Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh lào cai hiên nay theo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (625.85 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

HOÀNG THỊ THẢO

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI,
GIẢM NGHÈO Ở TỈNH LÀO CAI HIỆN
NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tư tưởng Hồ Chí Minh

HÀ NỘI - 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

HOÀNG THỊ THẢO

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI,
GIẢM NGHÈO Ở TỈNH LÀO CAI HIỆN
NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học
ThS. VI THỊ LẠI

HÀ NỘI - 2018




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài khóa luận và kết thúc khóa học, với tình cảm chân
thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2 đã tạo điều kiện cho em có môi trường học tập tốt trong suốt thời gian em
học tập, nghiên cứu tại trường.
Em xin gửi lời tới cô ThS. Vi Thị Lại đã giúp đỡ em trong suốt quá
trình nghiên cứu và trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài khóa luận tốt
nghiệp này. Đồng thời em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới thầy cô trong khoa Giáo
dục chính trị, bạn bè đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học
tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp lần này.
Với điều kiện thời gian và kiến thức của bản thân nên khóa luận khó
tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình em nghiên cứu.
Em kính mong nhận được sự đóng góp từ thầy cô và các bạn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Hoàng Thị Thảo


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành tư tưởng Hồ Chí Minh với đề
tài “Thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Lào Cai hiên nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh” được thực hiện dưới sự hướng dẫn của ThS. Vi
Thị Lại. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố
trong các công trình khác.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!

Hà Nội, ngày 02 tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Hoàng Thị Thảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI,
GIẢM NGHÈO ................................................................................................. 6
1.1. Một số khái niệm cơ bản......................................................................... 6
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xóa đói, giảm nghèo.. 10
Chương 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH
XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO VÀO VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO Ở TỈNH LÀO CAI HIỆN NAY ........................ 25
2.1. Những yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm
nghèo ở tỉnh Lào Cai.................................................................................... 25
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Lào Cai
hiện nay ........................................................................................................ 35
2.3. Một số giải pháp thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh
Lào Cai hiện nay theo tư tưởng hồ Chí Minh .............................................. 51
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 58


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, nhân loại đã bước sang một trang sử mới và đã đạt được nhiều
thành tựu vượt bậc trên nhiều lĩnh vực như là kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội đặc biệt là về khoa học công nghệ. Tuy nhiên ở vùng sâu vùng xa, vùng

dân tộc ít người và nông thôn vẫn còn một bộ phận dân cư đang phải sống
trong cảnh đói nghèo. Trong nền kinh tế thị trường phát triển nhưng nạn
nghèo đói vẫn tồn tại như một thách thức lớn đối với nền văn minh nhân loại.
Chính vì vậy mà nghèo đói và chống nghèo đói luôn là vấn đề được quan tâm
hàng đầu ở nước ta. Ngay từ những ngày đầu cách mạng, chủ tịch Hồ Chí
Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam luôn coi vấn đề làm thế nào cho
dân hết nghèo, hết đói, bớt khổ là một vấn đề quan trọng. Trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng vì nhân dân, vì đất nước, ngay từ buổi đầu ra đi tìm
đường cứu nước cho đến phút cuối của cuộc đời, Hồ Chí Minh người luôn
luôn coi cuộc sống của nhân dân là trên hết. Người đã luôn chăm lo đến đời
sống nhân dân, Người cho rằng hễ dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, hễ
dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, hễ dân ốm đau bệnh tật là Đảng và Chính
phủ có lỗi, hễ dân không được học hành là Đảng và Chính phủ có lỗi. Ngay
sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Người xem đói nghèo cũng là một
thứ giặc nguy hiểm như giặc dốt, giặc ngoại xâm, vì vậy, xóa đói, giảm nghèo
luôn là vấn đề được người đặt lên hàng đầu xuyên suốt trong toàn bộ nội dung
tư tưởng của Người. Đặc biệt Người luôn trăn trở về con đường, phương pháp
làm thế nào để dân thoát khỏi cảnh nghèo khổ, đói kém. Với Hồ Chí Minh,
tình yêu thương con người là không biên giới. Người lo cho dân tộc mình
thoát khỏi cảnh đói khổ lầm than, kiếp đời nô lệ, Người lo cho tất cả mọi
người trên hành tinh còn lại bị đọa đày, đau khổ.

1


Cùng với sự tiến bộ và phát triển nhanh chóng của xã hội như ngày nay.
Vấn đề xóa đói giảm nghèo ngày càng được quan tâm nhiều hơn, nhằm đem
lại cuộc sống no đủ, hạnh phúc cho tất cả mọi người. Lào Cai là một tỉnh
miền núi, biên giới, địa đầu của tổ quốc có vị trí rất quan trọng trong phát
triển kinh tế, an ninh quốc phòng, hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Trung

Quốc. Là tỉnh có nhiều tiềm năng về phát triển du lịch, sản phẩm nông
nghiệp hàng hoá, các ngành công nghiệp chế biến, thương mại và dịch vụ
kinh tế cửa khẩu. Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, điều kiện sản xuất còn
nhiều khó khăn, Lào Cai hiện vẫn là một tỉnh nghèo, thu nhập bình quân đầu
người chỉ bằng 70% của cả nước. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai
lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2010-2015 đã chỉ rõ: Xây dựng tỉnh Lào Cai trở
thành tỉnh phát triển của vùng trung du và miền núi phía Bắc, là địa bàn
quan trọng về hợp tác và giao lưu quốc tế của vùng và cả nước. Đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân đi đôi với xoá đói,
giảm nghèo; tạo việc làm và đảm bảo an sinh xã hội. Giữ vững ổn định
chính trị, củng cố quốc phòng - an ninh, giữ gìn biên giới ổn định, hoà bình,
hữu nghị. Để làm được điều đó trong những năm qua tỉnh Lào Cai đã có
nhiều nỗ lực, cố gắng khắc phục khó khăn và đạt được những thành tựu quan
trọng, toàn diện trong phát triển kinh tế- xã hội nói chung, trong công tác
xóa đói giảm nghèo nói riêng. Để đẩy mạnh sự phát triển của tỉnh giảm bớt
tỉ lệ hộ nghèo ở tỉnh, Lào Cai phải không ngừng thực hiện các chính sách,
các biện pháp để khắc phục những khó khăn gặp phải, thực tiễn đó đòi hỏi
cần tiếp tục học tập, nghiên cứu quan điểm của Hồ chí Minh về chính sách
xóa đói giảm nghèo, vận dụng quan điểm đó vào việc xóa đói, giảm nghèo ở
tỉnh Lào Cai một cách hiệu quả. Từ những lí do trên em chọn đề tài “Thực
hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Lào Cai hiên nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước đến nay có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề
xóa đói giảm nghèo, về vấn đề phát triển chính sách xóa đói, giảm nghèo theo
quan điểm của Hồ Chí Minh như:
2.1. Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xóa
đói, giảm nghèo

- Ngô Hoàng Anh (2006), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề xoá đói
giảm nghèo” Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, (8)
- Bùi Đình Phong (2002), Hồ Chí Minh người khởi xướng sự nghiệp xóa
đói, giảm nghèo, dân giàu nước mạnh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.
- Nguyễn Túc (2003), “Xóa đói giảm nghèo một cống hiến to lớn của Hồ
Chí Minh cho người nghèo nước ta và thế giới”, Tạp chí cộng sản, (682)
- Nguyễn Xuyến (2006), “Bác Hồ với công tác xóa đói giảm nghèo” Tạp
chí Cộng sản, (2)
2.2. Các công trình nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính chính sách xóa đói, giảm nghèo
- Trần Thị Hằng (2001), Vấn đề xoá đói, giảm nghèo trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- Nguyễn Công Lập (2011), Từ quan điểm của Hồ Chí Minh về xóa đói
giảm nghèo đến thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo thời kỳ đổi mới,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
- Phan Văn Thạng (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xóa đói giảm nghèo
và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Đỗ Anh Tài (2014), Phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo cho
đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi, Nxb Đại học Thái Nguyên.
- Trương Văn Thành (2000), Thực trạng và giải pháp xoá đói, giảm
nghèo ở Tây Ninh hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã tiếp cận và nghiên cứu vấn
đề xóa đói giảm nghèo ở nhiều góc độ, nhiều địa phương khác nhau nhưng
cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách độc lập về vấn
đề thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Lào cai theo tư tưởng Hồ
Chí Minh. Trên cơ sở kế thừa, phát huy những kết quả đã thu được của các
công trình nghiên cứu trên, em mong muốn đi sâu tìm hiểu rõ hơn tư tưởng
Hồ Chí Minh về chính sách xóa đói, giảm nghèo và sự vận dụng tư tưởng đó

vào việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Lào Cai hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu quan điểm Hồ Chí Minh về chính sách xóa đói,
giảm nghèo, vận dụng vào việc xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Lào Cai trong giai
đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về xóa đói, giảm nghèo.
Thứ hai, phân tích thực trạng xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Lào Cai trong
giai đoạn từ năm 2010 đến nay
Thứ ba, đề xuất một số định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Lào Cai trong giai
đoạn hiện nay theo tư tưởng của Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xóa đói giảm nghèo, thực trạng
thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Lào Cai hiện nay
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xóa đói, giảm nghèo


Về không gian: Tỉnh Lào Cai
Về thời gian: Từ năm 2010- 2017
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử
Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng phương pháp lịch sửlogic, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát làm rõ mục đích đề tài đề ra.
6. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh much các tài liệu tham khảo, khóa

luận gồm 2 chương 5 tiết.


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI,
GIẢM NGHÈO
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Chính sách
Chính sách có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt
thì chúng ta có thể hiểu “chính sách” là “sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm
đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình
thực tế mà đề ra” [27, tr.157]. Còn theo tác giả Vũ Cao Đàm thì “chính sách
là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc
chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội,
kích thích vào động cơ hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên
nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội” [5]. Bên cạnh
những định nghĩa trên cũng có một định nghĩa khác nói về chính sách đó là
“Chính sách là chuỗi những hoạt động mà chính quyền chọn làm hay không
làm với tính toán và chủ đích rõ ràng, có tác động đến người dân” [4, tr.123].
Chúng ta có thể thấy rằng có rất nhiều khái niệm khác nhau về chính
sách như đã đã trình bày ở trên, tuy nhiên trong khuôn khổ nghiên cứu của bài
khóa luận này thì chúng ta có thể hiểu là chính sách dùng để chỉ những ý định
của chính quyền các cấp, địa phương, các xã. Chính sách bao gồm những dự
định lập kế hoạch, hướng dẫn, phát động, tài trợ hoặc thông qua các dự án,
chương trình hoặc những hoạt động đang được thực hiện của chính phủ. Hay
hiểu một cách đầy đủ và chặt chẽ hơn thì chính sách là những quyết định, quy
định của nhà nước (Tức là các cấp chính quyền từ trung ương đến địa
phương) được cụ thể hóa thành các chương trình, dự án cùng các nguồn lực,
vật lực các thể thức, quy trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác động vào đối
tượng có liên quan, thay đổi trạng thái của đối tượng theo hướng mà Nhà

nước mong muốn.


Đó là chính sách theo quan niệm của các nhà khoa học, còn đối với Chủ
tịch Hồ Chí Minh Người đã tiếp cận đến tinh thần mác xít về con người, bản
chất của con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội;
vì vậy việc chăm lo đời sống cho con người phải bằng cả biện pháp vật chất
và biện pháp tinh thần. Người nói: “Làm thế nào cho đời sống của dân ta vật
chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn” [15, tr.512]. Để làm
được điều đó Người đã đưa ra các chính sách cụ thể mang lại cho con người
những gì tốt đẹp nhất. Chính sách ở đây theo quan nhiệm của Người đó là sự
cụ thể hóa và thể chế hóa bằng pháp luật những đường lối, chủ trương, những
biện pháp để giải quyết các vấn đề dựa trên những tư tưởng, quan điểm của
chủ thể lãnh đạo và quản lý, phù hợp với bản chất của chế độ chính trị- xã hội.
Chính sách đồng thời cũng phản ánh lợi ích và trách nhiệm của những đối
tượng mà nó hướng tới, nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu về đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Người chỉ rõ: Mọi chính sách của Đảng và
Chính phủ ta đều nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội và không ngừng nâng cao
đời sống của nhân dân.
Như vậy chúng ta có thể thấy ngay từ buổi đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ nhiệm vụ chung của cách mạng và Người cũng luôn đề ra mục tiêu
cũng như con đường cụ thể đó là các chính sách không thể thiếu để giúp nhân
dân lao động được ấm no và sống hạnh phúc.
1.1.2. Xóa đói, giảm nghèo
Sinh ra trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, nhân dân Việt
Nam rơi vào cảnh đói khổ, lầm than và sống đời nô lệ, Chủ tịch Hồ Chí minh
đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, Người nói: “Tôi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân
ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành” [25, tr.627]. Với ham muốn như vậy người đã dốc một lòng rằng

phải thực hiện xóa đói giảm nghèo, phải làm sao cho dân thoát khỏi những


bần cùng, khổ cực, Người quyết tâm phải làm được điều đó thì đời sống nhân
dân mới ấm no, hạnh phúc được.
Xóa đói, giảm nghèo theo Người là “Làm cho người nghèo thì đủ ăn,
người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm” [18, tr.62]. Người còn chỉ
ra rằng ăn no mặc ấm phải đi liền với học hành, Như chúng ta đã biết, giải
phóng con người, chăm lo cho con người có cuộc sống ngày càng đầy đủ hơn,
hạnh phúc hơn luôn là sự trăn trở, đồng thời là mong muốn lớn nhất của Hồ
Chí Minh, Người quan tâm trên tất cả các mặt của cuộc sống con người. Đối
với một con người không chỉ ăn no, mặc ấm mà còn phải được học hành đầy
đủ. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, hạnh phúc của con người gắn với
những biểu hiện rất cụ thể, thiết thực trong cuộc sống đời thường có cơm ăn
và áo mặc, được học hành, được chữa bệnh khi ốm đau, được nghỉ ngơi lúc
tuổi già chứ không phải là những gì cao siêu và trừu tượng.Người đã dành
trọn cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình đấu tranh cho mục đích cách
mạng đầy tính nhân văn - độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân.
Hạnh phúc, ăn no, mặc ấm là trái ngược với đói nghèo, chính vì vậy Người
khẳng định phải xóa đói, giảm nghèo cho nhân dân. Ý nghĩa sâu xa trong tư
tưởng xóa đói, giảm nghèo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là bên cạnh xóa đói,
giảm nghèo về vật chất chúng ta phải chú ý cả xóa đói, giảm nghèo về tinh
thần, Người chỉ ra rằng: Ăn no mặc ấm phải đi liền với học hành tiến bộ, xã
hội phải ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng phải đi liền với tinh thần
ngày càng tốt, theo Người không nên phiến diện một chiều chỉ tập trung về
kinh tế, mà bỏ quên văn hóa tinh thần, lúc ấy sẽ xuất hiện nguy cơ, lực cản
nguy hiểm ảnh hưởng đến sự phát triển. Đó là giá trị to lớn trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về xóa đói, giảm nghèo mà chúng ta cần vận dụng sang tạo trong
tình hình mới, phấn đấu đạt mục tiêu chung đó là dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng văn minh.



1.1.3. Chính sách xóa đói, giảm nghèo
Chủ tịch Hồ Chí Minh một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc
kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc. Nhưng hơn tất cả, Chủ tịch Hồ Chí
Minh là một nhà khoa học- cách mạng chuyên nghiệp, một nhà nhân văn lớn,
mang hơi thở thời đại, một tầm nhìn thấu suốt đạt tới hạnh phúc của con
người. Người đã từng bước tìm ra con đường và biện pháp xóa đói, giảm
nghèo, thực hiện giân giàu nước mạnh.
Trong quá trình tổ chức, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân
tộc, Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo, dân giàu,
nước mạnh. Trong quá trình vận động giành quyền độc lập cho dân tộc, Hồ
Chí minh đã phác thảo bức tranh xóa đói, giảm nghèo của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa sau khi đánh đuổi được bọn đế quốc. Người xác định phải làm
cho nền kinh tế chóng phát đạt, làm cho nông nghiệp phồn thịnh, làm cho
nông dân có ruộng cày, công nhân có tiền lương tối thiểu, được cứu tế thất
nghiệp và xã hội bảo hiểm, học trò nghèo được giúp đỡ. Những việc mà
người xác định được xem như là những chính sách, những con đường cho
nhân dân vươn lên thoát khỏi cảnh bần hàn.Ngay trong Mười chính sách của
Việt Minh, Người cũng chỉ rõ phải làm sao để:
“Nông dân có ruộng, có bò,
Đủ ăn, đủ mặc, khỏi lo cơ hàn”.
Đó chính là những chính sách quan trọng để giúp cho nhân dân ta có
cuộc sống no đủ hơn, thoát ra khỏi cảnh nghèo khổ, túng thiếu. Nhiệm vụ xóa
đói, giảm nghèo trong tư tưởng Hồ Chí Minh gồm cả biện pháp từ Chính phủ,
cả sự nỗ lực, tự lực cánh sinh, tự lực tự cường của mỗi người dân và sự đoàn
kết giúp đỡ lẫn nhau của đồng bào theo tinh thần lá lành đùm lá rách, lá rách
ít đùm lá rách nhiều.



Hồ Chí Minh đã đầu tư trí tuệ, công sức xây dựng cả một lộ trình xóa
đói, giảm nghèo, từng bước làm cho dân giàu, nước mạnh theo hoàn cảnh của
nước ta. Theo người, Chính sách xóa đói giảm nghèo có thể được hiểu đó là
những quyết định, quy định của Chính phủ được cụ thể hóa trong các chương
trình, dự án cùng với nguồn lực, vật lực, các thể lực, quy trình hay cơ chế
thực hiện nhằm tác động vào các đối tượng cụ thể như người nghèo, với mục
đích cuối cùng là xóa đói giảm nghèo giúp cho nhân dân có cuộc sống no đủ
cả về vật chất lẫn tinh thần.
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xóa đói, giảm nghèo
1.2.1. Vị trí, vai trò, chức năng của chính sách xóa đói, giảm nghèo
Về vị trí của chính sách xóa đói, giảm nghèo
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người luôn chăm lo đến đời sống nhân dân và
đặc biệt chú ý đến vấn đề đói nghèo. Làm thế nào để cho dân thoát khỏi cảnh
lầm than, đói khổ, đối với người việc xóa đói, giảm nghèo cho nhân dân luôn
chiếm vị trí hàng đầu trong mọi công tác của Người. Như chúng ta thấy, trong
phiên họp đầu tiên của chính phủ, ngày 3/9/1945, người đã nêu sáu vấn đề cấp
bách, trong đó cứu đói là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Người
nói: Nhân dân đang đói… hơn hai triệu đồng bào chúng ta đã chết đói…
Những người thoát chết đói nay cũng bị đói chúng ta phải làm thế nào cho họ
sống. Tôi đề nghị với chính phủ là phát động một chiến dịch tăng gia sản
xuất…, mở một cuộc lạc quyên. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta
nhịn ăn một bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại và phát cho người nghèo.
Đối với người không có gì cần thiết bằng việc cứu đói cho nhân dân,
ngay cả trong phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế
hoạch kiến quốc, ngày 10/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh
đến nhiệm vụ của Nhà nước là phải chăm lo cho nhân dân có cơm ăn, áo
mặc, chỗ ở và được học hành Người nói chúng ta tranh được tự do, độc lập


rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân

chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng
ta phải thực hiện ngay:
“1. Làm cho dân có ăn
2. Làm cho dân có mặc
3. Làm cho dân có chỗ ở
4. Làm cho dân có học hành” [17, tr. 175]
Cái mục đích chúng ta đi đến là làm tốt 4 điều đó, đi đến để dân nước ta
xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập. Ở đây chúng
ta thấy rõ ràng một điều rằng Chủ tịch hồ Chí Minh lấy mục đích nâng cao
đời sống nhân dân làm trung tâm chi phối mọi hoạt động của Đảng và Chính
phủ và giảm nghèo chính là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Chính phủ trong
quá trình hoạt động.
Về vai trò của chính sách xóa đói, giảm nghèo
Công tác xóa đói, giảm nghèo được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng
và thể hiện nhất quán trong quan điểm, đường lối của Đảng ta ngày nay.
Người thường lưu ý rằng việc chăm lo đời sống cho đồng bào dân tộc coi như
việc đánh thắng giặc nghèo khổ lạc hậu. Theo người một dân tộc dốt cũng là
một dân tộc yếu, giặc dốt cũng là một trong ba thứ giặc nguy hiểm nó sẽ kìm
hãm sự phát triển. Qua đó chúng ta thấy rằng muốn phát triển trước hết chúng
ta phải loại bỏ giặc dốt, đánh thắng giặc nghèo khổ trước. đó là nhiệm vụ cấp
bách và lâu dài. Người cũng chỉ ra rằng thực hiện chiến lược công tác xóa đói,
giảm nghèo là một việc hết sức quan trọng, và là nhiệm vụ hàng đầu. Con
người có đầy đủ cơm ăn áo mặc thì mới có thể phát triển được, theo Người:
“Nước nhà đã giành được độc lập tự do mà dân vẫn còn đói nghèo cực khổ thì
độc lập tự do không có ích gì” [17, tr.26].


Về chức năng của chính sách xóa đói, giảm nghèo
Trên cơ sở xác định mục tiêu của chính sách xóa đói, giảm nghèo, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng đề cập đến chức năng của nó. Theo Người chính sách

xóa đói, giảm nghèo có những chức năng cơ bản sau:
Một là, Chính sách xóa đói, giảm nghèo góp phần quan trọng vào việc
xây dựng cơ sở hạ tầng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ quan điểm: Mọi chính
sách của Đảng và Chính phủ ta đều nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội và
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Mặt khác, theo Người muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội cần xây dựng nền tảng vật chất và kĩ thuật cho chủ
nghĩa xã hội. Ví như chúng ta đang chuẩn bị xây dựng nông thôn mới là xây
dựng nhà ở cho đàng hoàng. Như chúng ta đã biết, chính sách xóa đói, giảm
nghèo cũng bao gồm cả hỗ chợ về nhà ở, hỗ chợ về giáo dục, về y tế. Vì vậy
thông qua việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng và Chính
phủ thì chúng ta thấy được rằng chính sách xóa đói, giảm nghèo đã góp phần
rất lớn vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng.
Hai là, Chính sách xóa đói, giảm nghèo cũng góp phần làm tăng trưởng
nền kinh tế cho nhân dân, thông qua công tác xóa đói, giảm nghèo Người yêu
cầu các anh em có điều kiện hơn phải giúp đỡ những người nghèo khổ hơn
thoát khỏi bần cùng bằng cách giúp họ, hướng dẫn họ cách làm ăn, giúp họ tổ
chức sản xuất từ đó làm cho nền kinh tế phát triển, người nghèo có đủ cơm
ăn, áo mặc. Đến nay tư tưởng đó của Người vẫn thấm nhuần trong mỗi cán bộ
Đảng viên. Đảng và Nhà nước ta luôn lấy tư tưởng đó làm nhiệm vụ hàng đầu
để giúp nhân dân có cuộc sống tốt hơn, Đảng và Chính phủ có các chủ trương,
dự án xóa đói, giảm nghèo hợp lí như hỗ trợ cây trồng, vật nuôi, … từ đó làm
cho nền kinh tế của người dân phát triển hơn.
Ba là, chính sách xóa đói, giảm nghèo góp phần nâng cao dân trí, phát
triển văn hóa, bởi lẽ mục tiêu của công tác xóa đói, giảm nghèo không chỉ


dừng lại ở chỗ làm cho dân có ăn có mặc mà còn phải được học hành. Khi các
đối tượng người nghèo được hỗ trợ cho việc học hành từ thì họ sẽ có được
nhiều kiến thức hơn để xây dựng cuộc sống của mình. Nhiều trẻ em thuộc
diện hộ nghèo có cơ hội được đi họ, được rèn luyện bản thân một cách tốt

nhất để từ đó góp phần xây dựng xã hội chủ nghĩa. Người nói: “Tôi chỉ một
ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành” [25, tr.627]. Qua đó chúng ta thấy rằng ý nghĩa sâu xa trong
tư tưởng xóa đói, giảm nghèo của Người, mỗi người dân không chỉ được ăn
no, mặc ấm mà họ còn phải được học hành. Vận dụng tư tưởng của người đến
nay Đảng và Chính phủ vẫn luôn có những chính sách đặc biệt cho trẻ em
thuộc hộ nghèo, cuộc sống khó khăn. Các em được miễn giảm học phí, được
cấp phát sách đến trường, với những chính sách, đề án ưu tiên như vậy tỷ lệ
trẻ em thuộc hộ nghèo, dân tộc thiểu số biết chữ, có tri thức rất cao.
1.2.2. Nội dung chính sách xóa đói, giảm nghèo
Sinh thời Hồ Chủ tịch luôn quan tâm đến tất cả mọi người, đặc biệt là
những người nông dân nghèo khổ, bần cùng. Khi bàn về chính sách, ở mọi
nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh, Người luôn đề cập đến những nhu cầu,
lợi ích chính đáng của con người. Trên cương vị là lãnh tụ tối cao của Đảng,
của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những cống hiến vĩ đại trên nhiều
lĩnh vực hoạt động của Đảng, của Nhà nước và nhân dân ta để giải phóng đất
nước, đưa đất nước tiến lên Chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước về mọi mặt
kinh tế, chính trị, xã hội. Người cũng đã để lại cho chúng ta những tư tưởng,
quan điểm vô cùng sâu sắc, phong phú, có ý nghĩa định hướng cho việc phát
triển một xã hội trong thời đại mới.
Theo Người một đất nước thực sự được coi là độc lập phải là một đất
nước mà dân tộc có đủ cơm ăn, áo mặc, được học hành, được tự do, hạnh


phúc. Chính vì lẽ đó, Người đã hiểu thấu đáo và chia sẻ sâu sắc với tình cảnh
đói nghèo của đất nước, của nhân dân, đồng bào như Người đã chỉ rõ: “Ở đời
và làm người phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp
bức” [26, tr.174], cho nên sinh thời Bác luôn luôn tâm nguyện và mong muốn
dân ta có cơm ăn áo mặc và được học hành: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham

muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành” [25, tr.627].
Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu cuộc sống đói khổ của nhân dân Việt
Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai và hậu quả
sau gần một thế kỷ dưới chế độ cướp của, giết người và hiếp dâm đó là
“Người nghèo khổ thì nhiều, người no ấm thì ít” [18, tr.113]. Sự bóc lột tàn
bạo của bọn thực dân không chỉ để lại đói nghèo, dốt nát cho cả một dân tộc
mà còn triệt tiêu mọi khả năng phát triển của con người. Đất nước chúng ta
giành độc lập trong bối cảnh như vậy nên đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh xây
dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm mục đích không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Người cho rằng: Chúng ta
tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do độc lập
cũng không làm gì. Nội dung chính sách xóa đói, giảm nghèo của Người được
thể hiện qua nhiều phương diện, thể hiện rõ được nỗi lòng của Người luôn vì
nhân dân, nhân dân ấm no hạnh phúc đó là điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
mong muốn.
Thứ nhất, Làm cho người nghèo có đủ ăn đủ mặc. Người nhấn mạnh
nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo là của Đảng, của Chính phủ và là của toàn xã
hội. Người nhấn mạnh nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ phải thực hiện ngay
đó là làm cho nhân dân có ăn, làm cho nhân dân có mặc, làm cho nhân dân có
chỗ ở và làm cho nhân dân có học hành. Người chỉ rõ: “Chính sách của Đảng


và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân
đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu
dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có
lỗi” [28, tr.518]. Điều này nói lên rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta đã
đánh giá rất cao việc thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo; Người coi xóa
đói, giảm nghèo là nhiệm vụ hàng đầu trong sáu nhiệm vụ mà Đảng và Chính

phủ ta phải thực hiện song việc thực hiện xoá đói, giảm nghèo cũng phải xuất
phát từ dân, huy động nguồn lực từ dân cả về vật chất lẫn tinh thần. Nhân dân
phải có tinh thần đấu tranh chống xóa đói, giảm nghèo cho bản thân mình,
không thể ỷ lại ở người khác. Mỗi người dân phải có kế hoạch, mục tiêu của
mình để làm tốt công tác xóa đói, giảm nghèo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“Cách làm là: Dựa vào lực của dân, tinh thần của dân” [18, tr.556. Bởi theo
Người Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, và thực hiện chính
sách xóa đói, giảm nghèo cũng không nằm ngoài quỹ đạo của quy luật ấy.
Người nói: “Dân đủ ăn đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ
đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta
dù có hay mấy cũng không thực hiện được” [28, tr.518]. Toàn dân phải đoàn
kết lại và thực hiện thì mới thành công được, có thành công thì nhân dân ta sẽ
thoát khỏi cảnh cơ hàn, đói khổ.
Trên thực tế, ngay sau khi được thành lập, chính quyền cách mạng non
trẻ đã phải đối diện với một loạt khó khăn to lớn, với thù trong giặc ngoài,
trong đó nạn đói được coi là một thứ giặc nội xâm nguy hiểm đã cướp đi sinh
mạng của hàng triệu con người. Trong điều kiện như vậy, cùng với những
biện pháp tích cực khác để giữ vững thành quả của cách mạng, Người đã kêu
gọi toàn dân thực hiện những biện pháp cần kíp, cấp bách, tức thì để kịp thời
cứu dân thoát khỏi nạn đói. Đó là phong trào nhường cơm sẻ áo, lá lành đùm
lá rách để cùng chia sẻ những khó khăn. Bản thân Người đã nêu một tấm


gương sáng về thực hành tiết kiệm, dành phần lương thực ít ỏi nhưng chan
chứa tình người cho đồng bào bị đói.
Khi trả lời câu hỏi "chủ nghĩa xã hội là gì?", Hồ Chí Minh đã đưa ra
những quan niệm sâu sắc và khoa học nhưng lại rất giản dị và gần gũi như
những lẽ phải thông thường mà ai cũng có thể hiểu và cảm nhận được. Người
cho rằng, chủ nghĩa xã hội là “Mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự
do” [21, tr.395]. Làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành

tiến bộ, tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta
ngày càng sung sướng và làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm
cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc.
Người coi chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng
sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, người già không lao động
được thì nghỉ, là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Tựu trung lại, “chủ nghĩa xã hội là
làm sao cho dân giàu, nước mạnh” [21, tr.226].
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội
là một xã hội luôn quan tâm và thực hiện ngày càng tốt hơn vấn đề dân sinh.
Coi việc chăm lo cho nhân dân có đời sống vật chất đầy đủ, có đời sống tinh
thần phong phú và lành mạnh không phải sống trong hoàn cảnh nghèo nàn,
đói khổ là trách nhiệm cao nhất của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ hai, giúp cho người nghèo có điều kiện từng bước nâng cao cuộc
sống, phát triển toàn diện. Trong những tháng ngày bảo vệ và giữ vững chính
quyền cách mạng, Hồ Chí Minh, bằng sự trải nghiệm của cuộc đời, sự hiểu
biết con người và nhân dân hơn ai hết, Người ý thức rõ ràng công việc xóa
đói, giảm nghèo không dễ, không thể một sớm một chiều, không thể nói
suông vì hơn hai triệu đồng bào chết đói là do chính sách độc ác của bọn
Nhật, Pháp. Bấy giờ chính quyền của dân, do dân, vì dân thì phải làm cho


đồng bào sống, có sống mới làm được cách mạng; “có thực mới vực được
đạo”. Người hiểu rõ hơn ai hết “dân dĩ thực vi thiên” (dân lấy ăn làm trời), “dĩ
thực vi tiên” (trước cần phải ăn), và “nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [17, tr.56].
Đề cao yêu cầu phát triển kinh tế như một mục tiêu quan trọng mang tính
nền tảng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, song Hồ Chí Minh không coi
đó là nhiệm vụ duy nhất, không tuyệt đối hoá mục tiêu phát triển kinh tế; trái
lại, Người còn rất chú trọng giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là vấn đề

xóa đói, giảm nghèo cho nhân dân. Quan điểm mang tính chỉ đạo trong tiến
trình cải tạo và xây dựng xã hội mới của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, như Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ, là phải tập trung hướng vào làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn
thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm. Từ đó giúp cho người nghèo có
điều kiện từng bước phát triển cuộc sống của mình. Theo đó, mọi đường lối,
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước phải
xuất phát từ con người, hướng vào con người nhằm cải thiện và nâng cao từng
bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; phải coi lợi ích và quyền
hạn của nhân dân là trên hết; phải nhận thức và hành động theo nguyên
tắc việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức
tránh. Đối với nhân dân, cần phải cố gắng thực hiện đời sống mới: tiết kiệm,
vệ sinh và văn hoá. Mục đích của đời sống mới, như Hồ Chí Minh đã khẳng
định, chính là làm sao cho nhân dân ta có đời sống vật chất ngày càng đầy đủ
hơn, đời sống tinh thần ngày càng vui mạnh hơn chứ không phải nhân dân
luôn sống cuộc sống khổ cực, đói kém.
Sau khi khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không được bao
lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những bức thư gửi cho các giới công thương
Việt Nam (13/10/1945) Người viết: Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra


sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà, thì giới Công
- Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng
và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới CôngThương trong công cuộc kiến thiết này. Người gửi thư cho giới công thương
rằng phải đẩy mạnh phát triển kinh tế, làm thế nào phải đưa nền kinh tế trở
nên vững mạnh hơn, phát triển hơn. Thậm chí Người còn nói rằng Người và
Chính phủ sẽ tận tâm giúp đỡ trong việc đưa nền kinh tế phát triển vượt bậc.
Sau những ngày Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chủ trì cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc.
Tinh thần chủ đạo của cuộc họp là “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà

dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ
giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Đó chính là
những nhiệm vụ quan trọng nhất mà Đảng và Chính phủ phải thực hiện.
Thứ ba, xóa đói, giảm nghèo cần ưu tiên cho đồng bào các dân tộc thiểu
số thuộc vùng khó khăn và những người có công với cách mạng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh sinh ra và lớn lên trong vùng quê nghèo, trong một đất nước với
truyền thống ngàn năm văn hiến, quật cường và anh hùng, đã từng lấy chí
nhân để thay cường bạo, và với người dân từ ngàn xưa đã biết thương người
như thể thương thân, đã không chịu cảnh sống nô lệ của bản thân, của gia
đình, đồng bào và Tổ quốc, Bác đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân tộc
khỏi lầm than, đói khổ và nô lệ. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh học hỏi luôn
là cái tất yếu để rút ra những bài học quý báu. Người bôn ba bao nhiêu năm ở
nước ngoài với mục tiêu lớn nhất đó là làm sao cho nhân dân thoát khỏi cảnh
lầm than, nhân dân được sống một cuộc sống no đủ, hạnh phúc xây dựng một
xã hội tốt đẹp. Bởi vậy Người đã đi đến các nước như Pháp, Trung Quốc… để
học hỏi, nhìn nhận những gì có thể làm thay đổi được bộ mặt của đất nước họ,
từ đó mà vận dụng vào nước ta để xóa bỏ đi cái đói nghèo khổ cực cho đồng
bào dân tộc.


Chúng ta có thể thấy được rằng trong tư duy về kế sách xóa đói, giảm
nghèo, làm cho dân giàu, nước mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm đến đồng bào dân tộc thiểu số thuộc vùng khó khăn và những người có
công với Cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất thông cảm và hiểu rõ đồng bào các dân tộc ở
miền núi, nơi có trình độ kinh tế kém phát triển, thì các dân tộc anh em khác
có điều kiện hơn phải giúp đỡ họ thoát nạn bần cùng, hướng dẫn họ cách thức
làm ăn, giúp họ tổ chức sản xuất. Ngay buổi đầu thành lập nước và trong cuộc
kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
Bao giờ bọn Pháp không trở lại nữa, đồng bào Kinh sẽ rảnh rang giúp đồng

bào Thổ, Mán nhiều hơn. Chính phủ sẽ giúp đồng bào Thổ, Mán như giúp các
dân tộc nhỏ khác được có đủ ruộng làm, đủ trâu bò cày. Như vậy, cuộc sống
của đồng bào dân tộc thiểu số sẽ tốt hơn, xóa đói, giảm nghèo sẽ giúp họ xây
dựng một cuộc sống mới có đầu đủ cơm ăn, áo mặc.
Thứ tư, xóa đói, giảm nghèo phải mang tính chiến lược lâu dài, chống tái
nghèo trở lại. Tinh thần xóa đói, giảm nghèo theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải
biến thành lẽ sống, khát vọng làm giàu, vươn lên của toàn thể nhân dân.
Trong tư duy kế sách xóa đói, giảm nghèo của Chủ tịch Hồ Chí Minh xóa đói,
giảm nghèo phải luôn được thực hiện theo một kế hoạch cụ thể từ đó có thể
đạt được kết quả cao. Người chú trọng động viên kinh tế cho đồng bào dân
tộc, mọi người ai cũng phải tham gia sản xuất, mở rộng diện tích canh tác, thúc
đẩy kinh tế phát triển, thực hiện mọi biện pháp để xóa đói, giảm nghèo cho
bản thân mình. “phải khuyến khích cho nông dân mở mang nông nghiệp, tăng
thêm diện tích cày cấy, khai khẩn đất hoang, cải lương nông cụ” [17, tr.532].
Đó sẽ trở thành chiến lược xóa đói giảm nghèo lâu dài và hiệu quả nhất.
Qua nội dung chính sách xóa đói, giảm nghèo của Người chúng ta
thấy được những nhiệm vụ quan trọng cũng như những con đường để làm


sao cứu đói cho đồng bào, chúng ta phải luôn có trách nhiệm, định hướng
cụ thể cho tương lai. Để hoàn thiện công tác xóa đói giảm nghèo không thể
chỉ nhìn về một phía, một góc độ mà chúng ta phải tiếp cận từ nhiều
phương diện khác nhau.
1.2.3. Biện pháp thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo
Thứ nhất, phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề tăng gia sản xuất. Người yêu cầu
phải thực hiện: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất
nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta
để giữ vững quyền tự do, độc lập” [17, tr.135]. Người cũng coi kinh tế là cơ
sở nền tảng phục vụ phát triển cho con người. Nó chi phối các lĩnh vực khác

nên Người căn dặn phải xây dựng kinh tế trước, bởi muốn nâng cao đời sống
nhân dân, muốn phát triển trước hết con người cần phải có điều kiện, tiền
đề vật chất. Chủ tich Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển
kinh tế cho đồng bào dân tộc thiểu số bởi họ là những con dân có trình độ kinh
tế chưa được cao, Người yêu cầu rằng phải giúp đỡ họ để họ có điều kiện
phát triển hơn thoát khỏi nạn bần cùng để đồng bào dân tộc thiểu số xây dựng
lại cuộc sống mới. Mỗi người nông dân phải tập trung vào tăng gia sản xuất, từ
đó sẽ có đủ lương thực cứu đói mỗi năm “không bỏ một thước đất hoang, để
hòng có nhiều thức ăn về sau này” [17, tr.125].Chúng ta phải có kế hoạch
chống lại những khó khăn để mùa màng bội thu, người nông dân có thể thu
được nhiều mùa màng. Với phương pháp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong
muốn rằng nhân dân, ai cũng được ấm no, ai cũng được hạnh phúc. Người
nói: “Chống hạn thắng sẽ được mùa, Khó nhọc mấy bữa, ấm no cả nhà” [23,
tr.200]. Đây là biện pháp kịp thời khắc phục những khó khăn do thiên tai
mạng lại, tạo mọi điều kiện thuận lợi xóa đói, giảm nghèo cho nhân dân
“Muốn cho đời sống vui tươi, Lúa đủ nước uống thì người thừa ăn” [23,
tr.201].


×