10 nguyên ngân dẫn đến phá sản doanh nghiệp
02/12/2008
Kinh doanh không thể không tránh được nhưng lúc làm ăn thua lỗ hay thất bại
trên thương trường. Điều quan trọng là các doanh nghiệp biết từ những thất bại
đã mắc phải để “đứng lên” và thành công hơn trong các kế hoạch kinh doanh
tiếp theo. Có thế doanh nghiệp mới tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường
vốn ngày một cạnh tranh “khốc liệt” hơn.
Các nhà doanh nghiệp khi thất bại trong kinh doanh thường chỉ biết đổ tại cho 2
nguyên nhân dẫn đến phá sản là nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái và do
mình thiếu vốn. Để chống lại sự thất bại hay phá sản, thực tế chỉ có một phương
thức duy nhất: nhà doanh nghiệp phải có ý thức nhanh chóng rút ra bài học từ
những thất bại, không lặp lại những sai lầm đã dẫn đến phá sản doanh nghiệp.
Qua thực tế thương trường có thể rút ra 10 kinh nghiệm xương máu, cũng tức là
10 nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự yếu kém và thất bại của một doanh nghiệp.
1. Không có sản phẩm mang tính cạnh tranh.
Năng lực kinh doanh và khả năng thành công của doanh nghiệp phụ thuộc rất
nhiều vào ý tưởng của sản phẩm và đưa ý tưởng vào thực tế thị trường. Đây là
một yếu tố cơ bản đầu tiên của doanh nghiệp. Các yếu tố khác không thể thay
thế và chỉ hỗ trợ được một phần nhỏ. Một sản phẩm có tính cạnh tranh không
đơn giản là hơn các sản phẩm khác về giá cả, chất lượng. Điều quan trọng là
doanh thu phải đảm bảo bù đủ các chi phí, ngoài ra còn đem về lợi nhuận. Điều
này áp dụng cho cảcác sản phẩm hàng hoá, các sản phẩm dịch vụ, các ngành
công nghệ cao cũng như cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thủ công, cá thể. Sẽ
chẳng giúp ích được gì cho nhà doanh nghiệp nếu sản phẩm dù tốt hơn, rẻ hơn
mà doanh thu vẫn không đảm bảo trang trải các chi phí cần thiết. Như vậy tính
cạnh tranh của một sản phẩm sẽ không phải do một kế hoạch, một đề án kinh
doanh quyết định mà hoàn toàn do thị trường quyết định. Rất có thể khi mới
thành lập doanh nghiệp, sản phẩm có tính cạnh tranh thật nhưng sau đó không
duy trì được lâu dài. doanh nghiệp nào không có sản phẩm có tính cạnh tranh thì
nên rút lui sớm khỏi thị trường để hạn chế thiệt hại về vốn.
Lời khuyên thứ nhất. Đối với một sản phẩm mới, doanh nghiệp phải hết sức cẩn
trọng trong việc đầu tư lớn bởi không biết chắc chắn có hoàn toàn thành công
hay không.
2. Chi phí cá nhân của nhà doanh nghiệp quá lớn.
Nhiều nhà doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ lầm tưởng mình cũng có
quyền hưởng một thu nhập cố định như nhân viên. Dường như nhiều nhà doanh
nghiệp không biết hoặc biết mà quên rằng mình chỉ được hưởng những gì còn
lại của doanh nghiệp sau khi trừ mọi chi phí và đầu tư. Phần còn lại này đối với
thời kỳ đầu của doanh nghiệp là không nhiều, thậm chírất ít, trong khi thu nhập
của nhân viên ổn định. Nhiều nhà doanh nghiệp nhận biết khá muộn vì sao các
ngân hàng dễ dãi chấp thuận các khoản vay của doanh nghiệp, trong đó có cả
phần sử dụng cho mục đích cá nhân như cải tạo nâng cấp nhà riêng, biệt thự của
nhà doanh nghiệp. Suy cho cùng điều đó càng làm tăng thêm giá trị tài sản thế
chấp là bất động sản của doanh nghiệp tại ngân hàng.
Lời khuyên thứ hai. Nhà doanh nghiệp sẽ không bao giờ phá sản khi chi tiêu cho
nhu cầu cá nhân thấp hơn khoản lợi nhuận làm ra.
3. Sử dụng quá nhiều nhân viên.
Chi phí cho nhân viên ngày càng chiếm một tỉ trọng lớn và gần như cố định với
các doanh nghiệp. Nếu không sử dụng và bố trí nhân viên hợp lí thì việc trả
lương là một gánh nặng đối với doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp có biến
động xấu thì việc giảm kịp thời nhân viên sẽ cứu doanh nghiệp khỏi bị phá sản.
Có thể các nhà quản lí vĩ mô, người làm chính sách chế độ không thích thú điều
này nhưng thực tế đã chứng minh các doanh nghiệp sớm giảm bớt nhân sự là
những doanh nghiệp thành công. Khi một doanh nghiệp thất bại vì có quá nhiều
nhân viên, người ta không quan tâm vì lí do xã hội hay không có khả năng quản
lí và điều hành nhân viên.
Lời khuyên thứ ba. doanh nghiệp chỉ tuyển nhận một số lượng nhân viên vừa
với khả năng quản lí và điều hành họ làm việc tối đa và hiệu quả.
4. Doanh nghiệp bị xù nợ.
Nhiều doanh nghiệp coi việc bị xù nợ là khó biết trước và khó mà tránh được.
Điều đó hoàn toàn không đúng vì phần lớn các món nợ bị mất đều có nguyên
nhân từ một quyết định sai lầm của doanh nghiệp. Chẳng hạn doanh nghiệp
không thu thập đủ thông tin cần thiết về khách hàng, doanh nghiệp bỏ qua lời
khuyến cáo từ trước, vẫn tiếp tục cung ứng hàng khi khách hàng vẫn còn nợ cũ
tồn đọng. Đặc biệt với những khách hàng mới và với những thương vụ lớn cần
phải có những biện pháp an toàn hay phòng ngừa. Các doanh nghiệp ít bị xù nợ
vì rất quan tâm đến khả năng tài chính của khách hàng. Họ sẵn sàng từ chối một
hợp đồng kinh doanh khi thấy nghi ngờ hoặc rủi ro mất nợ là quá lớn. Các doanh
nghiệp đang có khó khăn về kinh doanh, doanh thu thường dễ dãi tiếp nhận các
hợp đồng. Chính sự dễ dãi, coi thường này có thểd ẫn đến bị mất nợ và trở thành
một cú đòn quyết định gây nên phá sản.
Lời khuyên thứ tư. Hợp đồng tốt nhất của doanh nghiệp chính là hợp đồng kinh
doanh mà doanh nghiệp không mạo hiểm và từ chối thực hiện.
5. Doanh nghiệp bị nợ quá nhiều.
Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là khi mới thành lập, thường vay nợ quá nhiều,
nhất là khi có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn có tính khuyến khích, hỗ trợ.
Nhiều doanh nghiệp nhận biết quá muộn rằng không phải lãi suất của tín dụng
mà thực chất là tổng khối lượng tín dụng phải hoàn trả mới là quyết định sự
thành bại của doanh nghiệp. Các hợp đồng vay vốn dài hạn thường là khó khăn
lớn cho doanh nghiệp khi quyết định nhầm lẫn nhưng khó có thể giải quyết ngay
được. Nhiều doanh nghiệp tính toán phiêu lưu, cho rằng sẽ được chiết khấu, tiết
kiệm được nhiều thuế nếu tăng cường vay vốn để đầu tư mua sắm, thuê tài
chính, thuê máy móc, xe cộ. Điều đó chỉ đúng khi doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh có lãi và lãi nhiều. Khi gặp khó khăn, không tạo ra lợi nhuận thì gánh nợ
và vốn vay sẽ là đòn quyết định làm cho doanh nghiệp chóng bị phá sản.
Lời khuyên thứ năm. Người giàu không phải là người được sử dụng nhiều tiền
vay nợ mà là người có nhiều tiền sở hữu.
6. Nhà doanh nghiệp quá chú ý đến tiện nghi.
Bất kể một tiện nghi nào thì nhà doanh nghiệp đều phải chi phí. Các nhà kinh
doanh thành công đều bắt đầu từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến tiện nghi. Trước
đây các nhà doanh nghiệp bắt đầu sự nghiệp kinh doanh phần lớn đều từ ngay
căn hộ mình đang ở hay nhà kho, nhà để xe được tu sửa. Bây giờ quá nhiều
doanh nghiệp trẻ khởi sự lại thích tiện nghi ngay từ ban đầu, thuê những văn
phòng, trụ sở đắt tiền, sang trọng. Đó là chưa kể những tu sửa tốn tiền, mua sắm
đồ dùng văn phòng cho hợp với sở thích của mình. Họ quá thiên lệch, thậm chí
nhầm lẫn khi cho rằng thế mới là cách tạo uy tín nhanh chóng cho doanh nghiệp
của mình. Thực ra họ ưa thích tiện nghi dường như quên mất rằng chính chất
lượng dịch vụ và sản phẩm của doanh nghiệp mới tạo nên uy tín lâu dài của
doanh nghiệp.
Một ví dụ cụ thể là nhiều doanh nghiệp ngay từ đầu đã trang bị một hệ thống tin
học khá hoàn hảo với các máy tính thế hệ mới nhất nhưng thực ra lại chỉ có nhu
cầu sử dụng nhữngc hức năng tối thiểu nhất. Không phải nhà doanh nghiệp nào
cũng cần có thư ký riêng, lái xe riêng. Không phải doanh nghiệp nào cũng cần
có nhân viên đánh máy, nhân viên lau dọn, vệ sinh phòng làm việc. Tất cả
những công việc kể trên đều có thể thuê, sử dụng các dịch vụ của các doanh
nghiệp khác. Như thế vừa hiệu quả kinh tế hơn, vừa có chất lượng tốt hơn, lại
không bị động. Suy cho cùng, nhà doanh nghiệp thành lập doanh nghiệp không
phải để nâng cao địa vị xã hội mà là để kinh doanh kiếm nhiều tiền hơn.
Lời khuyên sáu. Một doanh nghiệp có thể thành công bắt đầu từ một nhà để xe,
có thể sẽ thất bại từ một lâu đài.
7. Quá xem nhẹ những thua lỗ ban đầu.
Nhiều doanh nghiệp lầm tưởng rằng việc kinh doanh thua lỗ trong những năm
đầu tiên thành lập là không thể tránh khỏi. Do đó thường xem nhẹ những kết quả
kinh doanh thua lỗ lúc ban đầu, không chú trọng tìm hiểu nguyên nhân. Khi
nhận biết thì đã quá muộn, doanh nghiệp có thể trên bờ phá sản. Trên thực tế,
diễn biến thị trường, khách hàng, kết quả kinh doanh không hoàn toàn theo dự
kiến và kế hoạch kinh doanh ban đầu của doanh nghiệp. Nếu kết quả thua lỗ ban
đầu nằm trong trù tính trước thì nguyên nhân thua lỗ vẫn nằm ngoài dự báo.
Không phát hiện, phân tích đúng nguyên nhân dẫn đến thua lỗ và không có
những biện pháp điều chỉnh chính sách kinh doanh cho phù hợp càng làm chính
sách kinh doanh sai lầm tiếp tục và dẫn đến nguy cơ thất bại.
Lời khuyên thứ bảy. Lợi nhuận không phải là tất cả, nhưng nhà doanh nghiệp
không được chủ quan, phải quan tâm đến lợi nhuận ngay từ thời kỳ đầu.
8. Chỉ nghĩ đến doanh số.
Rất nhiều nhà doanh nghiệp chỉ mải mê nghĩ đến doanh số mà quên mất rằng
thực ra mục đích kinh doanh là lợi nhuận chứ không phải doanh số. Nhiều doanh
nghiệp mới thành lập đã vội tự hào vềs ự phát triển kinh doanh, mở rộng qui mô
nhanh chóng. Đặc biệt thể hiện bằng một vài hợp đồng hay công trình lớn.
doanh nghiệp vội vã đầu tư dây chuyền lớn,hiện đại, tuyển nhiều nhân viên.
Nhưng kết cục lại đáng buồn. doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm tổ chức và
điều hành qui mô lớn hơn, nhiều vấn đề mới phát sinh mà chưa có kinh nghiệm.
Hơn thế, nhiều khi nhóm khách hàng nhỏ dễ bị sao nhãng, thậm chí bỏ rơi.
Khách hàng lớn và hợp đồng lớn thì không có. Làm gì với số tài sản và nhân sự
mới được đầu tư, tuyển nhận? doanh nghiệp rất dễ có nguy cơ phá sản trong
những trường hợp như vậy. Khi các doanh nghiệp lớn tăng doanh số, tăng thị
phần, các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất khó duy trì hoạt động tốt. Bởi đó là chính
sách kinh doanh phù hợp với các tập đoàn, các công ty quốc tế trường vốn. Tất
nhiên nếu không có doanh số thì không thể có lợi nhuận.Nhưng không có nghĩa
là doanh số càng cao thì lợi nhuận càng cao. Sẽ rất nguy hiểm cho sự tồn tại của
doanh nghiệp nếu doanh số tăng mà lợi nhuận thực tế lại không tăng tương
xứng. Nếu lợi nhuận vẫn như cũ thì doanh nghiệp phá sản chỉ còn là vấn đề thời
gian vì doanh nghiệp sẽ không chịu nổi những chi phí tăng thêm.
Lời khuyên thứ tám. Hay đồng ý trước các đề nghị thì sẽ có doanh số lớn.
Nhưng thỉnh thoảng biết từ chối trước một hợp đồng lớn mới là người làm ra
nhiều lợi nhuận.
9. Không lập quĩ dự phòng tài chính.
Kể cả những nhà doanh nghiệp có tài nhất cũng không tránh khỏi có những lúc
phán đoán sai diễn biến của thị trường hay có những lúc chịu bất lực trước một
biến động mang tính rủi ro. Những lúc đó, doanh nghiệp nhất thiết phải có
những dự phòng tài chính nhất định, được tích luỹ từ lợi nhuận những năm
trước. Kinh nghiệm cho thấy, nếu có biến động, tác động kinh tế lớn thì các
ngân hàng, các nhà tài trợ cũng bị ảnh hưởng và họ cũng hạn chế cho vay. Kể cả
khi ngân hàng không bị ảnh hưởng thì họ cũng rất cẩn trọng và không đầu tư
vào các lĩnh vực đang có rủi ro. Có nguồn dự trữ tài chính, doanh nghiệp hoàn
toàn chủ động, không phụ thuộc vào ngân hàng và tự mình vượt qua những lúc
khó khăn, tránh được nguy cơ phải bán một phần hay toàn bộ doanh nghiệp.
Lời khuyên thứ chín. Hãy tiết kiệm và dự trữ tài chính khi doanh nghiệp có thể
làm được để tự cứu mình khi gặp khó khăn.
10. Quá tin vào người khác.
Nhiều doanh nghiệp thất bại và phá sản chỉ vì một nguyên nhân đơn giản là quá
tin vào người khác. Họ đủ các đối tượng, từ nhà tài trợ, đối tác, nhân viên của
chính doanh nghiệp đến khách hàng. Ví dụ, nếu quá tin vào ngân hàng khi bắt
đầu đầu tư, nhưngnửa chừng ngân hàng lại quyết định không cho vay tiếp. Quá
tin vào nhân viêncủa mình, doanh nghiệp có thể phải gánh chịu những hậu quả
bất ngờ, thậm chí phải nhờ pháp luật hỗ trợ. doanh nghiệp quá tin vào khách
hàng cũng có thể bị từ chối nhận hàng, không chịu thanh toán đủ và đúng hạn.
Một doanh nghiệp khi hợp tác, liên kết kinh doanh với bạn hàng, đối tác thường
quá tin tưởng, thậm chí phó mặc cho họ. Thực ra cuối cùng, tất cả là do thiếu