Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

thảo luận hợp đồng lần 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.51 KB, 24 trang )

VẤN ĐỀ 1: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VIỆC KHÔNG THỰC HIỆN
ĐÚNG HỢP ĐỒNG GÂY RA
Câu 1: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005
về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
Theo căn cứ pháp lý tại Điều 360 BLDS 2015 thì: “Trường hợp có thiệt hại do
vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Như vậy, căn cứ để làm
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
gồm 03 yếu tố: có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại xảy ra trên thực tế; mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại.
Những thay đổi của BLDS 2015 so với BLDS 2005:
Thay vì chỉ quy định chung chung thì BLDS 2015 đã dành ra các điều luật để
quy định về chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Theo đó, có những
nội dung mới và nổi bật như sau:
Khoản 1 Điều 308 BLDS 2005: “Người
không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách
nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô
ý, trừ trường hợp có thoả thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác”.

Điều 360 BLDS 2015: “Trường hợp có
thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì
bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ
thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc luật có quy định khác”

Đầu tiên, điểm khác biệt cơ bản nhất của BLDS 2015 là các nhà làm luật đã bỏ
đi quy định về điều kiện lỗi. Khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại việc chứng
minh lỗi không cần được đặt ra. Tuy nhiên, trường hợp bên vi phạm nghĩa vụ muốn


loại trừ trách nhiệm bồi thường thì họ phải chứng minh được họ không có lỗi trong
việc gây ra thiệt hại như thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết,
do lỗi của người bị thiệt hại,…1

Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr.555
1

1


Điều 419 BLDS 2015:
“1. Thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng được xác định
theo quy định tại khoản 2 Điều này, Điều 13 và Điều 360 của Bộ luật này.
2. Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra mình sẽ
được hưởng do hợp đồng mang lại. Người có quyền còn có thể yêu cầu người có
nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng mà không
trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại.
3. Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết
định căn cứ vào nội dung vụ việc”.
Thứ hai, các loại thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ trong hợp
đồng cũng được xác định cụ thể, đầy đủ, rõ ràng hơn so với trước đây. Theo đó, các
thiệt hại bồi thường không chỉ là các thiệt hại xảy ra trên thực tế mà còn là các khoản
lợi mà bên có quyền đáng lẽ sẽ có được nhưng do hành vi vi phạm của bên kia nên
không thể thu được.
BLDS 2015 đã quy định thêm một loại thiệt hại được bồi thường tại khoản 2
Điều 419 BLDS 2015, đó chính là chi phí bên bị vi phạm phải gánh chịu trong quá
trình thực hiện hợp đồng. Chẳng hạn như chi phí thuê luật sư tham gia tố tụng Toà án
hoặc Trọng tài. Theo các quy định cũ thì phí luật sư và các phí liên quan chưa bao giờ

được bên thua kiện hoàn trả cho bên thắng kiện. Nhờ vào quy định này của BLDS
2015 nên chế độ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đã trở nên mới
mẻ và tiến bộ hơn.
Khoản 2 Điều 448 BLDS 2005:
“…Bên bán được giảm mức bồi thường
thiệt hại nếu bên mua không áp dụng các Điều 362 BLDS 2015:
biện pháp cần thiết mà khả năng cho “Bên có quyền phải áp dụng các biện
phép nhằm ngăn chặn, hạn chế thiệt pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hại không
hại”.

xảy ra hoặc hạn chế thiệt hại cho mình”.

Điều 575 BLDS 2005:
“1. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, bên
2


mua bảo hiểm hoặc bên được bảo hiểm
phải báo ngay cho bên bảo hiểm và phải
thực hiện mọi biện pháp cần thiết mà
khả năng cho phép để ngăn chặn, hạn
chế thiệt hại.
2. Bên bảo hiển phải thanh toán chi phí
cần thiết và hợp lý mà người thứ ba đã
bỏ ra để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại”.
Thứ ba, BLDS 2005 đã có quy định về chế định nghĩa vụ ngăn chặn, hạn chế
thiệt hại nhưng do tính chất rời rạc của các điều luật nên chưa tạo thành được một
nội dung mang tính nguyên tắc. Để khắc phục những điểm hạn chế của Bộ luật cũ,
BLDS 2015 đã quy định ngăn chặn, hạn chế thiệt hại trở thành một xử sự bắt buộc của
bên có quyền tại Điều 362. Bản chất của quan hệ hợp đồng dân sự kể từ khi ký kết cho

đến lúc thực hiện hợp đồng đều phải dựa trên nguyên tắc thiện chí trung thực và cùng
hợp tác. Do đó, nếu bên có quyền có khả năng hạn chế thiệt hại mà họ không làm và
cứ buộc bên có nghĩa vụ gánh chịu toàn bộ thiệt hại thì lại không hợp lý. Quy định
mới góp phần nâng cao nhận thức và ý thức cho bên có quyền, giúp thúc đẩy sự thiện
chí, đảm bảo cân bằng lợi ích và hướng tới sự phát triển giữa các bên.
Điều 302 BLDS 2005:
“Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách
nhiệm dân sự nếu chứng minh được
nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn
toàn do lỗi của bên có quyền”.

Điều 363 BLDS 2015:
“Trường hợp vi phạm nghĩa vụ và có
thiệt hại là do một phần lỗi của bên bị vi
phạm thì bên vi phạm chỉ phải bồi
thường thiệt hại tương ứng với mức độ
lỗi của mình”.

Thứ tư, về vấn đề bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên vi phạm có lỗi.
Đây cũng có thể được xem là một điểm tiến bộ trong mặt tư duy lập pháp của các nhà
làm luật ở nước ta.

3


Trước đây, những quy định của BLDS 2005 chỉ thể hiện được nội dung: “hoàn
toàn do lỗi của bên có quyền”. Tuy nhiên, trên thực tế có trường hợp khi một bên vi
phạm nghĩa vụ làm phát sinh thiệt hại chỉ là do lỗi một phần của bên có quyền.
Vậy nên, quy định tại Điều 363 BLDS 2015 là hệ quả tất yếu của việc không
thực hiện nghĩa vụ ngăn chặn, hạn chế thiệt hại của bên có quyền. Quy định mới này

đã phù hợp hoá luật với thực tiễn xét xử cũng như bảo đảm sự phù hợp của quy định
pháp luật với lẽ công bằng.
Câu 2: Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà
Nguyễn đã hội đủ chưa? Vì sao?
Trong tình huống trên, đã có hành vi xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn. Đó chính là việc bác sĩ Lại thuộc chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ đã thực
hiện quy trình phẫu thuật có trục trặc trên thực tế dẫn đến các tình trạng như: sau lần
một, bà Nguyễn thấy núm vú sưng lên, đau nhức và đen như than; vết mổ hở liên tục
khiến túi nước dịch tuôn ướt đẫm người; bà Nguyễn bị mất núm vú. Như vậy, bác sĩ
Lại đã xâm phạm tới sức khoẻ của bà Nguyễn vì những sai phạm liên quan đến
chuyên môn của mình.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoải hợp đồng do con người
gây ra (Theo khoản 1 Điều 584 BLDS 2015):2
 Hành vi trái pháp luật: trong trường hợp này, Ông Lại đã có hành vi không thực
hiện đúng các cam kết theo hợp đồng thẩm mỹ giữa ông và bà Nguyễn. Suy
cho cùng, hợp đồng thẩm mỹ đương nhiên ghi nhận sự thành công của ca phẫu
thuật do bác sĩ Lại đã nhận tiền từ khách hàng là bà Nguyễn rồi mới thực hiện
ca phẫu thuật.
 Thiệt hại vật chất: bà Nguyễn bị mất núm vú, trước đó thì luôn phải chịu sự đau
nhói, sưng nhức và trào túi nước dịch.
 Mối quan hệ nhân quả: Do những hành vi thực hiện không đúng các thoả thuận
về phẫu thuật do hai bên cam kết nên bác sĩ Lại đã khiến cho bà Nguyễn phải
mất núm vú.
Áp dụng tinh thần còn hợp lý của tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
2

4



Như vậy, có cơ sở cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do không thực
hiện đúng hợp đồng đã phát sinh vì các căn cứ đã hội đủ.
Câu 3: Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp
đồng gây ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Dựa theo căn cứ pháp lý tại khoàn 2 Điều 361: “2. Thiệt hại về vật chất là tổn
thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để
ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút”.
Như vậy, thiệt hại về vật chất là toàn bộ tổn thất vật chất thực tế xác định được,
bao gồm thiệt hại trực tiếp tổn thất về tài sản hoặc thiệt hại gián tiếp như chi phí hợp
lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm
sút.
Câu 4: BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do
vi phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ theo Điều 419 BLDS 2015 thì thiệt hại được bồi thường do vi phạm
nghĩa vụ theo hợp đồng được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều này, Điều 13 và
Điều 360. Dựa theo Điều 360 BLDS 2015 thì trường hợp có thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp
có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác. Mặt khác, Điều 361 cũng đã quy định
rằng: “Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh
thần”.
Như vậy, nếu có tổn thất (thiệt hại) về tinh thần phát sinh do vi phạm hợp đồng
trên thực tế thì BLDS 2015 cho phép bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu bồi thường.
Câu 5: Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về tinh
thần không? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ theo tình tiết mà đề bài đưa ra và dựa trên quy định hiện hành, chưa có
căn cứ để Tòa án xem xét về bồi thường tổn thất về tinh thần cho bà Nguyễn.
Trước tiên, cần phải hiểu rằng thiệt hại về tinh thần về nguyên tắc là không thể
tính toán hay ước lượng vì không có tính chất như các đại lượng vật chất tồn tại khách
quan. Giá trị tinh thần không thể cân, đo, đong, đếm vì tồn tại chủ quan bên trong mỗi

con người. Qua đó, cơ quan có thẩm quyền không thể tự kết luận về tình trạng bị tổn
thất về mặt tinh thần khi xem xét về một vụ việc.
5


Do đó, có thể xem tổn thất về mặt tinh thần chỉ là điều kiện cần trong trường
hợp này. Để Tòa án có căn cứ buộc phía bác sĩ Lại bồi thường cho bà Nguyễn thì cần
có yêu cầu từ phía của bà Nguyễn, đây chính là điều kiện đủ. Điều này là dễ hiểu vì
chỉ có người có quyền, bà Nguyễn, mới hiểu rõ về tình trạng tinh thần của bản thân và
qua đó yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ quyền lợi của mình.
Như vậy, theo quy định hiện hành, bà Nguyễn chỉ có thể được bồi thường tổn
thất về tinh thần nếu chứng minh rõ ràng tinh thần của bà đã bị xâm phạm thông qua
các tình tiết thực tế và có yêu cầu đối với Tòa án.

6


VẤN ĐỀ 2: PHẠT VI PHẠM HỢP ĐỒNG
Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng.
BLDS 2005 và BLDS 2015 đều quy định phần phạt vi phạm hợp đồng tại Mục
Thực hiện hợp đồng nhưng vẫn tồn tại một số điểm khác biệt.
Thứ nhất, về mức phạt, BLDS 2005 quy định “Mức phạt vi phạm do các bên thỏa
thuận” tại khoản 2 Điều 422 còn BLDS 2015 theo hướng “Mức phạt vi phạm do các
bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác” tại khoản 2 Điều 418.
Đoạn in nghiêng là quy định được bổ sung với lý do hiện này vẫn có luật quy định
khác về mức phạt như Luật xây dựng, Luật thương mại có quy định về mức phạt tối
đa (tức 2 bên không hoàn toàn tự do thỏa thuận về mức phạt).
Thứ hai, khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 theo hướng “các bên có thể thỏa thuận về
việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường
thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm, vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có

thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệu hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trong
trường hợp các bên không có thỏa thuận về bồi thường thiệu hại thì bên vi phạm nghĩa
vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm”. Mặt khác, khoản 3 Điều 418 BLDS 2015 quy định
“các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt mà không
phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt
hại. Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về
việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm
nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”. Đoạn in nghiêng của quy định cũ đã được bỏ vì
đây là vấn đề bồi thường thiệt hại và đã có quy định khác điều chỉnh tại Điều 13 và
Điều 36 BLDS 2015.
Thứ ba, về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệu hại, BLDS 2015
vẫn theo hướng nếu không có thỏa thuận cụ thể về việc kết hợp hai chế tài này thì thỏa
thuận phạt vi phạm loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại (có thỏa thuận về phạt vi
phạm mà không có thỏa thuận về sự kết hợp thì chỉ áp dụng phạt vi phạm). Tuy nhiên,
quy định của BLDS 2005 có cách hành văn chưa mạch lạc nên đã dẫn tới các cách
hiểu khách nhau. Để hạn chế việc hiểu khác nhau về cùng một điều luật, đoạn in

7


nghiêng trong quy định mới đã có những thay đổi rõ ràng so với quy định tương ứng
cũ.3
 Đối với vụ việc thứ nhất:
Câu 2: Điểm giống nhau giữa đặt cọc và vi phạm hợp đồng
Căn cứ pháp lý: Điều 328, Điều 418 BLDS 2015
Về đối tượng thực hiện: là khoản tiền một bên bắt buộc phải nộp cho bên còn lại;
Về hình thức: đều được lập thành văn bản;
Về hậu quả pháp lý: bên vi phạm sẽ bị mất một khoản tiền và không căn cứ vào hậu
quả thực tế.
Câu 3: Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội

dung của phạt vi phạm hợp đồng?
Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc, thể hiện cụ thể
ở đoạn văn trong phần “Xét thấy”:
“Do vậy số tiền thanh toán đợt 1 là 30% giá trị đơn hàng (406.920.000 đồng)
được xác định là tiền đặt cọc. Việc đặt cọc này là phù hợp khoản 7 Điều 292 Luật
Thương mại và Điều 358 Bộ luật dân sự”.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản
tiền trả trước 30%.
Hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản tiền trả trước 30% là hợp lý
vì những lí do sau:
Thứ nhất, về vấn đề xác định khoản tiền trả trước 30% là tiền đặt cọc. Tòa án
đã căn cứ vào khoản 3 Điều 4 Hợp đồng kinh tế số 01-10/TL-TV ngày 01/10/2010 để
kết luận, đây có thể nói là một cơ sở pháp lí hợp tình, hợp lí, công bằng, tôn trọng
nguyên tắc của Luật Dân sự (thỏa thuận), đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của
các bên.
Thứ hai, về việc không chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH Sản xuất
Thương mại Dịch vụ Tân Việt về việc yêu cầu Công ty TNHH Tường Long thanh
toán tiền phạt cọc là 406.920.000 đồng.

Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học – Những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật
gia Việt Nam, xuất bản lần thứ 2, tr. 390, 391
3

8


Đúng như tòa án đã xác định, số tiền thanh toán đợt 1 là 30% giá trị đơn hàng
(406.920.000 đồng) là tiền đặt cọc, mà căn cứ vào khoản 2 Điều 328 BLDS 2015,
“nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên
đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc”. Như

vậy, ta thấy bên nhận đặt cọc (ở đây là Công ty Tường Long) chỉ phải trả cho bên đặt
cọc (ở đây là Công ty Tân Việt) tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương khi
bên nhật đặt cọc từ chối việc giao kết. Trong khi đó, căn cứ vào dữ liệu đề bài, ta thấy
Công ty Tường Long không hề từ chối thực hiện việc giao kết, hợp đồng vẫn được
thực hiện trên thực tế (ngày 12/11/2010, Công ty Tường Long giao lô hàng mẫu đầu
tiên với số lượng…bao gồm VAT). Lí do việc thực hiện hợp đồng bị trì hoãn là do lí
do khách quan (giá nguyên liệu tăng), Công ty Tường Long có gửi công văn thông
báo đến Công ty Tân Việt nhưng Công ty Tân Việt không đồng ý. Từ những dữ liệu
trên, ta có thể kết luận bản chất của tiền cọc là để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, Công
ty Tường Long đã thực hiện nghĩa vụ giao hàng như những gì đã cam kết, vậy nên
không thể yêu cầu Công ty TNHH Tường Long thanh toán tiền phạt cọc.
 Đối với vụ việc thứ hai:
Câu 5: Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới
hạn như thế nào?
Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới hạn là
không quá 8% giá trị Hợp đồng, được thể hiện ở đoạn sau:
“Thứ hai, mức phạt Hợp đồng 30% giá trị của Hợp đồng là cao so với quy định
của pháp luật Việt nam, cụ thể là…giá trị của Hợp đồng”.
Trọng tài đã căn cứ pháp lý theo Điều 301 Luật Thương mại 2005 để đưa ra
Quyết định: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối
với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị
phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật
này.”
Vậy, Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn khoản tiền phạt là 2780 USD
tương đương với 8% giá trị của hợp đồng.
Câu 6: So với văn bản. mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định có thuyết
phục không? Vì sao?
9



So với văn bản mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định là thuyết phục do
những nguyên nhân sau:
Trong các băn bản liên quan có quy định (căn cứ pháp lí):
Khoản 2 Điều 418 BLDS 2015 quy định về Thoả thuận phạt vi phạm: “Mức
phạt vi phạm do các bên thoả thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”.
Điều 301 Luật Thương mại 2005: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp
đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường
hợp quy định tại Điều 266 của Luật này.”
Điều 1, Điều 2, Điều 3 Luật Thương mại 2005: “Hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư,
xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Thực tế của vụ việc trong Quyết định của Trọng tài: Trong trường hợp này, có
xuất hiện sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng về việc phạt vi phạm hợp đồng có
mức giá trị là 30% giá trị hợp đồng. Như vậy, theo Khoản 1 và 2 Điều 418 BLDS thì
khi các bên có thỏa thuận thì bên vi phạm có nghĩa vụ nộp khoản tiền cho bên bị vi
phạm bằng mức phạt vi phạm đã thỏa thuận. Tuy nhiên, vì hợp đồng này là hợp đồng
thương mại (nội dung hợp đồng liên quan đến hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, cụ
thể là “Hợp đồng mua bán hàng hóa” số FK-JSC 02/2006) nên phải căn cứ theo Điều
301 của Luật Thương mại 2005. Lúc này, mức phạt 30% như trong thỏa thuận của hai
bên là cao hơn so với quy định của pháp luật nên phần mức phạt vi phạm cao hơn 8%
giá trị hợp đồng bị vô hiệu.
Từ những nguyên nhân trên, có thể thấy rằng mức giới hạn phạt vi phạm trong
Quyết định là hoàn toàn hợp lý.
Câu 7: Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp đồng
có được kết hợp với bồi thường thiệt hại không nếu các bên không có thỏa thuận
về vấn đề này? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Vấn đề kết hợp phạt vi phạm hợp đồng với bồi thường thiệt hại trong pháp luật
Dân sự và Luật Thương mại có những quy định khác nhau. Cụ thể là:
-


Trong pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp đồng có thể được kết hợp

với bồi thường thiệt hại nếu các bên không có thỏa thuận về vấn đề này.
10


Theo Luật thương mại năm 2005 quy định tại Khoản 2 Điều 307: “Trường hợp
các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài
phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định
khác.”
Quy định này cho phép bên bị vi phạm được quyền yêu cầu bồi thường những
thiệt hại do bên vi phạm hợp đồng gây ra khi các bên có thỏa thuận về việc phạt vi
phạm hợp đồng nhưng không thỏa thuận trước về việc kết hợp phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại.
Ngoài ra, theo Điều 316 Luật Thương mại năm 2005 cũng có quy định: “Một
bên không bị mất quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổn thất do vi phạm hợp
đồng của bên kia khi đã áp dụng các chế tài khác”. Như vậy, đối với hợp đồng
thương mại, chỉ cần chứng minh được thực tế có thiệt hại xảy ra, và hành vi trái pháp
luật do bên vi phạm gây ra, hành vi vi phạm của bên vi phạm là nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến thiệt hại của bên có quyền hoàn toàn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và
có thể kết hợp bồi thường thiệt hại với các chế tài khác.
-

Trong pháp luật dân sự, phạt vi phạm hợp đồng không thể được kết hợp

với bồi thường thiệt hại nếu các bên không có thỏa thuận về vấn đề này.
Căn cứ pháp lý tại Khoản 3 Điều 418 BLDS 2015“Trường hợp các bên có
thoả thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi
phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi

phạm.”
Dù hành vi vi phạm của bên vi phạm có gây ra thiệt hại đối với bên bị thiệt hại
thì việc không có thỏa thuận từ trước về kết hợp phạt vi phạm với bồi thường hợp
đồng thì bên vi phạm chỉ bị phạt vi phạm hợp đồng.
Câu 8: Trong Quyết định Trọng tài, phạt vi phạm hợp đồng có được kết hợp với
bồi thường thiệt hại không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định Trọng tài, phạt vi phạm hợp đồng được kết hợp với bồi
thường thiệt hại.
Đoạn trong Quyết định cho câu trả lời: “Tuy nhiên, Điều 301 Luật Thương mại
cũng quy định ngoài mức phạt như trên, bên bị thiệt hại có quyền đòi bồi thường thiệt
hại thực tế. Do các bên dã thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại tối đa là 30% tổng
11


giá trị Hợp đồng, nên việc cho phép bồi thường mức cao hơn sẽ tạo bất ngờ cho Bị
đơn. Hội đồng Trọng tài cho rằng có thể xét bồi thường thiệt hại thực tế cho Nguyên
đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản phạt vi phạm sẽ không được cao
quá 30% giá trị hợp đồng.”
Câu 9: Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt
hại do không thực hiện đúng hợp đồng.
Điểm giống nhau giữa phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại do không
thực hiện đúng hợp đồng:
-

Phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại đều được áp dụng với các hợp
đồng có hiệu lực;

-

Trách nhiệm pháp lý của cả hai vấn đề này đều được áp dụng với chính các chủ

thể hợp đồng (mà không phải là ai khác);

-

Nguyên nhân dẫn đến hai hậu quả này đều do có hành vi vi phạm của các chủ
thể tham gia hợp đồng. Cả hai hệ quả đều nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi
ích của bên bị vi phạm;

-

Là quy định của pháp luật nhằm tác động vào ý thức tôn trọng pháp luật, xác
định trách nhiệm pháp lý của chủ thể tham gia hợp đồng.

Điểm khác nhau giữa phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại do không thực
hiện đúng hợp đồng:

Phạt vi phạm hợp đồng

Khái niệm

Bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng

Căn cứ theo Điều 300 Luật Thương

Căn cứ theo Khoản 1 Điều 302

mại 2005: “Phạt vi phạm là việc bên

Luật Thương mại 2005: “Bồi


bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả

thường thiệt hại là việc bên vi

một khoản tiền phạt do vi phạm

phạm bồi thường những tổn thất

hợp đồng nếu trong hợp đồng có

do hành vi vi phạm hợp đồng gây

thoả thuận, trừ các trường hợp

ra cho bên bị vi phạm”.

miễn trách nhiệm quy định tại Điều
294 của Luật này”.
12


Điều 360 BLDS 2015 cũng quy

Tính phổ biến

Mục đích

Điều kiện áp


Khoản 1 Điều 418 BLDS 2015 cũng

định rằng: “Trường hợp có thiệt

đề cập: “Phạt vi phạm là sự thoả

hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra

thuận giữa các bên trong hợp đồng,

thì bên có nghĩa vụ phải bồi

theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải

thường toàn bộ thiệt hại, trừ

nộp một khoản tiền cho bên bị vi

trường hợp có thỏa thuận khác

phạm.”

hoặc luật có quy định khác.”

Áp dụng phổ biến đối với các vi

Chỉ áp dụng khi có thiệt hại xảy

phạm hợp đồng.


ra.

Bảo vệ quyền lợi ích của cả hai bên

Bảo vệ lợi ích bên bị vi phạm.

chủ thể.

Nhằm khôi phục, bù đắp những

Là trách nhiệm pháp lý nhằm nâng

lợi ích vật chất, tinh thần bị mất

cao ý thức thực hiện hợp đồng.

của bên bị vi phạm.

- Có thỏa thuận áp dụng;

- Không cần có thỏa thuận áp

- Không cần có thiệt hại thực tế;

dụng;

- Chỉ cần chứng minh có vi phạm.

- Hành vi vi phạm là nguyên
nhân trực tiếp;


dụng

- Phải chứng minh có thiệt hại
thực tế xảy ra.
- Bên có quyền: mghĩa vụ chứng
minh tổn thất, hành vi trái pháp
Nghĩa vụ của
các bên

Chỉ cần thoả thuận trong hợp đồng

luật và mối quan hệ nhân quả

thì khi có hành vi vi phạm có thể áp

giữa hành vi vi phạm với hậu quả

dụng.

trên thực tế.
- Bên vi phạm: nghĩa vụ hạn chế
tổn thất.

Giới hạn áp

- Đối với Hợp đồng thương mại,

dụng


giới hạn mức phạt theo thỏa thuận

13

Theo giá trị thiệt hại thực tế.


của các bên và tối đa là 8% phần
hợp đồng bị vi phạm (Điều 301
Luật Thương mại 2005).
- Đối với Hợp đồng dân sự, luật chỉ
quy định mức phạt vi phạm do các
bên thỏa thuận mà không quy định
cụ thể mức tối đa (khoản 2 Điều 418
BLDS 2015).
- Đối với công trình xây dựng sử
dụng vốn Nhà nước, mức phạt hợp
đồng không vượt quá 12% giá trị
phần hợp đồng bị vi phạm (Khoản 2
Điều 146 Luật Xây dựng 2014).

Câu 10: Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thiệt
hại có bị giới hạn không? Vì sao?
Khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thiệt hại không bị giới hạn.
Căn cứ pháp lý: Điều 360, khoản 3 Điều 418 BLDS 2015, Điều 302, Điều 307
Luật Thương mại 2005.
Khoản tiền kết hợp mà đề bài đề cập gồm 2 phần – khoản tiền phạt vi phạm và
khoản tiền bồi thường hợp đồng.
Đối với pháp luật dân sự, BLDS 2015 không giới hạn khoản tiền bồi thường
thiệt hại và tiền phạt hợp đồng. Vậy ta có thể hiểu khoản tiền kết hợp giữa hai nội

dung này cũng không bị giới hạn. Đối với pháp luật thương mai, Luật Thương mại
2005 giới hạn khoản tiền phạt vi phạm nhưng không giới hạn khoản bồi thường thiệt
hại, từ đó ta cũng có thể hiểu khoản tiền kết hợp giữa hai nội dung này không bị giới
hạn.
Nguyên nhân khoản tiền này không bị giới hạn xuất phát từ bản chất của tiền
bồi thường thiệt hại. Tiền bồi thường thiệt hai được dùng để sửa chữa, giải quyết
những thiệt hại bên vi phạm gây ra cho bên có quyền. Luật không thể nào dự trù khả
năng phát sinh thiệt hại trên thực tế, vậy nên để đảm bảo quyền lợi chính đáng của bên
14


có quyền thì tiền bồi thường thiệt hại không bị giới hạn, từ đó dẫn đến khoản tiền kết
hợp giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại cũng không bị giới hạn.
Câu 11: Trong Quyết định Trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi
thường thiệt hại có bị giới hạn không? Suy nghĩ của anh (chị) về giải pháp trong
Quyết định về vấn đề này.
Trong Quyết định Trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi
thường thiệt hại có bị giới hạn và mức giới hạn là không vượt quá 30% giá trị hợp
đồng. Lập luận trong Quyết định Trọng tài là: “Do các bên đã thỏa thuận về mức bồi
thường thiệt hại tối đa là 30% tổng giá trị Hợp đồng, nên việc cho phép bồi thường
mức cao hơn sẽ tạo bất ngờ cho Bị đơn.”
Nhóm chúng tôi không thể nhận xét về giải pháp trong Quyết định này, do
phần dữ liệu đề bài có phần mơ hồ, không rõ nghĩa. Ở phần “nội dung tranh chấp”,
đoạn “Thứ hai…”, Trọng tài ghi nhận khoản tiền 30% giá trị hợp đồng là phạt vi
phạm. Trong khi đó ở đoạn “Tuy nhiên…”, Tòa án lại xác định khoản 30% đó là mức
bồi thường thiệt hại. Vậy khoản 30% đó là thỏa thuận về phạt vi phạm hay bồi thường
hợp đồng, hay là cả hai? Nhóm chúng tôi xin đưa ra cả hai trường hợp và nhật xét
theo từng trường hợp đó.
Trường hợp 1: khoản tiền 30% đó là phạt vi phạm
Nhóm nhận thấy cách giải quyết vấn đề của Trọng tài trong trường hợp này là

không hợp lí, vì những lí do sau:
Thứ nhất, Luật không hề giới hạn định mức cho khoản tiền do kết hợp giữa bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm hợp đồng. Việc Trọng tài quyết định như vậy có thể
làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Công ty Hà Việt.
Thứ hai, thiệt hại mà Bị đơn gây ra có thể lớn hơn 30% giá trị Hợp đồng. Theo
luật định, “giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên
bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm
đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”, vậy nên khoản bồi thường thiệt
hại phải dựa vào tổn thất xảy ra trên thực tế thì mới đảm bảo đầy đủ quyền lợi của bên
có quyền.

15


Thứ ba, khoản tiền 30% do hai thỏa thuận là phạt vi phạm, không liên quan gì
đến bồi thường thiệt hại nên nếu bên Bị có phải bồi thường thiệt hại nhiều hơn 30%
vẫn không vi phạm nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận của Hợp đồng.
Trường hợp 2: hai bên thỏa thuận mức phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại
đều không cao quá 30% giá trị hợp đồng
Nhóm nhận thấy cách giải quyết vấn đề của Trọng tài trong trường hợp này là
không hợp lí. Tôn trọng nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận của luật Dân sự, chúng tôi
đồng ý khoản bồi thường thiệt hại sẽ không vượt quá 30% giá trị hợp đồng, nhưng vẫn
còn khoản tiền phạt vi phạm. Trong trường hợp này, quy định mức phạt như thế là trái
Điều 301 Luật Thương mại 2005 nên sẽ bị sửa đổi thành “không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Tức là bên Bị đơn phải thanh toán một khoản chi phí
bao gồm tiền bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm hợp đồng nhưng không quá 38% thì
mới hợp tình, hợp lý.
Câu 12: Suy nghĩ của anh (chị) về khả năng của Tòa án được quyền giảm mức
phạt vi phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam.
Khả năng Toà án giảm mức phạt hợp đồng trong pháp luật Việt Nam là rất hạn

chế và phụ thuộc vào thực tiễn xét xử.
Thứ nhất, phạt vi phạm hợp đồng được Luật quy định là phải được các bên
thỏa thuận từ trước và việc thỏa thuận này dựa trên nguyên tắc tự do và bình đẳng.
Điều này thể hiện Nhà nước ta hoàn toàn tôn trọng quyền tự do thỏa thuận và tự quyết
của các bên trong hợp đồng vì thế việc giảm mức phạt hợp đồng là đi ngược lại với
những nguyên tắc này.
Thứ hai, thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng mang ý nghĩa răn đe, ngăn ngừa vi
phạm khi có vi phạm xảy ra nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của bên bị vi phạm thì
việc Toà án giải quyết đúng với những thỏa thuận trong hợp đồng là không trái pháp
luật và hợp lý.
Tuy nhiên trong thực tế xét xử, tuỳ vào từng vụ án thực tế thì Toà án cũng có
hướng giải quyết mềm dẻo hơn đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích cho các bên.
Việc viện dẫn nhiều văn bản pháp luật về mức phạt vi phạm hợp đồng tuy gây
khó hiểu nhưng lại khá hợp tình và có sức thuyết phục. Để bảo vệ quyền và lợi ích của
mình thì bên bị vi phạm có thể lựa chọn các hình thức phạt vi phạm hợp đồng: chỉ
16


phạt vi phạm hoặc kết hợp vừa phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại.
Vấn đề đặt ra ở đây là nên áp dụng văn bản nào là phù hợp, đảm bảo quyền và lợi ích
của các đương sự? Toà án phải xác định rõ đối tượng hợp đồng được điều chỉnh bởi
quan hệ pháp luật nào để xác định mức phạt theo quy định. Trong trường hợp mức
phạt vi phạm quá cao so với thiệt hại do việc vi phạm hợp đồng gây ra nếu bên bị vi
phạm có yêu cầu thì Toà án có thể xem xét giảm bớt mức phạt, cách giải quyết này là
hợp tình hợp lý, vừa bảo vệ quyền và lợi ích của bên bị vi phạm vừa đảm bảo quyền
của bên vi phạm.

17



VẤN ĐỀ 3: SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG
Câu 1: Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết
các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng
không? Nêu rỡ cơ sở khi trả lời.
Theo khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 quy định: “Sự kiện bất khả kháng là sự
kiện (1) xảy ra một cách khách quan (2) không thể lường trước được và (3) không
thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho
phép.” Vì vậy, để coi là sự kiện bất khả kháng thì phải đáp ứng đủ các điều kiện:
 Đầu tiên, đây phải là sự kiện xảy ra một cách khách quan, BLDS không cho
biết cần hiểu yếu tố khách quan như thế nào nhưng, thông thường, yếu tố khách
quan này được đánh giá trong mối quan hệ với bên thực hiện hợp đồng. Để
được coi là sự kiện xảy ra một cách khách quan thì sự kiện này phải vượt qua
sự kiểm soát của bên phải thực hiện hợp đồng và như vậy đây có thể là sự kiện
tự nhiên như thiên tai nhưng cũng có thể là do con người gây ra như hàng động
của một người thứ ba.4
 Thứ hai, đây phải là sự kiện không thể lường trước được. Về thời điểm
không lường trước được, BLDS của chúng ta không rõ nhưng một số hệ thống
pháp luật như Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng theo hướng sự lường trước
được hay không lường trước được xác định ở thời điểm giao kết hợp đồng.5
 Thứ ba, sự việc xảy ra không thể khắc phục được dù đã áp dụng mọi biện
pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả
kháng. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 quy định: “trong trường hợp
bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả
kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác…”. Ngoại lệ này cũng được nhắc tới trong các quy định về hợp đồng
thông dụng, ví dụ tại khoản 3 Điều 541 BLDS quy định: “Trường hợp bất khả
kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam
2018, tr. 517-518.

5
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam
2018, tr. 518.
4

18


trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận…”
Vì vậy, các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận với nhau trường hợp nào được coi
là bất khả kháng, trường hợp nào loại trừ trường hợp bất khả kháng để xác định trách
nhiệm bồi thường.
Câu 2: Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện
được do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi.
 Hệ quả 1: Không phải chịu trách nhiệm
Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 294 Luật thương mại 2005 về “Các trường
hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm” thì có quy định trường hợp xảy ra sự
kiện bất khả kháng, khi đó bên vi phạm sẽ được miễn trách nhiệm.
Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không
thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm
dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
 Hệ quả 2: Không phải bồi thường thiệt hại
Căn cứ theo khoản 2 Điều 584 BLDS 2015 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại thì bên vi phạm hợp đồng sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại:
“2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do
lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định
khác.”

Đối với nghĩa vụ vận chuyển tài sản, theo khoản 3 Điều 541 BLDS 2015 quy
định: “Trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất, hư hỏng hoặc bị
hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại,…”
Đối với trường hợp giữ tài sản làm mất mát, hư hỏng tài sản gửi giữ, theo
khoản 2 Điều 556 và khoản 4 Điều 557 BLDS 2015 quy định khi có trường hợp bất
khả kháng thì bên gửi tài sản không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, bên giữ
tài sản cũng không phải bồi thường thiệt hại.
Hệ quả 3: Bồi thường thiệt hại theo thỏa thuận
19


Như đã chứng minh ở câu 1, các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp
có sự kiện bất khả kháng, vì vậy bên vi phạm hợp đồng vẫn có thể phải chịu trách
nhiệm theo thủa thuận nếu có.
Câu 3: Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích
các điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên.
Xem xét tình huống, ta thấy:
Thứ nhất, nguyên nhân dẫn đến việc con tàu bị chìm là do “gió” gây ra. Có thể
thấy, đây là một sự kiện khách quan do là một sự kiện thời tiết tự nhiên xảy ra ngoài
tầm kiểm soát của con người.
Thứ hai, đây là sự kiện “không thể lường trước được”. Đối với luận điểm này,
BLDS không nói rõ thời điểm lường trước là thời điểm nào. Tuy nhiên, nếu ta hiểu
theo Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng thì việc lường trước được hay không được
xác định tại “thời điểm giao kết hợp đồng”. Do thiếu những dữ kiện từ đề bài, không
có căn cứ để cho rằng điều kiện này được thỏa mãn. Bởi lẽ, trong trường hợp anh Văn
nhận chuyển hàng cho anh Bình dù biết rõ con tàu của mình không đủ điều kiện về cơ
sở vật chất để thực hiện lộ trình theo yêu cầu từ người nhờ vận chuyển thì không thể
xem tai nạn xảy ra ngoài ý chí của anh Văn. Chỉ khi nào đề bài cho thêm những giả
thuyết, tình tiết khách quan cho thấy anh Văn không thể lường trước được tại nạn diễn

ra thì điều kiện này mới có thể được thỏa mãn.
Thứ ba, Tàu chìm làm hư hỏng toàn bộ hàng vận chuyển có thật sự “không thể
khắc phục” hay tình huống cũng không làm rõ. Bởi lẽ, cần có căn cứ cho thấy rằng khi
con tàu gặp tai nạn, tai nạn này phải diễn ra trước sự bất lực, không thể khắc phục
được từ anh Văn. Ngoài ra, anh Văn cũng không được có thái độ bỏ mặc số hàng chìm
cùng con tàu nếu muốn điều kiện cuối cùng này được thỏa mãn.
Dựa vào những phân tích trên, không có căn cứ để kết luận rằng tình huống
đưa ra được xem là sự kiện bất khả kháng.
Câu 4: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi
thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
Nếu giữa anh Văn và anh Bình có thỏa thuận về việc bồi thường khi có sự kiện
bất khả kháng thì anh Văn phải bồi thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng, còn
20


nếu không có thỏa thuận thì anh Văn không phải chịu trách nhiệm bồi thường cho anh
Bình.
 Căn cứ theo khoản 3 Điều 541 BLDS: “Trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài
sản vận chuyển bị mất, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển
thì bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác…”;
 Căn cứ theo khoản 1 Điều 20 Nghị định 125/2003/NĐ-CP ngày 29 tháng 10
năm 2003 về vận tải đa phương thức quốc tế quy định:
“Điều 20. Miễn trừ trách nhiệm.
…,người kinh doanh vận tải đa phương thức không phải chịu trách nhiệm về
mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm đối với hàng hoá được vận chuyển
nếu chứng minh được việc gây nên mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm
trong quá trình vận chuyển là do một hoặc nhiều nguyên nhân sau đây:
1. Bất khả kháng;”.

Câu 5: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi
thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu cầu Công
ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ
văn bản và thực tiễn xét xử.
Ở góc độ văn bản, Điều 580 BLDS 2005 quy định:
“1. Trong trường hợp bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba theo thoả
thuận hoặc theo quy định của pháp luật thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
bên mua bảo hiểm hoặc cho người thứ ba theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm đối
với thiệt hại mà bên mua bảo hiểm đã gây ra cho người thứ ba theo mức bảo hiểm
đã thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
2. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm đã bồi thường thiệt hại cho người thứ ba
thì có quyền yêu cầu bên bảo hiểm phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã trả cho
người thứ ba, nhưng không vượt quá mức trả bảo hiểm mà các bên đã thoả thuận
hoặc pháp luật đã quy định.”
Tuy nhiên BLDS 2015 đã bỏ đi điều luật này, vì vậy vẫn chưa thể xác định
trách nhiệm của bên Công ty bảo hiểm. Theo khoản 1 Điều 53 Luật kinh doanh bảo
hiểm năm 2000 quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong hợp đồng
21


bảo hiểm trách nhiệm dân sự: “Trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phát sinh
nếu người thứ ba yêu cầu người được bảo hiểm bồi thường thiệt hại do lỗi của người
đó gây ra cho người thứ ba trong thời hạn bảo hiểm”. Vấn đề được đặt ra là nếu
người được bảo hiểm không có lỗi nhưng đã thỏa thuận bồi thường cho người thứ ba
thì doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm hay không. Luật kinh doanh bảo hiểm cũng
chưa giải quyết được điều này.
Thực tiễn xét xử vẫn còn 2 quan điểm trái ngược nhau:
 Tại bản án số 110/2006/DSPT ngày 5/5/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà
Vinh, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh khẳng định việc gây thiệt hại cho các chủ
hàng là do hiện tượng bất khả kháng. Nhưng theo Tòa, anh Khen tự nguyện

thỏa thuận, tự nguyện bồi thường thiệt hại là trái với quy định của pháp
luật và quy tắc bảo hiểm, do đó anh Khen phải tự chịu trách nhiệm và
không được yêu cầu công ty bảo hiểm bồi thường.
 Tuy nhiên, theo Quyết định số 105/GĐT-DS ngày 30/5/2003 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao tỉnh An Giang, theo Tòa vì các bên có nêu rõ trong
hợp đồng bảo hiểm nói trên và theo Điều 546 BLDS 2005 vẫn cho phép người
vận chuyển và bên thuê vận chuyển được thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngay cả trong trường hợp bất khả kháng. Do đó, thỏa thuận giữa ông
Khóm và ông Trình, ông Điền là không trái pháp luật, có hiệu lực và ràng
buộc cả Bảo Việt An Giang. Mặc dù Bảo Việt cho rằng theo Điều 30 “Thể lệ
vận chuyển và xếp dỡ hàng hóa thủy nội địa” thì bên vận chuyển được miễn
bồi thường trong trường hợp thiên tai, địch họa hay bất khả kháng.
Hướng giải thích của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc thứ 2 là
hợp lý với tinh thần của pháp luật dân sự về giải thích hợp đồng. Tòa cho rằng thế
mạnh thuộc về bên Bảo Việt và các thuật ngữ hay giải thích trong hợp đồng phải có
lợi cho bên yếu thế theo khoản 8 Điều 409 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp
bên mạnh thế đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên yếu thế thì khi giải thích hợp
đồng phải theo hướng có lợi cho bên yếu thế” và BLDS 2015 vẫn duy trì tư duy trên
với 1 số thay đổi tại khoản 6 Điều 404 theo đó “Trường hợp bên soạn thảo đưa vào
hợp đồng nội dung bất lợi cho bên kia thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có
lợi cho bên kia”. Tòa án đã dựa vào hợp đồng để xác định Bảo Việt có trách nhiệm
22


bảo hiểm cho ông Khóm hay không. Ở đây, trong hợp đồng bảo hiểm về những loại
trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu thì không có thỏa thuận nào về việc
Bảo Việt An Giang được từ chối trách nhiệm do tai nạn tày bị chìm vì gió bão. Bên có
ưu thế mạng là Bảo Việt và nội dung của hợp đồng nhất là phần loại trừ bảo hiểm do
Bảo Việt soạn nên hợp đồng đã được giải thích bất lợi cho bên bảo hiểm.
Áp dụng với tình huống của bài thảo luận, nếu anh Văn yêu cầu Công ty bảo

hiểm thanh toán khoản tiền do anh thỏa thuận bồi thường cho anh Bình thì bên phía
công ty không được từ chối nếu giữa 2 bên không quy định rõ trường hợp bất khả
kháng là trường hợp loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự.

23


VẤN ĐỀ 4: CHẬM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THANH TOÁN
Vấn đề đề cập đến trong Bản án số 01/2018/KDTM-PT ngày 12/01/2018 của
Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định: Công ty T chỉ bị buộc thanh toán cho Công ty L
phần lãi chậm trả ứng với 398.348.877đ với lãi suất 0.75%/tháng từ từ ngày 18/7/2008
đến 21/7/2017.
Hướng xử lý của Tòa án trong trường hợp này là hợp lý vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, xét các quy định hiện hành của BLDS 2015 thì tại Điều 357 có nêu
rằng Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền
chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Có thể thấy, quy định của pháp luật hiện
hành cho rằng chừng nào bên có nghĩa vụ chưa thanh toán thì chừng đó vẫn phải chịu
lãi. Hơn nữa, án lệ số 08/2016/AL cũng theo hướng không có sự gián đoạn trong việc
chịu lãi và như vậy thúc đẩy người có nghĩa vụ sớm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của
mình. Tuy nhiên, hướng giải quyết của Tòa án trong trường hợp này là chỉ áp dụng lãi
trả chậm đối với một khoản thời gian nhất định theo yêu cầu của bên có quyền. Suy
cho cùng, hướng giải quyết này cũng vẫn được xem là hợp tình, hợp lý. Bởi lẽ, mục
đích của lãi trả chậm là nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ và bảo vệ quyền lợi cho bên
có quyền. Trong trường hợp này, chính bên có quyền đã đưa ra đề xuất này nên việc
xem xét, áp dụng nó cũng là hợp lý. Ngoài ra, khoản 2 Điều 357 quy định rằng Lãi
suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên. Có thể
thấy, để hiểu một cách linh hoạt thì 2 bên đã thỏa thuận không tính lãi đối với khoản
thời gian sau ngày 21/7/2017, bao gồm cả khoản thời gian thi hành án. Điều này
không hề trái với quy định của pháp luật và được đồng ý áp dụng bởi các bên một
cách tự nguyện.

Thứ hai, lãi suất 0,75%/tháng trong trường hợp này là hợp lý. Điều 468 BLDS
2015 quy định rằng Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo
thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm, tức 1,67%/tháng. Tòa án công nhận mức
thỏa thuận 0,75%/tháng qua đó cũng phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
Vậy, hướng giải quyết của Tòa án trong trường hợp này là linh hoạt, sáng tạo
nhưng vẫn đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý.

24



×