Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Tieu luan ky nang giao tiep nghe luat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.18 KB, 9 trang )

MỞ ĐẦU
Trong tổ chức bộ máy nhà nước ta hiện nay, thì Tòa án là cơ quan duy nhất
có thẩm quyền xét xử. Hoạt động xét xử là một hoạt động đặc thù của ngành Tòa
án, trong đó vai trò của người tiến hành tố tụng (chủ yếu là Thẩm phán) là hết sức
quan trọng. Do đó, trong hoạt động nghề nghiệp của mình để đạt được hiệu quả cao
nhất đòi hỏi Thẩm phán phải đáp ứng các yêu cầu của kỹ năng giao tiếp. Do vậy, để
có một cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề này, trong nội dung bài tập nhóm tháng lần
này, em xin được chọn đề tài: “Phân tích những kỹ năng giao tiếp cần có của Thẩm
phán”.
NỘI DUNG
I. ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG CỦA THẨM PHÁN
1. Một vài khái quát về Thẩm phán
Khái niệm: Thẩm phán là một trong những người hoạt động nhân danh pháp
luật, nhân danh công lý và lấy quy tắc ứng xử đạo đức nghề Thẩm phán làm chuẩn
mực cho hành vi ứng xử nghề nghiệp. Theo Điều 1 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội
thẩm tòa án nhân dân thì “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc
thẩm quyền của Toà án”. Bên cạnh đó, theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì công
dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, có phẩm chất, đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần
kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật và đã được
đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của
pháp luật, có năng lực làm công tác xét xử, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm
vụ được giao thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán. Như vậy, có
thể hiểu khái niệm Thẩm phán như sau: “Thẩm phán là người tiến hành tố tụng,
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, có chức năng xét xử vụ án nhằm bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, xã hội và của công dân. Hay nói
cách khác, thẩm phán là người nhân danh Nhà nước, nhân danh công lý bằng quy
tắc ứng xử đạo đức nghề nghiệp thông qua hoạt động xét xử để đưa ra một bản án
công minh, đúng đắn”.
2. Đặc điểm hoạt động của Thẩm phán


Căn cứ vào những dấu hiệu cơ bản của một nghề, có thể đưa ra các đặc điểm
hoạt động của Thẩm phán như sau:
Thứ nhất: Xét về đối tượng lao động, Thẩm phán là nghề buộc phải tiếp xúc
trực tiếp với con người trên cả hai phương diện, sinh mệnh chính trị - pháp luật và
1


các đảm bảo vật chất đảm bảo sự sinh tồn đối với cuộc sống bình thường của các
nhân con người trong điều kiện chung của xã hội. Tính chất của việc “tiếp xúc” giữa
người hành nghề (Thẩm phán) với đối tượng của nghề nghiệp (hiểu theo nghĩa là
một hoạt động lao động của người thẩm phán ) ở vào trạng thái rất đặc biệt, đó là
gây ra những ảnh hưởng khác nhau (tích cực - tiêu cực) đến sinh mệnh và điều kiện
sinh tồn của đương sự và bị cáo;
Thứ hai: Xét về mục đích lao động, Thẩm phán là nghề vừa có mục đích
nhận thức đối tượng, tức tìm ra sự thật vụ án có liên quan đến đối tượng hoạt động
nghề nghiệp thẩm phán, vừa có mục đích biến đổi đối tượng (theo cả nghĩa cải tạo,
giáo dục người phạm tội hoặc đem lại công bằng cho người có lợi ích hợp pháp bị
xâm hại và buộc người có trách nhiệm phải trả giá cho những sai lầm họ đã mắc
phải ). Thẩm phán có mục đích chữa lành nỗi đau tinh thần, bảo vệ cá nhân con
người và bảo vệ trật tự xã hội khỏi sự xâm hại của các hành vi trái pháp luật. Mục
đích của nghề thẩm phán vì vậy luôn được thể hiện trên cả hai bình diện và bảo vệ
lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng;
Thứ ba: Xét về công cụ lao động, Thẩm phán là nghề mà công cụ lao động
hoàn toàn khác tất cả các nghề nghiệp thông thường khác trong xã hội. Công cụ lao
động của nghề thẩm phán là pháp luật, thông qua hoạt động sử dụng, viện dẫn áp
dụng pháp luật, dựa vào pháp luật để tác động đến các quan hệ phát sinh giữa con
người cùng tài sản, danh dự uy tín, nhân phẩm con người trong quá trình giải quyết
các vụ án có tính chất khác nhau. Toàn bộ hoạt động lao động nghề nghiệp của thẩm
phán được bảo vệ, được thúc đẩy, diễn ra trong khuôn khổ pháp luật, với trình tự,
thủ tục tố tụng do pháp luật quy định;

Thứ tư: Về điều kiện lao động (với nghĩa là môi trường lao động). Thẩm
phán là nghề gắn với môi trường bảo vệ, thực thi “Quyền lực tư pháp” của nhà
nước. Cùng với công cụ pháp luật, người hành nghề thẩm phán đòi hỏi phải tuân thủ
quy tắc đạo đức nghề nghiệp nghiêm ngặt, với chức năng nghề nghiệp là bảo vệ
pháp chế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, pháp nhân, nhà
nước, bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Môi trường lao động của nghề thẩm phán
gắn với môi trường chính trị - pháp luật và luôn chịu sự kiểm soát của pháp luật
cũng như giám sát của nhân dân;
Thứ năm: Sản phẩm lao động của nghề thẩm phán vô cùng đặc thù so với các
nghề nghiệp xã hội khác, đó là nhân danh nhà nước, nhân danh pháp luật để ra bản
án chứa đựng những phán quyết cuối cùng về việc giải quyết vụ án theo hướng có
tội hay không có tội, đúng hay sai. Phán quyết này có tác động trực tiếp sinh mệnh

2


chính trị của một con người nên nếu thẩm phán quyết định sai thì hậu quả và tổn
thất về tài sản, tính mạng sức khỏe, danh dự uy tín nhân phẩm có cá nhân, tổ chức,
pháp nhân và nhà nước sẽ to lớn khó bù đắp lại.
Như vậy, với một số đặc điểm cơ bản nêu trên, có thể thấy Thẩm phán là
nghề nghiệp đặc thù trong hệ thống nghề nghiệp xã hội và thuộc nhóm nghề luật;
Trong đó, người hành nghề phải đáp ứng được những tiêu chí nghề nghiệp nhất
định và được đào tạo, bổ nhiệm theo phương thức, trình tự đặc thù chứ không dựa
vào ý chí và sự lựa chọn của người hành nghề. Ngoài đặc tính chung của nghề luật
như đảm nhiệm công việc chuyên môn trong lĩnh vực thực thi, áp dụng luật, gắn với
số phận con người, hoạt động nghề nghiệp tuân theo quy định pháp luật và đạo đức
nghề nghiệp, bất khả kiêm nhiệm thì đặc điểm riêng của nghề thẩm phán chính là
quyền phán quyết cuối cùng đối với vụ án. Với những đặc điểm nghề nghiệp đó,
bên cạnh việc pháp luật có quy định chặt chẽ quyền, nghĩa vụ cho thẩm phán thì yêu
cầu nghề nghiệp còn bắt buộc thẩm phán phải tôn trọng và giao tiếp theo đúng quy

tắc đạo đức nghề nghiệp khắt khe có tác dụng hạn chế đến mức thấp nhất những sai
sót trong hoạt động tố tụng giải quyết vụ án.
II. KỸ NĂNG GIAO TIẾP CẦN CÓ CỦA THẨM PHÁN
1. Mục đích kỹ năng giao tiếp trong nghề nghiệp của Thẩm phán
Với vị trí của một người nắm giữ cán cân công lý, là người ra phán quyết
cuối cùng và có hiệu lực pháp luật. Thẩm phán sử dụng kỹ năng giao tiếp để thu
thập chứng cứ, tìm ra sự thật, xử đúng người đúng tội. Khi đối diện với bị cáo, bị
đơn và luật sư người đại diện bào chữa cho họ, Thẩm phán phải khéo léo sử dụng
kỹ năng giao tiếp để khai thác thông tin vụ việc. Mục đích và cũng là nhiệm vụ
chính của thẩm phán là thực hiện chức năng xét xử .Thẩm phán sử dụng kỹ năng
giao tiếp của mình để thực hiện nhiệm vụ xét xử. Thẩm phán phải là người có khả
năng nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và những diễn biến tâm lý
bên trong của đương sự, của những người tham gia tố tụng khác và bản thân đồng
thời biết sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách điều
khiển, điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt được mục đích của hoạt động xét xử.
Thẩm phán là người ra phán quyết cuối cùng trong một vụ án, với phán quyết
của mình, Thẩm phán làm cho pháp luật được thi hành và đi vào cuộc sống. Tuy
nhiên, phán quyết của Thẩm phán chắc chắn cũng sẽ động chạm đến lợi ích của một
số cá nhân, tổ chức khác. Vì vậy, Thẩm phán phải khéo léo sử dụng các kỹ năng
giao tiếp của mình để khi ra phán quyết ko có những lời nói quá “đụng chạm” đến
các cá nhân, tổ chức khác nhưng vẫn giữ được sự nghiêm minh của pháp luật. Mục

3


đích là để phán quyết có tính thuyết phục cao, tác động đến đương sự của vụ án
cũng như những người tham dự phiên tòa.
2. Yêu cầu kỹ năng giao tiếp trong hoạt động của Thẩm phán
2.1. Kỹ năng xây dựng mối quan hệ của thẩm phán
Thẩm phán luôn tôn trọng chức năng tư pháp mà mình đại diện, giữ gìn niềm

tin của công chúng vào những phán quyết được tuyên nhân danh Nhà nước. Thẩm
phán hiện diện trước những người tố tụng, người tham gia tố tụng và trước xã hội
trong hình ảnh công lý 0 công bằng 0 chuẩn mực ứng xử đạo đức xã hội và nghề
nghiệp. Như vậy đòi hỏi Thẩm phán phải có kỹ năng xây dựng mỗi quan hệ của
riêng mình, mà tuân theo quy định của pháp luật trong những nguyên tắc cơ bản của
hoạt động tố tụng.
Khi tham gia vào quá trình tố tụng thẩm phán phải tuân thủ các nguyên tắc
mà pháp luật quy định như: Thẩm phán hoạt động một cách độc lập chỉ tuân theo
pháp luật. Thẩm phán không bị lệ thuộc hay bị tác động bởi bất kì một chủ thể nào
hay ảnh hưởng bởi bất ki mối quan hệ nào khác như: công tác, gia đình, xã hội;
Nguyên tắc thẩm phán không được phân biệt đối xử giữa những người tham gia tố
tụng. Trong việc xem xét đánh giá chứng cứ phải khách quan,toàn diện xem xét một
cách tổng thể không chỉ dựa trên cơ sở nhân thức quan điểm của cá nhân và phải
đúng pháp luật. Điều này yêu cầu thẩm phán phải tôn trọng các đương sự, không
được thể hiện thái độ lạnh lùng, sử dụng lời lẽ quát mắng, miệt thị bị cáo hay đương
sự khác; không được đưa ra những câu hỏi xâm phạm vào đời tư cũng như nhân
phẩm của những người tham gia phiên tòa mà phải thể hiện sự tôn trọng, học hỏi,
lắng nghe ý kiến và có tinh thần giúp đỡ mọi người.Tại phiên tòa, Thẩm phán phải
có tác phong đúng đắn thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật không để ai phàn
nàn về cách ứng xử của mình.
Ví dụ như: Tại phiên tòa, Thẩm phán không được cười đùa; khi các đương sự
trình bày không được mất chú ý, nhìn đi chỗ khác. Điều này tạo cho đương sự và
những người tham gia tố tụng cảm giác Thẩm phán làm việc quan liêu, không quan
tâm đến việc giải quyết vụ án, từ đó tạo nên tâm lý không tin vào pháp luật, pháp
luật không nghiêm minh, coi thường pháp luật Thẩm phán phải sử dụng ngôn ngữ
rõ ràng chính xác, không nói ngọng, không sử dụng từ địa phương. Thẩm phán phải
thận trong khi tiếp xúc với các mối quan hệ xã hội, không thể vì các mối quan hệ
hay vì quyền lợi của cá nhân, của gia đình mà làm ảnh hưởng đến phẩm chất nghề
nghiệp và công việc xét xử. Đối với trường hợp bị can, bị cáo, đương sự là vợ


4


chồng, con, cha, mẹ hay có chứng cứ cho rằng Thẩm phán không vô tư khách quan
thì thẩm phán phải từ chối tham gia hoặc bị thay đổi.
2.2. Kỹ năng lắng nghe
Lắng nghe là một trong những kỹ năng quan trọng trong nghệ thuật giao tiếp.
Thẩm phán là người hành nghề luật, là người "cầm cân nảy mực", đem lại công lý
cho mọi người, vì vậy để đưa ra phán quyết thấu tình đạt lý nhất thì người Thẩm
phán cần phải biết lắng nghe.
Lắng nghe là một kỹ thuật phức tạp gồm thu nhận, phân tích, đánh giá thông
tin, ghi chép lại thông tin, quan sát tinh tế để hiểu được người đang nói và đưa ra
những phản hồi khi nghe họ trình bày. Kỹ năng lắng nghe của Thẩm phán là quá
trình tiếp nhận thông tin một cách có chủ ý và có mục đích, từ hai chiều: Kiểm sát
viên, Bị cáo hoặc Luật sư phản biện hay các bên đương sự Thẩm phán cần phải:
- Biết thu nhận, phân tích và đánh giá thông tin: kết hợp tri giác với tư duy,
kinh nghiệm, hành vi để thu nhận, phân tích và đánh giá thông tin, hiểu bản chất
pháp lý của sự việc, hiểu mong muốn và nguyện vọng của các chủ thể tham gia tố
tụng; đánh giá tính chính xác, tính đầy đủ của thông tin, xác định thông tin nào là
đúng, thông tin nào là sai.
- Biết ghi chép lại, tổng hợp thông tin: ghi chép những thông tin về nội dung
sự việc, thông tin có liên đới đến sự việc, thông tin về các chủ thể trong vụ việc (đặc
điểm tâm lý, nhân thân, thái độ đối với sự việc). Để đánh giá đúng bản chất của sự
việc.
- Biết quan sát tinh tế để hiểu tâm lý của bên bị hại và bị cáo, tâm lý của Luật
sư bào chữa, nguyện vọng của các bên.
- Biết phản hồi bằng hành vi và ngôn ngữ: là người có vai trò quan trọng và
là "trọng tài" nên những ngôn từ hay cử chỉ của Thẩm đều phải nghiêm túc và công
bằng, nhưng để đạt được hiệu quả giao tiếp cao, Thẩm phán nên: nhìn vào mắt
người nói khi họ đang nói, người hơi nghiêng về phía người đang nói, nét mặt diễn

tả thích hợp với những gì người nói đang nói, thể hiện thái độ cởi mở và mong
muốn lắng nghe, sử dụng các phản ứng từ ngữ đơn giản, hay diễn giải lại bằng ngôn
ngữ những gì người nói trình bày.
Sự lắng nghe của Thẩm phán trong giao tiếp hướng tới thu nhận và hiểu các
thông tin cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của Thẩm phán. Vận dụng kỹ năng
lắng nghe, Thẩm phán không chỉ thu được thông tin về sự việc, hiểu nội tình sự
việc, mà còn quan sát để hiểu tâm lý của họ. Sự phản hồi khi lắng nghe còn là cách
để Thẩm thể hiện sự quan tâm, chú ý và sẵn sàng chia sẻ, đồng cảm với bên bị hại,
5


bên bị cáo, qua đó khích lệ họ tích cực cung cấp thông tin và là cách để Thẩm phán
kiểm tra lại tính đúng đắn trong nhận thức của mình, đồng thời đưa ra được phán
quyết đúng đắn nhất, đem lại công bằng cho xã hội.
2.3. Kỹ năng hỏi
Kỹ năng đặt câu hỏi đối với thẩm phán là vô cùng quan trọng. Đặt câu hỏi là
việc đưa ra những thông điệp nhất định tác động đến đối tượng để họ cung cấp
thông tin cần thiết, do đó việc đặt câu hỏi giúp điều khiển quá trình cung cấp thông
tin ở các đương sự. Mục đích của kỹ năng hỏi đó chính là khai thác thông tin một
cách hiệu quả hơn. Như chúng ta đã biết, trong quá trình giải quyết vụ án thì đương
sự chỉ trình bày những vấn đề có lợi cho họ còn những tình tiết không có lợi thì họ
sẽ không tự giác cung cấp. Vì vậy, để có thể xác định đúng đắn vụ án thì Thẩm phán
phải sử dụng kỹ năng hỏi. Thông qua việc hỏi các đương sự sẽ trình bày những tình
tiết liên quan đến vụ án.
Để làm được điều này thì Thẩm phán phải biết đặt câu hỏi để làm sáng tỏ,
diễn biến tính chất sự việc liên quan đến mặt pháp lý và những nội dung mà đương
sự quan tâm. Chẳng hạn, tại phiên tòa xử vụ án tranh chấp về từa kế quyền sử dụng
đất thì Thẩm phán phải hỏi các đương sự về việc có di chúc về việc chia di sản hay
không? Nếu có di chúc hợp pháp thì chia theo di chúc nếu không có thì chia theo
pháp luật; Các chứng cứ mà các đương sự chứng minh quyền của mình? Lý do

tranh chấp? Trong quá trình đưa ra câu hỏi thẩm phán phải biết sử dụng các câu hỏi
hợp lý sao cho câu trả lời sau có thể kiểm tra câu trả lời trước của các đương sự.
Biết sử dụng những câu hỏi để điều khiển giao tiếp trong việc thu thập thông
tin.Tùy vào mục đích hỏi và trường hợp cụ thể mà có cách hỏi khác nhau. Khi hỏi
phải tạo ra bầu không khí phù hợp không nên tạo ra bầu không khí quá căng thẳng
với khuôn mặt lạnh như tiền và sử dụng liên tục những câu truy vấn “Tại sao”.
Ngoài ra trong quá trình hỏi thẩm phán phải biết kết hợp giữa việc sử dụng ngôn
ngữ và các phương tiện phi ngôn ngữ trong việc đặt câu hỏi như cử chỉ, nét mặt,
giọng điệu.
2.4. Kỹ năng phản hồi
Kỹ năng phản hồi là khả năng con người trả lời lại một cách chính thức ý
kiến, quan điểm của đối tượng giao tiếp trong quá trình giao tiếp. Như vậy, kỹ năng
phản hồi của thẩm phán là khả năng trả lời một cách chính thức quan điểm, ý kiến
của những người tham gia tố phiên tòa.Thẩm phán là một trong những người hoạt
động nhân danh pháp luật, nhân danh công lý và lấy quy tắc ứng xử đạo đức nghề

6


thẩm phán làm chuẩn mực cho hành vi ứng xử nghề nghiệp. Để phản hồi thông tin
có hiệu quả Thẩm phán cần:
Phản hồi một cách cụ thể, rõ ràng; thông tin trung thực, chính xác: Thẩm
phán xem xét tất cả các tình tiết vụ án bằng tư duy tổng thể tức thẩm phán dựa vào
quan điểm của các nhân trên cơ sở quy định của pháp luật để nhận định, đánh giá về
các tình tiết, sự kiện của vụ án và phải xem xét quan điểm của cơ quan điều tra cũng
như viện kiểm sát cuối cùng, sau khi đã nghiên cứu, đánh giá đầy đủ các tình tiết
của vụ án. Trên cơ sở lắng nghe những ý kiến của luật sư, kiểm sát viên, bị cáo,
người làm chứng…Thẩm phán đưa ra nhận định, ý kiến phản hồi. Ý kiến phản hồi
phải cụ thể, rõ ràng, chính xác. Để nâng cao hiệu quả xét xử, mỗi lần phản hồi
Thẩm phán nên xoáy vào những điểm mấu chốt, trọng tâm, tránh lan man…

Trong phản hồi, Thẩm phán nên thăm dò nhu cầu và tâm lý của người nhận
phản hồi, kiểm tra xem họ có hiểu đúng ý phản hồi của mình không. Trong quá
trình phản hồi cũng nên chú ý tới việc sử dụng ngôn ngữ, điều chỉnh thái độ phù
hợp.
Với tư cách là người nhận phản hồi, Thẩm phán nên lắng nghe và tóm tắt các
ý kiến phản hồi chính, nếu cần nên hỏi lại cho rõ để đảm bảo mình hiểu đúng ý
phản hồi của người tham gia tố tụng. Xử lý thông tin và ghi nhận hoặc giải trình,
đưa tiêu chí để nhận được những phản hồi rõ và cụ thể cũng là một việc quan trọng
mà thẩm phán cần lưu ý trong quá trình phản hồi.
2.5. Kỹ năng trình bày, thuyết phục
Kỹ năng trình bày là kỹ năng sử dụng ngôn ngữ để truyền đặt thông tin. Kỹ
năng thuyết phục nhằm mục đích làm cho người nghe tin theo, làm theo mà trước
đó họ không tin, không làm theo.Thẩm phán sử dụng tốt kỹ năng này thì bản án,
quyết định mà mình đưa ra ngay cả đương sự và bị cáo cũng đồng tình và không có
kháng cáo phản đối. Như vậy:
Thẩm phán phải biết sử dụng ngôn ngữ phù hợp với trình độ, đặc điểm của
đương sự. Thẩm phán khi giao tiếp với các đương sự hoặc những người tham gia tố
tụng khác liên quan đến vụ án phải tùy vào đặc điểm tâm lý riêng của từng đối
tượng (trình độ văn hóa, tính cách, khí chất, khả năng) như thế nào mà Thẩm phán
sử dụng ngôn ngữ nói cho phù hợp. Đối với người có trình độ ngôn ngữ thấp phải
khác với việc sử dụng ngôn ngữ đối với những người có trình độ ngôn ngữ cao. Đối
với người có tâm lý rụt rè ít nói thì phải khác với những người hay nói…
Ngôn ngữ nói của Thẩm phán phải được thể hiện cả về nội dung và hình
thức, yêu cầu về ngôn ngữ của Thẩm phán phải sâu sắc về nội dung và giản dị về
7


hình thức. Để đương sự và những người có liên quan có thể hiểu nhưng phải đảm
bảo tính đúng đắn chính xác. Để làm được điều này Thẩm phán phải biết sử dụng
ngôn ngữ chính xác từ ngữ súc tích và đảm bảo truyền tải đúng nội dung mà mình

đưa ra tránh tình trạng bản án, quyết định khó hiểu hoặc có thể hiểu theo nhiều cách
khiến cho các cơ quan thì hành án khó thực hiện. Hiện nay tình trạng bản án ra được
hiểu theo nhiều cách vẫn còn phổ biến. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến công tác thi
hành án. Vì bản án mà Thẩm phán đưa ra có ý nghĩa rất lớn đến các đương sự nó
nhân danh quyền lực nhà nước nên để bản án có tính thuyêt phục cao thì bản án
phải rõ ràng rành mạch khúc chiết.
Trên đây là một số kỹ năng mà Thẩm phán cần có và sử dụng linh hoạt trong
quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên, các kỹ năng này không đứng
riêng lẻ mà nó nằm trong một thể thống nhất, luôn luôn có sự tác động và hỗ trợ lẫn
nhau.Vì vậy, để hoạt động nghề nghiệp của mình đạt hiệu quả tốt nhất thì Thẩm
phán không nên sử dụng riêng lẻ từng kỹ năng mà nên có sự phối hợp một cách linh
hoạt, mềm dẻo và thuần thục các kỹ năng này.
KẾT LUẬN
Có thể nói với những đặc điểm hoạt động nghề nghiệp đặc thù như vậy thì
việc sử dụng kết hợp các kỹ năng giao tiếp cơ bản trên sẽ giúp cho Thẩm phán có
cái nhìn toàn diện hơn khi giải quyết vụ án. Mặc dù việc sử dụng các kỹ năng này
đòi hỏi những yêu cầu khác nhau nhưng không thể phủ nhận hiệu quả mà chúng
mang lại. Do vậy, Thẩm phán cần rèn luyện hơn nữa các kỹ năng giao tiếp nghề luật
để phù hợp với đặc trưng hoạt động nghề nghiệp của mình./.

8


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường cán bộ Tòa án, 2014: Chương trình đào tạo thẩm phán, phần chung
(tập bài giảng khóa 1);
2. TS Nguyễn Văn Long, 2018: Tâm lý học tư pháp (tập bài giảng) - Nhà xuất
bản Khoa học xã hội.

9




×