Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận triết học Đường lối Đêmôcrit và đường lối Platôn trong triết học phương Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.99 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
Mục lục

1

Mở đầu

2

I. Tổng quan về chủ nghĩa duy vật của Đêmôcrit và chủ nghĩa duy tâm
của Platôn

4

1. Chủ nghĩa duy vật của Đêmôcrit

4

2. Chủ nghĩa duy tâm của Platôn

4

II. Cuộc đấu tranh giữa đường lối triết học của Đêmôcrit và đường lối triết học
Platôn trong triết học phương Tây

5

1. Tư tưởng triết học cơ bản

6


1.1. Về bản thể luận

6

1.2. Trong quan niệm về sự sống và con người

7

1.3. Quan niệm về vận động

7

2. Về nhận thức luận

8

2.1. Đối tượng, mục tiêu của nhận thức

8

2.2. Mối quan hệ giữa hai giai đoạn của quá trình nhận thức (cảm tính và lý tính) 8
3. Về lôgic học

9

4. Về chính trị - xã hội

9

5. Về đạo đức học


10

III. Nguyên nhân sự đối lập giữa đường lối triết học của Đêmôcrit và đường lối
triết học Platôn trong triết học phương Tây

11

1. Điều kiện tự nhiên

11

2. Điều kiện kinh tế

11

3. Điều kiện chính trị xã hội

12

4. Điều kiện tư tưởng

13

Kết luận

14

Tài liệu tham khảo


15

1


MỞ ĐẦU
Triết học ở phương Tây xuất hiện muộn hơn so với ở phương Đông. Các tài liệu
lịch sử cho thấy triết học ở phương Tây bắt đầu hình thành vào khoảng từ thế kỷ
VIII đến thế kỷ VI trước công nguyên.
Lịch sử triết học phương Tây khởi đầu từ Triết học Hy Lạp cổ đại. Triết học Hy
Lạp cổ đại được hình thành trong cuộc đấu tranh với thần thoại. Khi mới hình
thành, nó không độc lập, không tách riêng ra khỏi các tri thức khoa học, mà thực
chất là đồng nhất với chúng và mang hình thức là một sự tổng hợp các tri thức
khoa học nói chung. Trong triết học Hy Lạp cổ đại hình thành sớm các trào lưu,
các khuynh hướng triết học cơ bản như chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, biện
chứng, siêu hình…. Triết học Hy Lạp cổ đại rất phong phú, đa dạng, chứa đựng
mầm mống của hầu như tất cả các kiểu thế giới quan sau này ở phương Tây.
Các học thuyết triết học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại là chủ nghĩa duy vật tự phát.
Các nhà triết học thuộc trường phái này coi sự thống nhất của mọi sự vật hiện
tượng trong tự nhiên, kể cả con người là điều chắc chắn. Họ cố gắng tìm cơ sở của
sự thống nhất ấy trong những lực lượng có sẵn, coi cơ sở ấy là “bản chất đầu tiên”
hay “bản thể” của vạn vật, “khởi nguyên” của thế giới.
Cùng với khuynh hướng duy vật tự phát ấy, trong triết học Hy Lạp cổ đại cũng
bắt đầu những tư tưởng biện chứng đầu tiên. Các nhà triết học theo trường phái này
cho rằng thế giới luôn trong trạng thái vận động: “vạn vật vừa tồn tại, vừa không
tồn tại”, vì vạn vật đều biến đổi, “trôi đi”, “không thể tắm hai lần trên một dòng
sông”. Sự chuyển hóa của vạn vật từ trạng thái này sang trạng thái khác được thực
hiện thông qua cuộc đấu tranh của các mặt đối lập. Đó là tính tất yếu, là quy luật
phổ biến (logos) của thế giới [1].
Tiêu biểu cho chủ nghĩa duy vật trong triết học Hy Lạp cổ đại được thể hiện rõ

nhất trong học thuyết nguyên tử của Đêmôcrit, và đối lập một cách trực tiếp với
chủ nghĩa duy vật của Đêmôcrit là chủ nghĩa duy tâm của Platôn.

2


Để nghiên cứu thêm về chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, em xin chọn đề
tài: “ Đường lối Đêmôcrit và đường lối Platôn trong triết học phương Tây” làm
tiểu luận cho môn Triết học của mình.
Mặc dù đã rất nỗ lực, nhưng do thời gian và sự hiểu biết có hạn nên không tránh
khỏi những thiếu sót trong quá trình hoàn thiện Tiểu luận. Vì vậy, em rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp quý giá của thầy.

3


I. TỔNG QUAN VỀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT CỦA ĐÊMÔCRIT VÀ CHỦ
NGHĨA DUY TÂM CỦA PLATÔN:
1. Chủ nghĩa duy vật của Đêmôcrit:
Chủ nghĩa duy vật trong triết học Hy Lạp cổ đại được thể hiện rõ nhất trong học
thuyết nguyên tử của Đêmôcrit (460- 370 trước Công nguyên). Theo thuyết này thì
cơ sở vật chất ban đầu của vạn vật là các “hạt” nhỏ bé nhất, - các nguyên tử
(atomos); có vô số các nguyên tử luôn vận động trong “trống không” theo các
hướng khác nhau; tùy thuộc vào sự t ập trung hay phân tán của các nguyên tử mà
có vô số các sự vật được sinh ra hay bị tiêu diệt; sự đa dạng của các sự vật hiện
tượng trong thế giới là do số lượng, trật tự và chủng loại nguyên tử cấu tạo nên
chúng quy định; thế giới tồn tại vĩnh viễn, không được sáng tạo ra, không bị tiêu
diệt; bản thân con người cũng chỉ là kết quả của sự phát triển tự nhiên; linh hồn
không phải là một bản chất thần thánh đặc biệt nào, mà cũng chỉ được tạo thành từ
các nguyên tử vô cùng tinh tế và linh hoạt [1].

2. Chủ nghĩa duy tâm của Platôn:
Đối lập với một cách trực tiếp với chủ nghĩa duy vật của Đêmôcrit là chủ nghĩa
duy tâm của Platôn (427 – 347 trước Công nguyên). Theo Platôn thì chỉ có các ý
niệm (eidos) là tồn tại đích thực, vĩnh cửu, còn các sự vật cụ thể là tồn tại không
đích thực, nhất thời. Platôn tin rằng mọi vật hữu hình trong tự nhiên, tức là những
thứ thuộc thế giới vật chất, đều biến đổi, nghĩa là chúng được sinh ra và mất đi.
Nhưng tất cả chúng đều tạo ra theo những hình thức tinh thần. Những hình thức
này là các ý niệm, bất biến và vĩnh cửu, chỉ có thể lĩnh hội được bằng lý tính. Các
sự vật vật chất mà ta biết được bằng giác quan chỉ là “những cái bóng” của các ý
niệm. Nói cách khác, theo Platôn, tất cả những gì ta biết được bằng giác quan (vật
chất) không phải là cái đích thực; cái đích thực là cái mà ta chỉ có thể hiểu nhờ tư
duy (ý niệm). Theo Platôn, con người là một tồn tại kép. Con người có một thể xác
gắn bó chặt chẽ với thế giới vật chất thường xuyên biến đổi và có cùng số phận với
các sự vật khác trong thế giới đó. Mọi giác quan của con người đều dựa vào thể
xác này và do vậy mà không đáng tin cậy. Nhưng con người còn một linh hồn bất
tử, linh hồn này chính là thực tại lý tính, có khả năng đem đến những tri thức về cái
4


đích thực, cái bản chất, tức là các ý niệm vì chính nó là ý niệm, nó đã tồn tại trước
khi nó “bị giam trong nhà tù thể xác”. Lúc đầu, ở trong thể xác, linh hồn “quên”
mất các ý niệm. Bằng giác quan, con người quan sát thấy các sự vật, - “những cái
bóng của ý niệm”, linh hồn bắt đầu nhớ lại. Và giống như tù nhân, nó khao khát
được tự do, được thoát khỏi thể xác trở về với thế giới thực sự của nó. Sự nhớ lại
của linh hồn cũng chính là hành trình trở về với thế giới ý niệm, đó thực chất là
quá trình nhận thức, mà mục đích cuối cùng là đạt đến các ý niệm [1].
II. CUỘC ĐẤU TRANH GIỮA ĐƯỜNG LỐI TRIẾT HỌC CỦA
ĐÊMÔCRIT VÀ ĐƯỜNG LỐI TRIẾT HỌC PLATÔN TRONG TRIẾT HỌC
PHƯƠNG TÂY:
Cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học duy vật và duy tâm của Đêmôcrit

với đường lối triết học duy tâm thần bí của Platôn là cuộc đấu tranh điển hình trong
lịch sử triết học, thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: bản thể luận, nhận thức
luận, lôgic học, đạo đức học và chính trị - xã hội.
Đêmôcrit (460 – 370 trước công nguyên): sinh trưởng trong một gia đình chủ nô
dân chủ ở Hy Lạp. Ông am hiểu toán học, vật lý học, sinh vật học cũng như mỹ
học, ngôn ngữ học và âm nhạc... Ông được Mác và Ăngghen coi là bộ óc bách
khoa đầu tiên của người Hy Lạp cổ đại. Đêmôcrít là đại biểu xuất sắc của chủ
nghĩa duy vật cổ đại. Thuyết nguyên tử là cống hiến nổi bật của ông đối với chủ
nghĩa duy vật. Ngoài ra ông còn có nhiều đóng góp quý giá về lý luận nhận thức.
Triết học của ông thể hiện tinh thần của giới chủ nô dân chủ có tư tưởng cấp tiến
trong triết học Hy Lạp cổ đại. Hầu hết các tác phẩm của ông đã bị tiêu hủy, các tư
tưởng của ông đều được biết thông qua các nhà tư tưởng khác, chẳng hạn một số tư
tưởng trong Luận văn “Về bản chất con người”, “Bàn về lôgic học”...
Platôn (427 – 347 trước công nguyên): xuất thân trong một gia đình chủ nô quý
tộc ở Aten, là một trong những nhà triết học, nhà tư tưởng kiệt xuất nhất thời cổ
đại, người mà theo Hêghen có ảnh hưởng to lớn đến tiến trình phát triển tư tưởng,
tới văn hóa tinh thần của nhân loại. Ông là học trò của Xôcrát (470-399 trước công
nguyên). Ông để lại nhiều tác phẩm như: 34 thiên đối thoại và nhiều bức thư triết

5


học (Teitet, Timei, Parmenit). Đặc biệt tác phẩm “Nước cộng hòa” có vị trí đặc biệt
quan trọng trong triết học của ông [2].
1. Tư tưởng triết học cơ bản:
1.1. Về bản thể luận: Tính quyết liệt và triệt để của cuộc đấu tranh này là cơ sở
cho những vấn đề khác.
* Đêmôcrit (460 – 370 trước công nguyên): kiên định lập trường duy vật vô thần.
Ông cho rằng, cội nguồn của thế giới là nguyên tử, là vật chất. Ông đã phát triển
thuyết nguyên tử của Lơxíp – người thầy của ông – lên trình độ mới: Nguyên tử là

hạt vật chất cực nhỏ, không phân chia được, không nhìn thấy được, không màu,
không mùi, không vị, không âm thanh và tồn tại vĩnh viễn; Các nguyên tử đồng
nhất về chất, chỉ khác nhau về lượng, hình thức (cấu tạo), về tư thế (xoay trở) và về
trật tự (kế tiếp); Sự hình thành, tan rã và sự khác nhau của các sự vật, hiện tượng là
do sự kết hợp hay tách ra của các nguyên tử theo những cách thức khác nhau và
phụ thuộc vào sự khác nhau của các nguyên tử.
Trong quan niệm về vũ trụ của ông cũng không có chỗ cho thần thánh. Trong đó
chỉ có những nguyên tử vận động theo những cơn lốc xoáy. Các nguyên tử cùng
loại cố kết với nhau làm thành những vòng lớp nguyên tử, càng nặng càng ở gần
tâm, càng nhẹ càng ở xa tâm. Đất, nước, lửa, không khí là những vòng ở trung tâm
cơn lốc. Từ đó hình thành các hành tinh và trái đất.
Nhìn chung ông có quan điểm duy vật khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
* Đối lập với quan điểm của Đêmôcrit, Platôn (427 – 347 trước công nguyên):
Về mặt bản thể luận, theo Platôn vũ trụ này có hai thế giới là thế giới ý niệm và thế
giới của các sự vật cảm tính (hay cảm biết được bằng giác quan). Đứng trên lập
trường duy tâm thần bí, ông khẳng định rằng, bản nguyên của thế giới là “thế giới
ý niệm”, mà ông gọi là “những ý tưởng có trước”, một thế giới trừu tượng, bất
biến, tĩnh tại, đông lạnh, không có sự sống, chỉ có chúng mới tồn tại chân thực.
Linh hồn là do thánh tạo ra, có động cơ (“thần tình ái”) và mục đích rõ ràng. Động
cơ và mục đích đã khuyến khích các ý niệm vận động rồi in dấu ấn vào “không tồn
tại”, “hư vô” – cái mà ông gọi là “vật chất” – theo những “tương quan toán học”,

6


những “hòa điệu” khác nhau mà sinh ra giới tự nhiên – “thế giới các sự vật cảm
tính” muôn hình, muôn vẻ, xấu, đẹp khác nhau.
Ví dụ: từ ý niệm “nhà” sinh ra những cái nhà cụ thể. Từ ý niệm “cây” sinh ra
những cây cụ thể...
Theo V.I.Lênin: “thế giới ý niệm” chỉ là những khái niệm, phạm trù; là những

cái chung, được rút ra từ những sự vật riêng lẻ đã được Platôn tuyệt đối hóa đi,
đem đối lập, tách rời khỏi các sự vật cảm tính.
Thế giới thứ hai, theo Platôn, thế giới các sự vật cảm tính chỉ là sản phẩm của
“thế giới ý niệm”, chỉ là “cái bóng” của chúng nên nó là “tồn tại không chân thực”.
Vì mọi cái trong nó luôn biến đổi, có sinh ra, có mất đi, nó chỉ là cái bóng của thế
giới ý niệm, do thế giới ý niệm quyết định. Ý niệm của Platôn như là khuôn mẫu
để thế giới các sự vật cảm tính mô phỏng theo. Như vậy, ông đã có tư tưởng duy
tâm khách quan về thế giới, cả hai thế giới này theo ông đều là sản phẩm của
thần[2].
1.2. Trong quan niệm về sự sống và con người:
* Đêmôcrit cho rằng: Sự sống và con người, theo ông, là kết quả tất yếu của tự
nhiên phát triển từ thấp đến cao: từ sự vật tới sinh vật, từ sinh vật tới con người.
Con người có linh hồn, còn sự vật không có linh hồn. Linh hồn của con người
được cấu tạo từ những nguyên tử hình cầu, giống như nguyên tử lửa vận động với
tốc độ lớn. Linh hồn mất đi cùng với sự chết của con người. Như vậy ông đã bác
bỏ thuyết linh hồn bất tử của tôn giáo, chủ nghĩa duy tâm khách quan của Platôn.
* Platôn cho rằng: Bàn về sự sống của con người, Platôn đưa ra thuyết linh hồn
bất tử. Cơ thể con người do nước, lửa, không khí và đất tạo ra, còn linh hồn do
thần thánh ban nên bất tử. Nô lệ, theo ông không phải là con người, chỉ là công cụ
biết nói, không có linh hồn. Tuy trong học thuyết của Platôn chứa đựng ít nhiều
yếu tố biện chứng chủ quan, nhưng toàn bộ học thuyết của ông vẫn là hệ thống duy
tâm khách quan, thần bí, phản khoa học, phản tiến bộ [2].
1.3. Quan niệm về vận động:
Tuy Đêmôcrit chưa tìm ra nguyên nhân của sự vận động và ông còn tách không
gian (“không tồn tại”) ra khỏi sự vật, nhưng ông đã cố gắng giải thích sự vận động
7


gắn với vật chất, vận động có động cơ tự thân của nguyên tử, còn không gian là
điều kiện của vận động. Kết luận của ông cho rằng thế giới là sự thống nhất giữa

tồn tại của nguyên tử với không tồn tại (không gian) là một kết luận duy vật.
Dựa trên sự vận động của nguyên tử, Đêmôcrit đã khái quát được quy luật nhân
quả. Ông nói rằng: “tìm được cách giải thích hiện tượng theo nguyên nhân của nó
còn thích hơn chiếm được ngôi vua Ba Tư”. Nhược điểm của ông là phủ nhận tính
ngẫu nhiên. Theo ông mọi cái đều là tất yếu, đều được quyết định sẵn theo nguyên
nhân của nó. Đó là bản chất quyết định luận mang màu sắc “định mệnh” của ông.
Platôn đi tìm nguyên nhân của sự vận động ở lực lượng tinh thần, ở “thần tình
ái”, ở linh hồn: linh hồn thế giới làm cho vũ trụ vận động, còn linh hồn riêng biệt
làm cho sự vật vận động.
Platôn đưa ra thuyết mục đích luận, cho rằng mọi sự vật được tạo ra phụ thuộc
vào mục đích của thần thánh [2].
2. Về nhận thức luận: Nếu Platôn vẫn đứng trên quan điểm duy tâm thì Đêmôcrit
lại phát triển nhận thức luận duy vật.
2.1. Đối tượng, mục tiêu của nhận thức:
Theo Đêmôcrit: Đối tượng nhận thức là giới tự nhiên. Mục tiêu của nhận thức là
đạt tới bản chất của sự vật.
Theo Platôn: Đối tượng, mục tiêu của nhận thức là “thế giới ý niệm”.
2.2. Mối quan hệ giữa hai giai đoạn của quá trình nhận thức (cảm tính và lý
tính):
Theo Đêmôcrit, trình độ nhận thức cảm tính (mờ tối) tuy chỉ theo “dư luận”
nhưng là cơ sở của trình độ nhận thức lý tính (nhận thức chân thực) qua các
“Iđôlơ”. “Iđôlơ” là “hình tượng” của sự vật được cảm giác. Nó cung cấp tài liệu để
lý tính nhận thức chân lý.
Platôn lại tuyệt đối hóa nhận thức lý tính. Ông cho rằng, nhận thức cảm tính chỉ
là những “tưởng tượng”, những “kiến giải” về “cái bóng của ý niệm” nên nó không
chân thực. Chỉ có lý tính ở trình động “trực giác trí tuệ” mới thấy được “ý niệm”,
đó mới là chân thực. “Trực giác trí tuệ” chính là quá trình hồi tưởng của linh hồn.
Linh hồn nhớ lại những gì nó đã thấy rõ khi tồn tại ở “thế giới ý niệm”, cái mà nó
8



đã quên đi khi gia nhập vào thể xác con người. Để hồi tưởng tốt, phải đoạn tuyệt
với thế giới cảm tính bằng cách nhắm mắt, bịt tai và bằng phương pháp biện chứng
(đialéctíc). Chỉ có những người có linh hồn ưu tú mới thực hiện được. Đialéctíc là
phương pháp đàm thoại trực tiếp (đặt ra và trả lời các câu hỏi) nhằm phát hiện ra
mâu thuẫn của đối phương trên cơ sở đối chiếu những khái niệm đối lập nhau.
Phương pháp đàm thoại của Platôn tuy có một số yếu tố biện chứng, nhưng nó là
phương pháp biện chứng duy tâm, nó tách rời khỏi sự vật, chỉ hoàn toàn sử dụng
khái niệm với tư duy tư biện [2].
3. Về lôgic học: Hai ông đều có công phát triển lôgic học, nhưng trong đó có sự
đối lập về quan điểm rất rõ.
Đêmôcrit coi lôgic là công cụ của nhận thức, nhấn mạnh phương pháp quy nạp
nhằm vạch ra bản chất của giới tự nhiên.
Platôn xem xét lôgic xen kẽ với phép biện chứng duy tâm nhằm đạt tới “ý
niệm”, coi trọng phương pháp diễn dịch [2].
4. Về chính trị - xã hội:
Đêmôcrit là nhà triết học bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ, nhưng đứng trên lập
trường của chủ nô dân chủ, có tiến bộ, chẳng hạn, ông đòi hỏi phải có luật thành
văn để quản lý xã hội. Ông kêu gọi các chủ nô phải đối xử với các nô lệ như các bộ
phận trên cơ thể con người. Ông cũng đã phỏng đoán được nhu cầu là động lực
phát triển của xã hội, tuy nhiên, luận điểm này chưa được ông phát triển đầy đủ
(chỉ là phỏng đoán). Ông là người vô thần, cho rằng thần thánh là do nỗi sợ hãi của
con người tạo ra. Ông cho rằng, trong xã hội, con người phải biết sống vừa đủ,
đúng mực, phải biết tu dưỡng để tâm linh trở nên thuần khiết, hành động được như
vậy là có đạo đức. Ông đề cao tự do, cho rằng nghèo mà có tự do còn hơn giàu có
mà không có tự do.
Tóm lại, những tư tưởng của ông về chính trị - xã hội là tiến bộ, duy vật so với
các nhà tư tưởng đương thời. Nhìn chung triết học của ông đã góp phần không nhỏ
vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.
Khác với Đêmôcrit, Platôn, đứng trên lập trường của phái chủ nô quý tộc bảo vệ

chế độ nô lệ bằng mọi giá. Chẳng hạn, ông đề xuất nhiều ý tưởng như: Thông qua
9


một bộ luật cho nô lệ ăn no hơn và bắt phải lao động nhiều hơn. Chủ nô nào thấy
nô lệ ốm, chữa cho nô lệ khỏi mà đem bán thì bị phạt gấp nhiều lần. Platôn kiên
quyết chống lại nền dân chủ Aten và chống lại các nhà triết học duy vật vô thần.
Do thất bại trong hiện thực chính trị, ông đã đề ra biện pháp là xây dựng một
nhà nước mang tính không tưởng, nhà nước mà ở đó có nhiều tính chất mang tính
quân phiệt. Chẳng hạn như: ông đòi xóa bỏ sở hữu gia đình; trẻ em khi sinh ra phải
đưa vào các trường công để từ đó lựa chọn ra các nhà triết học, thông thái, các vệ
binh, những con người phục thuộc vào nhà nước, phải phục vụ nhà nước. Trong
nhà nước không tưởng này theo ông có ba lớp người:
- Lớp người thứ nhất là các nhà triết học, nhà thông thái làm nhiệm vụ quản lý,
điều hành xã hội;
- Lớp nhà thứ hai là các vệ binh làm công tác chiến tranh;
- Lớp người thứ ba là những người lao động chân tay.
- Nô lệ không được coi là người nên không thuộc lớp người nào.
Như vậy, quan điểm về chính trị - xã hội của Platôn vừa mang tính duy tâm, vừa
bảo thủ và phản tiến bộ [2].
5. Về đạo đức học:
Đêmôcrit hướng đạo đức vào đời sống hiện thực. Hạt nhân của nó là lương tâm
trong sáng, tinh thần lành mạnh của từng cá nhân. Tư tưởng về đời sống kinh tế xã hội là cơ sở của đời sống đạo đức. Đây là những tư tưởng có giá trị của ông.
Một người có đạo đức, theo ông, là một người sống đúng mực, không gây hại cho
người khác.
Platôn hướng đạo đức vào đời sống của thế giới ý niệm, trong sự tha hóa của nó
thành thiện và ác, thành sự thông thái và sự dũng cảm. Ông cho rằng, chỉ có tầng
lớp các nhà triết học và quý tộc mới đạt đạo đức thanh cao. Còn đạo đức của
thường dân chỉ là sự kìm chế dục vọng thấp hèn. Nô lệ không có đạo đức. Như
vậy, đạo đức học của Platôn là thứ đạo đức duy tâm, tôn giáo, phân biệt đẳng cấp,

hoàn toàn đối lập với đạo đức tiến bộ của Đêmôcrit.
Cuộc đấu tranh giữa đường lối triết học duy vật vô thần của Đêmôcit với đường
lối duy tâm khách quan của Platôn là sự phản ánh cuộc đấu tranh kiên quyết giữa
10


tầng lớp chủ nô dân chủ tiến bộ mà Đêmôcrit là người đại diện với tầng lớp chủ nô
quý tộc, phản dân chủ mà Platôn là người đại diện. Đêmôcit ca ngợi chế độ dân
chủ chủ nô, bảo vệ tự do, tình thân ái và lợi ích của công dân. Còn Platôn lại bảo
vệ chế độ quân chủ chủ nô, bảo vệ lợi ích của tầng lớp quý tộc, chống lại dân
chủ[2].
III. NGUYÊN NHÂN SỰ ĐỐI LẬP GIỮA ĐƯỜNG LỐI TRIẾT HỌC CỦA
ĐÊMÔCRIT VÀ ĐƯỜNG LỐI TRIẾT HỌC PLATÔN TRONG TRIẾT HỌC
PHƯƠNG TÂY:
1. Điều kiện tự nhiên:
Triết học Hy Lạp cổ đại chính là cái nôi của nền triết học phương Tây. Đây là
quốc gia rộng lớn, lớn hơn nhiều so với đất nước Hy Lạp ngày nay và có khí hậu
ôn hòa. Lãnh thổ bao gồm phần lục địa miền Nam bán đảo Balcans, miền ven biển
phía Tây Tiếu Á và nhiều hòn đảo ở miền Egee. Hy Lạp được chia làm ba khu vực
Bắc, Nam và Trung Bộ. Khu vực trung bộ có nhiều dãy núi ngang dọc và những
đồng bằng trù phú, có thành phố lớn như Athens. Nam bộ là bán đảo Peloponnese
với nhiều đồng bằng rộng lớn phì nhiêu, thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ
biển phía Đông của bán đảo Balcans khúc khuỷu nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho
ngành hàng hải phát triển. Các đảo trên biển Egee là nơi trung chuyển cho việc đi
lại, buôn bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng ven biển Tiếu
Á là đầu mối giao thương giữa Hy Lạp và các nước phương Đông.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi và tách biệt như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở
thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có một nền công thương nghiệp phát triển,
một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng và cũng là nơi có quan điểm Triết
học phong phú, đa dạng và khác biệt mà điển hình là hai trường phái Triết học của

Đêmôcrit và Platôn [3].
2. Điều kiện kinh tế:
Chính sự thuận lợi, đa dạng của điều kiện tự nhiên của Hy Lạp đã dẫn đến sự
phát triển và khác biệt giữa điều kiện kinh tế của các vùng lãnh thổ khác nhau của
quốc gia này. Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vô cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai,

11


biển cả và lòng nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư
duy bay bổng, mở rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế.
Vào thế kỉ VIII – VII trước công nguyên, đây là thời kỳ quan trọng nhất trong
lịch sử Hy Lạp cổ đại là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại
đồ sắt. Lúc bấy giờ đồ sắt được dùng phổ biến, năng suất lao động tăng nhanh, sản
phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được củng cố. Sự phát triển này đã kéo theo
phân công lao động trong nông nghiệp, giữa ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi.
Tuy nhiên, kinh tế phát triển không đồng đều, mạnh nhất vẫn là vùng Athens – nơi
Đêmôcrit sinh sống và nghiên cứu triết học, do đó tư tưởng triết học của ông tiến
bộ hơn rất nhiều. Trái lại với Đêmôcrit, Platôn thời kỳ ấy sinh sống tại vùng bình
nguyên, điều kiện kinh tế có phần kém phát triển hơn, do đó tư tưởng triết học của
ông theo hướng triết học có duy tâm khách quan [3].
3. Điều kiện chính trị xã hội:
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị xã hội, xã hội phân hóa
ra làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa thành
lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị phân chia thành nhiều nước nhỏ.
Mỗi nước lấy một thành phố làm trung tâm. Trong đó, Sparta và Athens là hai
thành phố cổ hùng mạnh nhất, nòng cốt nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại. Thành
bang Athens – nơi sinh sống của triết gia Đêmôcrit – nằm ở vùng đồng bằng thuộc
trung bộ Hy Lạp, có điều kiện địa lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh
tế, văn hóa của Hy Lạp cổ đại, và là cái nôi của triết học châu Âu. Tương ứng với

sự phát triển kinh tế, văn hóa là thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ Athens. Do vậy,
tư tưởng triết học của Đêmôcrit theo tư tưởng của nhà nước chủ nô dân chủ tiến
bộ.
Ngược lại, thành Sparta – nơi Platôn sinh sống – nằm ở vùng bình nguyên, đất
đai rất thích hợp với sự phát triển nông nghiệp. Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối
cha truyền con nối. Chính vì thế, Sparta đã xây dựng một thiết chế nhà nước quân
chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ. Tư tưởng triết học của Platôn vì
đó mà theo tư tưởng của đường lối chính trị của tầng lớp chủ nô quý tốc, mang tính
chất khá cực đoan [3].
12


4. Điều kiện tư tưởng:
Sự đối lập xuyên suốt trong cách nhìn nhận về bản thể luận của Đêmôcrit và
Platôn là hai nhà triết học này đi theo hai trường phái triết học khác nhau, đó là chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học
xuất phát từ quan điểm: bản chất của thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý
thức là tính thứ hai; vật chất có trước quyết định ý thức. Ngược lại, chủ nghĩa duy
tâm là trường triết học xuất phát từ quan điểm: bản chất của thế giới là ý thức; ý
thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước quyết định vật chất.
Nếu như Đêmôcrit là nhà triết học duy vật điển hình với giả thuyết sự hình thành
vũ trụ thông qua cơn lốc nguyên tử thì trái lại Platôn lại là nhà triết học duy tâm
khách quan với học thuyết ý niệm. Sự khác biệt giữa hai chủ nghĩa triết học dẫn
đến hai con đường nghiên cứu triết học khác nhau của hai ông. Từ đó, dẫn đến sự
mâu thuẫn giữa hai nhà triết học trong cách tiếp cận bản thể luận trong triết học[3].

13


KẾT LUẬN

Khi nghiên cứu về nội dung của "Đường lối Đêmôcrit" và "Đường lối Platôn"
trong triết học phương Tây, ta có thể thấy được sự khác biệt giữa tư tưởng triết học
của hai triết gia nổi tiếng là Đêmôcrit và Platôn thời kỳ bấy giờ. Sự đối lập này
xuất phát từ những lý do căn bản của nó nhưng cả hai quan điểm triết học này đều
có sự tiến bộ nhất định, góp phần đem lại sự phong phú đa dạng của triết học
phương Tây cổ đại, là "mầm mống của hầu hết các loại thế giới quan sau này".
Đáng kể nhất là sự ra đời chủ nghĩa duy vật mộc mạc, chất phác và phép biện
chứng tự phát, ngây thơ – những hình thức đầu tiên của chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng trong lịch sử nhân loại [3].

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Lê Kim Châu, Bài giảng Triết học.
2. Bùi Đức Dũng, Cuộc đấu tranh giữa đường lối triết học của Đêmôcrit và
đường lối triết học Platôn trong triết học Hy Lạp cổ đại, Trường Chính trị Hòa
Bình.
3. Trang web text.123doc.org
/>
15



×