Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận triết học Quan điểm của Nho gia về đường lối trị nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.97 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
Mục lục

1

Mở đầu

2

I. Sơ lược về quá trình phát triển của Nho giáo

3

1. Vài nét về tiểu sử của Khổng Tử

3

2. Sự ra đời của Nho giáo

3

II. Một số nội dung chính của Nho giáo

5

1. Tư tưởng Nho giáo

5

2. Thái độ của Nho giáo đối với cuộc sống


6

3. Quan niệm về đạo đức trong Nho giáo

7

III. Quan điểm của Nho gia về đường lối trị nước

8

1. Quan điểm của Nho gia về quan hệ xã hội

8

2. Quan điểm của Nho gia về đường lối trị nước

8

2.1. Quan niệm về dân và vai trò của dân

9

2.2. Quan niệm về đạo làm vua, đạo bề tôi, quan hệ vua – dân và
vua – bề tôi

10

Kết luận

13


Tài liệu tham khảo

14

1


MỞ ĐẦU
Triết học Trung Hoa cổ đại là một kho tàng tư tưởng cổ xưa rực rỡ, phong phú
nhất, là một chiếc nôi lớn của nền văn minh nhân loại. Nghiên cứu lịch sử tư
tưởng triết học thế giới, chúng ta không thể không nghiên cứu triết học Trung Hoa
cổ đại. Mà nhắc đến triết học Trung Hoa cổ đại chúng ta không thể không nhắc
đến học thuyết Nho gia của Khổng Tử. Mặc dù, trong thời kỳ này đã nảy sinh
nhiều học thuyết chính trị triết học tiêu biểu như: Nho gia, Pháp gia, Đạo gia,
Nông gia, Mặc gia, Âm dương gia, Tạp gia...nhưng có thể nói Nho gia giữ một
vai trò to lớn trong sự phát triển của lịch sử triết học và văn hoá Trung quốc. Nho
gia không những có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội Trung
quốc mà còn của các quốc gia phương Đông khác trong thời gian dài [1].
Kể từ lúc xuất hiện từ vài thế kỷ trước công nguyên cho đến thời nhà Hán (Hán
Vũ Đế), Nho giáo đã chính thức trở thành hệ tư tưởng trị nước an dân độc tôn và
luôn luôn giữ vị trí đó cho đến ngày cuối cùng của chế độ phong kiến. Điều đó đã
minh chứng tư tưởng trị nước an dân của Nho giáo có những giá trị đặc biệt, rất to
lớn.
Để nghiên cứu thêm về học thuyết của Khổng Tử em xin chọn đề tài: “ Quan
điểm của Nho gia về đường lối trị nước ” làm tiểu luận cho môn Triết học.

2



I. SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO:
1. Vài nét về tiểu sử của Khổng Tử:
Khổng Tử (551-479), tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni. Ông là nhà triết
học, nhà chính trị, nhà giáo dục nổi tiếng ở Trung Học cổ đại. Ông được coi là
người sáng lập ra môn phái Nho gia. Ông được các học trò tôn là "chí thánh tiên
sư, vạn thế sư biểu".
Năm 1982, một học giả Mỹ viết “Hành vi cao quý và tư tưởng lý luận đạo đức
của Khổng Tử, không chỉ ảnh hưởng tới Trung Quốc mà còn ảnh hưởng tới toàn
nhân loại”. Từ thiếu niên đến 30 tuổi, Khổng Tử chuyên cần học tập và tập luyện
nắm vững các tri thức về lễ nghi, âm nhạc, xạ tiễn, ngự xạ, thư....Sau đó, ông đi
giảng dạy khắp bốn phương, nghiên cứu học vấn trong vài chục năm rồi biên soạn
sách. Sách của Nho gia tập trung trong Tứ thư và Ngũ kinh. Ngũ kinh gồm “Kinh
thi”, “Kinh thư”, “Kinh dịch”, “Kinh lễ” và “Kinh Xuân thu”. Trong đó, Kinh
Xuân thu là do chính Khổng tử viết, còn 4 kinh kia là có từ trước, Khổng tử chỉ
biên tập, chỉnh lý lại. Còn Tứ thư gồm “Đại học” do Tăng Sâm - học trò của
Khổng tử viết, “Trung dung” do Tử tư - học trò đồng thời là cháu nội của Khổng tử
viết, “Mạnh tử” do Mạnh tử - học trò nổi tiếng của Khổng tử viết và “Luận ngữ”
ghi lại các bài giảng của Khổng tử (không rõ tác giả). Trong quá trình lịch sử, Nho
gia có những thay đổi nhất định. Cần phân biệt Nho gia trước nhà Tần (Nho gia
nguyên thủy), Nho gia thời nhà Hán, Nho gia thời nhà Tống [1].
2. Sự ra đời của Nho giáo:
Khổng Tử sống trong thời kỳ có nhiều biến động. Từ lâu, thiên tử nhà Chu đã
mất hết uy quyền, quyền lực rơi vào tay các vua chư hầu, xã hội biến chuyển thay
đổi nhanh chóng. Là một triết nhân, thái độ của Khổng Tử hết sức phức tạp, ông
vừa hoài cổ, vừa sùng thượng đổi mới. Trong tâm trạng phân vân, dần dần ông
hình thành tư tưởng lấy nhân nghĩa để giữ vững sự tồn tại chung và khai sáng hệ
thống tư tưởng lớn nhất thời Tiên Tần là học phái Nho giáo tạo ảnh hưởng sâu sắc
tới xã hội Trung Quốc.
Hệ thống tư tưởng Nhân và Nghĩa của Khổng Tử, bất kể hàm nghĩa phong phú
phức tạp đến đâu, nói cho cùng cũng chỉ là để thiết lập một trật tự nghiêm cẩn của

3


bậc đế vương và thành lập một xã hội hoàn thiện. Hệ thống tư tưởng của ông ảnh
hưởng tới hơn 2500 năm lịch sử Trung Quốc.
Khổng Tử tuy sáng lập ra học thuyết Nhân Nghĩa Nho gia nhưng không được
các quân vương thời Xuân Thu coi trọng mà phải do các hậu học như: Tử Cống,
Tử Tư, Mạnh Tử, Tuân tử truyền bá rộng về sau. Trải qua nhiều nỗ lực của giai cấp
thống trị và các sĩ đại phu triều Hán, Khổng tử và tư tưởng Nho gia của ông mới
trở thành tư tưởng chính thống. Đổng Trọng Thư đời Hán hấp thụ nhân cách hoàn
thiện và học thuyết chân chính của Khổng Tử, phụ hội thêm Công Dương Xuân
Thu lợi dụng âm dương bổ sung thay đổi lý luận trở thành học thuyết thiên nhân
hợp nhất cùng với học thuyết chính trị của Tuân Tử, khoác tấm áo thần học cho
Nho học.
Từ đời Hán đến đời Thanh, Khổng học chủ yếu dùng hình thức kinh truyện để
lưu truyền. Đường Thái Tông sau khi thống nhất quốc gia, liền cho kinh học gia
Khổng Dĩnh Đạt chú giải, hiệu đính lại năm kinh Nho gia là Dịch, Thi, Thư, Lễ,
Xuân Thu thành bộ Ngũ kinh chính nghĩa gần như tổng kết toàn diện kinh học từ
đời Hán đến đó. Ngũ kinh chính nghĩa trở thành sách giáo khoa dùng cho thi cử
đời Đường. Khổng học càng được giai cấp thống trị tín nhiệm, Đường Thái Tông
nói rất rõ “Nay trẫm yêu thích nhất là đạo của Nghiêu Thuấn và đạo của Chu
Không coi như chim thêm cánh, như cá gặp nước, không thể không có được”. Từ
đó, Khổng Tử với đế vương, với chính phủ các triều đại đều có quan hệ như
Đường Thái Tông hình dung.
Khi lịch sử phức tạp của Trung Quốc tiến vào thời kỳ phát đạt - thời kỳ nhà
Tống, vị hoàng đế khai quốc là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn lập tức chủ trì
nghi lễ long trọng tế tự Khổng Tử để biểu dương lòng hiếu lễ, vua còn thân chủ trì
khoa thi tiến sĩ mà nội dung hoàn toàn theo Nho học.
Sau này, Nho học được các sĩ đại phu tôn sùng, được các vương triều đua nhau
đề xướng nên Nho học thuận lợi thẩm thấu trong mọi lĩnh vực trong mọi giai tầng

xã hội, từ rất sớm nó đã vượt qua biên giới dân tộc Hán, trở thành tâm lý của cộng
đồng dân tộc Trung Quốc, là cơ sở văn hoá của tín ngưỡng và tập tính.

4


II. MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH CỦA NHO GIÁO:
Chúng ta tìm hiểu về Nho giáo khi nó đã tồn tại hơn 2000 năm, luôn được cải
biến, bổ sung và mang các bộ mặt khác nhau qua các thời kỳ. Nhiều học giả đã tốn
rất nhiều giấy mực để sưu tầm, trích dẫn và bàn cãi xung quanh những câu chữ
trong sách vở của Nho giáo từ trước tới nay. Việc làm ấy thường dẫn đến những
nhận định chủ quan, giản đơn và phiến diện. Muốn khen hay chê, người ta đều có
thể trích dẫn những lời lẽ rất hấp dẫn từ trong kho sách của Nho giáo. Nhưng ngay
cả Khổng Tử , người sáng lập ra Nho giáo, khi đề ra những điều căn bản trong học
thuyết của Nho giáo cũng đang ở tâm trạng phân vân, mâu thuẫn, vừa hoài cổ, vừa
sùng thường, và bối cảnh xã hội lúc ấy cũng là lúc giằng co, giành giật giữa chế độ
nô lệ và chế độ phong kiến. Sau này khi Nho học được cải biến để phục vụ ý đồ
của giai cấp thống trị thì nó càng chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Vì thế không thể tìm
hiểu Nho học theo lối trích dẫn, kinh viện vì nó chỉ càng dẫn ta vào ngõ cụt. Để tìm
hiểu Nho học không thể không xem xét trên giác độ phương pháp duy vật lịch
sử....Chúng ta không phân tích những sự kiện tư tưởng bằng bản thân tư tưởng mà
phải tìm hiểu tư tưởng gắn liền với những điều kiện xã hội cụ thể trong đó nó đã
nảy sinh, phát triển và suy tàn.
Hệ tư tưởng của Nho giáo trải qua hơn 2000 năm phát triển và biến đổi. Từ
Tam đức của Khổng Tử, từ đoan của Mạnh Tử, ngũ thường ở Hán Nho, “Thiên
nhân hợp nhất” ở Đống Trọng Thư, “Thái cực đồ thuyết” của Chu Đôn Di, Lý Khí
ở Chu Hi... Tất cả đều xuất phát từ một gốc và khoác chung tấm áo Nho học. Như
vậy, hệ tư tưởng Nho giáo trải qua hơn 2000 năm là vô cùng phức tạp.
1. Tư tưởng Nho giáo:
Tư tưởng Nho giao bao gồm những tư tưởng về biến dịch của vũ trụ và tư tưởng

về chính trị - đạo đức của Khổng Tử. Đứng trên quan điểm triết học của kinh dịch
thì căn nguyên của vũ trụ, của vạn vật là thái cực. Thái cực chứa đựng một năng
lực nội tại mà phân thành lưỡng nghi là âm và dương. Sự tương tác giữa hai thế lực
âm và dương sinh ra tứ tượng (thái âm - thái dương - thiếu âm - thiếu dương). Tứ
tượng sinh ra bát quái (càn - khảm - cấn - chấn - tốn - ly - khôn - đoài). Và bát quái
sinh ra vạn vật.
5


Thế giới quan của Khổng Tử dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm, giữa chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa hữu thần. Một mặt ông xem trời là giới
tự nhiên, có sự vận hành của giới tự nhiên. Mặt khác, ông lại cho rằng trời là một
lực lượng vô hình chi phối vận mệnh xã hội và con người....
Về tư tưởng chính trị - đạo đức, thì toàn bộ tư tưởng đều nhằm vào việc giải
quyết những vấn đề xã hội - những vấn đề cấp bách đặt ra trong thời đại ông. Đây
cũng chính là nội dung đường nối trị nước an dân của Khổng Tử mà chúng ta sẽ
tìm hiểu kĩ hơn ở phần sau.
2. Thái độ của Nho giáo đối với cuộc sống:
Trước hết phải nói Nho giáo là đạo quan tâm đến con người, đến cuộc đời và tìm
thú vui trong cuộc sống, rất khác với các tôn giáo khác: Phật giáo cho cuộc đời là
bể khổ nên tìm cách giải thoát, cần sự “bất sinh”. Lão giáo cũng yếm thế, bi quan
như vậy, nên cần sự “vô vi tịch mịch”. Chỉ có đạo Nho là trọng sự sống hơn cả.
Cho nên Khổng Tử ít bàn đến chuyện quỷ thần, đến chuyện quái lạ, huyền bí. Làm
người ở đời hãy lo lấy việc của con người. Chuyện của con người lúc sống còn
chưa lo hết, lo gì đến việc sau khi chết! Khi khoa học chưa phát triển, các tôn giáo
còn thịnh hành, những chuyện mê tín dị đoan còn huyền hoặc người ta gây bao
nhiêu tai hại, thì thái độ “kinh nhi viễn chi” là đúng. Khổng Tử tuy chưa thoát ra
được cái “thiện đạo quan” của đời Chu, nhưng ông đã bắt đầu hoài nghi quỷ thần
mặc dù ông vẫn trong việc tế trị. Nho học khuyên con người ta nên yêu đời, vui
đời, sống có ích cho đời cho xã hội. Câu Khổng Tử trả lời Tử Lộ khi ông ta định

sang giúp Phật Bật nêu rõ điều đó: “Ta đây há lại là quả dưa, chỉ được treo mà
không được ăn hay sao” sống ở đời mà bỏ việc đời là trái đạo con người. Sống là
hành động, đem tài trí giúp đời Khổng Tử chính là tấm gương cho các nhà Nho đời
sau noi theo. Ông không tìm thú vui ở chỗ ẩn dật hay ở chỗ suy tưởng suông, mà ở
chỗ hành động, hành đạo. Khổng Tử đi chu du thiên hạ ngoài mục đích tìm cách
thực hiện lý tưởng của mình suốt 14 năm. Khi đã gần 70 tuổi, ông vẫn dạy học,
viết sách, truyền bá tư tưởng của mình. Đây có thể nói là điểm sáng nhất của Nho
giáo so với các học thuyết khác, và có lẽ chính nhờ nó mà Nho giáo giữ vị trí độc
tôn và ưa chuộng trong thời gian rất dài của lịch sử.
6


3. Quan niệm về đạo đức trong Nho giáo:
Trong Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm người. Phải nói đạo làm người của
Khổng Tử dạy là đạo làm người trong xã hội phong kiến. Chúng ta đều biết trong
xã hội có giai cấp thì những nguyên tắc để đánh giá hành vi của con người, phẩm
hạnh của con người trong mối quan hệ với người khác và trong mối quan hệ với
nhà nước, Tổ quốc... đều mang tính giai cấp rõ rệt và có tính chất lịch sử. Những
quan niệm về đạo đức điều thiện, điều ác “thay đổi rất nhiều từ dân tộc này tới dân
tộc khác, từ thời đại này đến thời đại khác đến nỗi thường thường trái ngược hẳn
nhau” (Enghen).
Những quan niệm đạo đức mà Khổng Tử đề ra không phải là vĩnh cửu, nhưng có
nhiều phương châm xử thế giúp ông sống giữ được tâm hồn cao thượng, nhân cách
trong sáng. Suy đến cùng đạo làm người ấy bao gồm hai chữ: Nhân, Nghĩa.
Khổng Tử giảng chữ Nhân cho học trò không lúc nào giống lúc nào, nhưng xét
cho kỹ, cốt tuỷ của chữ Nhân là lòng thương người và cũng chính là Khổng Tử nói
“đối với người như đối với mình, không thi hành với người những điều mà bản
thân không muốn ai thi hành với mình cả. Hơn nữa cái mình muốn lập cho mình
thì phải lập cho người, cái gì mình muốn đạt tới thì cũng phải làm cho đạt tới, phải
giúp cho người trở thành tốt hơn mà không làm cho người xấu đi” (luận ngữ).

“Nghĩa” là lẽ phải. Mạnh Tử nói: “nhân là lòng người, nghĩa là đường đi của
người”(Cáo Tử thượng), “Nhân là cái nhà của người, nghĩa là đường đi ngay thẳng
của người” (Lâu ly thượng), “Ở với đạo nhân, nói theo đường nghĩa, tất cả mọi
việc của đại nhân là thế đó” (Tồn tâm thương). Nghĩa thường đối lập với lợi. Theo
lợi có khi không làm cái việc phải làm nhưng trái lại, theo nghĩa có khi lại rất lợi.
Có cái nghĩa đối với người xung quanh, có cái nghĩa đối với quốc gia xã hội.
Quan niệm đạo đức của Nho giáo có rất nhiều điểm tích cực. Một trong những
đặc điểm đó là đặt rõ vấn đề người quân tử, tức là người lãnh đạo chính trị phải có
đạo đức cao cả; dù nguyên tắc ấy không hoàn toàn phù hợp với thực tiễn nhưng nó
vẫn là một điểm làm chỗ dựa cho những sĩ phu đấu tranh. Nho giáo đã tạo ra cho
kẻ sĩ một tinh thần trách nhiệm cao cả với xã hội.

7


III. QUAN ĐIỂM CỦA NHO GIA VỀ ĐƯỜNG LỐI TRỊ NƯỚC:
1. Quan điểm của Nho gia về quan hệ xã hội:
Lý tưởng của Nho gia là một xã hội có trật tự kỷ cương, sung túc, mọi người
sống hòa thuận, yêu thương lẫn nhau.
Xã hội ấy trước hết phải có “Lễ”. Lễ là phép tắc nhà nước, là nghi thức sinh hoạt
xã hội, là trật tự kỷ cương. Để có Lễ cần phải thực hiện Chính danh, nghĩa là mọi
người trong xã hội phải có ngôi thứ rõ ràng, chỉ làm những gì đúng với danh phận
của mình.
Xã hội ấy phải “Túc thực” tức là no đủ (Phú quý sinh lễ nghĩa, Tiên phú hậu
giáo, Dân dĩ thực vi thiên, Hằng sản là điều kiện của Hằng tâm).
Xã hội ấy phải “Hòa” tức là mọi người phải yêu thương đoàn kết lẫn nhau như
anh em trong một nhà (tứ hải giai huynh đệ, bất hoạn nhi bần hoạn bất an).
Xã hội ấy phải công bằng (bất hoạn quả nhi hoạn bất quân) [1].
2. Quan điểm của Nho gia về đường lối trị nước:
Nho gia chủ trương cai quản đất nước bằng đạo đức (đường lối Đức trị, Lễ

trị), ), tức là dùng đạo đức để cai trị, tổ chức và quản lý xã hội, lấy nêu gương đạo
đức, thuyết phục nhân nghĩa (dĩ Đức, hành Nhân, giả Vương), coi dân không chỉ là
đối tượng sai khiến, cai quản mà còn phải chú trọng đem lại ân huệ cho dân (an
dân), phải coi việc dân là quan trọng nhất (dân vi quý), vì dân là gốc nước (dân vi
bang bản, bản cố bang ninh).
Quan niệm về con người và đạo đức của Nho gia xoay quanh vấn đề bản tính
con người và giáo dục đạo đức cho con người. Về bản tính con người, các nhà Nho
đều nhất trí cho rằng con người ta sinh ra với bản tính như nhau, nhưng hoàn cảnh
sống, giáo dục mà có những phẩm chất khác nhau. Mục đích của giáo dục là đem
đến những phẩm chất tốt đẹp cho con người, nhất là “Nhân”. Về cơ bản thì Nhân
có nghĩa là yêu người (nhân giả ái nhân), tuy nhiên, tùy từng trường hợp mà có
nhiều biểu hiện. Cha mẹ là những người thân thiết nhất của ta, đối với họ ta phải
kính yêu và biết ơn, - đó là Hiếu; anh chị em là những người ruột thịt của ta, ta
phải trên kính dưới nhường, - đó là Lễ; đối với mọi người ai cũng như ta cho nên

8


cái gì mình muốn thì làm cho người, - đó là Trung, cái gì mình không muốn thì
đừng làm cho người, - đó là Thứ.
Theo các nhà Nho, để đạt được đức Nhân không dễ, việc tu nhân, tích đức phải
làm thường xuyên. Người đạt được đức Nhân ở mức cao nhất, mức tuyệt đối thì
gọi là thánh nhân. Dưới một bậc lần lượt là đại nhân, quân tử và tiểu nhân [1].
Tất nhiên, bên cạnh việc dùng đạo đức, Nho giáo cũng chủ trương dùng hình
phạt, pháp luật (Pháp trị), như Tuân Tử chỉ rõ: “Từ bậc sĩ trở lên thì phải dùng lễ
nhạc mà đối đãi; đối với dân chúng trăm họ thì phải dùng pháp luật mà cai trị” [ 6]
và “xem xét chính trị biết phân biệt rõ ràng, người nào lấy điều thiện đến với ta, thì
dùng lễ mà đối đãi họ, người nào lấy điều bất thiện đến với ta thì dùng hình phạt
đối đãi với họ. Hai hạng người đó được phân biệt thì người hiền và kẻ bất hiền
không lẫn lộn, phải trái không rối loạn” [6]. Tuy vậy, giữa Đức trị và Pháp trị, Nho

giáo trước sau như một vẫn đề cao, coi trọng Đức trị, còn pháp luật, hình phạt chỉ
là biện pháp nhất thời, tiêu cực nhằm trợ giúp cho việc giáo hoá trong những lúc
khốn cùng của việc cai trị mà thôi, và chỉ áp dụng đối với những kẻ bất hiền,
không chịu an phận, không nghe theo giáo hoá, ưu thích dũng cảm, chán cảnh
nghèo hèn.
Nho giáo đưa ra đường lối Đức trị nhằm khắc phục tình trạng rối loạn từ trong
gia đình đến ngoài thiên hạ, xây dựng và duy trì xã hội ổn định, có trật tự, kỷ
cương, sao cho giai cấp địa chủ phong kiến mãi là giai cấp thống trị, còn các giai
cấp khác mãi bị áp bức, bị thống trị, dù rằng các nhà Nho có nói đến cái xã hội mà
ở đó “có vua thánh tôi hiền, mọi cái đều là của chung, mọi người đều có quyền lợi,
đều có sản nghiệp riêng, đều được chăm sóc” đi chăng nữa [4].
Để thi hành đường lối Đức trị và nhằm xây dựng một xã hội phong kiến ổn định,
có trật tự, kỷ cương và thái bình thịnh trị, trong quan niệm về việc trị nước, Nho
giáo đề cập đến nhiều vấn đề như đạo làm vua, đạo bề tôi, mối quan hệ giữa vua bề tôi - dân, dân và vai trò của dân,…, thể hiện tập trung ở hai nội dung sau:
2.1. Quan niệm về dân và vai trò của dân:
Đề cập đến vấn đề này, các nhà Nho Trung Quốc từ Khổng Tử trở đi đều đặc
biệt quan tâm đến dân, đề cao vai trò của dân, đều đòi hỏi nhà vua, người cầm
9


quyền phải thật sự yêu thương, chăm sóc dân như cha mẹ đối với con cái. Từ một
quan niệm cho rằng, thần dân trong thiên hạ đều là con Trời, đều là của Thiên tử,
vua thay Trời trị dân, chăm sóc dân, Khổng Tử, Mạnh Tử đều coi dân là gốc nước
(dân vi bang bản), dân là đáng quý nhất (dân vi quý), đều nhấn mạnh đến vai trò
của dân như coi dân là nước, vua chỉ là thuyền. Từ đó, Nho gia đều coi “dưỡng
dân” là một trong những nhiệm vụ chính trị cơ bản nhất của người cầm quyền.
Mạnh Tử đã từng nói: “Các vua chư hầu có ba điều phải coi là quý trọng: đất đai,
dân chúng và việc chính trị. Người nào coi trọng châu ngọc, tai ương ắt tới thân”
[2]. Đồng thời, Nho gia luôn coi việc được lòng dân, hợp ý dân, được dân tin hay
không có quan hệ chặt chẽ tới sự hưng - vong, an - nguy của triều đại, của chế độ.

Vì vậy, không phải ngẫu nhiên, Nho gia đều khuyên nhà cầm quyền: muốn được
lòng dân, được dân tin thì phải lo cho dân đủ ăn, đủ mặc, phải giúp họ làm giàu,
phải để cho dân có tài sản riêng; đối xử với dân phải giữ chữ tín, sai khiến dân phải
hợp thời. Có thể dẫn ra nhiều câu nói của các nhà Nho để minh chứng cho những
tư tưởng trên. Song dân trong quan niệm của Nho gia không phải là tất cả những
người dân nói chung, mà chỉ là những người dân nào biết nghe và hành động theo
giáo hoá của kẻ thống trị, biết tuân phục và an phận với địa vị của mình. Còn
ngược lại, họ chỉ là những kẻ bất hiền, tiểu nhân, hèn kém về đạo đức và trí tuệ.
Với những người như vậy, Nho gia đều chủ trương, nhà cầm quyền phải dùng pháp
luật, hình phạt đối với họ.
Tóm lại, trong quan niệm của Nho gia, luôn đề cao vao trò của dân nhưng với
họ, dân cũng chỉ mãi mãi là thần dân của kẻ cầm quyền thống trị mà thôi [4].
2.2. Quan niệm về đạo làm vua, đạo bề tôi, quan hệ vua – dân và vua – bề tôi:
Nho giáo đặc biệt đề cao vai trò của đạo đức, sự tu dưỡng đạo đức của nhà vua
đối với sự hưng - vong, an - nguy, trị - loạn của triều đại, của chế độ, thành - bại
của công việc trị nước, trị dân. Khổng Tử đã từng nói: “Vi chính dĩ đức, thí như
Bắc thần cư kỳ sở, nhi chúng tinh củng chi”(Lấy đức để làm việc chính trị, cũng
như ngôi sao Bắc thần, ở yên vị mà các ngôi sao khác đều châu về) [2] và “Dùng
chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình pháp để giữ trật tự, dân tránh khỏi tội nhưng
chưa biết hổ thẹn. Dùng đức để dẫn dắt, dùng lễ để giữ trật tự, dân biết hổ hẹn mà
10


tiến tới chỗ tốt lành” [2]. Ông còn nói tiếp: “Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành, kỳ
thân bất chính, tuy lệnh bất tùng” (Bản thân nhà cầm quyền ngay thẳng, tuy không
ra lệnh, mọi việc vẫn trôi chảy; bản thân không ngay thẳng, có ra lệnh dân cũng
chẳng theo) [2], còn Mạnh Tử thì khẳng định: “Hễ vua có nhân thì không ai dám
bất nhân, hễ vua có nghĩa thì không ai dám bất nghĩa” [2]. Không những thế, Nho
giáo còn khẳng định thêm rằng, nhà vua, người cầm quyền có đạo đức, hành động
có đạo đức mới được lòng dân, mới được dân tin, còn khi đã không được lòng dân,

lòng tin của dân thì sự nghiệp chính trị của nhà vua tất phải đổ. Mạnh Tử đã chỉ rõ:
“Mất thiên hạ là vì để mất dân, để mất dân là vì để mất lòng người. Muốn được
thiên hạ, có đường lối hẳn hoi: hễ được dân là được thiên hạ vậy. Muốn được dân,
có đường lối hẳn hoi: hễ được lòng người, là được dân vậy. Muốn được lòng
người, có đường lối hẳn hoi: dân muốn gì hãy đem lại cho thật nhiều, dân ghét điều
gì, chớ đem thi thố, thế thôi” [2]. Song, để được lòng dân, để được dân chúng,
Nho gia cho rằng, nhà vua, người cầm quyền phải coi dân là gốc nước, dân là quý,
chăm lo đời sống vật chất của dân, là tấm gương sáng cho dân, thi hành đường
lối Nhân chính. Mạnh Tử nói: “Nếu nhà vua thi hành nhân chính, dân sẽ thương
yêu người trên, và liều mình vì bậc quan trưởng vậy” [2]. Ngay trong quan niệm về
một xã hội lý tưởng, Nho gia cũng coi “vua thánh tôi hiền” là một trong những đặc
điểm cơ bản của xã hội đó.
Đạo đức của nhà vua còn thể hiện trong thái độ của vua đối với kẻ bề tôi và
trong quan hệ giữa vua và bề tôi. Bề tôi (hàng ngũ quan lại) là người giúp vua, là
chỗ dựa của vua trong việc trị nước, trị dân. Bởi vậy, Nho gia quan niệm rằng,
nước trị là do quan giỏi, vua dùng người quân tử; còn nước loạn là do quan xấu,
vua dùng tiểu nhân. Về mối quan hệ giữa vua và bề tôi, trong thiên Bát dật (Luận
ngữ), Khổng Tử nói: “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” (Vua lấy lễ sai
khiến bề tôi, bề tôi lấy lòng trung để thờ vua) [2]. Nhưng, để bề tôi tuyệt đối trung
thành với vua, hết lòng vì quyền lợi của vua, thì nhà vua phải là tấm gương sáng về
đạo đức. Tấm gương sáng về đạo đức của nhà vua không chỉ là sự cần mẫn, siêng
năng, hết lòng trong việc trị nước, an dân, mà còn phải hết lòng yêu thương bề tôi.
Để tiến hành cuộc chiến tranh cứu nước thắng lợi, các nhà Nho Việt Nam cho rằng,
11


nhà vua không chỉ dựa vào dân mà còn phải đồng cam cộng khổ, đoàn kết với bề
tôi chống giặc, phải thưởng bổng lộc hậu đãi họ. Để công việc trị nước được thành
công, nhà vua phải quan tâm đến đời sống vật chất của tầng lớp quan lại, phải lấy
việc làm cho quan lại có đời sống vật chất sung túc, đầy đủ là một trong những

công việc hàng đầu của nhà vua. Nếu không, các cấp chính quyền từ triều đình tới
địa phương sẽ rệu rã, xã hội sẽ mất an ninh. Để đất nước được yên trị, bề tôi hết
lòng với vua, với nước, với dân, nhà vua phải trọng người hiền tài, xa lánh kẻ bất
hiền, phải biết nghe những người nói thẳng, tránh kẻ phỉnh nịnh. Nguyễn Đức Đạt
nói: “Vua có trực thần, là gốc của việc trị. Vua có nịnh thần, là gốc của việc loạn.
Vua mà tin kẻ “ngậm miệng ăn tiền” thì bại vong, theo người nói thẳng thì hưng
thịnh”[3]. Ngoài ra, trong quan niệm của Nho giáo, phẩm chất của người trung
thần không chỉ phải tuyệt đối trung thành với vua, hy sinh vì vua, giữ uy tín cho
vua, chịu khó nhọc thay vua mà còn phải can gián hành vi sai trái của vua, giúp
vua làm điều thiện. Theo Nguyễn Đức Đạt, những kẻ bề tôi mà luôn “lựa lời đón
ý” nhà vua chỉ là những kẻ làm hại đạo trung, chỉ là để giữ bổng lộc, họ không
phải là bậc trung thần. Để có những người trung thần, tầng lớp quan lại phải được
giáo dục. Vì có được giáo dục họ mới có văn, có hạnh, mới giữ được sự trong sạch,
có liêm sỉ, có khí tiết.
Nhưng để nước trị, dân an, để bề tôi có đạo đức và hết lòng vì vua, để được lòng
dân và dân tuân phục, theo Nho gia, điều có ý nghĩa quyết định là nhà vua phải là
tấm gương sáng trong việc tự mình tu dưỡng đạo đức, phải thật sự yêu nước,
thương dân, phải phục vụ lợi ích đất nước, lợi ích của dân hết mực, hết lòng.

12


KẾT LUẬN
Ngày nay, chúng ta tìm hiểu Nho gia không phải chỉ để thấy được sự vĩ đại của
vĩ nhân mà mục đích thiết thực hơn là để tiếp tục phát huy kinh nghiệm mà cha
ông ta đã vận dụng Nho giáo trong việc giải quyết mối quan hệ giữa truyền thống
và hiện đại, vận dụng những tư tưởng tích cực của Nho giáo trong công cuộc đổi
mới.
Về quan niệm quản lý xã hội của Nho giáo, có thể nói rằng, bên cạnh những hạn
chế, còn ẩn chứa nhiều vấn đề hợp lý và trong thời đại ngày nay vẫn còn giữ

nguyên tính thời sự.
Thứ nhất, chủ thể quản lý xã hội sẽ tốt hơn, nếu mỗi người luôn tâm niệm "tu
thân" trong hoàn cảnh mới. Cụ thể, luôn giữ vững những phẩm chất: Nhân, nghĩa,
trí, dũng, liêm với nội dung mới.
Thứ hai, gia đình sẽ yên ấm, hoà thuận, mọi người đều biết yêu thương, giúp đỡ,
có trách nhiệm với nhau, biết nghĩa vụ và làm tròn bổn phận của mình với gia đình.
Thứ ba, ngày nay chúng ta đang quản lý đất nước bằng pháp luật thông qua bộ
máy công quyền ngày càng được hoàn thiện. Tuy nhiên, một nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa sẽ hoàn chỉnh, tốt đẹp hơn nếu cùng với nó và bên cạnh nó chúng
ta tiến hành xây dựng củng cố một nền đạo đức mới được chắt lọc và phát triển
những tinh hoa đạo đức của dân tộc, trong đó có những giá trị đạo đức được hun
đúc, thẩm thấu giá trị quan của Nho giáo.
Bộ máy Nhà nước sẽ được hoàn thiện nhanh chóng hơn khi chúng ta biết mở
mang việc học, công bằng chặt chẽ trong tuyển dụng và đặc biệt biết tiến cử người
có đức, có tài; đồng thời, miễn chức, sa thải những kẻ tha hoá, biến chất.
Nền pháp trị của chúng ta ngày càng được củng cố nếu mọi sự trừng trị, hình
phạt đều đúng người, đúng tội, và ngày càng thống nhất giữa tình và lý [5].

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Lê Kim Châu, Bài giảng Triết học.
2. Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú (Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải), NXB Văn
hoá - Thông tin.
3. Lê Sĩ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, NXB Khoa học xã hội.
4. Trang web philosophy.vass.gov.vn
/>5. Trang web philosophy.vass.gov.vn
/>6. Lã Trấn Vũ (1964), Lịch sử các học thuyết chính trị Trung Quốc, NXB Sự
thật.


14



×