Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

BÀI TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.27 KB, 22 trang )

MẬ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

----------

BÀI TIỂU LUẬN
Môn học: Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam
Đề tài : Vai trò Nguyễn Ái Quốc trong việc thành
lập Đảng và Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Ý
nghĩa lịch sử sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

ĐÀ NẴNG, THÁNG 5 NĂM 2018


MỤC LỤC
 Mở đầu...............................................................................................1
 Nội dung............................................................................................2

Phần thứ nhất: Vai trò Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng
cộng sản Việt Nam..........................................................................2

Phần thứ hai: Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt
Nam...............................................................................................14

Phần thứ ba: Ý nghĩa lịch sử sự ra đời của Đảng cộng sản Việt
Nam và cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng..........................19




Kết luận...........................................................................................21

 Tài liệu tham khảo...........................................................................22


MỞ ĐẦU
Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là tấm gương sáng
về tinh thần cách mạng, chí khí kiên cường bất khuất, toàn tâm toàn ý phục vụ
Đảng, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, tận tụy hy sinh suốt đời phấn
đấu vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng loài
người, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội cộng sản. Muốn cách mạng thành
công thì điều kiện không thề thiếu là phải có một chính đảng vững mạnh lãnh
đạo. Hiều được sự bức thiết phải thành lập một chính đảng để phục vụ việc
giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của mình đã chuần bị rất
chu đáo về tư tường chính trị và tồ chức và đến ngày 3-2-1930, đánh dấu mộỉ
bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp chống thực dân Pháp của nhân dân ta,
đó là việc thành lập Đảng cộngsản Việt Nam, mở ra một trang sử mới đầy vẻ
vang của dân tộc Việt Nam. Trong đó vai trò to lớn nhất thuộc về Nguyễn Ái
Quốc, Người là cha đẻ của Đảng ta, là tượng trưngcủa sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa ý tưởng độc lập, tự do với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa; giữa chủ
nghĩa yêu nước nồng nàn với quốc tế vô sản. Người đã tiếp thu phát huy tốt
đẹp nhất truyền thống của dân tộc Việt Nam và kết hợp những truyền thống
ấy với tư tưởng cách mạng triệt đề của thời đại ngày nay, tư tưởng chủ nghĩa
Mác - Lênin. Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và rèn luyện Đảng
ta thành một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân. Nguyễn Ái
Quốc có vai trò rất lớn đối với việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người đã chuẩn bị đầy đủ và thành công về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho
việc thành lập Đảng. Qua quá trình chuẩn bị ấy đã thể hiện sự vận dụng đúng

đắn, sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh Việt Nam...
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu thời đại mới trong lịch sử nước
ta, thời đại giai cấp công nhân và Đảng tiên phong của nó đứng vị trí trung
tâm, kết hợp với phong trào yêu nước và cách mạng, quyết định nội dung,
phương hướng phát triển của xã hội Việt Nam. Đây là thời đại nhân dân việt
Nam không chỉ làm nên lịch sử vẻ vang của mình, mà còn góp phần vào sự
nghiệp chung của các dân tộc bị áp bức là xóa bỏ hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc, giành độc lập, dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội.


Bài tiểu luận của nhóm chúng em về vấn đề “Vai trò Nguyễn Ái Quốc
trong việc thành lập Đảng và Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Ý nghĩa lịch sử
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng” trình bày những vai trò quan trọng của Nguyễn Ái Quốc trong việc
thành lập Đảng và cương lĩnh đầu tiên của Đảng được thông qua trong hội
nghị hợp nhất đã định hướng cho các hoạt động của Đảng trong thời kỳ mới
thành lập. Do thời gian và kiến thức có hạn nên bài tiểu luận của nhóm không
thể tránh khỏi thiếu sót, nên chúng em mong thầy thông cảm và bỏ qua cho
nhóm.

Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy!


NỘI DUNG
Phần thứ nhất
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của đảng cộng sản việt nam

1.1. Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
a) Sự chuyển biến của CNTB và hậu quả của nó
 Cuối thế kỷ XIX, CNTB đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai
đoạn độc quyền (CNĐQ). Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách xâm
lược và áp bức các dân tộc thuộc địa.
 Hậu quả của chiến tranh xâm lược của CNĐQ: mâu thuẫn giữa các dân
tộc bị áp bức với CNĐQ ngày càng tăng, phong trào đấu tranh chống xâm lược
diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
b) Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin
 Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản, được Mác xây
dựng và Lênin phát triển trở thành Chủ Nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác Lênin chỉ rõ muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân
phải tổ chức ra Đảng cộng sản, phải trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng.
 Chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam thúc đẩy phong trào
yêu nước và phong trào công nhân phát triển theo khuynh hướng cách mạng vô
sản, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Hồ Chí Minh là
người vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ ngĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng ta.
c) Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản
 Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công mở đầu thời đại mới
“ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”: chủ nghĩa
Mác-Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động các nước và là một động lực
thúc đẩy sự ra đời của các Đảng Cộng sản như:
- Đảng Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản Hunggari
(1918)
- Đảng Cộng sản Mỹ
(1919)
- Đảng Cộng sản Anh, Đảng Cộng sản Pháp
(1920)
- Đảng Cộng sản Trung quốc và Đảng Cộng sản Mông cổ (1921)
- Đảng Cộng sản Nhật Bản

(1922)
 Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập có ý nghĩa
thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tại


đại hội II của Quốc Tế Công Sản năm 1920 Lênin đã công bố sơ thảo lần thứ
nhất “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa”, chính nhờ tiếp xúc với luận
cương này mà Nguyễn Aí Quốc đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, đánh
dấu mốc mới trên hành trình tìm đường cứu nước.
 Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Hoàn cảnh trong nước
a. Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân pháp
Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, sau khi tạm thời dập
tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, từng bước thiết lập bộ máy
thống trị. Thực dân Pháp thực hiện các chính sách sau đây:
* Về chính trị: Thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền
lực đối nội và đối ngoại của nhà Nguyễn, chia Việt Nam ra làm 3 xứ Bắc
kỳ,Trung kỳ, Nam kỳ với 3 chế độ cai trị riêng (Nam kỳ thuộc địa, Trung kỳ tự
trị, Bắc kỳ bảo hộ). Đồng thời cấu kết với giai cấp địa chủ và tư sản mại bản
trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân ta.
* Về kinh tế: Thực dân Pháp ra sức bóc lột về kinh tế như cướp đoạt ruộng đất lập
đồn điền, đầu tư khai thác tài nguyên thiên nhiên, xây dựng đường giao thông, bến
cảng phục vụ cho khai thác thuộc địa. Những chính sách đó tạo nên sự chuyển biến
nền kinh tế và cơ cấu giai cấp xã hội của Việt Nam, mặc dù có sự chuyển biến về
cơ cấu kinh tế song nhìn chung kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế nghèo nàn,
lạc hậu què quặt và lệ thuộc chặt hoàn toàn vào thực dân Pháp.
* Về văn hóa: Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa, giáo dục thực dân,
ngu dân, duy trì các hủ tục lạc hậu, đầu độc nhân dân ta bằng thuốc phiện, rượu
cồn, tuyệt đại đa số dân ta mù chữ.

- Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam:
Giai cấp địa chủ, chủ yếu làm tay sai, một bộ phận có lòng yêu nước, căm ghét
chế độ thực dân, đã tham gia đấu tranh chống pháp với các hình thức mức độ
khác nhau (sau khi có Đảng ra đời họ trở thành địa chủ kháng chiến).
Giai cấp nông dân, là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực
dân, phong kiến áp bức bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng đã làm
cho họ tăng thêm lòng căm thù và ý chí đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền
sống tự do. Khi có Đảng lãnh đạo giai cấp nông dân là giai cấp có tinh thần cách
mạng sau công nhân, là đồng minh chiến lược tin cậy của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân, ra đời từ khai thác thuộc địa lần thứ nhất và lần thứ hai của
thực dân Pháp, tuy số lượng còn ít, học vấn thấp nhưng bị 3 tầng áp bức, lại sớm
giác ngộ Chủ Nghĩa Mác - Lê Nin, sớm có Đảng lãnh đạo đã nhanh chóng trở
thành lực lượng chính trị tự giác, thống nhất khắp Bắc, Trung, Nam.
Giai cấp tư sản Việt Nam, bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp, tư
sản kiêm địa chủ. Giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé và yếu ớt về kinh tế và chính
trị, lại bị phân hóa thành bộ phận tư sản mại bản tay sai thực dân pháp và bộ phận
tư sản dân tộc, có tinh thần dân tộc. Khi có Đảng ra đời trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân tư sản dân tộc trở thành lực lượng cách mạng.


Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam, bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những
người làm nghề tự do, trong đó học sinh, trí thức là bộ phận quan trọng. Đời
sống của tiểu tư sản Việt Nam bếp bênh dễ bị phá sản trở thành vô sản. Tiểu tư
sản Việt Nam có lòng yêu nước, căm thù đế quốc thực dân, họ thức thời, nhạy
cảm với thời cuộc, lại chịu ảnh hưởng những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài
truyền vào, đây là lực lượng có tinhh thần cách mạng cao. Khi có Đảng lãnh
đạo, được sự cổ vũ của phong trào cách mạng của công nông, họ tham gia cách
mạng ngày càng đông và đóng vai trò quan trọng ở các đô thị.
b) Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX

Các phong trào yêu nước trước khi có Đảng đến đầu thế kỷ XX chia thành mấy
nhóm chính sau:
 Yêu nước theo ý thức hệ phong kiến (bảo vệ chế độ phong kiến): Phong
trào Cần vương (1885-1896). Ngày 13/7/1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần
vương cứu quốc. Ngày 01/11/1888, Duy Tân bị bắt và bị đi đày ở Châu Phi, năm
1945 Duy Tân muốn trở về nước nhưng bị mất do tai nạn máy bay.
 Yêu nước của nông dân: Khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913), năm 1884 Đề
Thám khởi nghĩa ở Bắc Giang. Đến năm 1913, khởi nghĩa thất bại.
 Yêu nước của các sĩ phu phong kiến nhưng mang tư tưởng dân chủ tư sản
(Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…).
 Xu hướng yêu nước của thanh niên, trí thức tiểu tư sản (Việt Nam Quốc
dân đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo).
 Yêu nước theo lập trường quốc gia tư sản của Việt Nam quốc dân đảng,
tiêu biểu như khởi nghĩa Yên Bái ngày 9/2/1930.
* Tất cả các phong trào yêu nước này thể hiện tinh thần dân tộc rất cao nhưng
đều thất bại. Do những nguyên nhân sau:
- Thiếu cương lĩnh chính trị đúng đắn để hướng vào giải quyết những mâu
thuẫn cơ bản của xã hội.
- Thiếu lực lượng (chỉ tập hợp được một bộ phận) trong khi lực lượng của
Pháp rất mạnh.
- Sự khác nhau về chất của hai phương thức sản xuất xã hội: phương thức
sản xuất phong kiến lạc hậu và phương thức sản xuất tư bản hiện đại.
- Thiếu hình thức và phương pháp đấu tranh phù hợp.
- Thiếu tổ chức lãnh đạo, thiếu một đảng chính trị đủ mạnh để lãnh đạo
quần chúng đấu tranh giành thắng lợi.
=>Phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đứng trước bế tắc, khủng hoảng, không
tìm đượclời giải cho hướng đi của phong trào.
2. Vai trò Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1. Vai trò Nguyễn Ái Quốc đối với sự phát triển của phong trào yêu
nước theo khuynh hướng vô sản

 Từ 1911 – 1920: Tìm con đường đấu tranh giải phóng dân tộc.


 Năm 1911 Người ra đi tìm đường cứu nước. Người tìm hiểu kỹ các cuộc
cách mạng điển hình trên thế giới: Cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp
(1789)… Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và các quyền con
người mà các cuộc cách mạng đó mang lại nhưng cũng nhận thức rõ những hạn
chế của các cuộc cách mạng đó. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường
Cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân.
 Nghiên cứu cách mạng Tháng Mười Nga 1917 và rút ra kết luận: “Trong
thế giới bây giờ chỉ có Cách mệnh Nga là thành công đến nơi, nghĩa là dân
chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.
 Năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, gửi yêu sách tới Hội nghị
Vécxây và lấy tên Nguyễn Ái Quốc vào 18/6/1919. Bản yêu sách này là tín hiệu
đầu tiên thức tỉnh dân tộc thuộc địa, là phát pháo hiệu trên bầu trời đen tối ở
Đông Dương.
 Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân Đạo.
Và người tìm thấy lời giải đáp cho con đường giải phóng dân tộc Việt Nam.
Người đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin.
 Tháng 12 – 1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc
tế Cộng Sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp – từ một người yêu
nước, Người trở thành chiến sĩ cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng
đắn. “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con
đường cách mạng vô sản”.
Nguyễn Ái Quốc đã tự tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, chân
chính chứ không cầu ngoại viện như một số nhà cách mạng trước đó –Con
đường đó là “Giải phóng dân tộc-giải phóng giai cấp-giải phóng con ngườigiải phóng xã hội”
 Từ 1921 – 1930, Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện cần thiết về
chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt

Nam.
 Năm 1923, Người ở Pari, hoạt động trong Ban Chấp Hành Trung Ương
Đảng Cộng sản Pháp, phụ trách ban thuộc địa nên có điều kiện để liên lạc với
lãnh đạo các thuộc địa. Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt
Nam thông qua những bài viết đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời
sống công nhân. Thời gian này Người chuẩn bị tư liệu để viết Bản án chế độ thực
dân Pháp (xuất bản năm 1925) nhằm vạch trần âm mưu và thủ đoạn của chủ
nghĩa đế quốc che dấu tội ác dưới cái vỏ bọc “khai hoá văn minh”, từ đó khơi dậy
tinh thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân Pháp
xâm lược.
 14/6/1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp sang Liên Xô để tham dự Đại hội V
Quốc tế Cộng sản và tìm hiểu về Liên Xô và Cách mạng Tháng Mười. Đây là bước
ngoặt quan trọng để mở rộng tầm nhìn và quan hệ của cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới (Lênin mất ngày 21/1/1924 nên Đại hội V hoãn sang năm 1925).


 Năm 1924, Người gửi Báo cáo tình hình Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ tới
Quốc tế Cộng sản và đã gây nên tiếng vang lớn trong giới nghiên cứu.
 Tại Đại hội V, Nguyễn Ái Quốc đọc tham luận - Người là đại biểu đầu
tiên của các nước thuộc địa. Người được cử vào Ban phương Đông, phụ trách
Cục phương Nam.
 Cuối 1924, Người rời Liên Xô về Quảng Châu (thủ phủ của cách mạng
Trung Quốc, cách mạng châu Á - được xem là Matxcơva của phương Đông)
nhưng không gặp được Tôn Trung Sơn (đi Bắc Kinh và mất năm 1925).
 Năm 1927 thành lập Hội VNCM thanh niên, mở lớp huấn luyện chính trị
và viết tác phẩm “Đường cách mệnh”. Cũng năm này Người rời Quảng Châu về
Matxcơva vì ở Quảng Châu xảy ra sự kiện Công xã Quảng Châu do Tưởng Giới
Thạch cầm đầu.
 Cuối năm 1927, Người sang Brucxen (Bỉ) dự Đại hội Hoà Bình Quốc tế
và gặp nhà cách mạng Ấn Độ Neru (Neru gọi Hồ Chí Minh là hiện thân của lịch

sử Châu Á), sau đó về Pháp ít ngày, qua Ý và về Châu Á (bằng tàu thuỷ).
 Năm 1929, ở Việt Nam xuất hiện các tổ chức Cộng sản và Người đã về
Hương Cảng chuẩn bị thành lập Đảng.
Toàn bộ lộ trình này người đã chuẩn bị như sau:
-Chuẩn bị về lý luận, tư tưởng: truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào
công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam.
Người tuyên truyền lý luận về Chủ nghĩa xã hội, về cách mạng Xã hội chủ
nghĩa, sự thay thế nhau giữa các hình thái kinh tế-xã hội, giác ngộ vai trò của
quần chúng nhân dân trong lịch sử cũng như trong các cuộc cách mạng; xác lập,
phân tích và làm rõ động lực thúc đẩy cách mạng phát triển: lực lượng sản xuất,
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, cách mạng thuộc địa. Người nhấn mạnh
tính chủ động của phong trào cách mạng thuộc địa và tinh thần tự lực tự cường
dân tộc; lý luận về phương pháp đấu tranh cách mạng, về nhà nước, về vai trò
của Đảng chính trị.
-Chuẩn bị về chính trị (được xem là quá trình hình thành những quan điểm
chính trị trong Cương lĩnh của Đảng):
+Giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải
phóng con người và khẳng định sự nghiệp giải phóng này là sứ mệnh của giai
cấp vô sản. Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp được Người ví như hai cánh
con chim.
+Xác định đối tượng của đấu tranh cách mạng: đánh đổ chủ nghĩa đế quốc
thực dân và phong kiến tay sai, hướng vào giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản là
mau thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp.
+Xác định các chặng đường, bước đi của cách mạng: giành độc lập và những
quyền sống của con người đi đến mục tiêu cao hơn là giải phóng toàn diện con
người.
+Lực lượng tiến hành công cuộc giải phóng là toàn thể dân tộc.


+Xác định quan hệ giữa Cách mạng vô sản ở thuộc địa và Cách mạng vô sản

ở chính quốc, Cách mạng An Nam với cách mạng toàn thế giới. Phải đề cao vấn
đề dân tộc, không cường điệu Đấu tranh giai cấp.
-Chuẩn bị về tổ chức cán bộ: cải tổ Tâm Tâm xã, đưa người sang học ở Liên
Xô, mở lớp huấn luyện ở Quảng Châu, ra tờ Thanh Niên, đào tạo một đội ngũ
cán bộ cí bản lĩnh (Hồ Tùng Mậu) thay Người dẫn dắt hoạt động của Hội thanh
niên cách mạng. Sự phát triển này đến độ chín đã đặt ra nhu cầu thành lập Đảng
Cộng sản và chi bộ Cộng sản đầu tiên đã ra đời ở Hà Nội năm 1929.
=>Nguyễn Ái Quốc đã có vai trò to lớn trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
2.2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
*Bối cảnh
-Trong nước
+Tình hình đầu thế kỉ XX hết sức biến động, đặc biệt sau Thế chiến thứ 1,
Pháp là quốc gia thắng trận nhưng kinh tế gần như bị sụp đổ, để khôi phục nền
kinh tế Pháp ra sức ra tăng bóc lột các quốc gia thuộc địa để làm giàu cho chính
quốc.
+Các phong trào cứu quốc trong nước đã chuyển từ giai cấp phong kiến sang
giai cấp tư sản, hàng loạt các tổ chức chính trị bí mật ra đời. Nhiều tờ báo có chủ
trương cứu quốc cũng được thành lập tại khắp cả nước.
+Đầu năm 1930 cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại dẫn tới sự sụp đổ của Việt
Nam Quốc Dân Đảng. Đồng thời đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của phong trào
yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam.
Tổ chức Cộng sản
+Trước năm 1929 tổ chức Cộng sản đầu tiên là Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên được thành lập tại Trung Quốc, tuyên truyền quảng bá con đường
đấu tranh trong nước đồng thời truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê. Nhưng tới đầu năm
1929 các đảng viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phân rã một cách
sâu sắc về đường lối chính trị.
+Ngày 1/5/1929, Đại hội toàn quốc Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
họp ở Hương Cảng, đoàn đại biểu Bắc Kỳ do đại biểu Ngô Gia Tự ra đề nghị

giải tán Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, thành lập Đông Dương Cộng sản
Đảng. Đề nghị đó không được Đại hội chấp nhận nên đoàn đại biểu Bắc Kỳ bỏ
hội nghị ra về. Đến ngày 17/6/1929 Đông Dương Cộng sản Đảng được thành
lập.
+Tháng 10/1929, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Nam Kỳ
họp Đại hội tuyên bố giải tán Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và thành lập
An Nam Cộng sản Đảng.Sau khi thành lập 2 đảng phê phán và chia rẽ nhau.
+Tháng 9/1929, bộ phận đảng viên tiên tiến Đảng Tân Việt thành lập Đông
Dương Cộng sản Đảng Liên Đoàn hoạt động chủ yếu tại Trung kỳ.


-Quốc tế
+Sau cách mạng tháng 10 Nga và việc thành lập Liên bang Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Xô viết đã chỉ hướng cho nhân dân các quốc gia bị áp bức và các
nước thuộc địa về con đường đấu tranh giải phóng dân tộc.
Quốc tế Cộng sản được thành lập với nhiệm vụ giải phóng dân tộc các quốc gia
bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới với giai cấp vô sản là nòng cốt.
+Ngày 27/10/1929 Quốc tế Cộng sản gửi cho người Cộng sản tại Đông
Dương về việc thành lập một Đảng Cộng sản tại Đông Dương:
"Việc thiếu 1 Đảng Cộng sản duy nhất trong lúc phong trào công nhân và nông
dân ngày càng phát triển, đã trở thành một điều nguy hiểm vô cùng cho tương lai
trước mắt cuộc cách mạng ở Đông Dương".
Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh:
"Nhiệm vụ quan trọng nhất của tất cả những người Cộng sản Đông Dương là
thành lập một Đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là
một Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có
một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương".
*Hội nghị thành lập Đảng
-Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 6/1-7 /2/1930 tại
Hương Cảng, Trung Quốc. Người chủ trì Hội nghị là Nguyễn Ái Quốc, với chức

vụ là phái viên của Quốc tế Cộng sản.
-Hội nghị là sự hợp nhất của 3 tổ chức Cộng sản trong Việt Nam và Đông
Dương, Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn.
-Hội nghị với sự tham gia của 2 đại diện An Nam Cộng sản Đảng, 2 đại diện
Đông Dương Cộng sản Đảng, 1 đại diện của Quốc tế Cộng sản Đảng. Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn không kịp cử đại diện tham dự. Tổng số Đảng viên
là 211 người.
 Cụ thể:
+Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên (Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội), một tổ chức "quá
độ" đặt cơ sở cho một Đảng Cộng sản về sau. Người ra báo Thanh niên, huấn
luyện, đào tạo cán bộ, tổ chức tuyên truyền lý luận cách mạng giải phóng dân
tộc của chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng cách mạng vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước ở Việt Nam. Bốn năm sau, tháng 3-1929, chi bộ cộng sản
đầu tiên ở Việt Nam được thành lập tại nhà số 5D phố Hàm Long, Hà Nội. Chi
bộ chủ trương phải tích cực vận động thành lập một Đảng Cộng sản thay tổ chức
Việt Nam cách mạng thanh niên để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
+Ngày 17-6-1929, tại nhà số 312 phố Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ
chức cơ sở đảng ở miền bắc, họp quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản
Đảng.


+Ngày 25-7-1929, trong một bức thư của các đồng chí tiên tiến trong bộ
phận Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội hoạt động ở Trung Quốc
gửi cho Đông Dương Cộng sản Đảng báo tin, các đồng chí đó định tổ chức một
Đảng Cộng sản bí mật còn "Thanh niên" thì cứ giữ nguyên để chỉnh đốn lại. Các
chi bộ cộng sản lần lượt được thành lập ở Nam Kỳ, ở Trung Kỳ và ở Xiêm. Các
đảng viên hoạt động ở Trung Quốc được tập hợp trong một chi bộ mang tên An
Nam Cộng sản Đảng. Chi bộ này được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung

Quốc và đã liên lạc với Quốc tế Cộng sản. An Nam Cộng sản Đảng ra đời vào
tháng 8-1929.
+Tháng 9-1929, bản Tuyên đạt của Đông Dương Cộng sản liên đoàn tuyên
bố: “chánh thức lập ra Đông Dương Cộng sản liên đoàn”, lấy chủ nghĩa Cộng
sản làm nền móng, lấy công, nông, binh liên hiệp làm đối tượng vận động cách
mệnh.
+Trong vòng không đầy bốn tháng (từ giữa tháng 6 đến tháng 9-1929) đã
có ba tổ chức đảng ở Việt Nam lần lượt ra đời. Sự ra đời nhanh chóng các tổ
chức cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song,
sự tồn tại ba đảng độc lập có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của
cách mạng Việt Nam là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước.
Quốc tế Cộng sản đã gửi thư cho những người cộng sản Đông Dương, nhấn
mạnh: Nhiệm vụ tuyệt đối cần kíp của tất cả những người cộng sản Đông Dương
là sáng lập một đảng cách mạng của giai cấp vô sản...
+Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết
định mọi vấn đề liên quan phong trào cách mạng ở Đông Dương, Nguyễn Ái
Quốc đã triệu tập hội nghị đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam
Cộng sản Đảng để bàn việc thống nhất thành một đảng.
+Từ ngày 6-1 đến đầu tháng 2-1930, Hội nghị họp tại Cửu Long gần
Hương Cảng (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất
trí hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng để lập ra
một đảng duy nhất lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và các
Điều lệ vắn tắt của Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội phản
đế đồng minh và Hội cứu tế do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
+Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã hợp nhất
thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Song Đông Dương Cộng sản liên đoàn vẫn còn
là một đảng riêng lẻ. Việc hợp nhất Đông Dương Cộng sản liên đoàn vào Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng là một yêu cầu khách quan. Trong bản Tuyên đạt thành
lập đảng của mình, Đông Dương Cộng sản liên đoàn cũng chủ trương phải hợp

nhất với Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng "thành một tổ
chức cộng sản ở xứ Đông Dương để cho sức mạnh cộng sản vững chắc và duy
nhất mới có thể thực hiện cách mạng cộng sản".
Vì thế, sau Hội nghị hợp nhất, Đông Dương Cộng sản liên đoàn đã yêu cầu gia
nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 24-2-1930, Châu Văn Liêm và Nguyễn


Thiệu cùng hai ủy viên của Ban Chấp hành Trung ương lâm thời là Hạ Bá Cang
(tức Hoàng Quốc Việt) và Phạm Hữu Lầu cùng Ngô Gia Tự, Bí thư Xứ ủy Nam
Kỳ của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã họp quyết định chấp nhận Đông Dương
Cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đây, cả ba tổ chức
cộng sản Việt Nam đã thống nhất trọn vẹn vào một Đảng cộng sản duy nhất:
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thảo luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm năm điểm lớn, với nội
dung:
1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các
nhóm cộng sản ở Đôn Dương;
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng;
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm chín người trong đó có hai đại
biểu chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương, do Trịnh Đình Cửu đứng đầu;
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
*Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:
Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam như: Chánh cương văn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương
bình tóm tắt của Đảng hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố sẽ làm cách mạng tư sản dân
quyền và cách mạng ruộng đất (cương lĩnh dùng cách gọi tư sản dân quyền cách

mạng và thổ địa cách mạng), cụ thể là phổ biến khẩu hiệu "Việt Nam tự do", đấu
tranh và xây dựng một xã hội tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ cập giáo
dục, đánh đổ thực dân Pháp và chế độ phong kiến, xây dựng chính phủ công
nông binh, thành lập quân đội của giai cấp công nhân và nông dân, tịch thu sản
nghiệp của tư bản thực dân Pháp, lấy ruộng đất của đế quốc chia cho dân cày
nghèo,... Chính cương vắn tắt ghi rõ lực lượng tư bản người Việt không thuộc
phe đế quốc, còn Chương trình tóm tắt tuyên bố rằng Đảng Cộng sản Việt Nam
sẽ ra sức thuyết phục tiểu tư sản, trí thức, trung nông, phú nông, tư sản và tư sản
bậc trung về phía mình. Cách mạng Việt Nam còn là một bộ phận cách mạng thế
giới.
 Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:
- Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: "tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"1.
- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng:
+ Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm
cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ
chức quân đội công nông.
+ Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn
(như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để
giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn


để quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày
nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.
+ Vê văn hoá - xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền,
v.v... ; phổ thông giáo dục theo công nông hoá.
+ Về lực lượng cách mạng: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân
cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn
đại địa chủ và phong kiến; phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày
(công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc

gia; phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân
Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung, tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu
mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như
Đảng lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ.
+ Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng; trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào
nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào còn đường thoả hiệp.
+ Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới:
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành
liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô
sản Pháp.
*Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng:
 Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
- Sự thành lập Đảng đã chấm dứt sự bế tắc khủng hoảng đường lối khủng
hoảng giai cấp lãnh đạo lãnh đạo của cách mạng Việt Nam và mở ra bước ngoặt
mới cho cách mạng Việt Nam, tạo tiền đề đưa cách mạng phát triển ở các chặng
đường tiếp theo.
- Bản thân sự ra đời của Đảng đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp vô
sản Việt Nam về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trở thành giai cấp lãnh đạo cách
mạng.
- Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách
mạng thế giới. Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
- Thể hiện quy luật ra đời của Đảng: Sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác –
Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Phong trào công
nhân và phong trào yêu nước đã được cách mạng hóa theo tư tưởng vô sản và
thống nhất cới mục tiêu đấu tranh của phong trào công nhân. Quy luật này đã chi

phối sự hoạt động và phát triển của Đảng sau này.
 Ý nghĩa lịch sử sự ra đời của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
-Cương lĩnh là sự vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa MácLênin vào việc giải quyết những vấn đề cơ bản của một nước thuộc địa.
-Định hình ra quy luật vận động của Cách mạng thuộc địa.


-Có giá trị chỉ đạo toàn bộ tiến trình Cách mạng (chiến lược) và hướng vào
giải quyết những vấn đề cụ thể (trước mắt). Vì vậy, đây là cương lĩnh hành động,
cưỡng lĩnh chỉ đạo thực tiễn.

Phần thứ hai
CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.Hoàn cảnh ra đời cương lĩnh đầu tiên của đảng.
 Cuối 1929, trong nước xuất hiện 3 tổ chức Cộng sản Đông Dương Cộng
sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Những
người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức Cộng sản đã nhận thức được sự
cần thiết và cấp bách phải thành lập 1 Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt sự
chia rẽ trong phong trào ở Cộng sản Việt Nam
 Nhận được tin về sự chia rẽ, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc.
Người chủ trì hội nghị hợp nhất Đảng, họp từ 6/1-7/2/1930 tại Hương Cảng,
Trung Quốc
 Thành phần hội nghị hợp nhất bao gồm: 1 đại biểu của Quốc tế Cộng sản ,
2 đại biểu của Đông Dương Đảng Cộng sản , 2 đại biểu của An Nam Đảng
Cộng sản
 Với uy tín và tài năng thuyết phục của mình, Nguyễn Ái Quốc đã hợp
nhất các tổ chức Cộng sản thành 1 tổ chức lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đồng thời, hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Các văn kiện này dc hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của

Đảng Cộng sản Việt Nam.
 2.Nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
 Phương hướng chiến lược của Cách mạng Vệt Nam: “Tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản”.
 Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng: phản
ánh 2 nhiệm vụ cơ bản: nhiệm vụ dân tộc (giải phóng dân tộc) và nhiệm vụ dân
chủ (ruộng đất cho nông dân), trong đó nhiệm vụ dân tộc dc ưu tiên hàng đầu
 Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng thể hiện cô đọng các
luận điểm cách mạng cơ bản, đánh giá chính xác tính chất xã hội Việt Nam
thuộc địa và chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu là giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với đế quốc thực dân xâm lược; xác định đường lối phát triển, chiến lược, sách
lược của cách mạng Việt Nam được thực hiện bằng sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.


 Chánh cương phân tích, đánh giá khái quát những đặc điểm quan trọng
nhất của kinh tế công nghiệp, nông nghiệp của nước Việt Nam thuộc địa; tính
chất độc quyền khai thác thuộc địa của thực dân Pháp với những hậu quả tiêu
cực cản trở sự phát triển độc lập về kinh tế của Việt Nam. Chánh cương chỉ rõ:
“Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh
sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghiệp
một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp
nhiều”; phân tích rõ vị trí, vai trò của tư bản bản xứ: “Vậy tư bản bản xứ không
có thế lực gì không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ
mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm tư sản
dân quyền c.m và thổ địa c.m để đi tới xã hội cộng sản”.
 Về phương diện xã hội, Chánh cương khái quát mục tiêu, nhiệm vụ chính
trị, kinh tế, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là được tự do, nam nữ
bình quyền, phổ thông giáo dục...
 Chánh cương xác định rõ phương hướng phát triển của cách mạng Việt

Nam là tiến lên chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
 Sách lược vắn tắt của Đảng khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của vô
sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho
giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Chủ trương của Đảng là : “thu phục
cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa
cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”.
 Đảng chủ trương xây dựng khối đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng
lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức cách mạng, chỉ đánh đổ những lực lượng
và đảng phái phản cách mạng: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí
thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v.) để kéo họ đi vào phe vô sản giai
cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ
mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận
nào đã ra mặt phản cách mạng(Đảng Lập hiến,v.v.) thì phải đánh đổ”. Cương
lĩnh chính trị của Đảng chỉ rõ giai cấp lãnh đạo và lực lượng chính, động lực chủ
yếu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam là: “Trong cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm
quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”.
 Về phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng
để đánh đổ đế quốc, phong kiến. Việc nêu lên phương pháp cách mạng bạo lực
thể hiện sự thấm nhuần và tiếp thu tư tưởng cách mạng bạo lực và khởi nghĩa vũ
trang của chủ nghĩa Mác - Lênin. Con đường phát triển chỉ có thể là cách mạng
chứ không thể là cải lương, thỏa hiệp.
 Về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Cương lĩnh nêu rõ:
“...trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời
tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế
giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”. Đồng thời, Cương lĩnhcũng xác định cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam
gắn liền với cách mạng thế giới, đề cao vấn đề đoàn kết quốc tế là sự kết hợp
chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, lợi



ích dân tộc và lợi ích toàn nhân loại tiến bộ đang đấu tranh để giải phóng khỏi
ách áp bức, bất công trên thế giới.
 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định được những nội dung
cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam. Sự đúng đắn của Cương lĩnhđược khẳng
định qua thực tiễn đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước trong suốt 85 năm
qua:
 Một là, Cương lĩnh xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng
tư sản dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) là chống
đế quốc, chống phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng.
Xuất phát từ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, Cương lĩnh đã phân tích mối
quan hệ gắn bó giữa hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc và chống phong kiến
gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng trước hết phải đánh đổ đế quốc, “làm cho nước
Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Đây là cơ sở để giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội và giải phóng con người. Chỉ có độc lập tự do của đất nước mới đủ điều kiện
để thực hiện quyền con người, quyền công dân.
 Hai là, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng từ Cương lĩnh
chính trị đầu tiên là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cách mạng Việt Nam trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến xây dựng đất nước theo định hướng XHCN
hiện nay. Tư tưởng này thể hiện rõ trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
của Đảng về các lực lượng cách mạng. Những lực lượng như tiểu tư sản, trí
thức, trung, tiểu địa chủ đều được Đảng chủ trương tập hợp, đoàn kết lại trong
lực lượng cách mạng do công nông làm nòng cốt.
 Chủ nghĩa yêu nước là nền tảng cơ sở cho sự thống nhất trong khác biệt
nhằm tập hợp lực lượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của một đất nước tiềm lực
kinh tế, quân sự không lớn, người không đông, lại phải đối mặt với các thế lực
đế quốc đầu sỏ. Hiện nay, khi tình hình Biển Đông không bình yên, chủ quyền
biển, đảo đang bị đe dọa, hơn bao giờ hết việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
tranh thủ sức mạnh quốc tế là yếu tố quyết định để bảo vệ vững chắc chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ.

 Ba là, xác định rõ sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng
với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, Hội nghị thông qua Điều
lệ vắn tắtvà Lời kêu gọinhân dịp thành lập Đảng. Các văn kiện này chỉ rõ: Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản; Đảng được tổ chức ra để dìu
dắt giai cấp vô sản lãnh đạo quần chúng lao khổ đấu tranh giải phóng toàn thể
anh chị em bị áp bức, bóc lột “để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho
thực hiện xã hội cộng sản”.
 Với cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời Đảng đã trở thành
lực lượng lãnh đạo, tập hợp xung quanh mình toàn thể dân tộc làm cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng
thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được
những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng
phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh
đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng
cường”. Dưới ánh sáng soi đường của Cương lĩnh Đảng ta đã dẫn dắt toàn dân


tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi mục tiêu giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội và đang trên đường xây dựng nước Việt Nam giàu,
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
 Trải qua các chặng đường lịch sử đấu tranh, với các giai đoạn cách mạng
thực hiện nhiệm vụ cụ thể trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Cương lĩnh, Đảng
có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan,
duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan; do nhận thức của Đảng trên một số lĩnh
vực còn hạn chế; không ít vấn đề lý luận và thực tiễn còn chưa đủ sáng tỏ,
nhưng điều quan trọng là Đảng ta đã nhận ra, thẳng thắn tự phê bình và nghiêm
túc sửa chữa, khắc phục có kết quả. Và qua mỗi vấp váp, sai lầm Đảng thêm
trưởng thành.
 Trong quá trình lãnh đạo, tiến hành công cuộc đổi mới, hội nhập, trước
bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, Đảng cụ thể hóa

Cương lĩnh chính trị trong thời kỳ cách mạng mới, cho thông qua Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) và được bổ
sung, phát triển năm 2011. Cương lĩnh của Đảng (2011) khẳng định: “Cương
lĩnh của Đảng là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất
nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt
động của Đảng, Nhà nước, của hệ thống chính trị và nhân dân ta trong những
thập kỷ tới. Thực hiện thắng lợi Cương lĩnh này, nước nhà nhất định trở thành
một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc”.


Phần thứ ba
Ý NGHĨA LỊCH SỬ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
1. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thể hiện bước phát triển biện chứng quá
trình vận động của cách mạng Việt Nam; sự phát triển từ Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên đến ba tổ chức cộng sản, đến Đảng Cộng sản Việt Nam trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm cách mạng Nguyễn Ái Quốc.
 Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã quy tụ ba tổ chức
cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam, theo
một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị, tổ
chức và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quà tất
yếu của cuộc đẩu tranh dân tộc và đẩu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác — Lênin đối với
cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là "một bước
ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sừ cách mạng Việt Nam ta. Nó chửng tỏ
rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng".
 Về quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khái quát: "chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và

phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào
đầu năm 1930 .
 Thực tế lịch sử cho thấy, trong quá trình chuẩn bị chính trị, tư tưởng và tổ
chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh không chỉ vận dụng sáng tạo mà còn bổ sung, phát triển thuyết Mác Lênin về đảng cộng sản. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm
1991) chỉ rõ: "Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là
tiêu biểu sáng ngời cho sự kểt hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”.
 Ngay từ khi ra đời, Đảng đã có cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn
con đường giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, đây là cơ


sở để Đảng Cộng sản Việt Nam nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách
mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách
mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX; mở ra con đường
và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam.
 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới đã tranh thủ được sự
ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời, cách mạng Việt Nam
cũng góp phần tích cực và sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
2.

Ý nghĩa lịch sự sự ra đời của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu thời đại mới trong lịch sử nước ta
thời đại giai cấp công nhân và Đảng của nó đứng ở vị trí lãnh đạo, tập hợp mọi

phong trào cách mạng dưới ngọn cờ của mình, quyết định nội dung, phương
hướng phát triển của cách mạng Việt Nam. Đảng lãnh đạo cách mạng trước hết
bằng cương lĩnh, chiến lược. Nó giúp cho Đảng xác định các nguyên tắc và
phương hướng chính trị, cùng với các chủ trương, chính sách để lãnh đạo
phong trào cách mạng trong suốt các giai đoạn lịch sử. Vì vậy mà cưỡng lĩnh
có tầm quan trọng rất to lớn
 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng đắn và sáng
tạo lý luận Mác-Lênin vào thực tiễn của đất nước.
 Giải đáp đúng yêu cầu phát triển của xã hội Việt Nam, yêu cầu thực tiễn
của cách mạng là xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến phản động để thay
vào đó là một chế độ tiến bộ hơn bằng việc tập trung giải quyết hai mâu thuẫn
cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa dân tộc ta và đế quốc Pháp, giữa nông dân
với địa chủ phong kiến. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng thể hiện một
đường lối cách mạng triệt để qua việc xác định được con đường xuyên suốt của
cách mạng là tài sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng đi tới xã hội
cộng sản.
 Cương lĩnh đã đáp ứng được nguyện vọng cơ bản của cả dân tộc là độc
lập, dân chủ, hạnh phúc.
 Phản ánh đúng quy luật vận động khách quan của xã hội Việt Nam
 Trả lời đúng đắn những vấn đề cấp bách mà phong trào cách mạng nước
ta đã đặt ra, nó là vũ khí sắc bén chống lại những tư tưởng và hành động trái
với chủ nghĩa Mác-Lênin.
 Là cơ sở để thống nhất tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, toàn dân
làm cho cách mạng Việt Nam sớm có đường lối đúng, sớm có tập hợp lực
lượng của Đảng, toàn dân cùng một ý chí đi lên tránh tổn thất cho cách mạng.


 Là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho đường lối đổi mới của Đảng,
dẫn đường cho thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.


KẾT LUẬN
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lịch sử phát triển của nhân loại đang có
những chuyển biến vô cùng quan trọng, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH đã
mở, tình hình đó đòi hỏi những chiến sỹ cách cạng trên thế giới phải nhìn được
xu thế phát triển của thời đại mà đề ra được đường lối và tìm ra được giai cấp
lãnh đạo cách mạng phù hợp.
Việt Nam chịu ách thống trị của thực dân pháp, trước áp bức bốc lột nặng nề,
mâu thuẫn dân tộc đang diễn ra hết sức gay gắt , nhiều phong trào đấu tranh của
nhiều lực lượng và theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau đều lần lượt
thất bại. Phong trào cách mạng Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng về đừng lối
và giai cấp lãnh đạo.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt nam tầm vóc của lịch sử. Kết quả
là sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt trọng đại trong lịch
sử cách mạng Việt Nam. Nó chấm dứt thời kỳ cách mạng nước ta ở trong tình
trạng bế tắc , khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước, nó chứng tỏ giai cấp
vô sản nước ta đã trở thành đủ sức lãnh đạo cách mạng , kể từ đây (3-2-1930)
cách mạng Việt Nam có một Đảng duy nhất lãnh đạo với đường lối thống nhất
trên cả nước. Đảng ra đời là một tất yếu lịch sử , là kết quả của quá trình đấu
tranh dân tộc và đấu tranh trong thời đại mới và còn là kết quả của quá trình
chuẩn bị một cách công phu chu đáo, tích cực của lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc trên
cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Lanhc tụ Hồ
Chí Minh, người đã có sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng.
Tìm hiểu sự kiện Đảng Cộng sản ra đời trong bối cảnh trong nước và quốc tế
như trên mới thấy hết được ý nghĩa to lớn của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt
Nam, đồng thời cũng thấy được sự vĩ đại của Nguyễn Aí Quốc – Hồ Chí Minh
trong việc thành lập Đảng. Sự vĩ đại ấy ở chỗ Người đã sớm đặt cách mạng Việt
Nam vào quỹ đạo của cuộc cách mạng vô sản; ở chỗ Người đã để lại cho ta
Đảng ta, dân tộ ta một hệ thống quan điểm về Đảng Cộng sản Việt Nam có giá
trị lý luận và thực tiễn to lớn,giúp chúng ta cũng cố niềm tin vững chắc vào sự

lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
 Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
 Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
(tusach.thuvienkhoahoc.com)
 Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam (wikipedia)
 Tài liệu Ebook(doc.edu.vn)
 /> />%C3%A0nh_l%E1%BA%ADp_%C4%90%E1%BA%A3ng_C%E1%BB
%99ng_s%E1%BA%A3n_Vi%E1%BB%87t_Nam



×