BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NGHIÊN CỨU VĂN HÓA
NGUYỄN ĐỊNH
YẾU TỐ THẦN KÌ
TRONG TRUYỀN THUYẾT
VÀ TRUYỆN CỔ TÍCH NGƯỜI VIỆT
Ở NAM TRUNG BỘ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA DÂN GIAN
MÃ SỐ: 62 31 70 05
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI – 2007
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
VIỆN NGHIÊN CỨU VĂN HÓA
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học
1. PGS.TS. Võ Quang Trọng
2. TS. Đỗ Hồng Kỳ
Phản biện 1
Phản biện 2
Phản biện 3
Luận án tiến sĩ sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
nhà nước tại Viện Nghiên cứu văn hóa vào hồi giờ ngày
tháng năm
Có thể tìm đọc luận án tại:
- Thư viện Viện Nghiên cứu văn hóa
- Thư viện Quốc gia
1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nghiên cứu truyện cổ dân gian người Việt ở Nam Trung Bộ
nhằm góp phần tìm ra đặc trưng di sản văn hoá dân gian vùng duyên
hải này; đồng thời, còn nhằm cung cấp tài liệu bổ ích đối với việc
giảng dạy và học tập phần văn học dân gian địa phương của giáo
viên và học sinh, nhất là giáo viên và sinh viên ngành văn ở các
trường cao đẳng và đại học trên vùng đất Nam Trung B
ộ.
Nhận thức được ý nghĩa khoa học và thực tiễn của việc nghiên
cứu truyện cổ dân gian người Việt ở Nam Trung Bộ như đã trình
bày, trong phạm vi bản luận án, chúng tôi khảo sát yếu tố thần kì của
truyền thuyết và truyện cổ tích thần kì người Việt ở vùng đất này.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Đại Nam nhất thống chí (Quốc sử quán triều Nguyễ
n) là bộ
sách có ghi chép truyện cổ dân gian người Việt ở Nam Trung Bộ
sớm nhất và duy nhất thế kỉ XIX. Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam
(Nguyễn Đổng Chi) là bộ sách có ghi chép truyện cổ dân gian người
Việt ở Nam Trung Bộ sớm nhất thế kỉ XX.
Tiếp theo là những cuốn địa phương chí các tỉnh Nam Trung
Bộ của một số nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ như: Quách Tấn,
Nguyễn Đình Tư
, Phạm Trung Việt…xuất hiện vào hai thập niên 60,
70 của thế kỉ XX. Truyện cổ dân gian người Việt ở Nam Trung Bộ
được đề cập trong các cuốn địa phương chí của những tác giả nêu
trên, chủ yếu là ở góc độ sưu tầm và ít nhiều cũng có sự nghiên cứu.
Dù vậy, trước 1975, công trình nghiên cứu truyện cổ dân gian người
Việt ở Nam Trung Bộ chưa xuất hiện.
Những truyện cổ
dân gian người Việt ở Nam Trung Bộ được
biên chép trong tập V sách Kho tàng truyên cổ tích Việt Nam của
Nguyễn Đổng Chi có thể được coi là kết quả sưu tầm đầu tiên thời kì
sau năm 1975. Tiếp theo là những kết quả đáng phấn khởi trong
2
những năm cuối thập niên 70 đến thập niên 90 của thế kỉ XX.
Khoảng trên 10 năm này, gần như sách sưu tầm văn học dân gian của
nhiều địa phương Nam Trung Bộ xuất hiện liên tục. Tiêu biểu có
Những mẫu chuyện về Tây Sơn (nhiều tác giả); Hòn Vọng Phu (Đào
Văn A); Văn nghệ dân gian Quảng Nam – Đà Nẵng, tập I (Nguyễn
Văn Bổ
n); Văn nghệ dân gian Quảng Nam – Đà Nẵng, tập II
(Nguyễn Văn Bổn chủ biên, Tôn Thất Bình, Trương Giảng, Trần
Hoàng, Võ Văn Thắng); Truyện cổ dân gian Phú Khánh (Trần Trung
Thành, Trần Việt Kỉnh, Chu Thị Thanh Bằng, Nguyễn Thành
Thi).v.v.
Trong những tập sách nêu trên, có công trình, tác giả của nó
không những quan tâm đến việc sưu tầm mà còn đầu tư vào việc
nghiên cứu. Tiêu biểu là bộ sách 2 tập Văn nghệ
dân gian Quảng
Nam - Đà Nẵng do Nguyễn Văn Bổn chủ biên. Trong phần nghiên
cứu của tập II bộ sách này, về thi pháp, tác giả cho rằng, truyện cổ
dân gian Quảng Nam – Đà Nẵng “mang sắc thái của những truyện cổ
ở một vùng đất mới rất rõ. Được hình thành khi xã hội con người ở
nước ta đã được tổ chức theo chế độ phong kiến, thời kì xây dựng và
bảo vệ quốc gia phong ki
ến độc lập và tiếp tục mở nước, nên trình độ
chinh phục thiên nhiên của con người đã tiến bộ khá cao, vì thế trong
các truyện cổ dân gian, các yếu tố thần kì không còn đậm nét…Tính
kế thừa trong phong cách xây dựng hình tượng nhân vật của truyện
cổ dân gian Quảng Nam – Đà Nẵng cũng là một đặc điểm”.
10 năm cuối thế kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XXI là chặng
đường n
ở rộ kết qủa sưu tầm, nghiên cứu truyện cổ dân gian người
Việt ở Nam Trung Bộ. Trên 15 năm qua (1990 - 2006), giới folklore
học nước ta đã cho ra đời hàng loạt công trình ở nhiều phương diện
khác nhau. Sách và bài viết dành riêng cho việc sưu tầm, nghiên cứu
truyện cổ dân gian có Chuyện xưa học sinh (Ngô Sao Kim); Quảng
Ngãi giai thoại - truyền thuyết, tập II, (Thế Kỉ, Hà Thanh); Truyện cổ
3
thành Đồ Bàn vịnh Thị Nại, Các ngôi sao Tây Sơn (Nguyễn Xuân
Nhân); Truyện cổ Tuy Hoà (Nguyễn Hoài Sơn); Huyền thoại Phú
Yên (Đoàn Việt Hùng); Về hiện tượng nhầm lẫn của tác giả dân gian
khi lưu truyền các truyện kể về Cao Biền, Về những kết quả chủ yếu
của việc sưu tầm, nghiên cứu truyện cổ dân gian người Việt ở Nam
Trung B
ộ, Hình ảnh sông nước trong truyền thuyết dân gian người
Việt ở Nam Trung Bộ (Nguyễn Định)…Sách sưu tầm, biên soạn văn
học dân gian có phần truyện cổ dân gian như Văn học dân gian Tây
Sơn (Nguyễn Xuân Nhân); Văn học dân gian Quảng Nam (miền
biển) (Nguyễn Văn Bổn); Văn học dân gian Sông Cầu (Nguyễn Định
chủ biên, Lê Đức Công, Lê Bạt Sơn)…
Ở kết qu
ả nêu trên đã xuất hiện bài nghiên cứu có đề cập đến
yếu tố thần kì hay có tính chất tổng kết quá trình sưu tầm và nghiên
cứu truyện cổ dân gian người Việt phạm vi cả vùng Nam Trung Bộ
(Hình ảnh sông nước trong truyền thuyết dân gian người Việt ở Nam
Trung Bộ, Về những kết quả chủ yếu của việc sưu tầm, nghiên cứu
truyện cổ dân gian người Việt
ở Nam Trung Bộ). Bàn về yếu tố thần
kì trong truyền thuyết Việt ở Nam Trung Bộ, tác giả bài Hình ảnh
sông nước trong truyền thuyết dân gian người Việt ở Nam Trung Bộ
viết: “ Trong thế giới nghệ thuật của truyền thuyết, hầu hết các hình
ảnh về loài vật ở sông nước đều được thần kì hoá (27/31 trường hợp,
87,1%), ngược lại, biện pháp thần kì hoá rất ít được sử dụng
đối với
hình ảnh về con người (ngư dân - người đánh cá, người lái đò) và
hình ảnh các sự vật liên quan đến sông nước, nhưng do con người
làm ra (cầu, thuyền, sa, đập). Nước và các loài vật của nước, khi
được thần hoá thì cát thần chiếm đa phần (28/36 trường hợp; 77,8%),
hung thần chỉ là thiểu số (8/36 trường hợp; 22,2%)…Nhưng vì sao
hình ảnh cát thần lại nhiều hơn hung thần ? Phải chăng, đó là m
ột
cách để con người biểu hiện ước mơ tìm hiểu giới tự nhiên còn nhiều
điều ở ngoài tầm hiểu biết của mình, khi định cư trên vùng đất mới !
4
Hơn thế nữa, từ trong hiện tượng này, ta còn thấy thấp thoáng khát
vọng về sự “chung sống”, về sự “hòa điệu” với thiên nhiên; thái độ
đòi hỏi thiên nhiên phải đem lại sự yên bình trong cuộc sống của ông
cha ta ngày trước”.
Nếu năm 1984, tác giả sách Văn nghệ dân gian Quảng Nam –
Đà Nẵng, tập II đã đề cập thoáng qua yếu tố thần kì trong truyện cổ
dân gian người Việ
t phạm vi một tỉnh của Nam Trung Bộ thì năm
2006, tác giả bài Hình ảnh sông nước trong truyền thuyết dân gian
người Việt ở Nam Trung Bộ đã đề cập một khía cạnh của yếu tố thần
kì trong truyền thuyết người Việt phạm vi cả vùng Nam Trung Bộ.
Đó là những kết quả, tuy còn ở mức rất khiêm tốn, nhưng đáng trân
trọng, đã được chúng tôi tiếp thu và kế thừa khi nghiên cứ
u đề tài.
3. GIỚI HẠN VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đối tượng khảo sát của luận án là yếu tố thần kì trong truyền
thuyết và truyện cổ tích thần kì của người Việt ở Nam Trung Bộ. Với
đối tượng được xác định như thế, những mục đích nghiên cứu đề tài
như sau: Khảo sát, mô tả những khía cạnh cơ bản của yếu tố thần kì
trong truyền thuy
ết và cổ tích thần kì người Việt ở Nam Trung Bộ.
Từ đó, luận án chỉ ra một số nét riêng về yếu tố thần kì của truyền
thuyết và truyện cổ tích thần kì người Việt ở Nam Trung Bộ so với
yếu tố thần kì của truyền thuyết và truyện cổ tích thần kì người Việt
ở những vùng, miền khác (Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Bộ…). Mục
đích ch
ủ yếu của luận án là góp phần tìm hiểu đặc trưng di sản văn
hoá dân gian Nam Trung Bộ.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi chủ yếu sử dụng ba phương pháp sau để nghiên cứu
đề tài: Phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh và phương pháp
tổng hợp.
5
5. BỐ CỤC LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác
giả, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được chia làm 3 chương:
CHƯƠNG 1: Khái niệm “yếu tố thần kì”, khái quát về tiểu
vùng văn hoá và tổng quan về tư liệu truyện cổ dân gian người Việt ở
Nam Trung Bộ.
CHƯƠNG 2: Yếu tố thần kì trong truyền thuyết người Việt ở
Nam Trung Bộ
.
CHƯƠNG 3: Yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì người
Việt ở Nam Trung Bộ.
CHƯƠNG 1
KHÁI NIỆM “YẾU TỐ THẦN KÌ”,
KHÁI QUÁT VỀ TIỂU VÙNG VĂN HÓA
VÀ TỔNG QUAN VỀ TƯ LIỆU TRUYỆN CỔ DÂN GIAN
NGƯỜI VIỆT Ở NAM TRUNG BỘ
1.1. Khái niệm “yếu tố thần kì”
1.1.1. Ý nghÜa cña kh¸i niÖm "yÕu tè thÇn k×"
Trong khái niệm “yếu tố thần kì”, tính từ “thần kì” có 2 nét
nghĩa chủ yếu: th
ần thánh và kì lạ. Nó gần nghĩa với các tính từ “kì
ảo”, “hoang đường”, “huyền ảo” và đồng nghĩa với các tính từ “kì
diệu”, “thần diệu”, “huyền diệu”. Sự xác định ý nghĩa khái niệm
“yếu tố thần kì” như vậy là tìm đến ý nghĩa gốc của nó, còn thực tế
sử dụng khái niệm này với tính cách là một thuật ngữ khoa học, thì
không phải bao giờ cũng đúng với ý nghĩa gố
c đó, bởi vì sự biểu
hiện của yếu tố thần kì trong văn học là cực kì phong phú, đa dạng
và phức tạp. Lúc thì thiên về tính chất kì ảo – hư ảo – hoang đường –
huyền ảo; khi thì thiên về tính chất kì diệu – thần diệu – huyền diệu.
Tuy nhiên, cho dù có biểu hiện và việc gọi tên các biểu hiện ấy có
6
phong phỳ, a dng, phc tp n mc no chng na, thỡ trong
vn hc dõn gian, nht l trong truyn c dõn gian, nú thng c
gi l yu t thn kỡ.
1.1.2. Nguồn gốc của yếu tố thần kì trong văn học dân gian
Thế giới quan thần linh của ngời nguyên thuỷ là nguồn gốc
(trực tiếp) của yếu tó thần kì trong thần thoại và là nguồn gốc (sâu
xa) của yếu tố thần kì trong tất cả các thể loại văn học dân gian ra đời
sau thần thoại.
1.1.3. Vai trò của yếu tố thần kì trong truyền thuyết và truyện cổ
tích thần kì
Trong truyền thuyết, yếu tố thần kì có vai trò chủ yếu là
huyền ảo hoá các nhân vật và sự kiện lịch sử. Trong truyện cổ tích
thần kì, yếu tố thần kì có vai trò chủ yếu là giải quyết xung đột
truyện.
1.2. Khỏi quỏt v tiu vựng vn hoỏ Nam Trung B
Nam Trung B gm tỏm tnh v thnh ph: Nng, Qung
Nam, Qung Ngói, Bỡnh nh, Phỳ Yờn, Khỏnh Ho, Ninh Thun v
Bỡnh Thun. õy l vựng t cú y m
i yu t ca thiờn nhiờn
Vit Nam gm sụng bin, ng bng v rng nỳi.
Nu tớnh t 1306 nm Ch Mõn dõng t chõu ễ (phớa nam
chõu ễ ngy xa thuc thnh ph Nng ngy nay) v chõu Lớ ca
Chiờm Thnh cho Nh Trn ci Huyn Trõn cụng chỳa n 1693
nm i Vit cú thờm t Bỡnh Thun, thỡ ngi Vit nh c ti
Nam Trung B, sm nht l Nng, ó khong 7 th k, mun
nh
t l Bỡnh Thun, ó khong trờn 3 th k.
Sinh sng vựng t ny, ngoi tc ngi Vit, cũn cú cỏc tc
ngi khỏc nh: Hoa, Gia Rai, ấ ờ, Ba Na, Chm, C Ho, X
ng, Hrờ, Ra Glai, C Tu, Giộ Triờng, Co, Chu RuSau ngy t
7
nước thống nhất, có thêm người Tày, Nùng từ phía Bắc di cư vào.
Người Việt và người Hoa chủ yếu sống ở đồng bằng. Các tộc người
khác chủ yếu sống ở miền núi. Riêng địa bàn cư trú của người Chăm
có đặc biệt hơn. Ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và
Phú Yên dân số người Chăm ít hơn nhiều so với các tộc người khác.
Ngược lại, từ Khánh Hoà
đến các tỉnh cực nam Trung Bộ (Ninh
Thuận, Bình Thuận) dân số người Chăm đông hơn các tộc người
Hoa, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Xơ Đăng…
Nhiều tộc người cùng sinh sống nên đời sống văn hoá nơi đây
bên cạnh sự thống nhất còn có sự đa dạng. Có văn hoá Chăm và văn
hoá các tộc người thiểu số khác mà thành tựu của nó không kém
phần rực rỡ. Người Việt trong mối quan hệ
sâu sắc với các tộc người
anh em, từ vốn văn hoá mang theo nơi đất cội nguồn, cũng đã tạo
nên đời sống văn hoá riêng phong phú, đa dạng và đặc sắc, trong đó,
bộ phận văn hoá dân gian chiếm vị trí khá quan trọng. Văn hoá dân
gian người Việt ở Nam Trung Bộ cũng có đủ các thành tố cơ bản:
nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn và ngữ văn dân gian. Ngữ
văn dân gian người Việt ở vùng đất này gồm các thể loại: truyền
thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, giai thoại, tục
ngữ, câu đố, vè, ca dao, dân ca, kịch bản sân khấu. Nó là tấm gương
phản ánh thiên nhiên, xã hội và đời sống con người Nam Trung Bộ.
Với cách biểu hiện riêng, ngữ văn dân gian người Việt ở vùng đất
này có đầy đủ các đặc trưng cơ bản về thi pháp c
ủa ngữ văn dân gian
Việt Nam.
1.3. Tổng quan về tư liệu truyện cổ dân gian người Việt ở Nam
Trung Bộ
1.3.1. Khái niệm “truyện cổ dân gian”
8
“Truyện cổ dân gian” là khái niệm được dùng để chỉ một bộ
phận của văn học dân gian, bộ phận này gồm tất cả các thể loại thuộc
mảng “văn xuôi” dân gian như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ
tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn và giai thoại. Khái niệm “truyện
cổ tích” từng được sử dụng với hai ý nghĩa chủ yếu: 1) (cũng) để chỉ
một bộ phận của văn học dân gian, trong trường hợp này, khái niệm
“truyện cổ tích” tương đương với khái niệm “truyện cổ dân gian”; 2)
để chỉ truyện cổ tích - một thể loại của bộ phận truyện cổ dân gian
trong văn học dân gian. Để tránh lẫn lộn hai khái niệm, chúng ta chỉ
sử dụng khái niệm “truyện cổ tích” trong trường hợp để chỉ riêng thể
loại truyệ
n cổ tích; sử dụng khái niệm “truyện cổ dân gian” với ý
nghĩa khái quát tất cả các thể loại thuộc mảng “văn xuôi” dân gian
như đã nêu ở trên.
1.3.2. Tổng quan về tư liệu truyện cổ dân gian người Việt ở Nam
Trung Bộ
Nam Trung Bộ không có thần thoại, mảng truyện cổ dân gian
chỉ gồm các thể loại: truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười,
truyện ngụ ngôn và giai thoạ
i.
Truyền thuyết là thể loại có số lượng truyện nhiều nhất. Đa
phần tác phẩm của thể loại này là truyền thuyết địa danh và truyền
thuyết nhân vật. Nội dung phản ánh của truyền thuyết chủ yếu gắn
liền với các sự kiện lịch sử thời kì chống ách Bắc thuộc, thời kì quân
Tây Sơn đánh nhau với quân Nguyễn Ánh, thời kì chống thực dân
ph
ương Tây xâm lược. Đối với thể loại truyện cổ tích, phần lớn số
lượng truyện thuộc về cổ tích thần kì, truyện cổ tích loài vật có số
lượng ít nhất. So với Bắc Trung Bộ và Bắc Bộ, ở Nam Trung Bộ có
rất ít truyện cổ tích mang nội dung phản ánh mâu thuẫn xã hội, khai
thác các tình thế tương phản giữa tốt với xấu, giữa thiện với ác, giữa
9
hạnh phúc với bất hạnh. Trong truyện cổ dân gian người Việt ở Nam
Trung Bộ, truyện cười và truyện ngụ ngôn là hai thể loại có số lượng
truyện ít nhất. Ở thể loại truyện cười, phần lớn tác phẩm thuộc tiểu
loại truyện không kết chuỗi.
CHƯƠNG 2
YẾU TỐ THẦN KÌ
TRONG TRUYỀN THUYẾT NGƯỜI VIỆT
Ở NAM TRUNG BỘ
2.1. Định nghĩa truy
ền thuyết và việc phân loại truyền thuyết
2.1.1. Định nghĩa truyền thuyết
Có nhiều định nghĩa về truyền thuyết. Ở Việt Nam, Kiều Thu
Hoạch là nhà folklore học đưa ra định nghĩa dễ được chấp nhận. Ông
viết: “Truyền thuyết là một chuyện kể truyền miệng, nằm trong loại
hình tự sự dân gian; nội dung cốt truyện của nó là kể lại truyện tích
các nhân vậ
t lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa
phương theo quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến
của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng những
yếu tố hư ảo, thần kì như cổ tích và thần thoại; nó khác cổ tích ở chỗ
không nhằm phản ánh xung đột gia đình, sinh hoạt xã hội và số phận
cá nhân, mà thường phả
n ánh những vấn đề thuộc phạm vi quốc gia,
dân tộc rộng lớn; nó khác thần thoại ở chỗ nhào nặn tự nhiên và xã
hội trên cơ sở sự thật lịch sử cụ thể chứ không phải hoàn toàn trong
trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng”.
Khi khảo sát đề tài luận án này, chủ yếu chúng tôi tiếp thu và
hiểu truyền thuyết theo định nghĩa trên đây của Kiều Thu Hoạch.
2.1.2. Việc phân lo
ại truyền thuyết
Nổi bật lên trong các cách phân loại truyền thuyết là cách phân
loại của tác giả Kiều Thu Hoạch: chia truyền thuyết thành 3 loại lớn:
10
1) Truyền thuyết nhân vật, 2) Truyền thuyết địa danh, 3) Truyền
thuyết phong – vật. Ở mỗi loại lớn lại tuỳ theo đề tài, chức năng của
nội dung truyện kể mà phân chia tiếp thành các tiểu loại.
Quá trình khảo sát yếu tố thần kì trong truyền thuyết người
Việt ở Nam Trung Bộ, chủ yếu, chúng tôi cũng theo quan điểm phân
loại truyền thuyết của Kiều Thu Hoạch.
2.2. Yế
u tố thần kì trong truyền thuyết địa danh
2.2.1. Yếu tố thần kì trong truyền thuyết địa danh tự nhiên
2.2.1.1. HÇu hÕt truyÒn thuyÕt gi¶i thÝch nguån gèc ®Þa danh theo ®Æc
®iÓm tù nhiªn cã yếu tố thần kì dạng hữu hình
Đề cập đến truyền thuyết địa danh tự nhiên là chủ yếu nói về
truyền thuyết giải thích nguồn gốc các địa danh theo đặc điểm tự
nhiên. Trong truyền thuyết địa danh của người Việt ở Nam Trung
Bộ, hầu hế
t tác phẩm mang nội dung giải thích tên gọi địa danh theo
đặc điểm tự nhiên có yếu tố thần kì thuộc dạng hữu hình và được xây
dựng thành hình ảnh trung tâm. Đó là Sự tích đèo Cổ Mã (ngựa
thần), Yêu Xà Thạch (mãng xà, thần nhân), Hắc Xà (rắn thần)…
2.2.1.2. Yếu tố thần kì trong Sự tích Ngũ Hành Sơn – một truyền
thuyết địa danh tự nhiên đặc biệt
ở Nam Trung Bộ
Tác dụng tạo ra niềm tin trong tâm thức người nghe là tính
chất chung của yếu tố thần kì ở mọi truyền thuyết mà Sự tích Ngũ
Hành Sơn có thể được coi là một trong số ít trường hợp vừa tiêu
biểu, lại vừa đặc biệt. Đặc biệt là vì yếu tố thần kì – hình tượng trung
tâm (Long Quân, Tiên Nữ, trứng thần) trong truyền thuyết là do
dân gian vay mượn từ yếu tố
thần kì (Long Quân, Âu Cơ, trứng thần)
ở một truyền thuyết khác – Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhưng cũng
chính yếu tố thần kì được vay mượn ấy lại làm cho Sự tích Ngũ Hành
Sơn vừa thấm đẫm màu sắc thần kì, vừa không tách rời thực tế lịch
11
sử dân tộc, ta có thÓ nãi chắc điều đó vì bao đời nay, nhân dân ta
luôn sâu sắc một niềm
tin rằng, bố Long Quân lấy mẹ Âu Cơ sinh ra
dân tộc Việt Nam.
2.2.2. Yếu tố thần kì trong truyền thuyết địa danh xã hội
2.2.2.1 Yếu tố thần kì thuộc dạng hữu hình
Đáng chú ý đầu tiên là những yếu tố thần kì dạng hữu hình có
vai trò kì diệu hoá - linh thiêng hóa các địa danh. Yếu tố thần kì có
vai trò như thế xuất hiện trong các truyền thuyết tiêu biểu như: Sự
tích đất Gò Nổi (con chim), Thiên Lộ
c Tự - Miếu Bà Sáu (Long
thần)…Dạng yếu tố thần kì tiếp theo là hình ảnh các con vật thần kì
như rắn thần, rái cá…trong các truyền thuyết tiêu biểu: Miếu Xà,
Miếu Bà Trang…Vai trò của các yếu tố thần kì này là huyền ảo hóa
các nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử.
2.2.2.2 Yếu tố thần kì thuộc dạng vô hình
Đáng chú ý nhất là những yếu tố thần kì biểu hi
ện dưới các
hình thức: sự kì lạ, sự linh thiêng; âm binh – âm tướng và bóng ma
có vai trò linh thiêng hoá các địa danh trong các truyền thuyết tiêu
biểu: Mả quan thất trận (sự linh nghiệm), Mộ Ông Khám (sự linh
thiêng), Miếu Phò Giá Đại Vương (âm binh – âm tướng)…Bên
cạnh đó còn có những truyền thuyết mang yếu tố thần kì vô hình giữ
vai trò huyền ảo hoá các nhân vật và sự kiện lịch sử, trong đó có hai
tác phẩm tiêu biểu:
Sự tích cầu Quân Sư (lời tiên tri) và Sự tích địa
danh Cam Ranh (sự linh ứng).
2.3. Yếu tố thần kì trong truyền thuyết phong vật
Phần này chủ yếu khảo sát truyền thuyết phong vật giải thích
nguồn gốc các tục thờ: Thiên Ya Na, ba Cô, Cố Hỉ Phu nhân, ông
Húc, rái cá, cá voi - cá Ông, thần Hổ.
2.3.1. Nữ thần Thiên Ya Na
12
Tip thu huyn thoi Pụ Ino Nogar
của ngời Chăm, ngi
Vit sỏng to ra truyn thuyt Thiờn Ya Na. Ch ging nhau ch yu
gia Pụ Ino Nogar trong truyn thuyt Chm v Thiờn Ya Na trong
truyn thuyt Vit l h u c xõy dng thnh n thn sỏng to
vn hoỏ. Tuy nhiờn gia Pụ Ino Nogar v Thiờn Ya Na cú nhiu nột
rt khỏc nhau. S khỏc nhau biu hin ngay trong tờn gi: Ngi
Chm gi n thn l Poh Nagar Pụ Ino Nogar Pụ Nagar Pụ In
Nagar Pụ Yan In Nga Yanh Pu Negara Muk Juk. Ngi Vit
gi Thiờn Ya Na. V tớnh cht hỡnh tng nhõn v
t, Pụ Ino Nogar
gn vi thn thoi; Thiờn Ya Na gn vi truyn c tớch thn kỡ.
Thiên Ya Na là hiện tợng văn hoá tiêu biểu về sự hỗn dung
văn hoá Chăm - Việt.
2.3.2. C H Phu nhõn, ba Cụ, ụng Hỳc
C H Phu nhõn: Ngi cht oan (thng l cụ gỏi) linh
hn khụng siờu thoỏt hin linh c lp am (miu, n) th l ct
truyn ca mt kiu truyn cú tớnh ph bin trong truyn c dõn gian
m truyn thuyt Tc th C H Phu nhõn l mt trng hp tiờu
biu. Ba Cụ: Tớnh cht thn kỡ trong hỡnh tng ba Cụ ca truyn
thuyt Am th ba Cụ thnh Diờn Khỏnh t
ng i phc tp. n
th ba Cụ l n th thn, nhng nhng chuyn k v ba Cụ nh
trong truyn thuyt Am th ba Cụ thnh Diờn Khỏnh li l chuyn
ma ch khụng phi chuyn thn. Oan hn ba Cụ, lỳc c gi l
thn, khi b gi l ma ging nh trng hp hn ngi cht núi
chung, khi trong cnh th cỳng tụn nghiờm, c gi l cỏc bỏc õm
hn cụ hn, nhng ngoi khung cnh
ú thỡ li gi l ma. ễng
Hỳc: Hỡnh tng ễng Hỳc trong truyn thuyt cựng tờn va cú sc
thỏi nhiờn thn va cú sc thỏi nhõn thn. Nu ễng Hỳc mang ngun
gc nhõn thn thỡ rt cú th ban u thn l mt nhõn vt lch s,
13
danh nhân văn hoá…nào đó ở địa phương, rồi theo biến thiên của
lịch sử, lí lịch vị thần ấy bị thất lạc, nhân dân bèn đặt cho thần một
cái tên mới và thêm vào hình tượng thần những sắc thái mới - sắc
thái nhiên thần để có vẻ cổ xưa hơn, linh thiêng hơn.
2.3.3. Thần Rái, cá voi – cá Ông, thần Hổ
Thần Rái: Những truyện cổ dân gian xuất hiện từ sớm có hình
ảnh rái cá chủ
yếu được lưu truyền ở vùng châu thổ sông Hồng.
“Hành trình” con vật sông nước này từ trung tâm đất cội nguồn “đi
về phương Nam” đã bị “đứt gãy” ở Bắc Trung Bộ. Địa bàn lưu
truyền thứ hai là Nam Trung Bộ và Nam Bộ, hầu hết truyền thuyết
có hình ảnh rái cá đều gắn liền với những năm tháng bôn tẩu của
Nguyễn Ánh. Cá voi - cá Ông: Tục thờ cúng cá voi là một tín
ngưỡng của người Chăm mà lưu dân Việt đã tiếp thu trên đường
Nam tiến. Đây là thực tế khó có thể chối cãi. Song vùng châu thổ
sông Hồng của Việt Nam cũng đã từng tồn tại tục thờ cá - thờ cá voi,
vậy thì, tục thờ cúng cá voi cần phải được xem xét đến tầng sâu
v¨n
ho¸ hơn - từ khi tổ tiên chúng ta còn ở sông Hồng và đương nhiên,
nguồn gốc của con vật thần kì cá voi - cá Ông trong truyền thuyết
người Việt ở Nam Trung Bộ cũng phải được xem xét đến tầng sâu
như thế. Thần Hổ - Ông cọp: Giống như người Việt ở Nam Bộ,
người Việt ở Nam Trung Bộ có cả một chuỗi truyền thuyết về hổ.
Ngược lại, trong truyệ
n cổ dân gian người Việt ở Bắc Trung Bộ,
truyền thuyết phong vật về hổ hầu như vắng bóng. Phải chăng tác
nhân lịch sử đã làm cho tục thờ cá voi ở Bắc Bộ không còn diện mạo
ban đầu cũng đã làm cho hình ảnh con hổ vốn là con vật không có
rừng núi ở vùng miền nào trên đất nước Việt Nam mà không có,
nhưng lại rất ít xuất hiện trong truyện cổ dân gian người Việ
t ở Bắc
Trung Bộ !
14
2.4. Yếu tố thần kì trong truyền thuyết nhân vật
2.4.1. Motip sinh nở thần kì
Motip nhân vật sinh nở thần kì hầu như ít được sử dụng trong
truyền thuyết nhân vật của người Việt ở Nam Trung Bộ. Đây là đặc
điểm của truyền thuyết người Việt ở vùng đất phía nam Tổ quốc.
2.4.2. Motip chiến công phi thường
Giữa hai biểu hiện sức mạnh phi thường tự thân và sự phù tr
ợ
bởi vật thiêng phép lạ của motip chiến công phi thường của nhân vật
anh hùng, trong truyền thuyết nhân vật của người Việt ở Nam Trung
Bộ, chiến công của nhân vật anh hùng chủ yếu là do họ có sức mạnh
phi thường tự thân. Chàng Lía, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn
Lữ, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng, Nguyễn Văn
Tuyết, Cử Dị, Cử Thể là những nhân vật chủ
yếu, tạo nên diện mạo
cho truyền thuyết nhân vật ở miền duyên hải này đều mang sức mạnh
như thế. Đây là một đặc điểm nữa của truyền thuyết người Việt ở
vùng đất phía nam Tổ quốc.
2.4.3. Motip hoá thân
Trong truyền thuyết nhân vật của người Việt ở Nam Trung Bộ
hiếm có những hình ảnh về sự “hoá thân” của nhân vật theo kiểu
Thánh Gióng (Truy
ện Ông Gióng), An Dương Vương (Truyện rùa
vàng), hai Bà Trưng (Trưng Vương). Để bất tử hoá nhân vật anh
hùng, tác giả dân gian đã đề cập đến cái chết của nhân vật theo hai
hướng chủ yếu: miêu tả những cái chết “đẹp” để nhân vật sống mãi
trong “bia miệng” của nhân dân và chết không phải là hết mà là tiếp
tục cuộc chiến đấu trong một dạng thức khác (Đó là cái chết của vua
Nam Chiếu, Bùi Th
ị Xuân, Mai Xuân Thưởng, Bá Hộ Huệ v.v.).
2.5. Về nét riêng của yếu tố thần kì trong truyền thuyết người
Việt ở Nam Trung Bộ
15
Nét riêng của yếu tố thần kì trong truyền thuyết người Việt ở
Nam Trung Bộ có ba biểu hiện chủ yếu: Một: Truyền thuyết người
Việt ở Nam Trung Bộ không có hoặc hiếm có một số yếu tố thần kì
vốn phổ biến trong truyền thuyết người Việt ở vùng châu thổ sông
Hồng (yếu tố thần kì trong các motip của truyền thuyết nhân vật).
Hai: Có một số y
ếu tố thần kì vốn đã có trong truyền thuyết người
Việt ở vùng châu thổ sông Hồng, do biến thiên của lịch sử và sự bồi
lắng các lớp văn hoá làm chúng mất đi, nhưng truyền thuyết người
Việt ở Nam Trung Bộ lại làm chúng “sống lại” (hình ảnh rái cá, cá
voi trong truyền thuyết phong vật). Ba: Trên cơ sở yếu tố thần kì của
truyền thuyết ở đất cội ngu
ồn, dựa vào điều kiện mới về địa lí, lịch
sử và văn hoá của vùng đất mới, nhất là tiếp thu yếu tố thần kì trong
huyền thoại, truyền thuyết của cư dân bản địa, tác giả dân gian sáng
tạo ra những truyền thuyết mới (một số truyện của truyền thuyết địa
danh, truyền thuyết Thiên Ya Na).
CHƯƠNG 3
YẾU TỐ THẦN KÌ
TRONG TRUY
ỆN CỔ TÍCH THẦN KÌ NGƯỜI VIỆT
Ở NAM TRUNG BỘ
3.1. Định nghĩa và phân loại truyện cổ tích
3.1.1. Định nghĩa truyện cổ tích
Theo Chu Xuân Diên, trong hàng loạt định nghĩa về truyện cổ
tích, có mấy nội dung ít nhiều đã có sự thống nhất như sau:
1. Truyện cổ tích đã nảy sinh từ trong xã hội nguyên thuỷ.
Song truyện cổ tích phát triển chủ yếu trong xã hội có giai cấp, nên
chủ đề chủ y
ếu của nó là chủ đề xã hội, phản ánh nhận thức của nhân
dân về cuộc sống xã hội với những xung đột đặc trưng cho các thời
16
kì lịch sử khi đã có chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng, có mâu
thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp.
2. Truyện cổ tích biểu hiện cách nhìn hiện thực của nhân dân
đối với thực tại, đồng thời nói lên những quan điểm đạo đức, những
quan niệm về công lí xã hội và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn
cuộc sống hiện tạ
i.
3. Truyện cổ tích là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú
của nhân dân, và ở một bộ phận chủ yếu, yếu tố tưởng tượng thần kì
tạo nên một đặc trưng nổi bật trong phương thức phản ánh hiện thực
và ước mơ.
Chúng tôi lấy các nội dung định nghĩa truyện cổ tích đã có sự
thống nhất nêu trên làm tiêu chí ®Ó xác định tác phẩm truyện cổ tích
trong kho tư liệu truyện cổ dân gian người Việt ở Nam Trung Bộ khi
khảo sát đề tài luận án.
3.1.2. Việc phân loại truyện cổ tích
Có một số cách phân loại truyện cổ tích khác nhau. Chúng tôi
tán đồng cách phân loại truyện cổ tích gồm ba tiểu loại: 1) Truyện cổ
tích loài vật; 2) Truyện cổ tích thần kì; 3) Truyện cổ tích sinh hoạt.
3.2. Các dạng yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì người
Việt ở Nam Trung Bộ
XÐt theo dạng biểu hiện, yếu tố thần kì trong truyện cổ tích
thần kì gồm d¹ng hữu hình (người, loài vật, đồ vật), d¹ng vô hình
(ma quỷ, câu thần chú – lời nói thần kì). XÐt theo bình diện xã hội,
yếu tố thần kì được phân thành hai tuyến: thiện và ác. Vai trò chủ
yếu của yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì: trợ giúp nhân vật
tuyến thiện, trừng phạt nhân v
ật tuyến ác, giải quyết xung đột truyện.
3.2.1. Yếu tố thần kì dạng vô hình, hữu hình và đặc điểm của nó
3.2.1.1. Yếu tố thần kì dạng vô hình có tỉ lệ rất thấp
17
Trong 25 truyện cổ tích thần kì người Việt ở Nam Trung Bộ
được khảo sát, chúng tôi nhận thấy: nếu xét theo dạng biểu hiện thì
yếu tố thần kì xuất hiện với tần số 50 lần; trong đó dạng vô hình có
5/50 trường hợp (8%); dạng hữu hình có 45/50 trường hợp (92%). So
với tần số xuất hiện của yếu tố thần kì dạng hữu hình, tần số xuất
hiệ
n của yếu tố thần kì dạng vô hình gần như không đáng kể. Khảo
sát yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì người Việt ở Bắc Trung
Bộ và Nam Bộ, chúng ta cũng thấy có hiện tượng tương tự như thế.
3.2.1.2. Sự phong phú, đa dạng của yếu tố thần kì dạng hữu hình
Trước hết là yếu tố thần kì thuộc dạng người xuất hi
ện với tần
số 13/45 lần (28,9%), chẳng hạn, Thổ thần (Một cuộc thi tài), Long
Vương (Ông Dài «ng Cụt), (Ba anh em chôn xác cha), Thần thành
hoàng (Đôi sam biển). Tiếp theo là yếu tố thần kì hữu hình thuộc
dạng loài vật xuất hiện với tần số 9/45 lần (20%), chẳng hạn, hình
ảnh con rùa (Cứu vật vật trả ơn), chàng rắn (Ông Dài «ng Côt), nàng
cá (Hai anh em). Yếu t
ố thần kì hữu hình thuộc dạng đồ vật có tần số
xuất hiện 15/45 lần (33,3%). Đó là cục phép, gậy thần (Chiếc gậy
thần), chiếc nồi thần (Hai anh em), quạt thần (Nàng Út), cây kim
thần (Cây kim thần), cái ấm thần (Cái ấm đất).v.v. Ngoài ra, còn có
một dạng nữa (dạng khác), đó là các hiện tượng tự nhiên như: giếng
nước, hồ nước, hòn
đá và hoa quả có tần số xuất hiện 8 lần (17,8%).
3.2.2. Yếu tố thần kì tuyến thiện, tuyến ác và vai trò của nó
3.2.2.1. Hầu hết yếu tố thần kì thuộc tuyến thiện
Hầu hết yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì người Việt
ở Nam Trung Bộ thuộc tuyến thiện, chỉ có một trường hợp thuộc
tuyến ác. Đó là mụ Phù thuỷ trong truyện Ba anh em chôn xác cha.
Đ
iều này thể hiện đúng đặc điểm của truyện cổ tích thần kì Việt Nam
là yếu tố thần kì ở tuyến ác có số lượng không nhiều. Tìm hiểu yếu
18
tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì người Việt ở Bắc Trung Bộ và
Nam Bộ, chúng ta cũng thấy có hiện tượng tương tự như thế.
3.2.2.2. Yếu tố thần kì có vai trò trợ giúp nhân vật tuyến thiện
Trong tài liệu chúng tôi sử dụng, 100% tác phẩm cổ tích thần
kì có yếu tố thần kì mang vai trò trợ giúp nhân vật tuyến thiện. Trước
hết, vai trò ấy được biểu hiện trong những yếu t
ố thần kì dạng vô
hình: phép biến hoá và lời nói thần kì (Chiếc gậy thần, Lấy chồng dê,
Cái lưỡi chết biết nói…). Tiếp theo là sự trợ giúp nhân vật tuyến
thiện của yếu tố thần kì hữu hình dạng người. Đó là Thổ thần (Một
cuộc thi tài), ông Tiên (Sự tích con ếch), (Sự tích cây mít và cây bí
đỏ), Ngọc Hoàng (Nàng Út). Sự trợ giúp nhân vật tuyến thiện củ
a
yếu tố thần kì hữu hình dạng loài vật (Cứu vật vật trả ơn), (Lòng
người khó đo). Có lẽ diễn ra sinh động nhất là sự trợ giúp của yếu tố
thần kì hữu hình dạng đồ vật dành cho nhân vật tuyến thiện (Chiếc
gậy thần, Cái ấm đất, Anh gánh than lấy nàng công chúa).
3.2.2.3. Yếu tố thần kì có vai trò trừng phạt nhân vật tuyế
n ác
Đây là yếu tố thần kì trừng phạt nhân vật tuyến ác nhưng
không phải là nhân vật trung tâm truyện (Chiếc gậy thần, Nàng Út,
Sự tích Bàu Hương, Ba anh em chôn xác cha).
3.2.2.4. Những truyện có kết cấu tương phản thể hiện tập trung nhất
vai trò của yếu tố thần kì
Đây là yếu tố thần kì trực tiếp trừng phạt nhân vật tuyến ác là
nhân vật trung tâm truyện. Yếu tố thầ
n kì có vai trò như thế trong
những truyện tiêu biểu: Hai anh em, Cây kim thần, Hai chị em, Hố
vàng hố bạc Các truyện nêu trên có kết cấu giống nhau. Đó là kết
cấu hai phần tương phản thông qua yếu tố thần kì: Phần thứ nhất
kể chuyện nhân vật tuyến thiện nghèo khổ, bất hạnh. Phần thứ hai kể
chuyện nhân vật tuyến ác. Nhờ sự trợ giúp của yếu tố
thần kì, nhân
19
vật tuyến thiện thay đổi số phận. Ở phần thứ hai, nhân vật tuyến ác
lại chiếm đoạt yếu tố thần kì đã làm thay đổi số phận nhân vật tuyến
thiện. Đây là chỗ xung đột truyện phát triển đến đỉnh điểm. Tác giả
dân gian đã giải quyết xung đột bằng cách để cho yếu tố thần kì
trừng phạt chúng. Với cách giả
i quyết xung đột như vậy, truyện cổ
tích thần kì đã biểu hiện niềm tin vào triết lí cao đẹp và ước mơ công
lí của nhân dân.
3.3. Việc nghiên cứu yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì
người Việt ở Nam Trung Bộ theo lí thuyết hình thái học truyện
cổ tích của Propp
3.3.1. Sơ lược về lí thuyết hình thái học truyện cổ tích của Propp
Lí thuyết của Valadimir Iakovlevits Propp – nhà khoa lỗi lạc
Xô viết (1895 – 1970) trình bày trong công trình n
ổi tiếng: Hình thái
học truyện cổ tích xuất bản lần đầu năm 1928. Propp cho biết, kho tư
liệu về truyện cổ tích ông dùng khảo sát cho thấy cấu tạo cốt truyện
gồm 31 chức năng do hành động nhân vật tạo nên. Mỗi chức năng
gồm nhiều nhóm. Riêng chức năng 14: Sự có được phương tiện thần
kì gồm 9 nhóm: Z
1
, Z
2
, Z
3
, Z
4
, Z
5
, Z
6
, Z
7
, Z
8
, Z
9
.
3.3.2. Kết quả khảo sát yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì
người Việt theo lí thuyết hình thái học truyện cổ tích của Propp
trong các công trình nghiên cứu truyện cổ tích ở Việt Nam
Trong công trình Nghiên cứu kết cấu truyện cổ tích thần kì
Việt theo lí thuyết hình thái học của Vladimia Iacoplevich Prop, Trần
Đức Ngôn cho biết: cÊu t¹o cèt truyện cña cổ tích thần kì người Việt,
chức năng 14 xuất hiện các nhóm: Z
1
, Z
2
, Z
6
, Z
7
, Z
8
. Tài liệu cổ tích
thần kì Việt cũng cho thấy nhóm biệt loại không có trong bảng kê
của Propp. Đó là trường hợp nhân vật được tặng những phương tiện
không thần kì (chủ yếu là vàng), kí hiệu Z
0
. Ở công trình Cổ tích
20
thần kì người Việt, đặc điểm cấu tạo cốt truyện, Tăng Kim Ngân cho
biết: cÊu t¹o cèt cña truyện cổ tích thần kì người Việt, ë chức năng
14 xuất hiện các nhóm: Z
1
, Z
2
, Z
4
, Z
5
, Z
6
, Z
7
, Z
8
, Z
9
; ngoµi ra cßn có
nhóm biệt loại và kí hiệu Z
v
. Nội dung của nhóm này là: bản thân
nhân vật chính có phương tiện thần kì (sức khoẻ, phép màu) từ trước
chứ không phải trải qua sự thử thách của người cho mới có được.
3.3.3. Khảo sát yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì người
Việt ở Nam Trung Bộ theo lí thuyết hình thái học truyện cổ tích
của Propp
3.3.3.1. Cách tiến hành, kết quả khảo sát và một vài nhận xét chung
Khảo sát 20 truyện cổ tích thần kì ngườ
i Việt ở Nam Trung
Bộ, chúng tôi có kết quả: chức năng số 14 gồm 8 nhóm với tần số
xuất hiện 28 lần, cụ thể: Z
1
: 11 lần/8 truyện; Z
2
: 4 lần/4 truyện; Z
4
: 1
lần; Z
5
: 3 lần/3 truyện; Z
6
: 3 lần/3 truyện; Z
7
: 1 lần; Z
8
: 1 lần; Z
9
: 1
lần; cổ tích thần kì người Việt Nam Trung Bộ cũng có nhóm biệt loại
Z
0
, Z
v
. Ngoài ra còn có nhóm biệt loại Z
y
. Nội dung nhóm này:
những sự vật, hiện tượng gắn bó với nhân vật chính, của nhân vật
chính (quần áo, mũ nón, lời nói) tự thân có tính chất thần kì.
Giữa kết quả khảo sát của chúng tôi và kết quả nghiên cứu của
hai tác giả Trần Đức Ngôn, Tăng Kim Ngân giống nhau ở chỗ đều
không có sự xuất hiện của nhóm Z
3
: Phương tiện thần kì được nhân
vật chế tạo. Sự vắng mặt nhóm Z
3
là một dấu hiệu về cái riêng của cổ
tích thần kì người Việt trong cái chung của cổ tích thần kì thế giới.
Yếu tố thần kì trong tài liệu A (của Tăng Kim Ngân) vắng bóng
nhóm Z
y
, nhưng nó lại có mặt trong tài liệu B (Nam Trung Bộ) là
biểu hiện sự tồn tại đa dạng trong thống nhất của yếu tố thần kì trong
cổ tích thần kì người Việt.
21
3.3.3.2. Khảo sát yếu tố thần kì trong một số truyện cụ thể, theo lí
thuyết hình thái học truyện cổ tích của Propp
Sự tích Bàu Hương: phương tiện thần kì xuất hiện hai lần và
trong hai lần xuất hiện, các phương tiện thần kì cùng một nhóm, đó
là nhóm Z
1
. Cứu vật vật trả ơn: phương tiện thần kì không cùng
nhóm xuất hiện hai lần. Đó là nhóm Z
4
và nhóm Z
1
. Chiếc gậy thần:
phương tiện thần kì xuất hiện ba lần và trong các lần xuất hiện,
phương tiện thần kì thuộc các nhóm khác nhau: Z
v
, Z
2
, Z
8
. Ba anh
em chôn xác cha: phương tiện thần kì xuất hiện bốn lần, trong đó có
hai lần thuộc nhóm Z
1
, một lần thuộc nhóm Z
2
và một lần thuộc
nhóm Z
7
. Đây là truyện có phương tiện thần kì xuất hiện phức tạp, kì
lạ. Cái lưỡi chết biết nói, Anh bán than lấy nàng công chúa: phương
tiện thần kì xuất hiện thuộc nhóm biệt loại Z
y
.
3.4. Về nét riêng của yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì
người Việt ở Nam Trung Bộ
Truyền cổ tích thần kì người Việt ở Nam Trung Bộ không có
hình ảnh ông Bụt (khác với truyện cổ tích thần kì người Việt ở B¾c
Bé vµ Bắc Trung Bộ). Một số truyện mang yếu tố thần kì trực tiếp
trừng phạt nhân vật tuyến ác nhưng không phải là nhân vật trung tâm
truy
ện đã mang lại cho truyện cổ tích thần kì người Việt ở vùng đất
này một tỉ lệ truyện nhất định có kết cấu lỏng lẻo (Sự tích Bàu
Hương, Chiếc gậy thần, Ba anh em chôn xác cha…). Theo lí thuyết
hình thái học truyện cổ tích của Propp, truyện cổ tích thần kì người
Việt ở Nam Trung Bộ xuất hiện nhóm phương tiện thần kì biệt loại
Z
y
(khác với truyện cổ tích thần kì nói chung). Trong số truyện có
yếu tố thần kì trừng phạt nhân vật tuyến ác là nhân vật trung tâm tác
phẩm mang kết cấu tương phản có 75% truyện mang nội dung phản
ánh xung đột gia đình (anh chị em ruột với nhau) (khác với truyện cổ
22
tích thần kì người Việt ở Bắc Trung Bộ và Nam Bộ). Đó là những
biểu hiện chủ yếu về nét riêng của yếu tố thần kì trong truyện cổ tích
thần kì người Việt ở Nam Trung Bộ so với yếu tố thần kì của truyện
cổ tích thần kì cả nước.
KẾT LUẬN
1. Trong truyền thuyết người Việt ở Nam Trung Bộ, hầu hết
yế
u tố thần kì của truyền thuyết địa danh tự nhiên được xây dựng
thành hình ảnh trung tâm và có vai trò chủ yếu là linh thiêng hoá các
địa danh. Yếu tố thần kì trong truyền thuyết phong vật phản ánh đời
sống tâm linh – tín ngưỡng của người Việt ở Nam Trung Bộ. Trong
truyền thuyết nhân vật, motip sinh nở thần kì hầu như ít được sử
dụng; chiến công của nhân vật anh hùng chủ yếu là do họ có sức
mạnh phi thường tự
thân; hiếm có những hình ảnh về sự hoá thân
theo kiểu nhân vật Thánh Gióng, An Dương Vương, Bà
Trưng…trong truyền thuyết người Việt ở Bắc Trung Bộ; đặc biệt,
khi sử dụng motip hoá thân để xây dựng hình tượng nhân vật, tác giả
dân gian Nam Trung Bộ chưa chú ý đến tính nhất quán của nó…
Thiên nhiên, lịch sử và văn hoá Nam Trung Bộ đã tác động,
quy định nét riêng cho yếu tố thần kì của truyền thuyết người Việt ở
Nam Trung Bộ so với yếu tố thần kì trong truyền thuyết người Việt
cả nước rất rõ. Nét riêng của yếu tố thần kì trong truyền thuyết người
Việt ở Nam Trung Bộ dễ làm cho chúng ta đi tới nhận định: so với
truyện cổ tích thần kì, truyền thuyết người Việt có nhiều biến đổi
hơn, khi được sáng tác và lưu truyền trên vùng đất phía nam Tổ
quốc. Sự biến
đổi của truyền thuyết người Việt ở Nam Trung Bộ
giúp chúng ta có thêm bằng chứng cụ thể, sinh động về sự đa dạng
của văn hoá dân gian – bộ phận nền tảng của văn hoá Việt Nam. Đặc
biệt, có không ít yếu tố thần kì trong truyền thuyết người Việt ở Nam
23
Trung Bộ, nếu so sánh với yếu tố thần kì trong truyền thuyết người
Việt ở Bắc Trung Bộ và Bắc Bộ thì chúng bộc lộ rõ nét khác biệt;
ngược lại, nếu so sánh với yếu tố thần kì trong truyền thuyết người
Việt ở Nam Bộ thì chúng cũng bộc lộ rõ điểm tương đồng. Đây là sự
minh chứng cụ thể và sinh động về vai trò “trung chuyển” của truyề
n
thuyết người Việt ở Nam Trung Bộ đối với quá trình chuyển di từ
Bắc vào Nam của truyền thuyết người Việt. Vai trò ấy của truyền
thuyết người Việt ở Nam Trung Bộ là một trong những minh chứng
tiêu biểu về vai trò “trung chuyển” của văn hoá dân gian người Việt
ở vùng duyên hải này đối với quá trình chuyển di từ Bắc vào Nam
của văn hoá dân gian người Việt nói chung.
2. Trong truyện cổ tích thần kì ng
ười Việt ở Nam Trung Bộ,
tần số xuất hiện của yếu tố thần kì dạng hữu hình rất cao (92%);
ngược lại, tần số xuất hiện của yếu tố thần kì dạng vô hình rất thấp
(8%); hầu hết yếu tố thần kì thuộc tuyến thiện. Vai trò chủ yếu của
yếu tố thần kì là trợ giúp nhân vật tuyến thiện, trừng phạt nhân vậ
t
tuyến ác và giải quyết xung đột truyện. Theo lí thuyết hình thái học
truyện cổ tích của Propp, yếu tố thần kì của truyện cổ tích thần kì
người Việt Nam Trung Bộ xuất hiện ở chức năng số 14 trong cấu tạo
cốt truyện: Phương tiện thần kì được nhân vật chính sử dụng gồm 8
nhóm: Z
1
, Z
2
, Z
4
, Z
5
, Z
6
, Z
7
, Z
8
, Z
9
. Ngoài ra, còn có nhóm biệt loại
Z
0
(Trần Đức Ngôn), Z
v
(Tăng Kim Ngân), Z
y
(kết quả khảo sát của
chúng tôi).
Giữa yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì người Việt ở
Nam Trung Bộ và yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì người
Việt ở Bắc Trung Bộ và Nam Bộ vừa có nét tương đồng, vừa có
điểm khác biệt; vµ ®iÓm t−¬ng ®ång lµ chñ yÕu. Điều này cho thấy
tính ổn định của truyện cổ tích thần kì người Việt, khi nã
được