Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Phát triển các kĩ năng ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoat động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.17 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
=====o0o=====

NGUYỄN THỊ THÙY LINH

PHÁT TRIỂN CÁC KĨ NĂNG NGÔN NGỮ CHO

TRẺ MẪU GIÁO LỚN THÔNG QUA HOẠT
ĐỘNG
DẠY TRẺ KỂ CHUYỆN SÁNG TẠO

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Mầm non

HÀ NỘI - 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
=====o0o=====

NGUYỄN THỊ THÙY LINH

PHÁT TRIỂN CÁC KĨ NĂNG NGÔN NGỮ CHO

TRẺ MẪU GIÁO LỚN THÔNG QUA HOẠT
ĐỘNG DẠY TRẺ KỂ CHUYỆN SÁNG TẠO
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Mầm non
Người hướng dẫn khoa học:



TS. LÊ THỊ LAN ANH

HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2, các thầy cô giáo khoa Giáo dục Mầm non, Giáo dục tiểu học.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Lê Thị Lan Anh, người đã
tận tình hướng dẫn chỉ bảo tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu, hoàn thành
khóa luận này.
Tôi cũng xin gửi tới ban giám hiệu và các cô giáo trường mầm non Hùng
Vương- Phúc Yên- Vĩnh Phúc, cùng với các bạn sinh viên K40MN đã giúp đỡ
và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận của mình.
Trong quá trình nghiên cứu, không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn
chế. Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các
bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Thùy Linh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi với sự
hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. Lê Thị Lan Anh. Đề tài không trùng với
bất cứ một kết quả của tác giả nào khác.
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018

Sinh viên

Nguyễn Thị Thùy Linh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài.................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu .........................................................................................4
3. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................4
4. Phạm vi nghiên cứu ...........................................................................................4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................................4
6. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................5
7. Cấu trúc khóa luận ............................................................................................5
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN KĨ
NĂNG NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN THÔNG QUA HOẠT
ĐỘNG DẠY TRẺ KỂ CHUYỆN SÁNG TẠO.......................................................6
1.1. Cơ sở lí luận của việc phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo
lớn ............................................................................................................. . 6
1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học ..................................................................................6
1.1.2. Cơ sở tâm lí học ........................................................................................9
1.1.3. Cơ sở sinh lí học ......................................................................................10
1.1.4. Cơ sở giáo dục học ..................................................................................11
1.1.5. Đặc trưng kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn...............................11
1.1.6. Dạy trẻ kể chuyện sáng tạo .....................................................................18
1.2. Thực trạng của việc phát triển kĩ năng ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn .24
1.2.1. Chương trình dạy học của trẻ mẫu giáo lớn ở trường mầm non .........24
1.2.2. Thực trạng về dạy trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện sáng tạo ở trường mầm
non Hùng Vương- Phúc Yên- Vĩnh Phúc........................................................25
Chương 2. CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG NGÔN NGỮ CHO

TRẺ MẪU GIÁO LỚN THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG DẠY TRẺ KỂ
CHUYỆN SÁNG TẠO VÀ THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ..................................28
2.1. Cơ sở xác định biện pháp và nguyên tắc đề xuất phát triển kĩ năng ngôn
ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo..28
2.1.1. Cơ sở xác định biện pháp phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo
lớn thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo..........................................28


2.1.2. Nguyên tắc đề xuất biện pháp phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ mẫu
giáo lớn thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo. ................................28
2.2. Các biện pháp phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn thông
qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo ........................................................29
2.2.1. Biện pháp phát triển kĩ năng nghe cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt
động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.......................................................................29
2.2.2. Biện pháp phát triển kĩ năng nói cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt
động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.......................................................................35
2.3. Thực nghiệm sư phạm..................................................................................43
2.3.1. Mục đích thực nghiệm ............................................................................43
2.3.2. Thời gian, đối tượng và địa bàn thực nghiệm........................................43
2.3.3. Nội dung thực nghiệm và cách thức tiến hành thực nghiệm ...............44
2.3.4. Kết quả thực nghiệm ...............................................................................52
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .........................................................................57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................60


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục, là một
mắt xích quan trọng trong nền gáo dục quốc dân. Những kĩ năng mà trẻ được
tiếp thu qua chương trình giáo dục mầm non sẽ là nền tảng cho việc hình

thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Nhận thấy được tầm quan trọng của bậc
học này, Đảng và nhà nước luôn đặt sự quan tâm sâu sắc và luôn chỉ đạo đề ra
những chương trình, nội dung phù hợp phát triển tối đa mọi mặt cho trẻ. Một
trong những lĩnh vực được các nhà giáo dục học quan tâm nhất trong giá dục
trẻ ở bậc học này là phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trẻ em có nhu cầu rất lớn trong việc tìm hiểu thế giới xung quanh và
ngôn ngữ chính là phương tiện cần thiết nhất để giúp trẻ khám phá thế giới
xung quanh. Trẻ dùng ngôn ngữ để giao tiếp, thể hiện tình cảm, thể hiện
mong muốn và ước nguyện của bản thân trong các hoạt động học tập, vui
chơi, sinh hoạt thường ngày. Ngôn ngữ không mang tính di truyền, trẻ học
ngôn ngữ thông qua quá trình học tập và tiếp thu từ thế giớ xung quanh trẻ
vậy nên ngôn ngữ phát triển đồng nghĩa với việc tư duy và nhận thức của trẻ
cũng phát triển theo.
Hầu hết các trẻ mầm non đã có vốn từ rất phong phú, tuy nhiên không
phải trẻ nào cũng biết cách sử dụng chúng để dạt hiệu quả cao trong giao tiếp.
Vậy nên việc phát triển các kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ rất quan trọng. Phát
triển kĩ năng ngôn ngữ là phát triển khả năng nghe, nói, đọc, viết cho trẻ
nhằm giúp trẻ có khả năng trình bày một cách có trình tự và logic hơn. Trong
bậc học mầm non chủ yếu phát triển các kĩ năng nghe, nói. Từ khi sinh ra cho
tới khi trẻ 5- 6 tuổi, sự phát triển ngôn ngữ diễn ra ở tốc độ nhanh hơn bất kỳ
giai đoạn nào trong đời. Trong thời gian này trẻ nhanh chóng phát triển các kĩ
năng có thể giúp trẻ sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và trở nên thành thạo

1


trong các mối quan hệ xã hội và mục đích cuối cùng là phát triển ngôn ngữ
cho trẻ bước vào bậc tiểu học.
Trẻ mầm non rất nhạy cảm với nghệ thuật ngôn từ, âm điệu, hình tượng
của các bài hát, bài thơ, những câu chuyện cổ tích, thần thoại. Chính vì vậy

cho trẻ tiếp xúc với văn học và đặc biệt là hoạt động dạy trẻ kể chuyện là con
đường tốt nhất để phát triển ngôn ngữ và các kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ. Để
phát triển các kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ phải kể đến hoạt động dạy trẻ kể lại
truyện sáng tạo. Kể chuyện sáng tạo là việc trẻ kể lại câu truyện bằng ngôn
ngữ của chính trẻ kết hợp với đồ vật, bức tranh hay sự vật xung quanh mà trẻ
đã được nghe, được thấy. Đây là một hình thức giúp trẻ phát triển tư duy, óc
tưởng tượng bay bổng, phát triển khả năng mạnh dạn, tự tin vào bản thân. Tập
cho trẻ kể chuyện sáng tạo giúp cho trẻ rèn khả năng ghi nhớ, mở rộng vốn từ
một cách chủ động, luyện phát âm, phát hiện văn hóa nói, nói cách khác, dạy
trẻ kể truyện sáng tạo giúp phát triển các kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ một cách
hiệu quả thông qua đó trẻ sẽ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự vật,
sự việc nào đó bằng chính ngôn ngữ của bản thân mình.
Bắt đầu những bước đi đầu tiên của mình trên đường đời, trẻ mầm non
cần được giáo dục một cách hệ thống và định hướng để phát triển một cách
toàn diện và đúng đắn. Trong quá trình đó không thể phủ nhận tầm quan trọng
của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Là một giáo viên mầm non, nhận thức
đươc tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ và các kĩ năng ngôn ngữ
cho trẻ, cùng với niềm đam mê về hoạt động dạy trẻ kể truyện sáng tạo, chúng
tôi quyết định chọn đề tài Phát triển các kĩ năng ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo
lớn thông qua hoat động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trẻ em là mầm non tương lai của đất nước, luôn dành được rất nhiều sự
quan tâm từ gia đình, cộng đồng và xã hội. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu
giáo không còn là một vấn đề mới mẻ, bởi lẽ đây là giai đoạn trẻ phát triển

2


ngôn ngữ nhanh hơn bất kì giai đoạn nào trong đời, trẻ sử dụng ngôn ngữ để
khám phá cuộc sống xung quanh, hoàn thiện nhân cách tốt đẹp để bước vào

đời, trẻn thực tế đã có rất nhiều những nghiên cứu về khía cạnh này được
công nhận
Tác giả Nguyễn Xuân Khoa trong cuốn Tiếng Việt tập 1 và Tiếng Việt
tập 2 (2003) [8] đã cung cấp những kiến thức cơ bản về tiếng Việt, từ đó giáo
viên có vốn kiến thức tốt để phát triển tiếng mẹ đẻ cho trẻ. Cuốn sách là tài
liệu cần thiết và bổ ích cho giáo viên cũng như sinh viên ngành Giáo dục
mầm non.
Trong cuốn Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo (2004)
[7], tác giả Nguyễn Xuân Khoa dựa trên các mối liên hệ giữa bộ môn ngôn
ngữ học và các môn học khác đồng thời liên hệ với đặc điểm phát triển sinh lí
của trẻ giai đọan này, tác giả đã đưa ra phương pháp phát triển ngôn ngữ, đặc
biệt ông đưa ra các biện pháp dạy trẻ nghe và phát âm đúng.
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết trong cuốn Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm
non (2005)[15], đã đề cập đến sự phát triển vốn từ của trẻ mầm non ở từng
giai đoạn, độ tuổi. Trên cơ sở dựa vào đặc điểm phát triển ở từng độ tuổi để
có những biện pháp phù hợp giúp trẻ phát triển vốn từ một cách hiệu quả.
Tác giả Đinh Hồng Thái trong cuốn Phương pháp phát triển lời nói
cho trẻ em (2007)[13], đã chú trọng đến việc dạy nói cho trẻ, phát triển
lời nói mạch lạc, phát triển vốn từ nghệ thuật cho trẻ thông qua các tác phẩm
văn học.
Năm 2014 trong cuốn Văn học trẻ em (2014) [9], tác giả Lã Thị Bắc Lí
đã liệt kê một số nhà viết cho thiếu nhi và những tác phẩm của họ, phù hợp
với nhu cầu và hứng thú nghe, kể của trẻ mầm non.
Tác giả Lã Thị Bắc Lý - Lê Thị Ánh Tuyết trong cuốn Phương pháp dạy
trẻ mầm non làm quen với tác phẩm văn học (2014)[10], đã đưa ra các
phương pháp tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học trong
tổ chức hoạt động giáo dục tích hợp ở trường mầm non.
3



Tạp chí Giáo dục cũng từng đăng rất nhiều bài báo về phát triển ngôn
ngữ cho trẻ, có thể kể đến bài báo của Đinh Thị Uyên trong tạp chí 1/2006
Tìm hiểu về chương trình phát triển ngôn ngữ của trẻ mầm non tại Hàn Quốc.
Bài báo đã chỉ ra nhiều điểm khác biệt và tương đồng trong chương trình phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non tại Hàn Quốc và nước ta.
Tạp chí giáo dục 4/2006, Nguyễn Thị Tuyết Sương với bài viết Giúp trẻ
cảm thụ truyện qua hệ thống câu hỏi, tác giả đã đưa ra nhiều luận điểm hay và
thiết thực, có thể áp dụng vào việc xây dựng hoạt động cho trẻ làm quen với
tác phẩm văn học và dạy trẻ kể lại chuyện.
Như vậy có rất nhiều các công trình nghiên cứu về việc phát triển ngôn
ngữ cho trẻ rất bổ ích. Tuy nhiên, tới thời điểm này chúng tôi nhận thấy chưa
có công trình nghiên cứu nào đi sâu khai thác việc dạy trẻ kể truyện sáng tạo
nhằm phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ. Đây là một vấn đề mới mà chúng
tôi đã tìm được và đã có hướng đi riêng dựa trên sự tìm hiểu, đánh giá và thực
nghiệm của chính bản thân mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích phát triển kĩ năng ngôn
ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các biện pháp phát triển kĩ năng ngôn
ngữ.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của khoá luận chúng tôi chỉ nghiên cứu vấn đề phát
triển các kĩ năng ngôn ngữ(nghe, nói) cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt
động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo ở trường mầm non Hùng Vương- Phúc YênVĩnh Phúc.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.

4



Chúng tôi nghiên cứu nhằm thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc phát triển các kĩ năng ngôn
ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
- Đưa ra một số biện pháp để phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ mẫu
giáo lớn thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
- Thực nghiệm sư phạm tại lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi trường mầm non
Hùng Vương- Phúc Yên- Vĩnh Phúc.
6. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp chuyên gia
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận gồm có 2 chương
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc phát triển kĩ năng ngôn
ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
Chương 2: Các biện pháp phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo
lớn thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo và thực nghiệm sư phạm.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG
NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG

DẠY TRẺ KỂ CHUYỆN SÁNG TẠO
1.1. Cơ sở lí luận của việc phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ mẫu
giáo lớn
1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản của một cộng đồng người, nó
có vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Nhờ ngôn ngữ, con
người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau những kinh
nghiệm từ đời này qua đời khác, là phương tiện để diễn đạt tình cảm cùng bao
nỗi niềm tâm sự. Ngôn ngữ là phương thức biểu đạt hiệu quả những suy nghĩ,
nhu cầu, mong muốn của bản thân thông qua lời nói. Chính vì vậy, trong 5
năm đầu đời, sự phát triển của ngôn ngữ cần được đặc biệt quan tâm. Ngôn
ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục trẻ trở thành con người
phát triển toàn diện. Sự phát triển chậm chễ của ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển của trẻ, đặc biệt là trẻ 5 - 6 tuổi.
Trẻ mẫu giáo lớn đang trong giai đoạn phát triển nhanh vì vậy vốn từ
của trẻ lên đến 2000- 4000 từ, trẻ có khả năng nghe, hiểu và diễn đạt lại
những già trẻ nghe thấy. Trong giai đoạn này, trẻ cũng đã biết sắp xếp và
thêm thắt những chi tiết cho câu chuyện, các nhà giáo dục cần phải nắm bắt
những đặc điểm theo từng giai đoạn của trẻ để đề ra những biện pháp, hình
thức phát triển ngôn ngữ cũng như những kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ đúng lúc
và phù hợp.
Trẻ phát triển khả năng ngôn ngữ của mình trong hầu hết các hoạt động
vui chơi, sinh hoạt, học tập… Tuy nhiên, trẻ có mức độ phát triển ngôn ngữ
khác nhau, một số trẻ còn nói ngọng, phát âm chưa chuẩn, vì vậy việc phát
triển kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ là rất cần thiết. Trẻ phát triển được kĩ năng

6


ngôn ngữ của mình trong hầu hết các hoạt động, tuy nhiên, những tác phẩm

văn học lại có tác động tích cực hơn hẳn đến khả năng ngôn ngữ của trẻ, đặc
biệt là khi trẻ được kể lại câu chuyện mình nghe thấy theo trí nhớ và sức
tưởng tượng phong phú của trẻ.
Khi nghe được những câu chuyện và cảm nhận được nội dung câu
chuyện, trẻ có nhu cầu được kể lại câu chuyện. Cảm xúc ngôn ngữ khi kể lại
chuyện của trẻ được thể hiện qua nét mặt, cử chỉ, ánh mắt, giọng nói và tư thế
trong quá trình kể. Tuy nhiên, khả năng sử dụng ngôn ngữ của trẻ vẫn chưa
tốt, kĩ năng bộc lộ thái độ, cảm xúc với những sự vật, hiện tượng vẫn chưa
phát triển hoàn thiện. Vì thế, đây chính là thời điểm thích hợp để dạy trẻ kể lại
chuyện, đặc biệt là dạy trẻ kể lại chuyện sáng tạo. Dạy trẻ kể chuyện sáng tạo
giúp trẻ tự tin, mạnh dạn đồng thời góp phần lớn trong việc phát triển các kĩ
năng ngôn ngữ cho trẻ.
1.1.1.1.Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn
Trẻ mẫu giáo lớn có thể sử dụng thông thạo tiếng mẹ đẻ để giao tiếp.
Khả năng ngôn ngữ của trẻ liên quan chặt chẽ với sự phát triển trí tuệ và
những trải nghiệm cá nhân. Trẻ có thể dùng ngôn ngữ để thể hiện mối quan hệ
qua lại nhiều mặt giữa các sự vật, hiện tượng mà trẻ nhận thức được; bước
đầu biết khái quát và đưa ra kết luận như “chanh thì chua, kẹo thì ngọt”, “bố,
mẹ thì trẻ; ông, bà thì già”…Vốn từ ngày càng phong phú. Trẻ đã hiểu và
dùng được một số từ khái quát, có nghĩa đối lập như: “bé xíu - to đùng”,
“chua loét - ngọt lừ”…Lời nói của trẻ có tính chất biểu cảm, biết sử dụng ngữ
điệu, cách nói so sánh để diễn đạt, thu hút sự chú ý của mọi người. Sự tích
cực hóa vốn từ ngày càng rõ nét. Trẻ thích sử dụng các từ mới biết hoặc từ mà
trẻ nghĩ ra trong các tình huống giao tiếp; đưa chúng vào các hoạt động ngôn
ngữ sáng tạo như kể chuyện, đóng kịch, chơi trò chơi đóng vai...Tuy nhiên,
khả năng ngôn ngữ của từng cá nhân trẻ ở giai đoạn này vẫn còn có sự khác
biệt lớn về mức độ phong phú của vốn từ, khả năng diễn đạt mạch lạc, nói

7



đúng ngữ pháp và thể hiện lời nói sáng tạo
 Đặc điểm về vốn từ
So với lứa tuổi nhà trẻ thì trẻ 5 - 6 tuổi nắm được số lượng từ nhiều hơn
hẳn. Trẻ 5 - 6 tuổi có thể sử dụng từ 2500 đến 2600 từ, còn trẻ 6 tuổi có
khoảng 3000 đến 4000 từ, trong đó tính từ và các loại từ khác danh từ, động
từ đã chiếm tỷ lệ cao hơn [7; tr.136]. Trẻ biết sử dụng những từ này để bày tỏ
cảm xúc, nhu cầu của mình đối với người lớn. Số lượng từ của trẻ tăng lên
nhờ các tác động khác nhau, trong đó chủ yếu tăng lên trong quá trình vui
chơi, tiếp xúc ngôn ngữ với những người xung quanh, trình độ học vấn của bố
mẹ… Người lớn ngoài việc làm phong phú thêm vốn từ cho trẻ còn phải mở
rộng nghĩa các từ đã biết cho trẻ.
Ở độ tuổi này số lượng danh từ, động từ vẫn chiếm ưu thế, tuy nhiên
lượng tính từ cũng tăng nhanh, Trẻ biết sử dụng một cách rất sáng tạo các loại
từ. Trẻ nắm rõ nghĩa của nhiều tính từ chỉ không gian (cao- thấp, dài- ngắn,
trên- dưới,…), từ chỉ màu sắc cũng phong phú hơn: xanh nhạt, xanh đậm,
hồng phấn, hồng nhạt… Trẻ đã xác định được mối quan hệ giữa vỏ âm thanh
của từ với vật mà từ biểu thị, tuy nhiên việc sử dụng từ của trẻ đôi khi còn
chưa phù hợp, đặc biệt là khi sử dụng những từ có nhiều nghĩa.
 Đặc điểm về phát âm
Giai đoạn này các cơ quan phát âm của trẻ đã phát triển và dần hoàn
thiện. Trẻ đã dần được định hình về các phụ âm, nguyên âm, thanh điệu. Trẻ
còn biết phát âm có ngữ điệu (trầm- bổng, cao- thấp, nhanh- chậm..) kết hợp
với nét mặt, chính đặc điểm này giúp cho câu nói của trẻ trong giai đoạn này
biểu cảm, phong phú hơn.
Ví dụ: Khi kể lại một câu chuyện, trẻ sẽ biết lên giọng khi diễn tả lời
thoại của một đứa trẻ và trầm giọng xuống khi diễn tả lời thoại của một bà cụ.
Trẻ 5 - 6 tuổi ghi nhớ và bắt chước rất nhanh, đặc biệt là bắt chước
những lời nói, biểu cảm của người lớn. Sự hoàn thiện về cơ quan phát âm


8


giúp trẻ 5 - 6 tuổi có sự phát triển vượt trội về phát âm so với trẻ ở những giai
đoạn trước.
 Đặc điểm về ngữ pháp
Thay vì chỉ sử dụng câu đơn có 2 thành phần danh từ và động từ thì
trong độ tuổi 5 - 6 tuổi trẻ đã biết ghép các từ thành câu dài và mang ý nghĩa
hoàn chỉnh hơn, phong phú hơn. Trẻ sử dụng nhiều câu ghép hơn trong đoạn
thoại của mình. Tuy nhiên chủ yếu trẻ vẫn sử dụng nhiều câu đơn mở rộng.
Ví dụ: Câu ghép đẳng lập: Con học bài, anh hai chơi điện tử
Câu ghép chính phụ: Chị Hoa nấu cơm ngon nhưng con không thích chơi
với chị Hoa.
Trẻ đã biết sử dụng một câu đầy đủ, ít sử dụng câu rút gọn, câu cụt hơn
so với giai đoạn trước.
Ví dụ: Thay vì nói “bế” như độ tuổi nhà trẻ, thì trẻ 5 - 6 tuổi sẽ nói “mẹ
ơi bế con”.
1.1.2. Cơ sở tâm lí học
Tiền đề của ý thức bản ngã là việc tự tách mình ra khỏi người khác đã
được hình thành từ cuối tuổi ấu nhi. Tuy nhiên phải trải qua một quá trình
phát triển thì ý thức bản ngã của trẻ mới được xác định rõ ràng. Đến cuối tuổi
mẫu giáo, trẻ mới hiểu được mình khác mọi người như thế nào, mọi người đối
xử với mình ra sao,.. Ý thức bản ngã được thể hiện rõ trong việc trẻ tự đưa ra
những nhận xét về việc làm, hành vi, thái độ của mình. Trẻ thích nghe những
câu chuyện có tính chất kịch tính và nhiều nhân vật hơn so với giai đoạn
trước. Trẻ cũng đánh giá được nhân vật tốt, xấu, tại sao nhân vật đó là nhân
vật tốt, xấu.
Trẻ hay đặt mình làm trung tâm, chúng bắt đầu biết ích kỉ, không muốn
chia sẻ, hay hiếu thắng và luôn muốn thể hiện mình là nhất. Trẻ hay so sánh
mình với người khác, bạn khác, đặc biệt ở độ tuổi này trẻ thích được xem

phim hoạt hình, truyện tranh và hình tượng hóa một nhân vật, mong muốn

9


trở thành người như trong hình mẫu của mình, chính vì vậy, đây là thời gian
thích hợp để giáo dục trẻ noi gương cái tốt, cái đẹp qua những nhân vật
trong câu chuyện.
 Đặc điểm tri giác
Trẻ tri giác những thứ phù hợp với nhu cầu của trẻ, những thứ thường
được gặp và những gì cô giáo hướng dẫn. Trẻ có tính cảm xúc cao, nên những
gì sặc sỡ, màu mè thường được trẻ chú ý hơn và gây được hứng thú hơn cho
trẻ. Vì vậy, một hoạt động học cần phải được chuẩn bị tốt đồ dùng trực quan,
khơi gợi hứng thú và sự tò mò, ham muốn tìm hiểu của trẻ.
 Đặc điểm chú ý
Sự chú ý của trẻ được duy trì lâu hơn so với giai đoạn trước vì sự phát
triển mạnh của hệ thần kinh. Trẻ độ tuổi này có khả năng duy trì sự chú ý của
mình trong hoạt động kéo dài từ 30-35 phút. Trẻ bị thu hút bởi những điều
mới lạ, đặc sắc và những hình tượng nhân vật kiểu mẫu. Trẻ hay kể lại một
câu chuyện, một bộ phim theo ấn tượng riêng của bản thân mình và phóng đại
sự việc trong bộ phim, câu chuyện đó. Tuy nhiên, việc khen thưởng, động
viên, nhắc nhở của giáo viên cũng tác động rất lớn đến sự chú ý của trẻ, vì
vậy giáo viên cũng cần tạo ra những động cơ thúc đẩy tương tự trong quá
trình tổ chức hoạt động.
 Đặc điểm trí nhớ
Giai đoạn này, tư duy hình ảnh vẫn phát triển mạnh mẽ hơn so với tư
duy logic. Việc ghi nhớ hình ảnh trực quan dễ dàng hơn nhiều so với việc ghi
nhớ những từ ngữ máy móc, lời giải thích dài dòng. Đây là một điểm đáng
lưu ý trong quá trình tổ chức cho trẻ kể chuyện sáng tạo.
1.1.3. Cơ sở sinh lí học

Ở giai đoạn này, sinh lí của trẻ phát triển chậm hơn về lượng so với giai
đoạn trước. Chiều cao tăng từ 4-6 cm, cân nặng tăng từ 1-1.25kg. Tuy nhiên,

10


sự thay đổi về chất lại vượt bậc so với giai đoạn nhà trẻ.
Hệ thần kinh: Hệ thần kinh của trẻ trong giai đoạn này phát triển vượt
bậc và dần được hoàn thiện, tính linh hoạt và cường độ cũng tăng lên rõ rệt.
Trẻ có khả năng tập trung, chú ý vào một đối tượng nhất định từ 25-35 phút.
Hơn thế, trẻ còn có thể sử dụng tư duy, tập trung suy nghĩ vấn đề một cách
hợp lí và logic. Khả năng ghi nhớ vượt bậc hơn hẳn so với giai đoạn trước.
Hệ hô hấp: Nhịp thở của trẻ giảm dần, chỉ còn 20-30 lần trên phút. Cơ
quan phát âm hoàn thiện, trẻ có thể lấy hơi và giữ hơi lâu hơn cho một câu
hát, câu nói dài, từ đó ngôn ngữ của trẻ cũng phát triển hơn. Tổ chức tai, mũi,
họng cũng ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện cho trẻ phát triển ngôn ngữ.
1.1.4. Cơ sở giáo dục học
Ở giai đoạn này trẻ tiếp thu thông tin một cách nhanh và chính xác, ghi
nhớ lâu dài, những câu chuyện được đưa vào chương trình cũng mang nội
dung kịch tính và đa dạng về nhân vật hơn. Độ tuổi 5 - 6 tuổi, ý chí bản ngã
của trẻ đang rất mạnh, vậy nên việc giáo dục, uốn nắn trẻ cần phải kịp thời,
đúng cách. Trong đó, việc giáo dục trẻ qua những câu chuyện, nhân vật tốt
cho trẻ noi gương là một biện pháp hiệu quả.
1.1.5. Đặc trưng kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn
1.1.5.1. Khái niệm kĩ năng
Kĩ năng là hiện tượng tâm lí được nghiên cứu sâu trong tâm lí học.
Những năm trở lại đây, ngày càng có nhiều công trình khoa học nghiên cứu
về kĩ năng của con người trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau. Có thể
thấy, vấn đề này được đề cập ở ba góc độ chính như sau:
+ Thứ nhất, Kĩ năng là một thành phần của hành động, thể hiện mặt kĩ

thuật của hành động đó. P.A. Ruđich (1980) coi “Kĩ năng là động tác mà cơ
sở của nó là sự vận dụng thực tế các kiến thức đã tiếp thu được để đạt kết quả
trong một hình thức hoạt động cụ thể” [12; tr.124]. Ông đã chỉ ra đặc điểm cơ
bản của kĩ năng: “Trong kĩ năng, các thao tác riêng lẻ có thể là chưa hoàn

11


toàn hoàn thiện: chúng thường còn kéo dài quá, trong tiến trình thực hiện
động tác còn mắc những sai lệch nào đó, đòi hỏi nỗ lực quá mức, gây nên mệt
mỏi…Vì vậy, người ta phân biệt kĩ năng lớn hơn hay kĩ năng bé hơn” [12;
tr.125]. E.V. Gurianov cho rằng “Kĩ năng là phương thức thực hiện hành
động phù hợp với mục đích và điều kiện của hành động” [8; tr.103].
Nhóm tác giả Phạm Tất Dong, Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Hải Khoát
(2004) cho rằng: “Kĩ năng là một hệ thống các hành động thể lực và trí tuệ,
các biện pháp và cách thức mà nhờ đó, một dạng hoạt động nào đó được thực
hiện và đạt tới mục đích đề ra” [4; tr.274].
+ Thứ hai, kĩ năng được xem xét trong phạm vi hẹp hơn, tách khỏi hành
động vật chất, hành động trí tuệ mà chủ yếu được đánh giá về mặt thái độ,
hành vi ứng xử của con người trong các mối quan hệ với thế giới tự nhiên và
với người khác. Cá nhân nào giao tiếp, ứng xử, hành động…phù hợp với quy
luật tự nhiên và xã hội thì được đánh giá là có kĩ năng. Nếu sự phát triển cao
của kĩ năng theo hướng thứ nhất được gọi là “kĩ xảo” thì sự phát triển cao của
kĩ năng theo hướng này được đánh giá là “nghệ thuật”. Chẳng hạn, J.N,
Richard (2003) coi kĩ năng là hành động được thể hiện ra bên ngoài, chịu sự
chi phối của cách cảm nhận và suy nghĩ của cá nhân. Như vậy, với các tác giả
này, trong kĩ năng, ngoài việc cần có tri thức, hiểu biết, khả năng hành động,
kết quả hành động, còn cần có thái độ, quan điểm, giá trị của cá nhân
[11;tr.93].
Có thể thấy, dù tồn tại ba cách tiếp cận khác nhau như trên nhưng chúng

không mâu thuẫn nhau về bản chất, mà chỉ khác nhau ở chỗ, mỗi cách tiếp
cận cho chúng ta một cách nhìn mới về KN. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
xem xét kĩ năng vừa là mặt kĩ thuật của hành động, vừa là năng lực của cá
nhân (tích hợp hướng 1 và hướng 2) vì những lí do sau:
- Kĩ năng được biểu hiện trong hành động và hoạt động của cá nhân qua
hệ thống các thao tác cụ thể. Dấu hiệu này thể hiện mặt bên ngoài của kĩ

12


năng, đảm bảo cho kĩ năng mang tính kĩ thuật.
+ Để có được kĩ năng, con người phải vận dụng tri thức, kinh nghiệm
vào trong hành động, hoạt động sao cho phù hợp với điều kiện của hoạt động
ấy. Dấu hiệu này thể hiện mặt bên trong của kĩ năng, cho thấy kĩ năng không
chỉ thuần tuý là kĩ thuật hành động mà còn là sự hiểu biết: biết về đối tượng
và biết cách vận dụng hiểu biết này để tác động vào đối tượng (biết làm).
+ Tuy nhiên, nếu cá nhân vận dụng những yếu tố trên một cách tuỳ tiện
thì hành động/hoạt động hoặc không đạt kết quả, hoặc kết quả chỉ mang tính
ngẫu nhiên. Do đó, việc vận dụng tri thức, kinh nghiệm của cá nhân phải đảm
bảo đúng (với yêu cầu của hành động/hoạt động), thuần thục, linh hoạt (khi
điều kiện hoạt động thay đổi) và đem lại kết quả nhất định cho hành
động/hoạt động ấy. Đây là dấu hiệu cho thấy kĩ năng phản ánh năng lực của
cá nhân vì nó được hình thành trong hoạt động, đáp ứng yêu cầu của hoạt
động và được đánh giá cũng bằng sản phẩm của hoạt động.
Trên cơ sở đó, chúng tôi quan niệm kĩ năng là sự vận dụng tri thức, kinh
nghiệm hành động/hoạt động đã có của cá nhân vào thực hiện có kết quả
hành động/hoạt động trong những điều kiện xác định.
1.1.5.2. Đặc trưng kĩ năng ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn
Có kĩ năng ngôn ngữ kĩ chính là nghe, nói, đọc, viết. Nhưng ở độ tuổi 5 6 tuổi, chúng ta chỉ xét đến 2 kĩ năng ngôn ngữ chính trong giai đoạn là kĩ
năng nghe và kĩ năng nói

 Kĩ năng nghe
a. Khả năng nghe của trẻ
Nghe là khả năng tiếp nhận âm thanh bên ngoài môi trường qua tai. Khi
nghe, con người có thể biết được việc đang diễn ra, hoạt động xung quanh và
hiểu được người đối diện muốn truyền tải thông điệp, yêu cầu gì.
Khả năng nghe của trẻ đã phát triển ngay từ khi còn trong bụng mẹ,
thông qua việc mẹ cho trẻ nghe âm nhạc mỗi ngày. Ngay từ khi lọt lòng, trẻ

13


có thể nghe được nhiều loại âm thanh khác nhau, nghe nhiều ngữ điệu thể
hiện các sắc thái tình cảm khác nhau, nghe các giọng nói biểu cảm khác nhau.
Tuy nhiên, trẻ chưa thể hiểu hết được ý nghĩa của những âm thanh đó.
b. Kĩ năng nghe của trẻ mẫu giáo lớn
Trẻ mẫu giáo lớn có khả năng nghe đồng thời cũng lúc nhiều âm thanh
khác nhau, tuy nhiên sự chọn lọc âm thanh khi nghe của trẻ còn chưa phát
triển. Trẻ chỉ quan tâm đến âm thanh phát ra, đôi khi quên mất việc cần phải
hiểu ý nghĩa của âm thanh đó. Việc lắng nghe bề nổi của một cuộc hội thoại
dễ dàng hơn so với việc đào sâu để hiểu rõ những ẩn ý mấu chốt bên trong.
Nghe chỉ là bề nổi, cái mấu chốt của việc nghe chính là hiểu nội hàm
bên trong, và quá trình nắm bắt nội hàm đó một cách thông minh hay còn gọi
là kĩ năng nghe. Kĩ năng nghe của trẻ mẫu giáo lớn đã phát triển hơn so với
lứa tuổi trước, đặc biệt là khả năng nghe hiểu. Thay vì ghi nhớ và hiểu máy
móc một câu chuyện thì trẻ đã biết cách chọn lọc từ khóa để nghi nhớ câu
chuyện, nội dung cuộc thoại, đây là một bước phát triển vượt bậc so với giai
đoạn trước. Kĩ năng nghe giúp trẻ hiểu được vấn đề một cách khái quát,
không máy móc, dập khuôn- đây là một đặc điểm quan trọng trong việc giúp
trẻ phát triển kĩ năng ngôn ngữ thông qua việc kể chuyện sáng tạo.
 Kĩ năng nói của trẻ mẫu giáo lớn

a. Khái niệm kĩ năng nói
Khái niệm:
- Khái niệm nói
Hiện nay, có hai hướng quan niệm khác nhau về bản chất của “nói”: (1)
Nhấn mạnh mặt vật chất (vỏ âm thanh) của lời nói. Theo đó, “nói” vừa được
xem là một bộ phận tạo thành “lời nói” trong quá trình giao tiếp, vừa được
xác định như quá trình phát âm, quá trình âm vang (F.de Sausure, 1977) [11;
tr.150]; (2) Nhấn mạnh mặt tâm lí của lời nói khi cho rằng “nói” là hoạt động
lời nói (L.V.Serba, 1974; I.A.Dimnhia,1985) [11; tr.150].

14


Chúng tôi tán thành cách phân biệt theo hướng thứ hai, vì theo quan
điểm hoạt động, lời nói không phải chỉ là phần âm thanh nghe được, mà thực
chất, nó là kết quả của quá trình hoạt động có sử dụng ngôn ngữ để thực hiện
mục đích nào đó của con người.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu nói là một dạng hoạt động lời nói
sử dụng ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp theo quy định của ngôn ngữ cụ thể để thể
hiện ý phĩ hợp với tình huống hay hoàn cảnh nói.
- Khái niệm kĩ năng nói
Những phân tích trên về kĩ năng và khái niệm nói cho thấy, chỉ có thể
nêu ra quan niệm đầy đủ về kĩ năng nói khi xem xét nó dưới góc độ hoạt
động. Trong nghiên cứu này, kĩ năng nói có bản chất hoạt động, vừa được
đánh giá về mặt thao tác kĩ thuật (của các hành động nói), vừa được đánh giá
về mặt năng lực (hoạt động nói) của cá nhân.
Theo đó, kĩ năng nói là sự vận dụng những tri thức, kinh nghiệm hành
động/ hoạt động ngôn ngữ đã có của cá nhân vào thực hiện có kết quả hành
động/ hoạt động sửdụng ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp theo quy định để thể hiện
ý muốn nói trong những điều kiện, tình huống lời nói xác định.

Từ quan niệm trên, có thể thấy, kĩ năng nói gồm các kĩ năng thành
phần sau:
+ Kĩ năng sử dụng ngữ âm: là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm hành
động/hoạt động ngôn ngữ đã có vào thực hiện hành động/ hoạt động sử dụng
ngữ âm theo quy định để thể hiện ý; được thể hiện ở việc: (1) Biết phát âm
các âm vị; (2) Biết nói thanh điệu của từ; (3) Biết nói ngữ điệu của câu; (4)
Biết nhấn trọng âm logic của câu để thể hiện ý.
+ Kĩ năng sử dụng từ: là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm hành động/
hoạt động ngôn ngữ đã có vào thực hiện hành động/ hoạt động sử dụng từ
theo quy định; được thể hiện ở việc: (1) Biết sử dụng nghĩa của từ (nghĩa gốc,
đồng nghĩa, gần nghĩa); (2) Biết sử dụng từ đúng với đặc điểm ngữ pháp của

15


nó; (3) Biết sử dụng từ trái nghĩa; (4) Biết sử dụng từ nhiều nghĩa; (5) Biết sử
dụng nguồn phương tiện tu từ để thể hiện ý.
+ Kĩ năng sử dụng ngữ pháp: là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm hành
động/hoạt động ngôn ngữ đã có vào thực hiện hành động/ hoạt động sử dụng
ngữ pháp theoquy định; được thể hiện ở việc: (1) Biết sử dụng trật tự câu; (2)
Biết phát triển thànhphần câu; (3) Biết sử dụng các kiểu câu khác nhau tùy
theo mục đích nói; (4) Biết sửdụng ngữ điệu để thể hiện ý.
+ Kĩ năng sử dụng ngôn ngữ để thể hiện ý phù hợp với tình huống lời
nói: là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm hành động/ hoạt động ngôn ngữ đã
có vào thực hiện hành động/ hoạt động sử dụng ngôn ngữ cụ thể để thể hiện ý
muốn nói; được thể hiện ở việc: (1) Biết sử dụng ngôn ngữ để thể hiện ý phù
hợp với vai giao tiếp; (2) Biết thể hiện ý ngắn gọn, dễ hiểu; (3) Biết phát triển
ý nói ra theo tình huống lời nói; (4) Biết thể hiện ý một cách rõ ràng, lưu loát.
Trong 4 kĩ năng thành phần trên (với tư cách là biểu hiện cụ thể của kĩ
năng nói), kĩ năng thứ 4 mang tính chất tổng hợp và bộc lộ đầy đủ nhất năng

lực của cá nhân trong hoạt động lời nói.
Kĩ năng nói cũng mang những đặc điểm của kĩ năng nói chung, như tính
đúng đắn,tính thành thục, tính linh hoạt.
b. Con đường hính thành kĩ năng nói
J.Piaget (1923) đã khái quát con đường hình thành lời nói của trẻ bằng
sơ đồ sau: Lời nói bên trong (Lời nói tự thân của trẻ, chưa có tính chất xã hội)
=> Lời nói tự kỉ trung tâm => Lời nói bên ngoài (được xã hội hóa). Cụ thể,
con đường này được diễn ra qua 4 chặng: Phân chia các chức năng ngôn ngữ;
Tách bạch ngôn ngữ bên trong; Thu gọn dần ngôn ngữ bên trong; Chuyển
thành ngôn ngữ bên trong.
Đồng ý với J.Piaget ở chỗ hình thành ngôn ngữ, kĩ năng nói ở trẻ là một
quá trình mang tính xã hội, thừa nhận vai trò quan trọng của lời nói tự kỉ trung
tâm nhưng L.x.Vưgotsky (1934) chỉ ra con đường hình thành ngôn ngữ của

16


trẻ theo hướng ngược lại- chuyển ngôn ngữ bên ngoài thành ngôn ngữ bên
trong theo sơ đồ: Lời nói bên ngoài(có tính chất xã hội)=> Lời nói tự kr trung
tâm=> Lời nói bên trong. Ông chỉ ra rằng quy luật cơ bản của việc chuyển
ngôn ngữ như trên để nắm vững ngôn ngữ là quy luật hoạt động hai lần: Lần
đầu, đứa trẻ cần thực hiện hoạt động lời nói tập thể, hoạt động tập thể; lần thứ
hai, đứa trẻ cần thực hiện hoạt độgn lời nói cá nhân, hình thành lời nói bên
trong cho mình.
c. Kĩ năng nói của trẻ mẫu giáo lớn
Kĩ năng nói của trẻ mẫu giáo lớn được hình thành, bộc lộ và phát triển
chủ yếu qua quá trình giao tiếp với mọi người xung quanh. Vì vậy, nhu cầu
nói gắn bó chặt chẽ với nhu cầu giao tiếp. Việc nói luôn hướng đến đối tượng
cụ thể: Nói cái gì? Nói với ai? Nói bằng cách nào…chứ không chỉ là “nói để
mà nói” (vì lời nói không gắn vào văn cảnh cụ thể sẽ trở nên vô nghĩa). Chính

mong muốn được nói, được thể hiện ý trong đầu thành lời nói, đã thúc đẩy trẻ
bật ra những âm, từ, câu cụ thể với người khác. Dù ban đầu, lời nói của trẻ có
thể chưa đúng về mặt phát âm, ý nghĩa hoặc cấu trúc nhưng việc nói thường
xuyên trong những quan hệ này sẽ làm cho khả năng phản ứng với các tác
động ngôn ngữ ngày càng trở nên nhanh nhạy; biết đón và duy trì lượt lời
trong các đoạn hội thoại.
Mức độ trẻ mẫu giáo lớn nói từ, câu ngày càng chính xác, linh hoạt, sáng
tạo, biểu cảm. Nhiều trẻ có những tiền đề để nói rất tốt (bộ máy phát âm
tương đối hoàn thiện, tai nghe chuẩn, phát âm nhanh, tương đối chính xác)
nhưng thiếu nhu cầu giao tiếp (do bản thân trẻ gặp biến động về mặt tình cảm,
tâm lí, bị căng thẳng, lo âu dẫn đến thu mình, lảng tránh trong các mối quan
hệ; hoặc do nhóm bạn chơi, hoàn cảnh giao tiếp không phù hợp với nguyện
vọng, hứng thú của trẻ; hoặc trẻ nhút nhát, không dám nói do sợ nói không
đúng ý người lớn sẽ bị mắng, phạt…) dẫn đến trẻ không muốn giao tiếp, nói
chuyện với ai. Điều này khiến trẻ mất đi những cơ hội tốt để bộc lộ và rèn

17


luyện kĩ năng nói.
1.1.5.3. Sự cần thiết của việc phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ mẫu
giáo lớn
Khả năng nghe nói cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo lớn không chỉ giúp trẻ tiếp
thu tri thức nhân loại, giúp trẻ biết lắng nghe và thể hiện suy nghĩ, tình cảm
của trẻ mà còn chuẩn bị cho việc làm quen với chữ viết và tập đọc ở các bậc
học trên.
Khi có kĩ năng nghe tốt, trẻ sẽ hiểu được vấn đề mà người khác đang
truyền đạt một cách khái quát, nắm bắt câu chuyện một cách nhanh nhạy hơn
Kĩ năng nói tốt giúp trẻ thể hiện được những điều trẻ nghĩ, tình cảm của
trẻ và cả ý kiến của trẻ theo một cách diễn đạt đúng trình tự, logic và hợp lí.

Vì vậy, ngay trong trường mầm non, cần có những biện phát tích cực
nhằm phát triển Kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ.
1.1.6. Dạy trẻ kể chuyện sáng tạo
1.1.6.1. Khái niệm
a. Khái niệm kể chuyện
Kể là một động từ biểu thị hành động nói. Kể là một hình thức hoạt động
ngôn ngữ. Kể chuyện là hình thức thông tin nhanh gọn, truyền cảm bằng ngôn
ngữ, kể chuyện là hình thức khởi đầu của tích lũy tri thức khoa học, kinh
nghiệm sống, nó có chức năng thông tin. Ở từng độ tuổi, ngôn ngữ ngày càng
phát triển, số từ cơ bản tăng thêm, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng
phong phú thì kể chuyện không chỉ dừng ở mức độ thông tin mà còn là
phương tiện giải trí hay cao nhất nó mang ý nghĩa nghệ thuật.
Kể chuyện là hình thức ngôn ngữ độc thoại, thuật bằng lời có logic, có
tình cảm về một sự kiện theo chiều phát triển của nó. Khi kể chuyện, trẻ phải
tự lựa chọn ý tưởng, nội dung chuyện và hình thức ngôn ngữ, nhớ lại sự vật
hiện tượng bằng sự quan sát thế giới xung quanh theo trình tự diễn biến sự
việc trong một khoảng thời gian nhất định và diễn tả lại sự việc đó bằng ngôn

18


ngữ của mình. Trong khi kể, trẻ lồng vào đó những suy nghĩ, tình cảm, cảm
xúc của mình- nghĩa là trẻ sử dụng chính ngôn ngữ của bản thân để bộc lộ
những điều mà chúng thấy, chúng nghe được, cảm xúc và nhận biết được. Vì
vậy người ta sử dụng các hình thức kể chuyện khác nhau trong giáo dục tùy
thuộc vào độ tuổi, tâm lí và trình độ phát triển của trẻ.
b. Khái niệm kể chuyện sáng tạo
 Khái niệm sáng tạo
Theo từ điển triết học, sáng tạo chính là một quá trình hoạt động của con
người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần mới về chất. Các loại hình sáng

tạo được xác định bởi đặc trưng nghề nghiệp như khoa học kĩ thuật, tổ chức
quân sự. Có thể nói sáng tạo có trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và
tinh thần.
Theo S.Freud, “sáng tạo cũng giống như giấc mơ hiện hình, là sự tếp tục
và sự thay thế trò chơi trẻ con cũ” [dẫn theo 12; tr.30]. Với khái niệm này,
S.Freud đã nhìn sáng tạo dưới góc độ vô thức của con người trong một trạng
thái thăng hoa.
Theo nhà tâm lí học M.Willson thì “Sáng tạo là quá trình mà kết quả tạo
ra những kết hợp mới cần thiết từ các ý tưởng dạng năng lượng, các đơn vị
thông tin, các khách thể hay tập hợp của hai ba yếu tố được đưa ra”
Ở Việt Nam, cũng có rất nhiều tác giả đưa ra khái niệm về sáng tạo khác
nhau, điển hình là nhóm tác giả Trần Hiệp- Đỗ Long, có viết “Sáng tạo là hoạt
động tạo lập, phát hiện những giá trị vật chất và cả tinh thần. Sáng tạo đòi hỏi
cá nhân phải phát huy năng lực, phải có động cơ tri thức, kĩ năng và với điều
kiện như vậy mới tạo nên sản phẩm mới độc đáo, sâu sắc”. Đây là một quan
điểm đáng lưu tâm, làm căn cứ cho việc xây dựng môi trường, phương pháp
dạy học phú hợp để phát huy tính sáng tạo của trẻ.
Theo từ điển triết học thì sáng tạo là “tìm thấy và làm nên cái mới” tạo ra
những cái mới cái chưa từng có trong cuộc sống [5; tr.56].

19


×