm người thân:
Luật Hôn nhân và gia đình mới năm 2014 cũng bổ sung thêm các đối tượng
được yêu cầu giải quyết ly hôn tại Điều 51.
Theo đó, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai người mới có quyền yêu cầu tòa
án giải quyết ly hôn như trước đây thì kể từ nay, cha, mẹ, người thân thích
khác cũng có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng
do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng,
vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh

thần của họ. Thực tiễn áp dụng: Quy định này đã tháo gỡ cho nhiều trường
hợp bức xúc muốn xin ly hôn giùm người thân bị mất năng lực hành vi mà
không được do luật cũ chỉ quy định việc ly hôn phải do chính đương sự (vợ,
chồng) yêu cầu, trong khi họ lại bị mất năng lực hành vi dân sự dẫn đến
không có năng lực hành vi tố tụng dân sự để xin ly hôn.
Tuy nhiên, trên thực tế, không phải đương sự nào cũng đáp ứng về thủ
tục, đặc biệt là kết luận giám định của cơ quan chuyên môn về trình trạng
nhận thức của người bị bệnh tâm thần vì họ từ chối đi giám định. Do đó, Toà
án không thể tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự. Trong những
trường hợp như vậy, tòa nên trả lại đơn khởi kiện, từ chối thụ lý, nếu đã thụ lý


thì tạm đình chỉ, đình chỉ hay toà án phải thụ lý và giải quyết theo thủ tục
chung. Trong khi đó việc trả đơn, tạm đình chỉ, đình chỉ, từ chối thụ lý trong
tình huống trên rõ ràng cách làm này miễn cưỡng vì pháp luật tố tụng dân sự
không cho phép và không nằm trong các trường hợp trả đơn khởi kiện tại
Điều 192, tạm đình chỉ Điều 214 (Trừ trường hợp áp dụng điểm d khoản 1
Điều 214), đình chỉ Điều 217 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nhưng nếu tiến hành
giải quyết theo thủ tục chung thì còn lúng túng và khả năng bản án bị hủy, sửa
do sự thiếu sót khi nhận thức, vận dụng pháp luật là điều không tránh khỏi.
8. Bạo lực gia đình là căn cứ để ly hôn:
Điều 56 quy định về đơn phương ly hôn như sau: khi vợ hoặc chồng yêu cầu
ly hôn mà hòa giải tại tòa án không thành thì tòa án giải quyết cho ly hôn nếu
có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm
trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng
trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt
được. Như vậy, luật mới quy định rất rõ “bạo lực gia đình” là căn cứ để giải
quyết cho ly hôn; còn đối với những vi phạm khác, những mâu thuẫn, xung
đột, bất đồng…trong đời sống vợ chồng, thì phải có cơ sở nhận định chung
rằng tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn

nhân không đạt được thì mới giải quyết cho ly hôn.
Thực tiễn áp dụng: Việc quy định như vậy là phù hợp với thực tiễn hiện nay,
bởi qua thực tiễn giải quyết án hôn nhân cho thấy số vụ ly hôn có hành vi
ngược đãi, đánh đập chiếm tỷ lệ cao nhất và phụ nữ đa phần là nạn nhân của
tình trạng này. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên trong quan
hệ hôn nhân gia đình, giúp nâng cao ý thức và đời sống gia đình, xã hội.
Minh họa: Mỗi lần nhắc đến chồng mình, chị N.T.H ở xã Hòa Quang Bắc,
huyện Phú Hòa đều bật khóc. Đã ngoài 50 tuổi nhưng chồng chị không chí
thú làm ăn mà tối ngày nhậu. Khi đã say khướt, người chồng lại trút hết
những trận đòn, những lời chửi mắng lên thân thể hao gầy của chị. Hai người
con trai của chị vì cảnh gia đình đã phải tìm đến cửa nhà chùa nương náu...
Theo luật hôn nhân gia đình 2014, nếu muốn chấm dứt hành vi bạo lực gia
đình thì chị H hoàn toàn có thể thực hiện các quyền nói trên để đề nghị các cơ


quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm,
quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình.
- Nộp đơn tới Ủy ban nhân dân xã trình bày về việc người vợ bị đánh đập,
lăng nhục để cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
- Nếu hành vi bạo lực ở mức độ nghiêm trọng, tàn ác, gây hậu quả nghiêm
trọng tới sức khỏe và tinh thần của người vợ thì bạn có thể nộp đơn tố cáo đến
công an về tội cố ý gây thương tích hoặc tội hành hạ người khác theo Bộ luật
hình sự.
9. Quy định trách nhiệm ghi chú việc ly hôn:
Nghị định 158/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch có quy
định: “Cơ quan có thẩm quyền khi ra quyết định liên quan đến các thay đổi hộ
tịch (xác định cha, mẹ, con; ly hôn; hủy việc kết hôn trái pháp luật…), đồng
thời gửi một bản sao quyết định cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nơi
trước đây đã đăng ký sự kiện hộ tịch có liên quan đến việc thay đổi để ghi vào
sổ hộ tịch”.

Thực tiễn áp dụng: Đây là quy định tiến bộ, nhằm tăng cường sự quản lý, cập
nhật thay đổi về hộ tịch, vừa giảm thủ tục hành chính cho người dân.
Vì đối với ly hôn tại Việt Nam thì không có quy định bắt buộc phải ghi chú
việc ly hôn. Nay, điều 57 Luật HNGĐ quy định rõ: tòa án đã giải quyết ly hôn
có trách nhiệm phải gửi bản án, quyết định ly hôn đã có hiệu lực pháp luật
cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch. Như vậy,
từ nay giữa tòa án và cơ quan hộ tịch đã có sự liên kết với nhau trong việc
thực hiện ghi chú vào sổ bộ kết hôn. Việc này do chính tòa án và cơ quan hộ
tịch thực hiện (chứ không phải là trách nhiệm của hai bên kết hôn, ly hôn).
10. Chia tài sản phải xét yếu tố lỗi:
Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về “Nguyên tắc giải quyết
tài sản của vợ chồng khi ly hôn” có nhiều điểm mới, đó là trong trường hợp
chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, thì việc giải quyết tài sản khi ly
hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu không có thỏa thuận hoặc thỏa
thuận không đầy đủ, rõ ràng thì được phân chia theo quy định của pháp luật.
Về nguyên tắc, khi chia theo pháp luật thì tài sản chung của vợ chồng được
chia đôi, nhưng có tính đến các yếu tố - trong đó có điểm mới là căn cứ vào
yếu tố lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.


Thực tiễn áp dụng:
Nhưng trên thực tiễn điểm mới này không dễ dàng áp dụng vì một số
nguyên nhân sau:
Thứ nhất, không thể cân đối lỗi giữa vợ và chồng trong cuộc sống khi xét xử,
giải quyết vụ án li hôn. Thực tế xét xử tại Toà án cho thấy: Có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến ly hôn và chủ yếu đều xuất phát từ hai phía vợ và
chồng. Khi đến Tòa án, được Thẩm phán hỏi về nguyên nhân; người vợ khai
rằng do chồng mình ngoại tình, không quan tâm, chăm sóc vợ con; người
chồng lại cho rằng vợ mình có những ngôn từ xúc phạm, thường xuyên gây
áp lực. Mặt khác, khi một bên cho rằng bên kia ngoại tình nhưng lại không có

chứng cứ chứng minh điều đó, nên việc xác minh yếu tố lỗi trên thực tiễn rất
khó khăn. Rõ ràng, mỗi vợ chồng, mỗi gia đình là một hoàn cảnh, có nhiều
nguyên nhân đang xen nhau, nguyên nhân này là tiền đề của mâu thuẫn gia
đình, rồi chính mâu thuẫn đó lại là nguyên nhân, là tiền đề của mâu thuẫn mới
nên không thể xác định được lỗi thuộc về ai, ai là người nhiều lỗi hơn, ai là
người ít hơn. Nên việc qui định vấn đề xem xét lỗi của mỗi bên để tính toán
quyết định tỉ lệ chia tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn thực sự thiếu khả thi trên
thực tế.
Thứ hai, khó nhận diện và phân định rõ ràng vợ hay chồng vi phạm
quyền, nghĩa vụ về nhân thân; vi phạm quyền, nghĩa vụ về tài sản. Chẳng hạn
tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định quyền và nghĩa vụ về
nhân thân của vợ chồng:
“1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm
sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.
2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có
thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham


gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng
khác.”
Nghĩa vụ yêu thương, nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, nghĩa vụ sống
chung vv… như điều luật qui định là những thuật ngữ mang tính định tính,
trừu tượng nên khi xét xử, Toà án khó xác định vợ chồng có vi phạm về
quyền, nghĩa vụ về nhân thân, thậm chí không muốn nói là không thể.
Về vi phạm quyền, nghĩa vụ về tài sản: Điều 29 Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2014 qui định về nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng:
“1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập,
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động
trong gia đình và lao động có thu nhập.
2. Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu

của gia đình.
3. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải
bồi thường.”
Rõ ràng vấn đề bồi thường dân sự đã được đặt ra nếu vợ chồng có vi
phạm về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản đối với người còn lại hoặc
người thứ ba, vậy tại sao lại tiếp tục qui định vi phạm quyền, nghĩa vụ về tài
sản tại điểm d khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016. Với qui định
như thế, khác gì một hành vi vi phạm phải chịu đến hai loại trách nhiệm pháp
lý?
Để làm rõ thêm về “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của
vợ chồng”, Thông tư liên tịch số 01/2016 cho Ví dụ: Trường hợp người chồng
có hành vi bạo lực gia đình, không chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải
quyết ly hôn Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản
chung của vợ chồng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa


thành niên. Theo chúng tôi ví dụ này thực chất là làm sáng tỏ thêm nguyên
nhân mâu thuẫn, mức độ trầm trọng của tình cảm vợ chồng và hoàn cảnh của
vợ, con để có cách thức bảo vệ chủ thể yếu thế hơn đó là người vợ và trẻ chưa
thành niên. Một số trong những cách thức hữu hiệu là giao cho họ với tỉ lệ
nhiều hơn, không nên đồng nhất “lỗi” là yếu tố tác động, ảnh hưởng đến tỉ lệ
được chia. Vấn đề này đã được đề cập tại Thông tư số 690-DS ngày 29-41960 của TANDTC: … căn cứ vào tiêu chuẩn: Lao động góp sức vào gia đình
nhiều hay ít, kết hôn lâu hay mới, con cái đông hay ít và trình trạng cụ thể của
hai bên mà nhận xét để chia cho thoả đáng. Nếu xét lao động cả hai bên tương
xứng thì mới chia bằng nhau. Nếu xét một bên lao động kém, lại có những
hành vi phá tán, hoang phí sẽ chia cho sát theo sự đóng góp công sức của mỗi
bên.
Thứ ba, lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng
không phải là căn cứ để Toà án giải quyết cho các bên ly hôn. Căn cứ để Toà

án cho vợ chồng ly hôn được qui định tại Điều 55, 56 Luật Hôn nhân và Gia
đình. Khoản 1 Điều 56 qui định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa
giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về
việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền,
nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Với
nội dung qui định này thì lỗi mỗi bên không phải là một căn cứ để Toà án giải
quyết cho ly hôn. Nếu không phải là một căn cứ để cho ly hôn thì Toà án
không nhận định trong bản án về lỗi nên không có cơ sở nhận định việc chia
tài sản cho vợ hay chồng được hưởng nhiều hơn do người kia có lỗi trong vi
phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Minh họa: Cam và Quýt là vợ chồng hợp pháp, trong quá trình sống chung,
Cam thường không chăm lo làm ăn, cố tình phá tán tài sản, cờ bạc, rượu chè,
hút sách, gây nợ nần. Quýt làm đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, khi chia tìa sản


chung, tòa án sẽ căn cứ vào yếu tố lỗi để chia tìa sản nếu chị Quýt có chứng
cứ chứng minh.
11.Hạ độ tuổi hỏi ý kiến của trẻ:
Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ,
chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên
sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án
quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi
mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của
con.”
về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn có sự
thay đổi so với luật cũ. Cụ thể: Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi
con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp
không thỏa thuận được thì tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp
nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ bảy tuổi trở lên

thì phải xem xét nguyện vọng của con (trong khi luật cũ quy định nếu con từ
đủ
chín
tuổi
trở
lên).
Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp
người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Thực tiễn áp dụng: Quy định này tương tự luật cũ nhưng lại chặt chẽ hơn ở
điểm không phải bất cứ trường hợp nào con dưới ba tuổi đều ở với mẹ. Bởi vì
dù con dưới ba tuổi, nhưng bản thân người mẹ không đủ điều kiện nuôi con,
chẳng hạn: do đau yếu, bệnh tật triền miên; đi công tác xa liên tục dài ngày;
không nghề nghiệp, việc làm, không có tài sản, thu nhập ổn định để nuôi con;
người mẹ rơi vào tệ nạn xã hội: cờ bạc, rượu chè, mê tín dị đoan, nghiện
ngập, phạm pháp…, thì tòa án vẫn có thể giao con cho người cha được trực
tiếp nuôi giữ và chăm sóc. Quy định này phần nào bảo đảm hơn về quyền và
lợi ích hợp pháp của trẻ và cũng “khắc chế” được phần nào sự ỷ lại của một
số bậc làm mẹ, vì cứ cho rằng con dưới ba tuổi thì đương nhiên thuộc về
người mẹ nuôi, nên họ không tập trung chăm lo, nuôi dạy con tốt…
Nhiều chuyên gia pháp lý cho rằng việc lấy ý kiến của con cái là cần thiết.
Khi cha mẹ ly hôn, các em đã mất đi một điểm tựa quan trọng nhất là mái ấm
gia đình nên rất cần hỏi ý kiến để các em nói lên tâm tư, nguyện vọng của
mình. Điều này cũng phù hợp với tinh thần của Điều 12 Công ước Liên Hiệp


Quốc về quyền trẻ em mà Việt Nam là quốc gia thành viên. Theo đó: Các
quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan
điểm riêng của mình, được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về tất
cả vấn đề có tác động đến trẻ em, những quan điểm của các em được coi trọng

một cách thích ứng với tuổi và độ trưởng thành của các em. Nhưng bên cạnh
dó cũng tồn tại một số bất cập như sau:
 Cha mẹ không hợp tác
Thủ tục lấy ý kiến của con trẻ là bắt buộc trong giải quyết án ly hôn. Nếu
thiếu thủ tục này án sẽ bị tòa cấp trên tuyên hủy. Tuy nhiên, trong thực tiễn
xét xử của ngành tòa án đã gặp nhiều vướng mắc.
Không ít tòa đau đầu vì các bậc cha mẹ không hợp tác, không đưa con cái tới
để tòa lấy ý kiến của các em. Lý do chính là rất nhiều người không muốn cho
con cái biết họ ly hôn, sợ các em bị tổn thương về tâm lý. Ra tòa, họ cương
quyết ly hôn nhưng một, hai mong tòa xem xét không cho con cái biết.
Gặp tình huống này, tòa vẫn phải tiếp tục giải quyết án bởi nếu tòa ra quyết
định đình chỉ giải quyết án dân sự với lý do không có nguyện vọng của con
trẻ là không đúng. Bởi trong vụ án ly hôn, con trẻ không có tư cách tham gia
tố tụng.
Minh họa: Một thẩm phán TAND quận 3 (TP.HCM) kể nhiều vụ do cho cha
mẹ không chịu đưa trẻ đến tòa nên cán bộ tòa phải tìm đến trường học hay nơi
sinh sống của trẻ lấy ý kiến. Không cán bộ tòa nào muốn làm việc này, bởi
hầu hết các trẻ đều ngơ ngác, khóc lóc khi biết cha mẹ mình muốn ly hôn. Và
trong tờ tường trình của trẻ đều thể hiện là muốn sống chung với cả cha lẫn
mẹ. Đã có những trường hợp, một số em buồn bã, học hành sa sút, thậm chí
bỏ nhà đi bụi.
Vướng mắc thứ hai mà gần đây TAND TP.HCM cũng gặp phải là trường hợp
cha mẹ ly hôn, có tranh chấp nuôi con trên chín tuổi nhưng tại thời điểm tranh
chấp, con lại đang đi học ở nước ngoài. Gặp tình huống này, tòa lúng túng,
không biết có cần phải thực hiện ủy thác tư pháp để xem xét nguyện vọng của
con hay không vì luật không hướng dẫn…
 Chỉ để tham khảo?
Điều mà các thẩm phán băn khoăn là luật bắt buộc phải lấy ý kiến của con trẻ
trong khi điều này thực chất cũng chỉ mang tính tham khảo.
Tòa sẽ xem xét các điều kiện về việc chăm sóc, nuôi dưỡng cũng như tình

cảm, đạo đức, phương pháp nuôi dạy… để lựa chọn người nuôi con, bảo đảm
sự phát triển tốt nhất cho trẻ. Khi xem xét để ra quyết định giao trẻ cho cha
hay mẹ, tòa vẫn thường dựa trên thỏa thuận của họ là chính. Chưa kể, như


thực tế đã nêu ra, việc lấy ý kiến nguyện vọng của trẻ nhiều trường hợp lại có
thể gây tổn thương đến tinh thần của trẻ. Vì thế một thẩm phán chuyên giải
quyết án ly hôn đề xuất nên sửa luật theo hướng hạn chế, giới hạn việc lấy ý
kiến nguyện vọng của trẻ.
Theo thẩm phán này, chỉ trong những trường hợp tranh chấp về quyền nuôi
con mà qua thu thập chứng cứ, tòa xét thấy giao đứa trẻ cho bên nào cũng
được thì mới bắt buộc phải thực hiện việc lấy ý kiến của trẻ. Việc thu thập
chứng cứ nên tiến hành bằng cách xác minh thông qua ban giám hiệu, hội phụ
nữ, tổ trưởng dân phố và nơi làm việc của vợ chồng… để tránh việc trẻ bị tổn
thương khi biết cha mẹ sắp ly hôn.
Minh họa: Một thư ký tòa kể một người mẹ chở con đến tòa sau giờ tan học
để hoàn thành thủ tục lấy ý kiến nguyện vọng của con trong vụ ly hôn của bà
với chồng. Tại tòa, thẩm phán khuyên trẻ nên thực lòng viết ra những gì mình
mong muốn, còn người mẹ lại ra sức ngồi bắt con viết theo ý mình là chỉ
muốn sống chung với mẹ. Một lúc sau, đứa trẻ hoảng loạn, không những
không viết được mà còn bật khóc và bỏ chạy ra đường, suýt chút nữa thì bị xe
đụng…
 Nên bỏ hẳn
Thủ tục buộc đưa trẻ từ bảy tuổi trở lên đến tòa làm bản tường trình để biết
nguyện vọng trẻ muốn sống chung với cha hay mẹ sau khi ly hôn cần được
loại bỏ. Bởi lý do khiến đứa trẻ muốn sống với ai thường rất cảm tính. Thực tế
không phải cứ yêu thương nhiều là có thể đáp ứng được điều kiện cho trẻ phát
triển toàn diện như mục đích mà Luật Hôn nhân và Gia đình hướng đến. Hơn
nữa, việc này gây chấn thương tâm lý không thể nào bù đắp được cho trẻ. Với
một quyết định đi theo trẻ suốt đời có ảnh hưởng rất sâu đậm. Nếu mai này có

một sự kiện nào xảy ra khiến trẻ ân hận hay oán trách về quyết định ngày đó,
có phải sẽ là chấn thương tâm lý đối với trẻ hay không?
Theo tôi, trong trường hợp cần thiết, tòa có thể lấy nguyện vọng của trẻ một
cách nhẹ nhàng thông qua những người thân, thầy cô giáo. Đừng bắt buộc trẻ
đến tòa làm bản tường trình như hiện nay sẽ gây ảnh hưởng tâm lý nặng nề
cho trẻ thơ.
 Cần có hướng dẫn riêng
Trẻ từ bảy tuổi trở lên đã bắt đầu nhận thức được sự yêu thương người lớn
dành cho mình nên đặt ra tiêu chí phải lấy nguyện vọng của trẻ khi giải quyết
án ly hôn là cần thiết. Đây là một tiêu chí quan trọng để dựa trên đó, tòa có
thể đánh giá một cách toàn diện về việc quyết định giao trẻ cho cha hoặc mẹ
trực tiếp nuôi dưỡng.


Vấn đề đặt ra là cách lấy nguyện vọng của trẻ như thế nào để tránh cho trẻ
khỏi bị tổn thương. Theo tôi, TAND Tối cao nên có hướng dẫn cụ thể, không
nhất thiết cứ phải triệu tập trẻ đến tòa lập biên bản trong không khí ngột ngạt,
căng thẳng giữa cha và mẹ. Sức ép về tâm lý sẽ tạo nên nỗi ám ảnh khôn
nguôi trong lòng trẻ thơ.
12.Cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo (từ Điều 94 đến Điều 100). Mang thai hộ (MTH) là việc một người phụ
nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ
chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người
chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ
tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
Theo đó, điều kiện MTH là: Các bên tự nguyện và được lập thành văn bản; vợ
chồng nhờ người MTH phải có: xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về
việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật

hỗ trợ sinh sản; đang không có con chung; đã được tư vấn về y tế, pháp lý,
tâm lý; người được nhờ MTH phải có đủ các điều kiện: là người thân thích
cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ MTH; đã từng sinh con và chỉ
được MTH một lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có
thẩm quyền về khả năng MTH; trường hợp người phụ nữ MTH có chồng thì
phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng; đã được tư vấn về y tế,
pháp lý, tâm lý. Việc MTH vì mục đích nhân đạo không được trái với quy
định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Bên cạnh đó, Luật cũng quy định cụ thể việc xác định cha, mẹ trong trường
hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, quyền, nghĩa vụ của bên mang thai
hộ và bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, giải quyết tranh chấp liên
quan đến việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Thực tiễn áp dụng: Đây là vấn đề hết sức mới mẻ và cần phải có văn bản quy
định và hướng dẫn chi tiết mới có thể thực thi được. Ngay tại điều 95 quy
định về điều kiện MTH có nói rõ Chính phủ quy định chi tiết thi hành điều
này. Trong khi luật đã ban hành khá lâu và đã đến thời điểm có hiệu lực thi
hành, tuy nhiên cho đến nay Chính phủ vẫn chưa có văn bản quy định chi tiết
nên sẽ rất bất cập, khó lòng thực thi trên thực tế.


Cụ thể tại các khoản 1, 2, 3 và 4 của Điều 95 trong Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014 quy định về điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo có nội
dung như sau:

“1. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự
nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
2. Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau
đây:
a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể
mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;

b) Vợ chồng đang không có con chung;
c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
3. Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai
hộ; b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả
năng mang thai hộ;
d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý
bằng văn bản của người chồng;
đ) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
4. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của
pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.”
Thứ nhất là với quy định như trên, xin nêu ra những bất cập khó khả thi của
điều luật này là ở chỗ tại Điểm b, Khoản 2 có quy định: Vợ chồng có quyền
nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây: b) Vợ chồng đang
không có con chung. Nếu quy định như trên tức là đã hạn chế quyền có con
thứ hai, nói cách khác là những người vì lý do nào đó nên không may mắn là
chỉ sinh được một con thì sẽ bị cắt mất quyền được làm cha, làm mẹ của con
thứ hai. Trong khi đó, chính sách của Nhà nước khuyến khích mỗi gia đình có
một đến hai con.


Bất cập thứ hai nằm ở điều kiện đối với người mang thai hộ được quy định tại
Điểm a, Khoản 3 cũng ở Điều 95 như sau: 3. Người được nhờ mang thai hộ
phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Là người thân thích cùng hàng của bên
vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ... Theo quy định trên, ai sẽ là người xác
nhận, cơ quan nào có đầy đủ tư cách về mặt tư pháp để xác nhận cho người có
nhu cầu mang thai hộ? Chưa hết, việc xác nhận này được chứng thực trên
những loại giấy tờ gì?... Việc xác nhận người mang thai hộ cùng hàng bên vợ
hoặc bên chồng với vợ hay chồng người cần mang thai hộ nếu là trách nhiệm

của cơ quan hành chính, vậy thì người ký phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật như thế nào về việc xác nhận này. Việc xin giấy xác nhận này do vợ hoặc
chồng người có nhu cầu mang thai hộ tự lo về mặt thủ tục hành chính hay
người mang thai hộ phải làm.
Bất cập thứ ba là đối với những vợ chồng tuy đã có con chung, nhưng người
con bị khuyết tật nên muốn được nhờ người khác mang thai hộ thì không
được pháp luật cho phép. Vì trong Luật hôn nhân và gia đình không có điều
khoản nào quy định về vấn đề này. Bởi vì hiện nay, pháp luật Việt Nam coi
người khuyết tật cũng là người có quyền lợi, nghĩa vụ của một công dân. Tuy
nhiên, xét ở góc độ nhân đạo thì đối với những vợ chồng trong hoàn cảnh này
nếu có thêm một đứa con từ việc mang thai hộ với sức khỏe tốt, sau này sẽ
chăm sóc cha mẹ già yếu và người anh/chị bị khuyết tật... là rất nhân đạo.
Minh họa: Nhiều người lợi dụng kẽ hở của pháp luật để vi phạm, nhiều
trường hợp trên giấy tờ là mạng thai hộ vì mục đích nhân đạo, nhưng thực
chất là vì lợi nhuận, tiền bạc.
13. Áp dụng tập quán trong HNGĐ
Khoản 4 Điều 3 Luật HNGĐ 2014 quy định cụ thể việc áp dụng tập quán
trong hôn nhân gia đình so với Luật năm 2000, đó là: Chỉ được áp dụng tập
quán trong trường hợp pháp luật không có quy định và các bên không có thỏa
thuận nhưng không được trái với các nguyên tắc, vi phạm các điều cấm tại
Luật này.
Thực tiễn áp dụng: Quy định này chỉ quy định “Vận động nhân dân xoá bỏ
phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống,
phong tục tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc; xây dựng quan
hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ”. Việc quy định chung chung tạo nhiều kẽ hở,
bất cập, gây khó khăn cho tòa án khi xét xử các vụ án về hôn nhân gia đình
mà phải áp dụng các phong tục tập quán.
Song trên thực tiễn lại rất dễ để nhìn thấy quá trình áp dụng tập quán để
giải quyết án hôn nhân và gia đình gặp rất nhiều khó khăn. Tại một số địa



phương như Tuyên Quang, Lai Châu, Thanh Hóa, Cao Bằng,… hiện nay vẫn
còn một số phong tục tập quán ở những thôn bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa
như hiện tượng đặt dâu trước, tục ở rể (mặc dù chúng chỉ mang tính hình
thức); việc đăng ký kết hôn không do Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện; cấm
kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi từ bốn đời trở lên; tình trạng
tảo hôn và hôn nhân cận huyết; bắt buộc người phụ nữ góa chồng hoặc người
đàn ông góa vợ, nếu kết hôn với người khác thì phải trả lại tiền cưới cho nhà
chồng cũ hoặc nhà vợ cũ; đòi lại của cải, phạt vạ khi vợ, chồng ly hôn…
Vậy thì căn cứ vào đâu để xác định những tập quán nào cần kế thừa, phát
huy và những tập quán nào cần được xóa bỏ. Điều này thực sự rất khó xác
định vì thực tế quan niệm của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng, tầng lớp xã
hội khác nhau. Do đó, ở các địa bàn ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân
tộc ít người việc áp dụng tập quán hôn nhân gặp khá nhiều trở ngại.
Điển hình là, nhiều trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng mà
không có đăng ký kết hôn, nhưng lại được cộng đồng dân cư nơi họ cư trú
công nhận, bảo vệ. Khi xảy ra tranh chấp, Tòa án căn cứ vào quy định của
Luật Hôn nhân và Gia đình để tuyên bố không công nhận hôn nhân của các
đương sự. Tuy nhiên, đương sự, gia đình và dòng họ hai bên thì không đồng
tình với quyết định của Tòa án.
Cũng có trường hợp nam nữ khi kết hôn không vi phạm quy định của
Luật về cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm ba đời, song theo
tập quán, họ vẫn thuộc phạm vi quan hệ họ hàng không được kết hôn, bởi vậy,
họ đã bị gia đình, cộng đồng không cho kết hôn hoặc không thừa nhận hôn
nhân… Ngoài các trường hợp này, việc tranh chấp về các lễ vật, sính lễ trong
ngày cưới, kết hôn cũng đang tiếp tục xảy ra và được giải quyết một cách
không thống nhất...
Nhiều vùng dân tộc thiếu số hay các vùng gần biên giới vẫn lợi dụng phong
tục tập quán để vi phạm luật hôn nhân, vì chưa có các quy định cụ thể rõ ràng
phong tục nà được áp dụng, phong tục nào không được áp dụng. Bên cạnh đó,



việc xóa bỏ một số phong tục tập quán lạc hậu của các vùng miền là điều rất
khó thực hiện, vì nó ăn sâu vào máu của họ.
Minh họa: Tục bắt vợ “không tự nguyện” ở một số địa phương vẫn còn tồn
tại mặc dù đã có pháp luật can thiệp.
Vừa qua một nữ học sinh lớp 9 tên V người Sa Pả (Sa Pa, Lào Cai) đã bị một
gia đình ở San Sả Hồ bắt về làm vợ cho con. Mặc cô bé van khóc như mưa,
lăn lộn dưới đất vì không đồng ý lại thêm sự can ngăn của thầy giáo hiệu phó
của V và du khách, gia đình người đi bắt vợ cho con vẫn quyết tâm kéo cô bé
đi. Sự việc chỉ kết thúc khi có sự can thiệp của bố mẹ em và chính quyền địa
phương. Hiện V đã được đón về nhà, tâm lý ổn định và đi học trở lại.
II.

Nhận xét đánh giá thực tiễn áp dụng các điểm mới của Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã khắc phục một số điểm còn hạn
chế ở Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Với những bổ sung, sửa đổi quan
trọng trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nhiều Tòa án đã nỗ lực để
khắc phục những yếu kém còn tồn tại trong quá trình giải quyết án ly hôn.
Qua đó cho thấy sự đầu tư thích đáng về thời gian, công sức, sự tham gia của
các nhà khoa học trong các trường đại học, cơ sở nghiên cứu khoa học và các
chuyên gia làm thực tiễn, sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành có liên
quan trong quá trình soạn thảo văn bản, trình độ và kỹ thuật lập pháp, lập quy
của các nhà chuyên môn và các thành viên soạn thảo cũng như các chuyên gia
làm nhiệm vụ kiểm tra, thẩm định các dự án luật.Tại thời điểm Luật mới có
hiệu lực, các Tòa án cùng các cơ quan tư pháp đã tranh thủ sự chỉ đạo của cấp
trên; tổ chức tập huấn, các cuộc họp chuyên môn để tạo điều kiện áp dụng các
quy định mới một cách hiệu quả nhất.

Một điều đáng chú ý đó là qua các cuộc họp trực tuyến, các Tòa án địa
phương đã cố gắng đưa các câu hỏi liên quan đến điểm mới của Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 thảo luận và để Tòa án nhân dân tối cao giải đáp
các thắc mắc trong quá trình áp dụng.


Tuy nhiên, việc áp dụng điểm mới trên thực tế còn tồn tại nhiều bất cập.
Nhiều vấn đề trong thực tiễn cần có cơ sở pháp lý lại chưa được Luật hay văn
bản dưới Luật quy định gây bối rối trong quá trình thi hành. Luật mới đi vào
cuộc sống nhưng lại thiếu tính khả thi, một số khía cạnh lại khó áp dụng, cho
nên những người có thẩm quyền thi hành pháp luật rất khó xử khi giải quyết
những trường hợp cụ thể. Với quan điểm cá nhân, tôi xin được đưa ra một số
kiến nghị sau:
-

Cơ quan có thẩm quyền cần chỉ đạo thống nhất cho các cơ quan tư pháp

chủ trì phối hợp với Bộ Tư pháp và các cơ quan chức năng của các bộ, ngành
phân tích, đánh giá tổng thể lĩnh vực mà từng bộ, ngành quản lý xem những
quan hệ xã hội nào đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp luật hay không.
Đánh giá xem pháp luật hiện hành có phù hợp với các điều kiện kinh tế
- xã hội và những điều kiện khác không;
Phân tích Văn bản quy phạm Pháp luật trong ngành luật Hôn nhân gia
đình để xác định và làm rõ thực tế đang thiếu quy phạm pháp luật nào mà
trong từng tình huống thực tế cần phải có để điều chỉnh;
Phân tích những hoàn cảnh và tình tiết mà dự kiến áp dụng những quy
phạm tương tự. Trong trường hợp này, những quy phạm để điều chỉnh cần
phải có những dấu hiệu pháp lý cốt yếu, cơ bản tương ứng để khi xây dựng và
áp dụng vào thực tiễn bảo đảm hiệu quả, chính xác và ổn định lâu dài;
Trong pháp luật thường có những quy phạm cấm và cho phép, cần làm

rõ trong các văn bản luật đang thiếu vắng điều cấm nào mà những người áp
dụng luật đòi hỏi phải bổ khuyết.
Hạn chế sự chồng chéo các quy định Pháp luật gây nhầm lẫn, khó hiểu,
khó áp dụng. Ưu tiên tính khả thi khi ban hành, sửa đổi, bổ sung Luật.
III. Kết luận
Đề tài: “Những điểm mới của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
và thực tiễn áp dụng” là một đề tài được đưa ra để lấy ý kiến của dư luận,
qua việc phân tích làm rõ những điểm mới cũng như thực tiễn áp dụng các
điểm mới trong Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành đã cho thấy được phần


nào những tính khả thi cũng như bất cập trong quá trình đưa luật đi vào cuộc
sống con người.
Việc khắc phục được những bất cập và hạn chế từ những quy định trong
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã góp phần giải quyết được nhiều vụ
án mà trước đây với Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 chưa thể bao quát
và giải quyết triệt để. Điều này đã đánh giá được phần nào những tiến bộ
trong hoạt động cải cách tư pháp Việt Nam.
Cũng qua nội dung bài thu hoạch trên, một điều không thể bỏ sót trong
quá trình lập pháp lập quy đó là “tính khả thi” trên thực tế. Bởi lẽ không chỉ
riêng án Hôn nhân và Gia đình mà tất cả các ngành luật khác đều phải đảm
bảo khả năng thực thi quy định pháp luật trong đời sống. Như vậy Pháp luật
mới thực sự đảm bảo công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con
người và giải quyết hiệu quả các tranh chấp phát sinh.
IV.

Danh mục tài liệu tham khảo.

1. Văn bản pháp luật.
1.

2.
3.
4.
5.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (Số: 22/2000/QH10);
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (Số: 52/2014/QH13);
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Bộ luật dân sự năm 2015;
Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng

dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình số
52/2014/QH13.
6.
Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01 năm 2015 của Chính
phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều
kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo;
7.
Bản án số 36/2007/HN-PT ngày 12/4/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh
Bến Tre;
2. Internet:
1.




2.
3.
4.
5.

6.

7.






Nguyễn Minh Đức - Trung tâm Nghiên cứu Tội phạm học và phòng

ngừa tội phạm - Học viện Cảnh sát nhân: “Khắc phục những xung đột và lỗ
hổng trong pháp luật”



×