Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

ĐẶC điểm sọ mặt TRÊN PHIM sọ NGHIÊNG từ XA THEO PHƯƠNG PHÁP TWEED ở NGƯỜI VIỆT 18 25 TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

PHÙNG HỮU ĐẠI

ĐẶC ĐIỂM SỌ - MẶT TRÊN PHIM SỌ
NGHIÊNG TỪ XA THEO PHƯƠNG PHÁP
TWEED Ở NGƯỜI VIỆT 18-25 TUỔI
Chuyên ngành: Răng Hàm Mặt
Mã số

: 60720601

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. ĐÀO THỊ DUNG

HÀ NỘI – 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận này em nhận
được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các thầy cô, sự động viên từ bạn bè và
gia đình nên nhân đây em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
PGS. TS. Đào Thị Dung, giảng viên kiêm nhiệm bộ môn Nha cộng
đồng, Viện đào tạo Răng Hàm Mặt trường đại học Y Hà Nội, cô đã trực tiếp
dạy bảo, uốn nắn và truyền đạt cho em những kinh nghiệm quý báu trong suốt
một năm thực hiện nghiên cứu.


PGS. TS. Trương Mạnh Dũng, Viện trưởng Viện đào tạo Răng Hàm
Mặt, chủ nhiệm đề tài cấp nhà nước; PGS. TS. Võ Trương Như Ngọc, chủ
nhiệm bộ môn Răng Trẻ em, thư ký đề tài cấp nhà nước đã tạo điều kiện cho
em được tham gia nghiên cứu và lấy số liệu trong đề tài cấp nhà nước để thực
hiện được nghiên cứu của em.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới ban giám hiệu, phòng đào tạo quản lý
sau đại học và các thầy cô trong Viện đào tạo Răng Hàm Mặt giúp em vượt
qua những khó khăn và tạo điều kiện tốt nhất để em được học tập và nghiên
cứu tại viện.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các bạn học viên của trường Học Viện
Y Dược học cổ truyền Việt Nam, trường Cao Đẳng Y Hà Nội đã ủng hộ và hết
sức nhiệt tình tham gia vào nghiên cứu của em.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, những người luôn bên tôi,
ủng hộ, động viên, luôn giúp tôi giữ được lửa đam mê trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 10 năm 2017

Phùng Hữu Đại


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Phùng Hữu Đại, học viên lớp Cao học khoá 24, chuyên ngành
Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Hà Nội, xin cam đoan:
1 Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Đào Thị Dung
2 Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3 Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.

Hà Nội, ngày 20 tháng 10năm 2017

Phùng Hữu Đại


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

FH

: Mặt phẳng Frankfort Horizontal.

FMA

: Góc giữa mặt phẳng Frankfort và mặt phẳng hàm dưới.

FMIA

: Góc giữa mặt phẳng Frankfort và trục răng cửa dưới.

GTLN

: Giá trị lớn nhất.

GTNN

: Giá trị nhỏ nhất.

IMPA


: Góc giữa mặt phẳng hàm dưới và trục răng cửa dưới.

SD

: Độ lệch chuẩn.

TB

: Trung bình.

TQ

: Tương quan.

TQX

: Tương quan xương


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


DANH MỤC HÌNH



9

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trước đây các nhà giải phẫu và khảo cổ học đã hoàn thiện việc đo các
kích thước của xương sọ trên sọ khô, nhưng điều này không thể thực hiện
được trên người sống vì sự tồn tại của mô mềm. Với việc phát minh ra phim
Xquang, đặc biệt là phim Xquang đo sọ mặt (gồm phim chụp sọ mặt nghiêng
và sọ mặt thẳng), đã cho phép chúng ta có thể có được một cách gián tiếp,
nhưng cũng tương đối chính xác các kích thước của cấu trúc xương sọ mặt
người [1].
Phim sọ nghiêng dùng để đánh giá dạng tăng trưởng của phức hợp sọ
mặt, phân tích tỉ lệ các thành phần sọ mặt và xác định vị trí sai hình khớp cắn.
Phân tích phim sọ nghiêng cũng giúp đánh giá tương quan theo chiều trước
sau cũng như chiều đứng của các thành phần chức năng chính của sọ mặt bao
gồm: sọ và nền sọ, khối xương hàm trên, xương hàm dưới, răng hàm trên và
xương ổ răng hàm trên, răng hàm dưới và xương ổ răng hàm dưới [2],[3].
Hiện tại đã có nhiều phương pháp phân tích đặc điểm sọ mặt dựa vào
phim sọ nghiêng. Phân tích Downs sử dụng đa giác Downs giúp nhà lâm sàng
mô phỏng nhanh các dữ liệu thu thập được, phân tích Steiner đánh giá mức độ
chênh lệch của hàm trên và hàm dưới [4], đánh giá những chênh lệch và răng
và xương ổ răng 2 hàm, phân tích Mc Namara đánh giá tương quan 2 hàm
theo chiều trước sau [4]. Trong đó phân tích Tweed là một trong những
phương tiện hữu ích phục vụ cho nghiên cứu dọc và nghiên cứu mô tả cắt
ngang. Tweed đã xây dựng 1 phương pháp có thể áp dụng vào thực hành lâm
sàng để mô tả các đặc điểm của sọ mặt dựa trên các mặt phẳng và các góc.
Phương pháp phân tích Tweed trên phim sọ nghiêng được Charles H.
Tweed đưa ra năm 1946. Điều quan trọng trong phân tích của ông khác với
triết lý của Edward Angle (người thầy của Tweed), Edward Angle đã thực

hiện điều trị để đạt được khuôn mặt và khớp cắn hài hòa mà không nhổ răng


10

trên bệnh nhân. Ông Tweed tin rằng điều trị có nhổ răng sẽ đạt được nhiều
trường hợp khớp cắn hài hòa hơn là quan điểm điều trị mà Edward Angle đã
thực hiện. Ông phát triển phân tích của mình dựa vào 3 góc của 1 tam giác lấy
các cạnh là mặt phẳng Frankfort, mặt phẳng hàm dưới và trục răng cửa hàm
dưới. Dựa vào số đo trong tam giác này để đánh giá xu hướng phát triển của
sọ mặt, trợ giúp việc lên kế hoạch điều trị trong chỉnh nha, tiên lượng vị trí
răng cửa dưới trước và sau khi điều trị.
Trên thế giới có nhiều tác giả sử dụng phân tích Tweed trong nghiên
cứu và thực hành để khảo sát các đặc điểm hình thái cũng như tiên đoán sự
phát triển của sọ mặt như: Anjara Raijbhandari (2011) [6], Paulo César
Tukasan, Maria Beatriz Borges (2005) [5], P Bhattarai1 and RM Shrestha
(2011) [7]….đã ứng dụng phân tích này để nghiên cứu các đặc điểm sọ mặt
của người ở các lứa tuổi khác nhau. Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu có
liên quan tới phân tích kết cấu sọ mặt như Võ Trương Như Ngọc (2010, 2015)
[8], Lê Nguyên Lâm (2014) [9].
Tuy nhiên ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào phân tích
Tweed, nhằm so sánh số đo các góc trong tam giác Tweed tương ứng với từng
loại sai hình khớp cắn và khớp cắn bình thường, để trợ giúp tiên lượng trước
điều trị và đánh giá kết quả điều trị chỉnh nha. Chúng tôi thực hiện đề tài: “
Đặc điểm sọ - mặt trên phim sọ nghiêng từ xa theo phương pháp Tweed ở
người Việt 18- 25 tuổi” với các mục tiêu nghiên cứu sau:
1. Xác định số đo sọ - mặt trên phim sọ nghiêng theo phương pháp
Tweed ở nhóm sinh viên tuổi 18-25 tại Hà Nội năm 2016-1017.
2. Mô tả vị trí trục răng cửa hàm dưới so với mặt phẳng hàm dưới
trong các loại sai khớp cắn ở nhóm đối tượng nghiên cứu trên.



11

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Phim sọ nghiêng và các phương pháp phân tích
1.1.1 Sự phát triển của phim sọ nghiêng.
Trước đây, hình thái đầu mặt được biết đến qua phân tích trên xương sọ
khô, đến năm 1899, Manouvrier và Broca đã phát triển từ đo đạc trên xương
sọ khô sang đo đạc trên cơ thể người sống.
Năm 1931, sự ra đời của phép đo sọ trên phim tia X đã đem lại nhiều ý
nghĩa đối với chỉnh hình răng mặt, Holly Broadbent (Mỹ) và Hofrrath (Đức)
giới thiệu về phim sọ nghiêng với mục đích nghiên cứu các hướng phát triển
của phức hợp sọ - mặt. Nhưng rất nhanh chóng, nó được sử dụng với mục
đích đánh giá sự cân đối của hàm mặt và làm sáng tỏ cơ sở giải phẫu của
khớp cắn. Hàng loạt những nghiên cứu về sọ - mặt đã được đánh giá qua phân
tích trên phim.
Mục đích đầu tiên của phép đo sọ là định vị khớp cắn trong bản vẽ nét
của xương mặt và cấu trúc mô mềm. Việc phân tích được bắt đầu với việc
dùng các điểm chuẩn trong phép đo sọ tiêu chí để vẽ các đường, các góc và
các mặt phẳng tưởng tượng đo đạc để đánh giá mối liên hệ răng và mặt trên
phim X-quang. Các số liệu có được sẽ được so sánh với các giá trị bình
thường và từ đó lập kế hoạch điều trị riêng biệt cho từng cá nhân. Nhiều tác
giả đã nghiên cứu sự cân bằng, sự hài hòa, tăng trưởng và phát triển của mặt
theo nghiên cứu cắt ngang hay theo nghiên cứu cắt dọc trên phim sọ thẳng
hay phim sọ nghiêng [10].


12


Việc chồng phim giúp đánh giá hướng phát triển của xương hàm trên,
xương hàm dưới để tiên lượng và đánh giá quá trình điều trị.
Trong quá trình đánh giá, mối tương quan răng mặt theo chiều trước sau
là quan trọng nhất do tác dụng của nó đối với vị trí thăng bằng sinh lý của mô
mềm, đối với sự ổn định cung răng và đối với nét thẩm mỹ.
Mặt khác, các vấn đề chỉnh hình phức tạp thưởng xảy ra ở các kích
thước thể hiện tương quan theo chiều trước sau và theo chiều đứng nên phim
sọ nghiêng đã giúp chúng ta nhiều thông tin hữu ích.[10][11]
Các dạng phân tích đo sọ thể hiện ở ba dạng chủ yếu:
- Các phân tích kích thước: nhằm mục đích đánh giá vị trí cấu trúc khác
nhau của mặt theo sự liên hệ với các đường các mặt phẳng tham chiếu (phân
tích của Steiner, Downs, Ricketts,..)
- Các phân tích thể loại dạng mặt: không nhằm so sánh với một cá thể
với những chuẩn thống kê mà đánh giá thể loại mặt của một cá thể từ đó định
hướng điều trị tối ưu cho cá thể đó.
- Các phân tích cấu trúc: phân tích Coben.

Hình 1.1. Phân tích phim sọ nghiêng theo phương pháp Tweed.[4]


13

Hàng loạt các phương pháp phân tích trên phim sọ nghiêng đã ra đời từ
nhiều thập niên qua để khảo sát và mô tả các đặc điểm của cấu trúc sọ mặt –
răng. Tác giả của mỗi phương pháp có một cơ sở lý luận riêng trong việc chọn
các điểm chuẩn, mặt phẳng tham chiếu và cách đánh giá các đặc điểm hình
thái sọ mặt cũng đa dạng.
Coben sử dụng hệ thống tọa độ để phân tích và tính theo tỷ lệ phần
trăm các kích thước được chiếu lên trục tung và trục hoành để mô tả một

cấu trúc trong hệ thống hàm mặt.
Sassouni đo đặc theo các vòng cung có cùng một vấn đề để xác định
vị trí bất hài hòa của từng thành phần trong hệ thống sọ mặt.
Downs W. B. đã mô tả phương pháp phân tích của mình để xác định
mẫu răng và mặt của người bình thường tương quan răng và xương ổ răng
với mặt.
Steiner phân tích sự tương quan giữa xương hàm và xương sọ, vị trí
răng cửa theo tương quang với xương ổ răng và phân tích mô mềm. Nhiều
phân tích của các tác giả khác như Mc Namara, Ricketts, Tweed, Wits,
Wylie… cũng được sử dụng rộng rại và ứng dụng nhiều trong nghiên cứu hình
thái cũng như trong chuẩn đoán và lập kế hoạch điều trị. Tuy nhiên, các
phương có những đặc trưng khác nhau, cũng như có ưu và khuyết điểm riêng.
Như vậy, phim sọ nghiêng có những công dụng sau:
-

Quan sát hệ thống sọ- mặt- răng.
Nghiên cứu sự phát triển của hệ thống sọ- mặt- răng.
Xác định các chuẩn bình thường của dân số.
Phân tích, chẩn đoán, lập kế hoạch điều trị và tiên đoán kết quả điều trị.
Phân tích quá trình điều trị.
Phân tích quá trình tăng trưởng.
Phân tích sự tái phát và những thay đổi sau điều trị. [12 ]

1.1.2 Ý nghĩa của phim sọ nghiêng trong chẩn đoán chỉnh hình hàm mặt
1.1.2.1 Hạn chế của phân loại khớp cắn dựa vào mẫu hàm


14

Tương quan giữa răng hàm lớn, răng nanh hàm trên và hàm dưới giúp

đánh giá tương quan trước sau giữa hàm trên và hàm dưới.
Theo Angle, nếu các răng hàm lớn và răng nanh hàm trên và hàm dưới
ở tương quan khớp cắn hạng I thì xương hàm trên và xương hàm dưới ở tương
quan bình thường theo chiều trước sau.

Hình 1.2: Tương quan xương hạng I về nét nghiêng mô mềm. [4]
Nếu các răng trên và răng dưới ở tương quan khớp cắn hạng II thì cung
răng dưới ở phía sau so với cung răng trên.


15

Hình 1.3 Tương quan hạng II về nét nghiêng mô mềm. [4]
Ngược lại, nếu các răng trên và răng dưới ở tương quan khớp cắn hạng
III thì cung răng trên ở phía sau cung răng dưới.

Hình 1.4 Tương quan hạng III về nét nghiêng mô mềm. [4]
Nếu các răng sắp xếp đều đặn trên hai cung hàm thì có thể tiên đoán
được tương quan nền xương hàm trên và hàm dưới dựa trên tương quang hai
mẫu hàm.
Tuy nhiên có thể đáng giá chính xác tương quan hai hàm nên xác định
trên phim chứ không thể chỉ dựa vào mẫu hàm. Mẫu hàm chỉ gợi ý tương
quan hai hàm theo chiều trước sau một cách tương đối. Không thể xác định
trên mẫu hàm một hàm trên hoặc một hàm dưới lùi hoặc nhô.


16

Nếu răng bị mất hoặc nhổ, các răng khác sẽ di chuyển, hàm dưới cũng
có thể bị di chuyển để các răng ăn khớp với nhau. Do đó nếu đánh giá tương

quan hai hàm dựa vào tương quan các răng thì không còn chính xác nữa.
1.1.2.2 Độ nghiêng của răng cửa
Đánh giá độ nghiêng của răng cửa dựa vào mẫu hàm có thể bị sai lầm.
Độ nghiêng răng cửa trên mẫu hàm tùy thuộc vào mặt phẳng đế của mẫu hàm
được mài.
Ngoài ra độ sai biệt của hai hàm theo chiều đứng không thể đánh giá
dựa vào mẫu hàm.
1.1.2.3 Vai trò của phim sọ nghiêng trong chẩn đoán phân biệt sai khớp cắn
hạng II và hạng III
Đối với sai khớp cắn hạng II hoặc hạng III, cần chẩn đoán nguyên nhân
là do hàm trên hoặc/ và hàm dưới để có kế hoạch điều trị thích hợp. Mẫu hàm
không đủ, cần có phim sọ nghiêng để có thể chẩn đoán chính xác hơn.
1.1.3 Một số phương pháp phân tích phim sọ nghiêng
Đầu tiên, phim sọ nghiêng dùng để đánh giá dạng tăng trưởng của phức
hợp sọ mặt. Sau đó phim được dùng để phân tích tỉ lệ các thành thần sọ mặt
và xác định vị trí sai hình khớp cắn. Bất kỳ một sai hình khớp cắn nào cũng
do tương tác giữa vị trí hàm và vị trí răng mọc lên. Do đó phim sọ nghiêng sẽ
đánh giá toàn diện hơn.
Về mặt lâm sàng, phân tích trên phim sọ nghiêng giúp xác định và đánh
giá những thay đổi do quá trình điều trị chỉnh hình. Qua phim sọ nghiêng có
thể phát hiện những bất thường của sọ, nền sọ, hàm và các đốt sống cổ. Tuy
nhiên vì mục đích chẩn đoán, phim sọ nghiêng có vai trò chính là giúp xác
định tương quan răng và hàm của bệnh nhân so sánh với các dữ liệu chuẩn
của từng nhóm dân tộc, để có hướng điều trị thích hợp: có thể điều trị chỉnh
hình hay chỉnh hình kết hợp phẫu thuật. Như vậy phân tích phim sọ nghiêng


17

giúp đánh giá tương quan theo chiều trước sau cũng như theo chiều đứng của

các thành phần chức năng chính của sọ mặt bao gồm: sọ và nền sọ, khối
xương hàm trên, xương hàm dưới, răng hàm trên và xương ổ răng hàm trên,
răng hàm dưới và xương ổ răng hàm dưới.
Phân tích trên phim sọ nghiêng có hai hướng cơ bản. [13],[14],[15]
- Một là dựa vào số đó góc và đoạn thẳng của bệnh nhân để đưa ra
những so sánh với chuẩn bình thường bằng phép tính toán.
- Hai là dựa vào các dữ liệu của bệnh nhân để so sánh với các mô hình
chuẩn qua đó có thể thấy được sự khác biệt với chuẩn bình thường mà không
cần phải làm các phép tính toán.
1.1.3.1 Phân tích Down
Downs thực hiền nghiên cứu trên 20 trẻ em nam và nữ tuổi 12-17 có
khớp cắn hoàn hảo và hài hòa về mặt sinh lý của hệ thống cơ mặt. Lấy mặt
phẳng Frankfort làm mặt phẳng tham chiếu và ông đo đặc 10 kích thước định
lượng(5 về xương và 5 về răng)[16].
Kết quả nghiên cứu so sánh với các nghiên cứu tương tự đã giúp
Downs đưa ra các kết luận:
Có một mẫu đại diện cho dạng trung bình ở các cá thể có khớp cắn
hoàn hảo.
Có một sự dao động đáng kể ở hai bên số trung bình của mẫu đại diện.
Điều này cho thấy khi đánh giá sự cân bằng và hài hòa của khuôn mặt
sự thay đổi với giá trị trung bình là rất thường gặp.
Sự thay đổi quá mức so với trị số trung bình là bằng chứng của sự hài
hòa hay bất tương xứng của những vùng riêng lẻ.
Vorhies và Adams đã mô tả đa giác minh họa những số đo sọ theo phân
tích Downs và gọi là đa giác Downs.
Một người có đường biểu diễn lien tục trong giới hạn của đa giác cho
thấy sự thăng bằng và hài hòa của khuôn mặt và ngược lại.


18


1.1.3.2 Phân tích Wylie
Để đánh giá bất thường theo chiều trước sau của mặt, Wylie đo khoảng
cách các hình chiếu trên mặt phẳng Frankfort của các điểm: điểm sau nhất của
lồi cầu, tâm hố yên, rãnh chân bướm hàm, rãnh ngoài của răng cối lớn thứ
nhất hàm trên. Ngoài ra, ông còn sử dụng khoảng cách về hình chiếu của
điểm sau nhất lồi cầu và điểm trước nhất của cằm lên đường thẳng tiếp xúc
với bờ dưới xương hàm dưới [15].

Hình 1.5 Phân tích Wylie [15].
Sự tăng chiều cao toàn bộ mặt nhìn nghiêng của bệnh nhân thể hiện
một sự cân bằng không tốt của mặt. Khuôn mặt càng cải thiện thì tỷ lệ phần
tram cửa tầng mặt trên càng lớn và phần trăm của tầng mặt dưới càng nhỏ lại.
Như vậy, đây là phương pháp mang tính thuần túy về đo đạc chiều dài, lien
quan trực tiếp tới độ phóng đại của phim tia X và kỹ thuật chụp phim. Sau khi
nghiên cứu Wylie nhận thấy có những trường hợp bệnh nhân có khuôn mặt
hài hòa nhưng tất cả các giá trị đo đạc đều không giống các số đo đã đưa ra.


19

Tuy nhiên, nếu xét về mặt tương quan thì các giá trị có sự tương đồng hoàn
hảo. Sau này Wylie và cộng sự đã hoàn chỉnh lại phương pháp phân tích và nó
trở thành cơ sở và nền tảng của phân tích Coben và các phân tích khác.
1.1.3.3 Phân tích Steiner
Steiner C. đã chọn trong có nghiên cứu của Downs, Wylie W.,
Thomson, Brodie, Riedel, Holdawway những yếu tố có ý nghĩa để giải thích
những vấn đề chỉnh hình răng hàm mặt. Các giá trị trung bình trong phương
pháp Steiner được rút ra từ những người có khớp cắn bình thường. Để đánh
giá trên phim sọ nghiêng, Steiner đã đề nghị phân tích ba phần riêng biệt:

xương, răng, mô mềm. Phân tích xương gồm phân tích tương quan giữa hàm
trên và nền sọ, tương quan giữa hàm dưới với nền sọ và tương quan giữa hàm
trên với hàm dưới. Phân tích răng gồm phân tích tương quan răng cửa trên với
xương hàm trên, tương quan giữa răng cửa dưới và hàm dưới, tương quan
giữa răng cửa trên với răng cửa dưới. Phân tích mô mềm đánh giá sự thăng
bằng và hài hòa của nét mặt nhìn nghiêng [15].

Hình 1.6 Phân tích Steiner [15].


20

Steiner chọn mặt phẳng S- Na làm mặt phẳng tham chiếu. Hai điểm
chuẩn này được cho là ít bị lệch dù tư thế đầu có bị xoay khi chụp phim.
1.1.3.4 Phân tích Coutand
Điểm nổi bật của phân tích này là việc tìm ra điểm C.
Nó được xác định: D là giao điểm của mặt phẳng khẩu cái (đi qua điểm
gia mũi trước và gai mũi sau) và mặt phẳng hàm dưới (theo Downs).
Từ D vẽ đường phân giác DZ của góc vừa tạo. Các đường thẳng góc từ
điểm A xuống mặt phẳng khẩu cái và từ điểm B xuống mặt phẳng hàm dưới
cắt nhau tại điểm C. Bình thường điểm C nằm cách đường DZ từ 3mm đến
5mm về phía trên.

Hình 1.7. Phân tích Coutand [15].
Vị trí của điểm C phụ thuộc vào vị trí tương đối của mặt phẳng khẩu
cái, mặt phẳng hàm dưới, vị trí điểm A và điểm B. Điểm C có khuynh hướng
lên trên cao khi mặt phẳng khẩu cái nghiêng xuống dưới và ra sau, góc giữa
mặt phẳng hàm dưới và mặt phẳng Frankfort nhỏ hơn 250 điểm A ở trước
điểm B (hạng II xương) và ngược lại. Ngoài ra, Coutand còn đưa ra quan
điểm về tương quan cân bằng giữa nền xương hàm trên và nền xương hàm

dưới. Khi không có bất thường đáng kể của mặt thì tam giác được tạo bởi mặt


21

phẳng khớp cắn, mặt phẳng hàm dưới và đường thẳng đi qua chóp răng cửa
trên và răng cửa dưới là tam giác cân (cạnh đáy là đường thẳng đi qua chóp
hai răng cửa). Khi sự khác nhau giữa hai góc ở cạnh đáy càng lớn thì sự bất
thường càng tăng. [15]
1.1.3.5. Phân tích Sassouni
Theo Sassouni có vùng O mà ở đó có bốn mặt phẳng hội tụ: Mặt phẳng
nền sọ (là mặt phẳng đi qua điểm Si và song song với mặt phẳng Supra –
Orbital là mặt phẳng đi qua mào yên trước và điểm cao nhất của trần ổ mắt),
mặt phẳng khẩu cái, mặt phẳng cắn khớp, mặt phẳng hàm dưới.

Hình 1.8 Phân tích Sassouni [15].
Nếu sự hội tụ không xảy ra thì nó thể hiện sự rối loạn trạng thái cân bằng
của mặt. Đồng thời Sassouni nhận thấy rằng ở một khuôn mặt cân bằng góc
giữa mặt phẳng nền sọ và mặt phẳng khớp cắn bằng góc giữa mặt phẳng khớp
cắn và mặt phẳng hàm dưới.
1.1.3.6 Phân tích Coben
Nhằm tìm hiểu chiều hướng tăng trưởng của sọ mặt và tương quan của nó
với điểm Basion, điểm được Coben xem như là chìa khoá của phân tích. Với
phân tích này Coben đã phát triển hệ trục toạ độ mà điểm Basion là gốc toạ độ


22

và sử dụng “cái khung qua đó xác định những giá trị cần tìm. – Đối với hướng
phân tích theo chiều trước sau chọn Ba–N là giá trị chuẩn để so sánh. – Đối

với phân tích theo chiều cao chọn M–N là giá trị chuẩn để so sánh.

Hình 1.9 Phân tích Coben [15].
1.1.3.7 Phân tích Wits
Phép đo được giới thiệu bởi Jacobson A., mục đích để tránh nhược điểm
của góc ANB trong việc đánh giá sự bất hài hòa chiều trước sau của xương
hàm. Sự bổ sung cho phân tích Steiner rất có ích trong việc đánh giá sự phát
triển bất thường của hệ thống xương hàm theo chiều trước sau và quyết định
sự tin cậy của góc ANB [15].


23

Hình 1.10 Phân tích Wits [15]
1.1.3.8 Phân tích Ricketts
Năm 1961, trên cơ sở tổng hợp những nghiên cứu của các phân tích trước
đây, Ricketts R. M. đã phân tích trên mẫu lớn với nhiều điểm chuẩn, tác giả
tập trung đánh giá tương quan và vị trí của xương hàm dưới so với nền sọ và
đồng thời đưa ra khả năng tiên đoán sự tăng trưởng của cấu trúc sọ mặt- răng
theo tuổi.

Hình 1.11 Phân tích Ricketts.[15]


24

1.2. Lịch sử phát triển và ý nghĩa của phương pháp phân tích Tweed.
1.2.1 Lịch sử phát triển phân tích Tweed.
Charles H. Tweed được vào học trường Angle ở Pasadena năm 1925,
nhưng 2 năm sau ông mới vào học sau khi Edward Angle mời ông trở lại học

tập và nghiên cứu về nắn chỉnh răng.
Angle và Tweed làm việc cùng nhau rất chặt nhẽ vào 2 năm cuối đời của
Angle. Tweed tiến hành điều trị các bệnh nhân với khí cụ Edgewise và Angle
có vai trò là người hướng dẫn. Hệ thống này làm việc theo cách sau: Tweed
thực hiện những ghi chép về bệnh nhân của ông 4 tháng 1 lần, sau đó gửi
những ghi chép này đến Pasadena. Nơi mà Angle phân tích và vạch ra kế
hoạch điều trị cho 4 tháng tiếp theo. Việc này cứ lặp lại 4 tháng và duy trì
được 2 năm. Đây là thời gian rất hiệu quả trong quá trình học tập của Tweed
và sự phát triển của khí cụ Edgewise. Angle rất hài lòng với cách làm việc của
Tweed, ông cho rằng nó rất hữu ích với Tweed, nó có thể giúp ông ấy có một
số báo cáo nghiên cứu trong các hội thảo về chỉnh nha.
Năm 1932, Tweed đã công bố bài viết đầu tiên của mình trên tạp chí
Angle về chỉnh nha. Với tựa đề: “Báo cáo các trường hợp điều trị với phương
pháp cung Edgewise”. Tweed đã thể hiện niềm tin vững chắc của Angle với
những người thực hành lâm sàng là phải tuân thủ tuyệt đối đường khớp cắn và
không bao giờ nhổ răng. Ông tiếp tục làm việc với những quan điểm và
phương pháp này kéo dài 3 năm sau khi Angle mất.


25

Hình 1.12: Cung Edgewise [17].
Sau 5 năm điều trị chỉnh nha, ông bắt đầu thấy không hài lòng và thất
vọng với công việc của mình với hai lý do: một là các khuôn mặt hô của bệnh
nhân sau điều trị không được cải thiện và bệnh nhân có xu hướng hô ra nhiều
so với trước điều trị làm mất sự hài hòa và cân xứng của khuôn mặt, hai là kết
quả điều trị không duy trì được sự ổn định, khả năng tái lập lại trạng thái
trước điều trị cao. Sau khi nghiên cứu những trường hợp thất bại và một vài
ca thành công ông đã nhận ra rằng những bệnh nhân có khuôn mặt cân bằng
và hài hòa có trục răng cửa hàm dưới vuông góc với trục cơ bản xương hàm

dưới. Ông chọn một số ca thất bại, nhổ răng tiền hàm đầu tiên và điều trị lại.
Ông đi đến kết luận nhổ răng và lên kế hoạch tỉ mỉ cho phép ông cải thiện
được tình trạng cũng như sự ổn định của bệnh nhân sau điều trị. Việc tiên
lượng quá trình điều trị dựa vào trục răng cửa dưới, cùng với sự phát triển của
phim sọ nghiêng, đã giúp ông đưa ra phân tích có ý nghĩa việc nhổ răng hay
không nhổ răng trong điều trị chỉnh nha. Đánh giá vị trí răng cửa dưới để ông
thay đổi được quan điểm đã được Angle hướng dẫn trước đó. Đây là bước
thay đổi lớn để định hướng việc điều trị các bệnh nhân của ông sau này.
Phương pháp phân tích Tweed trên phim sọ nghiêng từ xa đã được phát triển
từ đó.


×