Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Mạng lưới chợ ở nam trung bộ thời nguyễn (giai đoạn 1802 1884) tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.6 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH THỊ THẢO

MẠNG LƯỚI CHỢ Ở NAM TRUNG BỘ
THỜI NGUYỄN (GIAI ĐOẠN 1802 - 1884)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 92 29 013
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - năm 2019


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học Xã hội

Người hướng dẫn khoa học: PSG.TS.Nguyễn Đức Nhuệ
Phản biện 1: PGS.TS. Vũ Văn Quân
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Duy Bính
Phản biện 3: PGS.TS. Trần Thị Vinh

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án
cấp Học viện họp tại Học viện Khoa học Xã hội vào
hồi….giờ….phút, ngày…. tháng…. năm….

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong vài thập niên trở lại đây, làng xã Việt Nam đã trở thành một
trong những đối tượng quan tâm nghiên cứu của các ngành khoa học xã
hội trong đó có Sử học. Việc tìm hiểu về kinh tế, văn hóa, xã hội dưới
triều Nguyễn nói chung và hoạt động thương nghiệp ở nông thôn nói
riêng cũng đang được quan tâm nghiên cứu. Trong bối cảnh đó, việc
khôi phục những hiểu biết về diện mạo, về hoạt động của các chợ ở
Nam Trung Bộ thời Nguyễn giai đoạn 1802 – 1884 càng có ý nghĩa
hơn; một mặt giúp hiểu rõ về sự ra đời, hoạt động của các chợ ở Nam
Trung Bộ; mặt khác, cho thấy những đặc điểm của mạng lưới chợ và
đóng góp của nó đối với sự phát triển vùng Nam Trung Bộ từ văn hóa,
xã hội đến đời sống kinh tế nói chung và thương nghiệp nói riêng.
Hơn nữa, khi lấy chợ ở Nam Trung Bộ làm đối tượng nghiên cứu
sẽ góp phần nhận diện rõ hơn về làng xã ở các địa phương nói riêng,
vùng Nam Trung Bộ nói chung; Góp phần giữ gìn, phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của chợ làng cũng như làng xã
các tỉnh Nam Trung Bộ. Đồng thời, góp phần bổ sung nguồn tư liệu
phục vụ học tập, giảng dạy lịch sử địa phương các tỉnh Nam Trung
Bộ. Xuất phát từ những lí do trên, tác giả quyết định chọn đề tài
Mạng lưới chợ ở Nam Trung Bộ thời Nguyễn (giai đoạn 1802-1884)
làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Bước đầu thu thập, hệ thống các tư liệu để có cái nhìn khái quát
về mạng lưới chợ ở Nam Trung Bộ thời Nguyễn (giai đoạn 18021884). Trên cơ sở khái quát, tái hiện diện mạo của một số chợ tiêu
biểu trong vùng, đề tài tập trung làm rõ hoạt động của mạng lưới chợ
khu vực này trên các mặt trao đổi, buôn bán hàng hóa, giá cả, lệ thuế,
1


cách thức đo lường, thành phần buôn bán ở chợ,…; Qua đó, rút ra

những nhận xét bước đầu về đặc điểm, vai trò của mạng lưới chợ đối
với sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở Nam Trung Bộ thời
Nguyễn (giai đoạn 1802-1884). Góp phần nhận diện rõ hơn về đặc
điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của các địa phương vùng Nam Trung
Bộ; lí giải mức độ phát triển của nền kinh tế hàng hóa, kinh tế
thương nghiệp, nhất là nội thương ở Nam Trung Bộ dưới triều
Nguyễn giai đoạn 1802-1884. Đồng thời, góp phần bổ sung thêm
nguồn tư liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy lịch sử
địa phương vùng Nam Trung Bộ; giới thiệu về vùng đất và con
người Nam Trung Bộ trong lịch sử.
- Đề tài đặt ra nhiệm vụ sưu tầm, hệ thống các tư liệu liên quan; kế
thừa và phát huy kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trước.
Trên cơ sở đó, xác định những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên
cứu; Phân tích các cơ sở hình thành và phát triển mạng lưới chợ; Tái
hiện diện mạo của một số chợ tiêu biểu (chợ lớn, chợ trung tâm, chợ
có vai trò đầu mối, chợ có nguồn hàng hóa phong phú, đa dạng…) ở
cả vùng trung du, miền núi và vùng đồng bằng, ven biển, cửa sông.
Trên cơ sở đó, làm rõ hoạt động trao đổi, buôn bán ở chợ và mối liên
hệ kinh tế giữa các địa phương trong vùng và với các vùng, miền
khác; thậm chí là với cả các nước bên ngoài; Chỉ ra những đặc điểm
và khẳng định vai trò của mạng lưới chợ đối với sự phát triển mọi
mặt của vùng Nam Trung Bộ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là mạng lưới chợ ở chợ Nam Trung Bộ
với đối tượng nghiên cứu cụ thể là những chợ tiêu biểu ở vùng trung
du, miền núi và vùng đồng bằng, vùng ven biển, cửa sông.

2



- Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: đề tài lấy địa giới hành chính
khu vực Nam Trung Bộ ngày nay (gồm 5 tỉnh: Bình Định, Phú Yên,
Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận) làm địa bàn nghiên cứu chính.
Đồng thời, tác giả chọn điểm nghiên cứu là những chợ hoặc ở tỉnh đại
diện làm đối tượng nghiên cứu cụ thể của đề tài. Về thời gian: Đề tài có
giới hạn nghiên cứu về mặt thời gian là triều Nguyễn trong giai đoạn
từ năm 1802 (vương triều Nguyễn đã hoàn thành sự nghiệp thống
nhất đất nước) đến năm 1884 (Hiệp ước Patenotre kí ngày 6/6/1884
đã xác lập quyền bảo hộ lâu dài của Pháp trên toàn bộ Việt Nam,
chấm dứt thời kì triều Nguyễn tồn tại với vai trò là một quốc gia
phong kiến độc lập, tự chủ). Về nội dung: Trên cơ sở tái hiện diện
mạo các chợ tiêu biểu của toàn vùng, tác giả tập trung làm rõ hoạt
động trao đổi, buôn bán diễn ra ở đây; rút ra một số đặc điểm và vai
trò của mạng lưới chợ ở Nam Trung Bộ giai đoạn 1802 - 1884. Hoạt
động văn hóa diễn ra ở các điểm chợ chỉ được xem xét trong mối
tương quan với hoạt động trao đổi, buôn bán hoặc trong quá trình
khái quát, mô tả về bức tranh một số chợ tiêu biểu.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
- Để hoàn thành đề tài, chúng tôi đã khai thác và tổng hợp tài liệu
từ nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, chúng tôi khai thác và sử dụng
tối đa nguồn tư liệu gốc đương thời được biên soạn từ cuối thế kỉ
XIX, đầu thế kỉ XX trở về trước (chủ yếu là các bộ sách do Quốc Sử
quán triều Nguyễn và Nội các triều Nguyễn biên soạn) và coi đây là
nguồn tư liệu gốc quan trọng để thực hiện đề tài. Ngoài ra, tư liệu
của phương Tây hay tư liệu điền dã ở địa phương cũng được chúng
tôi cố gắng khai thác, tiếp cận và sử dụng.
- Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tác giả vận dụng xuyên suốt và kết hợp
3



hai phương pháp chuyên ngành trong nghiên cứu sử học (phương
pháp lịch sử và phương pháp logic) để giải quyết thỏa đáng các vấn
đề mà đề tài nghiên cứu đặt ra. Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp
điền dã để thu thập tài liệu thực địa liên quan đến đến đề tài; phương
pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh,….
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đề tài đã bước đầu khai thác và hệ thống hóa tư liệu để có cái nhìn
khái quát về mạng lưới chợ ở Nam Trung Bộ thời Nguyễn trong giai
đoạn từ năm 1802 đến năm 1884. Cùng với những công trình nghiên
cứu về về làng xã, về nông thôn, về thương nghiệp,… của các học giả
trong và ngoài nước; kết quả nghiên cứu đề tài của chúng tôi góp phần
nhận diện rõ hơn về làng xã, về đặc trưng văn hóa truyền thống, về
hoạt động thương nghiệp của nhân dân Nam Trung Bộ và bước đầu lí
giải mức độ phát triển kinh tế hàng hóa ở các tỉnh Nam Trung Bộ
trong gần trọn thế kỉ XIX. Trên cơ sở những nội dung luận án tập
trung giải quyết, chúng tôi đã mạnh dạn chỉ ra một số đặc điểm của
mạng lưới chợ ở Nam Trung Bộ trong giai đoạn 1802-1884. Đồng
thời, khẳng định những đóng góp tích cực của chợ đối với sự phát
triển vùng Nam Trung Bộ.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khẳng định vai trò của
thương nghiệp, mà ở đây là vai trò của chợ trong nền kinh tế nói
chung; làm rõ vai trò của nhà nước, địa phương và người dân trong
quản lí hoạt động trao đổi, buôn bán hàng hóa tại các chợ địa phương.
Luận án cung cấp hệ thống tài liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy,
học tập và tuyên truyền về lịch sử địa phương trong các trường Đại
học, Cao đẳng và đối với xã hội tại khu vực Nam Trung Bộ. Kết quả
luận án còn là một kênh tham khảo cho chính quyền địa phương trong
4



việc hoạch định chính sách phát triển chợ truyền thống, bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của địa phương.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ
lục, nội dung luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Sự hình thành và phát triển của mạng lưới chợ ở Nam
Trung Bộ
Chương 3: Hoạt động trao đổi, buôn bán ở chợ Nam Trung Bộ
Chương 4: Đặc điểm và vai trò của mạng lưới chợ đối với sự phát
triển kinh tế, văn hóa-xã hội ở Nam Trung Bộ
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các nghiên cứu liên quan đến chợ
- Nghiên cứu của các học giả trong nước: Các nghiên cứu về lịch sử,
kinh tế, văn hóa-xã hội; Các nghiên cứu về phố cảng, đô thị, thị tứ.
- Nghiên cứu của học giả nước ngoài.
1.2. Các nghiên cứu về chợ
1.2.1. Các nghiên cứu về chợ trên cả nước
Tác giả Nguyễn Đức Nghinh là một trong những người dành
nhiều quan tâm nghiên cứu chợ Việt Nam. Dù vậy, tác giả mới chỉ
dừng lại ở việc nghiên cứu về chợ làng, chợ chùa ở một số tỉnh đồng
bằng Bắc Bộ và đưa ra những nhận xét bước đầu về hệ thống chợ
làng. Các nhà nghiên cứu như Đào Tố Uyên, Bùi Văn Huỳnh,
Nguyễn Công Thảo, Diệp Đình Hoa, Bùi Xuân Đính, Nguyễn Thừa
Hỷ, Trần Sĩ Huệ, Nguyễn Quang Hồng,… cũng đã có những nghiên
cứu chuyên sâu về chợ, song chỉ nghiên cứu dưới một khía cạnh,
hoặc là nghiên cứu nét đẹp văn hóa, hoặc nghiên cứu quan hệ giao


5


lưu buôn bán của một phiên chợ làng hay khái quát về hệ thống chợ
ở một địa phương nhất định.
1.2.2. Các nghiên cứu về chợ ở Nam Trung Bộ
Cho đến nay, ngoài các bài viết in trên các báo, tạp chí địa phương ra
thì có rất ít những công trình nghiên cứu về chợ ở Nam Trung Bộ, nhất
là chợ ở Nam Trung Bộ thời Nguyễn. Năm 2002, công trình Chợ ở Phú
Yên của tác giả Trần Sĩ Huệ hoàn thành đã chuyển tải được một số vấn
đề về chợ ở Phú Yên song chỉ dừng lại ở việc khảo cứu chung chung,
chưa đề cập một cách đầy đủ về chợ ở Phú Yên nói chung và chợ ở Phú
Yên thời Nguyễn nói riêng. Trong những năm gần đây, một số Luận
văn Thạc sĩ Sử học của Học viên Cao học ở các trường Đại học đã và
đang tập trung nghiên cứu chuyên sâu về quá trình hình thành, phát
triển của các chợ địa phương ở các tỉnh Trung Trung Bộ như Luận
văn của Trương Thị Thu Thảo (2010), Chợ làng ở Thừa Thiên Huế
(thế kỉ XVI-XIX); Chợ làng ở Quảng Nam (thế kỉ XVI - XIX) của tác
giả Nguyễn Thị Thịnh (2011); song lại thiếu vắng những nghiên cứu
về chợ ở khu vực Nam Trung Bộ trong khoảng thời gian này.
1.3. Những nội dung luận án kế thừa
Kết quả nghiên cứu của các công trình kể trên là những đóng góp có giá
trị đối với việc nghiên cứu về chợ nói chung và hoạt động của mạng lưới
chợ ở Nam Trung Bộ nói riêng. Một số nội dung được chúng tôi kế thừa:
Những phân tích, đánh giá về ảnh hưởng của kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội đối với sự ra đời và hoạt động của mạng lưới chợ; Vai trò của chợ đối
với sự phát triển thương nghiệp nông thôn; hoạt động thương nghiệp và vai
trò của thương nhân người Hoa….
1.4. Những nội dung luận án cần giải quyết
Căn cứ vào mục đích, yêu cầu của Luận án và trên cơ sở kế thừa

thành tựu và quan điểm nghiên cứu của các học giả trong và ngoài
6


nước, những vấn đề còn chưa được nghiên cứu hệ thống và chuyên
sâu về hoạt động của mạng lưới chợ ở Nam Trung Bộ thời Nguyễn
(1802-1884); chúng tôi đặt ra những vấn đề cần giải quyết trong
Luận án như sau: Cơ sở hình thành và phát triển mạng lưới chợ ở
Nam Trung Bộ; mạng lưới chợ ở Nam Trung Bộ thời Nguyễn (chợ ở
vùng trung du, miền núi; chợ ở vùng đồng bằng, ven biển); Hoạt
động trao đổi, buôn bán ở chợ; đặc điểm và vai trò của chợ đối với
sự phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội….
Chương 2: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
MẠNG LƯỚI CHỢ Ở NAM TRUNG BỘ
2.1. Những yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển
mạng lưới chợ
- Tác động của điều kiện tự nhiên: vị trí địa lý, địa hình, khí hậu,
sông ngòi.
- Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và truyền thống của
cộng đồng cư dân Nam Trung Bộ.
- Chính sách thương nghiệp của triều Nguyễn.
- Sự hình thành và phát triển của các đô thị, thị tứ.
- Mạng lưới giao thông thủy, bộ.
2.2. Mạng lưới chợ ở Nam Trung Bộ trước thế kỉ XIX
Cùng với quá trình khai hoang, lập làng, tụ cư đông đúc của di
dân người Việt và các cộng đồng cư dân khác, mạng lưới chợ ở Nam
Trung Bộ đã dần hình thành và ngày càng mở rộng cả về quy mô và
số lượng chợ. Sang thế kỷ XVII, chợ địa phương đã phát triển khắp
địa bàn các tỉnh vùng Nam Trung Bộ ngày nay và đến nửa sau thế kỉ
IXX, nhiều chợ lớn đã thuộc diện đóng thuế cho chính quyền họ

Nguyễn như chợ Yên Khang, Tiên Yên, Phúc Sơn, Kiền Dương,
Phúc Yên; chợ Hội An, Khánh Thọ, Chiên Đàn, Phú Trạm, Tân An,
7


Khẩu Đáy; chợ Dinh Bình Khang, chợ Mạn Giả (tức là Vạn Giả);
chợ Dinh Nha Trang, chợ Vĩnh An, chợ Phú Vinh....
2.3. Mạng lưới chợ ở Nam Trung Bộ thời Nguyễn (giai đoạn
1802-1884)
2.3.1. Mạng lưới phân bố chợ
Dưới thời Nguyễn, trong thế kỉ XIX, mạng lưới chợ ở Nam Trung
Bộ phát triển rộng khắp các tỉnh. Theo ghi chép của Hoàng Việt nhất
thống dư địa chí (được Thượng thư Binh bộ Lê Quang Định, biên
soạn năm 1806), ở Nam Trung Bộ đầu thế kỉ XIX đã có đến 57 chợ
được ghi chép. Thống kê theo Đại Nam nhất thống chí (biên soạn,
hiệu đính, bổ sung dưới ba triều vua Tự Đức (1848-1883), Thành
Thái (1889-1907) và Duy Tân (1907-1916)), toàn vùng có 176 chợ.
Những chợ được ghi chép trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí và
Đại Nam nhất thống chí là những chợ ven đường giao thông thủy bộ
hoặc những chợ lớn ở các địa phương. Trong thực tế, nhiều chợ nhỏ
và những quán buôn bán còn chưa được thống kê. Như vậy, rõ ràng
số lượng chợ ở thời kì này phải lớn hơn nhiều so với những ghi chép
của Hoàng Việt nhất thống dư địa chí và Đại Nam nhất thống chí. Sự
phân bố các chợ ở cả trung du, miền núi, đồng bằng và ven biển, cửa
sông tạo nên hệ thống chợ liền mạch, đáp ứng nhu cầu trao đổi, buôn
bán giữa các địa phương theo cả chiều dọc và chiều ngang, giữa phía
bắc với phía nam, giữa miền ngược với miền xuôi và ngược lại. Mặt
khác, các chợ này không chỉ có mối liên hệ mật thiết với nhau trong
vấn đề trao đổi hàng hóa giữa các vùng trong tỉnh, mà còn có mối
quan hệ trao đổi với các khu vực khác và với nước ngoài.

2.3.2. Mạng lưới kết nối thương mại nội vùng và liên vùng
Mặc dù trong thế kỉ XIX, giao thông và giao thương đường bộ ở
các tỉnh Nam Trung Bộ cũng như nhiều địa phương khác chưa phát
8


triển mạnh, hoạt động trao đổi hàng hóa chủ yếu diễn ra bằng đường
thủy (đường sông, đường biển); Tuy vậy, hầu hết các chợ ở đây đều
được lập ra ở những nơi giao thông đường thủy, đường bộ thuận lợi,
dân cư đông đúc ở cả vùng trung du, miền núi và cả vùng đồng bằng,
ven biển, cửa sông. Sự phân bố các chợ ở cả trung du, miền núi,
đồng bằng và ven biển, cửa sông tạo nên hệ thống chợ liền mạch,
đáp ứng nhu cầu trao đổi, buôn bán giữa các địa phương theo cả
chiều dọc và chiều ngang, giữa phía bắc với phía nam, giữa miền
ngược với miền xuôi và ngược lại.
Trong đó, có thể kể đến các chợ có chức năng đầu mối giao thương
như: chợ An Khê, chợ Kiên Mỹ, chợ Gò Chàm, chợ An Thái, chợ Giả,
chợ Thị Nại (Bình Định), chợ Đồn Củng Sơn, chợ Đồn Vân Hòa, chợ
Phiên Sớm, chợ Vũng Lấm (Phú Yên) hay chợ Dinh, chợ Mới Vĩnh
Điềm, chợ Lầu (Khánh Hòa, Bình Thuận),… Các chợ này không chỉ nối
liền các khu vực hàng hóa trong tỉnh, trong vùng mà còn kết nối thương
mại với các tỉnh lân cận (Quảng Nam, Quảng Ngãi ở phía bắc, Sài Gòn ở
phía nam) mà còn mở rộng trao đổi hàng hóa nước ngoài (Malaisia,
Trung Quốc, Thái Lan….) bằng đường biển thông qua các cửa biển, phố
cảng. Xung quanh các chợ giữ vai trò đầu mối thương mại luôn có một hệ
thống các chợ nhỏ, chợ phụ đóng vai trò vệ tinh, bổ sung, hỗ trợ cho chợ
chính; ở mức độ rộng lớn hơn, chính các chợ giữ vai trò đầu mối này lại là
những chợ hỗ trợ, bổ sung cho hoạt động thương mại ở các phố cảng.
Chương 3: HOẠT ĐỘNG TRAO ĐỔI, BUÔN BÁN Ở CHỢ
NAM TRUNG BỘ

3.1. Nguồn hàng hóa cung ứng cho các chợ
3.1.1. Các mặt hàng nông sản
Địa hình lãnh thổ các tỉnh Nam Trung Bộ thường bị chia cắt bởi các
đèo, dốc và núi ven biển; các vùng đồng bằng nhỏ hẹp nằm ở châu thổ
9


của các con sông ngắn, có độ dốc cao bắt nguồn từ dãy Trường Sơn đổ
ra biển, cùng với khí hậu nóng ẩm đã gây nhiều khó khăn cho sản xuất
nông nghiệp. Dù vậy, các đồng bằng châu thổ sông Côn hay các vùng
đồng bằng ở Phú Yên, Khánh Hòa vẫn được ghi nhận là các đồng
bằng trù phú, sản xuất nông nghiệp tương đối ổn định. Lúa được xem
là cây trồng quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp ở Nam
Trung Bộ. Ngoài lúa gạo, ở các tỉnh Nam Trung Bộ cũng là nơi có
nhiều nông sản nổi tiếng khác như: đậu (đậu xanh, đậu đen, đậu
vàng...), dưa, khoai lang, rau, dứa, chuối, cau...
3.1.2. Các mặt hàng thủ công nghiệp
Một trong những mặt hàng tạo nên luồng thương mại mạnh mẽ ở
Nam Trung Bộ trong thế kỉ XIX là sản phẩm của các nghề thủ công.
Nghề dệt vải lụa, nhiễu... nổi tiếng ở các tỉnh Nam Trung Bộ. Ngoài
ra, trong thế kỉ XIX, ở Nam Trung Bộ còn có nhiều ngành nghề thủ
công như làm nón, rèn, đúc, đóng thuyền, các nghề chế tác vật liệu xây
dựng (làm đá ong, nấu vôi), nghề đan (đan tre, đan dây dừa, võng dừa,
thảm dừa), nghề làm dầu dừa, gáo dừa,…. Đặc biệt, nghề dệt lụa và
nghề làm đường ở các tỉnh Nam Trung Bộ đã có sự chuyên môn hóa
cao. Vùng biển các tỉnh Nam Trung Bộ có độ mặn nước biển lớn, rất
thích hợp cho nghề làm muối. Hầu hết các tỉnh Nam Trung Bộ đều
phát triển nghề làm muối. Muối là sản phẩm quan trọng được trao đổi
với cư dân các vùng núi cao và với nước ngoài. Việc sản xuất muối
không chỉ cung cấp cho nhu cầu sinh hoạt của cư dân địa phương, cho

vùng núi mà còn tạo điều kiện cho nghề làm nước mắm phát triển và
giải quyết nguồn cá dư thừa sau mỗi chuyến đánh bắt.
3.1.3. Các mặt hàng lâm, thổ, hải sản
Các mặt hàng lâm, thổ, hải sản ở Nam Trung Bộ khá đa dạng và
phong phú như các loại gỗ quý (gỗ sao, gỗ lim, gỗ sơn, gỗ mun, gỗ
10


trắc mật (gỗ hoa lệ), trầm hương, kì nam hương. Các loại lâm, thổ
sản khác như dầu rái, cây lụi (lui), cây xà (xà chày), kiền kiền, sáp
ong, vỏ gai, sa nhân, lông trĩ, trầu nguồn, quế, tê giác, voi, gấu, hổ,
ngựa…. Các sản vật từ biển như: tôm, cá, rong biển, ngao, sò, rùa, ba
ba, đồi mồi, ốc, san hô, tổ yến (yến sào)….. Tuy nhiên, tùy thuộc vào
điều kiện tự nhiên, điều kiện sản xuất và khai thác của từng vùng mà
cơ cấu mặt hàng trong chợ cũng có sự khác nhau.
3.1.4. Các mặt hàng từ nước ngoài mang đến
Hàng hóa của nước ngoài mang đến Nam Trung Bộ chủ yếu là hàng
của Trung Quốc và rất ít hàng của các nước phương Tây. Thương
nhân Trung Quốc đưa đến các mặt hàng như: thuốc Bắc, giấy, bông,
sợi, tơ lụa, chè, đồ gốm, sứ….
3.2. Phương thức trao đổi, mua bán
Trao đổi trực tiếp theo phương thức hàng-hàng. Khi sản xuất ra nhiều
sản phẩm tiêu thụ không hết trong gia đình, cộng với việc thiếu hụt các
sản phẩm từ các nghề khác, người ta đã nghĩ tới việc đem ra chợ để trao
đổi với nhau. Như vậy, “người thiếu, kẻ dư” sẽ trao đổi với nhau cùng đáp
ứng nhu cầu cho mỗi bên. Trong nền kinh tế tiền tệ, khi giá trị trao đổi
được thể hiện bằng giá cả thì phương thức trao đổi, mua bán lúc này là
tiền - hàng hoặc nửa tiền nửa hàng. Dưới triều Nguyễn, phương thức trao
đổi, mua bán thể hiện ở cả hai hình thức là hàng - hàng hay tiền - hàng.
Để đáp ứng cho nhu cầu trao đổi ngày càng tăng, một số thương nhân đã

thu gom (mua) hàng hóa ở chợ địa phương này đem đến chợ ở địa
phương khác để bán hay trao đổi, hình thành nên một tầng lớp trung gian
trong hoạt động mua bán đó là những lái buôn mà theo quan niệm dân
gian gọi là “con buôn”; họ là “cầu nối” giữa người bán và người mua.
3.3. Cách thức đo lường và giá cả

11


Dưới triều Nguyễn (thế kỉ XIX), việc trao đổi, mua bán đã diễn ra ở
hầu khắp các vùng từ miền núi, trung du đến đồng bằng, ven biển. Hệ
thống đo lường được nhà nước quy định cụ thể và ngày càng hoàn thiện,
song hầu hết các mặt hàng thường được đo lường theo tính chất ước lệ.
Ngoài ra, việc sử dụng hệ thống đo lường chung của nhà nước cũng được
áp dụng trong mua bán ở chợ. Giá cả của các mặt hàng không chỉ được
thỏa thuận giữa người bán và người mua mà một số mặt hàng thiết
yếu, đặc sản ở địa phương và ở các chợ (đường, gạo, muối, gỗ, kim
loại, yến sào, vi cá,…) còn do nhà nước định giá cao thấp. Ngoài tác
động của nhà nước và quy luật cạnh tranh tự do thì giá cả hàng hoá
còn do mùa vụ quyết định, tức là mua hàng đúng mùa hay trái mùa
cũng dẫn đến giá cả khác nhau.
3.4. Lệ thuế chợ
Trong thế kỉ XIX, việc trao đổi, buôn bán hàng hóa thông qua các
chợ ở Nam Trung Bộ nói riêng và cả nước nói chung đã khiến nhu cầu
thuế của nhà nước đối với chợ được đặt ra. Mặc dù chưa có tài liệu
nào ghi chép cụ thể về thuế của các chợ ở Nam Trung Bộ (giai đoạn
1802-1884), song một số dẫn chứng về việc thu thuế chợ ở một số chợ
vùng núi tỉnh Bình Thuận thời vua Minh Mệnh và vua Thiệu Trị trong
các năm 1839, 1841, 1848 chứng tỏ nhà nước đã thu thuế chợ và thuế
ở các nguồn - nơi trao đổi buôn bán giữa miền ngược và miền xuôi.

Đến nửa sau của thế kỉ XIX, hầu hết các tỉnh ở Nam Trung Bộ đều
thu thuế chợ. Bình Định có 118 chợ đã thu thuế (từ hạng 3 đến hạng 9).
Chợ lớn nhất ở Bình Định được đánh thuế hạng 3 có chợ An Thái, chợ
Cầu Chàm; chợ thuế hạng 4 có chợ Đập Đá, chợ Lại Giang…. Bình
Định không có chợ thu thuế hạng 1 và hạng 2. Các chợ ở địa phương
khác không thấy ghi hạng thuế mà chỉ ghi tổng số thuế thu hàng năm.
3.5. Lệ họp chợ
12


Cho đến thế kỉ XIX, các chợ lớn ở Nam Trung Bộ đều có lệ họp
chợ, có chợ đông buổi sáng, có chợ đông buổi chiều, có chợ đông cả
ngày hay có chợ chỉ họp chớp nhoáng (chợ xổm). Đặc biệt, có những
chợ chỉ đông vào một số ngày nhất định, gọi là chợ phiên. Thực tế là
trong một vùng nhất định, để tránh sự cạnh tranh giữa các chợ đã
hình thành một lịch họp chợ hợp lí. Trong một tháng không có nhiều
ngày chợ họp trùng nhau, nhất là những phiên chợ chính. Số phiên
của một chợ không chỉ phụ thuộc lượng hàng hóa và người đến mua
bán mà còn tùy thuộc ở số lượng chợ và những ngày phiên của các
chợ trong vùng. Điều này cho thấy rõ quy mô và sự phát triển mở
rộng của kinh tế hàng hóa ở các tỉnh Nam Trung Bộ thời Nguyễn
(giai đoạn 1802-1884).
3.6. Thành phần buôn bán ở chợ
Tiểu thương và tiểu chủ là lực lượng chủ yếu trong bộ phận
thương nhân tại các chợ. Ngoài thương nhân buôn bán tại các sạp hàng
cố định, còn có lực lượng thương nhân kinh doanh độc lập với nghề
nông, dựng sạp hàng, cửa hàng ở chợ để buôn bán đủ mọi thứ hàng hóa,
có những hàng do họ sản xuất ra, nhưng chủ yếu là đi buôn về. Người
tham gia hoạt động buôn bán tại các chợ cũng rất đa dạng. Tuy nhiên, việc
buôn bán ở các chợ chủ yếu do phụ nữ đảm nhiệm. Một bộ phận những

người buôn bán tại các chợ còn là Hoa kiều. Người Hoa chiếm số lượng
không nhiều, song với tài buôn bán, người Hoa nhanh chóng chiếm lĩnh thị
trường ở các thị tứ, các đô thị và các chợ lớn.
3.7. Tổ chức quản lí chợ
Nhà nước gián tiếp quản lí chợ thông qua việc ban hành những
chính sách cụ thể về thương nghiệp trong đó có các loại thuế chợ. Bên
cạnh đó, nhà nước cũng ban hành thêm những quy định về buôn bán ở
các chợ, cửa hàng. Việc nhà nước ban hành những quy định cụ thể về
13


hoạt động trao đổi, buôn bán ở chợ cho thấy nhà nước đã có những quan
tâm nhất định đến hoạt động nội thương nói chung và hoạt động của các
chợ nói riêng. Đồng thời, nó cũng thể hiện vai trò quản lí của triều
Nguyễn ở tầm vĩ mô thông qua các văn bản pháp luật và bộ phận thực
thi các văn bản pháp luật đó chính là làng xã.
Các chợ hầu như đều được coi là thuộc quyền sở hữu và quyền thu
lợi nhuận của làng xã. Đối với những chợ nhỏ thường do một làng thiết
lập thì làng trực tiếp cử ra một ban quản lí chung do Lý trưởng đứng
đầu. Đối với những chợ hoặc những giao dịch trường ở miền núi, nhà
nước có thể quản lí hoạt động ở đây thông qua vai trò của các già làng.
Chương 4: ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA MẠNG LƯỚI CHỢ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HÓA-XÃ HỘI
Ở NAM TRUNG BỘ
4.1. Đặc điểm của mạng lưới chợ ở Nam Trung Bộ
4.1.1. Đường thủy giữ vai trò quan trọng trong lưu thông hàng
hóa ở chợ
Trong thế kỉ XIX, khi giao thông và giao thương đường bộ chưa
phát triển thì giao thông và giao thương bằng đường thủy giữ vai trò
trọng yếu. Giao thương bằng đường thủy là loại hình vận chuyển

thuận lợi nhất, tiết kiệm thời gian, công sức và vận chuyển được khối
lượng hàng hóa lớn. Đây là điều kiện thuận lợi để mở rộng giao
thương giữa các vùng miền và cũng là một trong những đặc điểm của
vùng đất Nam Trung Bộ. Số lượng cầu, cống, bến đò và các con sông
lớn ở các tỉnh Nam Trung Bộ thế kỉ XIX được ghi chép trong Đại Nam
nhất thống chí cho thấy rõ vai trò của đường thủy trong lưu thông hàng
hóa ở Nam Trung Bộ. Do đường thủy giữ vai trò quan trọng trong giao
thương ở các tỉnh Nam Trung Bộ, cho nên rất nhiều chợ ở các tỉnh Nam
Trung Bộ cũng được thành lập cạnh các con sông hoặc ngay tại vùng cửa
14


sông, cửa biển. Vị trí của các chợ phần lớn nằm cạnh các con sông
hoặc ven biển nên chợ ở Nam Trung Bộ thời kì này còn có đặc điểm
là chợ gắn với bến chợ hoặc phố cảng (cảng sông, cảng biển). Bên
cạnh đó, trong thế kỉ XIX, ở Nam Trung Bộ đã hình thành và phát
triển các luồng buôn bán, trao đổi giữa các địa phương trong tỉnh
thông qua tuyến đường biển; đồng thời, nó cũng tạo điều kiện thuận
lợi để mở rộng trao đổi hàng hóa với các khu vực khác trong nước và
với nước ngoài.
4.1.2. Các chợ đầu mối thường gắn liền với phố chợ và chợ “vệ
tinh”
Đến thế kỉ XIX, diện mạo các chợ lớn đã gắn liền với các dãy chợ,
các khu phố buôn bán cố định trong chợ. Sự đa dạng, phong phú của
nguồn hàng hóa cùng nhu cầu trao đổi tăng nhanh đã góp phần mở
rộng quy mô chợ; ngược lại, sự mở rộng quy mô các chợ cũng góp
phần làm cho hàng hóa được lưu thông dễ dàng, nhanh chóng hơn; các
mặt hàng được sắp xếp, bố trí phù hợp theo cấu trúc của chợ. Đây
cũng chính là biểu hiện sự phát triển mở rộng của kinh tế hàng hóa ở
Nam Trung Bộ trong thế kỉ XIX. Sự hình thành các phố chợ gắn liền

với chợ thể hiện tính thường xuyên, vững chắc của hoạt động thương
nghiệp; tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình hình thành và phát
triển các trung tâm buôn bán, các tụ điểm kinh tế-xã hội.
Trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế hàng hóa, ở các thị tứ, phố
cảng, trung tâm chính trị, bên cạnh chợ chính còn hình thành nên một
số chợ phụ đóng vai trò là “vệ tinh”, vừa có chức năng riêng biệt, vừa
bổ sung, hỗ trợ cho chợ chính.
4.1.3. Cơ cấu mặt hàng phong phú, đa dạng, từ sản phẩm địa
phương cho đến hàng hóa của nước ngoài

15


Cơ cấu hàng hóa ở các chợ Nam Trung Bộ thời Nguyễn (giai đoạn
1802-1884) khá đa dạng và phong phú, bao gồm những mặt hàng phục
vụ cho nhu cầu sinh hoạt thiết yếu (lương thực, thực phẩm, hàng nông
sản) và các mặt hàng phục vụ sản xuất của cư dân (công cụ sản xuất,
đồ dùng gia đình,…). Ngoài ra còn có các mặt hàng từ bên ngoài vào
và các mặt hàng phục vụ cho ngoại thương, trong đó có nhiều mặt
hàng là đặc trưng của các tỉnh Nam Trung Bộ. Có thể chia hàng hóa ở
chợ Nam Trung Bộ trong thế kỉ XIX thành các nhóm: nhóm mặt hàng
lương thực, thực phẩm; nhóm mặt hàng phục vụ nhu cầu sản xuất và
sinh hoạt; nhóm mặt hàng lâm, thổ, hải sản và nhóm các mặt hàng
khác (chủ yếu là hàng hóa từ nước ngoài).
4.1.4. Lực lượng thương nhân chuyên nghiệp, nhất là thương nhân
người Hoa có vai trò quan trọng trong hoạt động của mạng lưới chợ
Thương nhân chuyên nghiệp là những người sống bằng nghề buôn
bán. Họ lập phố buôn ngay tại các chợ, đặc biệt là Hoa thương và
những lái buôn chuyên mang hàng từ chợ này qua chợ khác bán theo
phiên. Họ giữ vai trò quan trọng trong việc phân phối hàng hoá. Tuy

nhiên, trong các chợ, nhất là các chợ lớn đều có rất ít chủ buôn, tiệm
buôn lớn của người Việt mà chủ yếu là chủ buôn và các tiệm buôn của
người Hoa. Người Hoa hầu như nắm trong tay tất cả các mối thương
mại từ nhỏ đến lớn. Hoạt động của Hoa thương cũng góp phần tạo nên
sự gắn kết giữa các chợ trong khu vực, thúc đẩy quá trình mở rộng
hoạt động thương mại của các tỉnh Nam Trung Bộ với nước ngoài.
Trong hoạt động thương mại ở thị trường nội địa, Hoa thương bao
mua hàng hóa trong vùng để cung cấp cho các tàu buôn nước ngoài.
Mặt khác, họ mang các hàng hóa nước ngoài đi bán khắp các địa
phương. Bên cạnh đó, Hoa thương còn chuyển hàng hóa từ Trung
Quốc đến hoặc có nguồn cung cấp hàng hóa do các tàu buôn đến từ
16


thương cảng Trung Quốc, từ đó họ chuyển hàng đi các thương cảng
khác trong khu vực hoặc bán cho các tàu buôn phương Tây.
4.1.5. Hoạt động của mạng lưới chợ ở Nam Trung Bộ đã
vượt ra khỏi phạm vi làng xã
Dưới triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884), nền kinh tế có bước
phát triển, hàng hoá sản xuất ra nhiều hơn và nhu cầu trao đổi hàng
hoá cũng tăng lên, vượt qua khỏi phạm vi không gian nhỏ hẹp ban
đầu. Cách tổ chức hoạt động của chợ cũng thay đổi. Hàng hóa cũng
phong phú và đa dạng hơn nhờ lực lượng thương nhân chuyên
nghiệp vận chuyển thông thương giữa các chợ. Chợ được xây dựng
thêm nhiều lều quán cố định. Sự phát triển mở rộng của mạng lưới
chợ và hoạt động trao đổi, buôn bán diễn ra mạnh mẽ ở các chợ Nam
Trung Bộ đã tạo ra một “vùng liên làng” với hệ thống các chợ phiên,
họp mỗi tháng 3, 6 hay 9 phiên. Sự phân chia các phiên chợ như vậy
nhằm tạo ra tính liên tục các buổi đông chợ, giảm thiểu tình trạng cạnh
tranh khi trùng phiên, trùng hàng hóa và luôn có hàng hóa đáp ứng

nhu cầu của người mua. Mặt khác, cũng là để một số chợ thực hiện
chức năng chợ đầu mối, chợ trung tâm của vùng.
4.2. Vai trò của mạng lưới chợ đối với sự phát triển kinh tế,
văn hóa-xã hội Nam Trung Bộ
4.2.1. Hoạt động của mạng lưới chợ góp phần thúc đẩy kinh tế
phát triển
Thông qua hoạt động trao đổi, buôn bán trong các chợ, hàng hóa
được lưu thông từ đó kích thích các ngành nông - lâm - ngư nghiệp, thủ
công nghiệp, thương nghiệp phát triển; nâng cao giá trị sản xuất của các
ngành trong cơ cấu ngành kinh tế. Hoạt động thương mại ở các chợ nói
riêng ở các đô thị, thị tứ nói chung đã góp phần thúc đẩy nông, lâm, ngư
nghiệp và thủ công nghiệp phát triển. Ngược lại, sự phát triển của hoạt
17


động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, thủ công nghiệp là cơ sở, tiền đề
cho sự ra đời và phát triển của các chợ, thị tứ và ở mức độ cao hơn là
các đô thị cả về quy mô và số lượng; thông qua đó thúc đẩy nền kinh tế
tiểu nông từ khép kín chuyển sang nền kinh tế hàng hóa phát triển; tạo
điều kiện cho quá trình đô thị hóa diễn ra, đưa đến sự ra đời của các đô
thị ở Nam Trung Bộ trong thế kỉ XIX.
4.2.2. Hoạt động của mạng lưới chợ góp phần thúc đẩy sự giao
lưu và phát triển văn hóa - xã hội
Chợ là nơi phản ánh đặc trưng kinh tế, văn hóa ẩm thực của cư
dân các địa phương; chợ là nơi để con người thể hiện phép đối nhân
xử thế, nơi phản ánh văn hóa truyền thống của một vùng đất.. Chợ
còn là nơi giao lưu văn hóa, tiếp thu kinh nghiệm sản xuất, kinh
doanh và văn hóa của các cộng đồng cư dân khác nhau. Sự giao lưu
văn hóa giữa người Hoa và người Việt ở các đô thị, thị tứ và ở các
chợ- nơi tập trung đông đúc người Hoa cũng diễn ra phổ biến trên

nhiều phương diện, góp phần phát triển và làm phong phú đời sống
kinh tế lẫn sinh hoạt tinh thần của cư dân.
Sự hình thành và phát triển của chợ còn kéo theo sự thay đổi trong
kết cấu dân cư. Trên bình diện xã hội, sự phát triển của nền kinh tế
hàng hóa thâm nhập vào nông nghiệp, nông thôn thông qua hệ thống
chợ đã có tác động tích cực đưa đến sự hình thành tầng lớp thợ thủ
công chuyên nghiệp, đặc biệt là tầng lớp thương nhân. Vì vậy, trong
xã hội ngày càng có sự phân hóa sâu sắc, sự phân công lao động rõ
ràng giữa các thành phần dân cư trong xã hội. Mọi hoạt động của chợ
ngoài tác dụng làm cho sản vật ở các địa phương được lưu thông
khắp nơi, còn góp phần cải thiện được đời sống của cộng đồng dân
cư và tác động mạnh đến đời sống, chính sách của nhà nước.

18


KẾT LUẬN
Trong quá trình sát nhập vào lãnh thổ Đại Việt, Nam Trung Bộ đã
nhanh chóng trở thành vùng đất hứa đối với dòng chảy lưu dân phía
Bắc vào mở đất, lập làng cũng như sự lựa chọn làm nơi cư trú và lập
nghiệp của một bộ phận cư dân người Hoa “tị nạn”. Trải qua quá trình
phát triển lâu dài, các lớp lưu dân đã xây dựng nên một vùng đất trù
mật, xóm làng đông đúc. Đây chính là tiền đề đầu tiên đưa đến sự hình
thành và phát triển của hệ thống chợ ở Nam Trung Bộ. Cùng với quá
trình tụ cư, sản xuất ngày càng phát triển và dưới sự tác động của nền
kinh tế hàng hóa, các yếu tố chính trị - xã hội trong thế kỉ XIX, mạng
lưới chợ ở Nam Trung Bộ càng được mở rộng về quy mô, số lượng và
đã có vai trò nhất định đối với sự phát triển của nền kinh tế, văn hóaxã hội của từng địa phương cũng như cả khu vực Nam Trung Bộ.
Hoạt động của mạng lưới chợ ở Nam Trung Bộ trong thế kỉ XIX
mang nhiều đặc điểm chung so với các chợ trên cả nước. Về các đặc

điểm sinh hoạt của mạng lưới chợ trên các mặt như quy định lệ họp
chợ, thành phần tham gia buôn bán tại chợ hay cơ cấu các mặt hàng
buôn bán ở chợ, lệ thuế, phương thức trao đổi, buôn bán … nhìn
chung cũng giống chợ ở những nơi khác. Tuy vậy, hoạt động của
mạng lưới chợ ở Nam Trung Bộ (giai đoạn 1802-1884) cũng mang
những đặc trưng riêng, phản ánh bộ mặt làng quê các tỉnh Nam Trung
Bộ trên mọi phương diện và giữ vai trò nhất định đối với kinh tế - xã
hội, văn hóa - đời sống và phong tục tập quán của vùng đất Nam
Trung Bộ. Ví như, cơ cấu các mặt hàng buôn bán ở chợ Nam Trung
Bộ cũng bao gồm các mặt hàng lương thực, thực phẩm, hàng nông
sản, công cụ sản xuất, đồ dùng gia đình,… Dù vậy, trong các nhóm
hàng đó lại có những sản phẩm chỉ có riêng ở Nam Trung Bộ, có sản
phẩm được trao đổi, buôn bán ở vùng này nhưng không có ở vùng
19


khác. Hàng hóa ở chợ cũng mang tính đặc trưng riêng của vùng, miền,
địa phương. Dựa trên các tuyến đường bộ và đường thủy, hàng hóa
được quy tụ về các chợ lớn, các thị tứ, đô thị, phố cảng không chỉ nối
liền các khu vực hàng hóa trong tỉnh và nối các tỉnh lân cận trong khu
vực với nhau, mà còn mở rộng trao đổi hàng hóa với các khu vực khác
trong nước và nước ngoài. Đặc biệt, Nam Trung Bộ cũng là vùng có
hệ thống sông, suối dày đặc, đường bờ biển dài, có nhiều cửa biển,
vũng vịnh,… nên đại bộ phận các chợ ở Nam Trung Bộ được hình
thành bên cạnh các con sông hoặc vùng cửa sông, cửa biển. Do vậy,
giao thông và giao thương đường thủy giữ vị trí quan trong trong hoạt
động thương mại ở các chợ Nam Trung Bộ; Hoạt động của chợ vì vậy
cũng gắn liền với bến chợ, phố cảng, với hoạt động vận chuyển, bốc
vác hàng hóa nhộn nhịp tại các bến chợ và phố cảng.
Thông qua hoạt động buôn bán trong các chợ ở cả vùng trung du,

miền núi, vùng đồng bằng và ven biển, hàng hóa được trao đổi, lưu
thông không chỉ đáp ứng nhu cầu trong vùng mà còn mở rộng trao đổi
với bên ngoài. Trên cơ sở đó, thúc đẩy các ngành nông - lâm - ngư
nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển mạnh mẽ. Giữa
kinh tế nói chung, kinh tế hàng hóa nói riêng và mạng lưới chợ có mối
quan hệ hữu cơ với nhau: hoạt động của mạng lưới chợ góp phần duy
trì sự tồn tại và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế; ngược lại, sự phát
triển của kinh tế làm mở rộng quy mô, số lượng của các chợ. Bởi vậy,
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa, hệ thống chợ ở
Nam Trung Bộ cũng không ngừng tăng lên về số lượng và mở rộng về
quy mô. Nhiều chợ đã trở thành nơi tập trung hàng hóa, đóng vai trò là
thị trường liên tỉnh. Đây cũng là một trong những đặc điểm nổi bật
trong hoạt động của mạng lưới chợ ở Nam Trung Bộ thời Nguyễn giai
đoạn 1802-1884. Hơn nữa, khi mức độ buôn bán vượt ra khỏi phạm vi
20


một làng xã thì việc quy định số phiên chợ họp trong một tháng có một
ý nghĩa nhất định. Các chợ lớn trong một vùng thường không được
họp trùng ngày trong tháng. Điều này tạo điều kiện cho hàng hóa được
lưu thông và đặc biệt là để tránh việc tranh giành khách hàng buôn
bán. Lệ họp chợ cũng được quy định ở nhiều địa phương, song điểm
khác biệt là phạm vi địa lí chu kì các chợ ở Nam Trung Bộ rộng lớn
hơn so với các vùng khác.
Hoạt động trao đổi, buôn bán ở các chợ Nam Trung Bộ đã góp
phần thúc đẩy hoạt động sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp và
thương nghiệp nhất là nội thương phát triển. Ngược lại, sự phát triển
của các ngành sản xuất và thương nghiệp trở thành tiền đề và điều
kiện phát triển mở rộng mạng lưới chợ. Thông qua đó, thúc đẩy nền
kinh tế tiểu nông khép kín chuyển sang nền kinh tế có xu hướng mở.

Tuy nhiên, hoạt động trao đổi, buôn bán của mạng lưới chợ ở
Nam Trung Bộ cũng có những hạn chế nhất định:
Thứ nhất, dưới triều Nguyễn, kinh tế hàng hoá ở Nam Trung Bộ có
bước phát triển mới; các sản phẩm nông - lâm - thổ - hải sản, hàng thủ
công nghiệp trở thành hàng hoá lưu thông rộng rãi trên thị trường;
song nó cũng chịu nhiều lực cản mà chính sách bảo thủ lạc hậu của
triều đình phong kiến là một ví dụ. Nền kinh tế tự cung, tự cấp vẫn còn
phổ biến trong nhân dân; hoạt động trao đổi, mua bán ở các chợ Nam
Trung Bộ cũng chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi sản phẩm dư thừa
của nền kinh tế tiểu nông, khi mà thủ công nghiệp chưa tách khỏi nông
nghiệp và thương nghiệp chỉ là ngành kinh tế phụ.
Thứ hai, nhiều mặt hàng là đặc trưng của các tỉnh Nam Trung Bộ,
có giá trị cao được xuất khẩu ra bên ngoài lại chủ yếu nằm trong
danh mục nhà nước thu mua và độc quyền buôn bán như trầm
hương, kì nam, ngà voi, tổ yến.... Mặt khác, do chính sách độc quyền
21


về mậu dịch thương mại của triều đình, cả khách hàng và thương
nhân đều bị đè nặng bởi sức ép của chính quyền. Họ thường bị ép
mua, ép bán nên tạo ra giá cả giả tạo trên thị trường. Ngoài giá cả
chính thức của nhà nước còn có giá chợ đen, giá này thay đổi đột
biến theo cung cầu hàng ngày, hàng giờ của giới thương nhân và
tầng lớp mối lái trung gian…. Bên cạnh đó, sự gian lận của quan lại
cùng với sự nhũng nhiễu của họ đã làm các thương khách chán nản.
Ở những trung tâm buôn buôn bán đông khách qua lại thường xuất
hiện bọn quan thương luôn thao túng thị trường.
Thứ ba, hoạt động trao đổi, buôn bán ở chợ Nam Trung Bộ thời kì
này mới chỉ dừng lại ở hình thức lưu thông hàng hóa giản đơn. Sản
xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản

xuất ra để bán chứ không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
chính người trực tiếp sản xuất ra nó, tức là để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán. Sản xuất
hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội, chuyên
môn hóa sản xuất. Ở nửa đầu thế kỉ XIX, thương nhân các tỉnh Nam
Trung Bộ đã khẳng định được vị thế của mình trong xã hội với tư
cách là một tầng lớp có nghề nghiệp độc lập và đóng góp đáng kể
vào sự phát triển kinh tế của địa phương. Tuy nhiên, hoạt động buôn
bán ở các chợ vẫn chỉ là buôn bán nhỏ, dưới hình thức “chạy chợ”
lưu động. Vì vậy, lực lượng thương nhân chủ yếu là tiểu thương, tiểu
chủ; còn những người làm đại íý, kinh doanh độc lập với nghề nông,
dựng sạp hay cửa hàng ở chợ hoặc những người có vốn liếng nhiều,
buôn những mặt hàng lớn chiếm số lượng không nhiều và chủ yếu
việc buôn bán này là do thương nhân người Hoa đảm nhận. Họ hoạt
động trên thị trường có quy mô rộng lớn, nhiều tỉnh, thậm chí trao
đổi buôn bán với thương nhân ngoại quốc. Dù vậy, hoạt động buôn
22


bán của thương nhân người Hoa chủ yếu diễn ra ở các chợ lớn, chợ
trung tâm hay những thị tứ, đô thị, phố cảng. Trong khi đó, tiểu
thương và tiểu chủ là lực lượng chủ yếu trong bộ phận thương nhân
ở các tỉnh Nam Trung Bộ. Hoạt động buôn bán của tiểu thương, tiểu
chủ diễn ra không đều đặn và thường xuyên, có thể tiến hành ngày
một, cũng có thể dăm bữa nửa tháng vì còn phụ thuộc vào mùa vụ ở
nông thôn. Hàng hóa của họ chỉ đơn thuần và chủ yếu là các mặt
hàng nông nghiệp và thủ công nghiệp do chính họ và gia đình sản
xuất ra. Những người buôn bán ở chợ Nam Trung Bộ hầu như không
thoát li hoàn toàn khỏi nông nghiệp và thủ công nghiệp. Đây chính là
sản phẩm của nền kinh tế tiểu nông phù hợp với nhu cầu hàng hóa

nhỏ bé và đơn giản của người nông dân. Hơn nữa, việc phụ nữ và
những người nghèo là lực lượng chính đảm nhận công việc buôn bán
ở các chợ cũng là một trong những hạn chế không thể thúc đẩy
thương nghiệp mà trước hết là nội thương phát triển thành thương
nghiệp ở quy mô lớn hơn. Phương tiện buôn bán chủ yếu phụ thuộc
vào phương tiện vận chuyển truyền thống của người Việt: trên bộ
gánh hàng đi chợ, dưới nước dùng thuyền bè loại nhỏ là chủ yếu.
Đặc biệt, vốn và lãi trong buôn bán ở các chợ rất nhỏ bé và ít ỏi.
Vốn nhiều khi chỉ là những sản phẩm nông nghiệp, thủ công nghiệp
trực tiếp sản xuất của gia đình người buôn. Vấn đề lãi cũng không phải
là vấn đề đặt ra hàng đầu. Bởi lẽ, người buôn có lúc chỉ mong bán
được hàng để mua những mặt hàng cần thiết, phục vụ trực tiếp cho đời
sống hàng ngày của họ. Xét về phương diện giá trị sử dụng thì cả hai
phía trao đổi đều có thể cùng được lợi, nhưng về phương diện giá trị
trao đổi thì cả người bán và người mua đều không cùng có lợi. Đây
chính là hình thức lưu thông hàng hóa giản đơn. Mục đích trao đổi
hàng hóa chỉ đơn thuần là giá trị sử dụng, buôn bán ở chợ vẫn là buôn
23


×