4
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG GIẤY TỜ CÓ GIÁ TẠI
TỔ CHỨC TÍN DỤNG
7
1.1.
Khái niệm, đặc điểm, phân loại giấy tờ có giá
7
1.1.1.
Khái niệm giấy tờ có giá
7
1.1.2.
Đặc điểm của giấy tờ có giá
11
1.1.3.
Phân loại giấy tờ có giá và ý nghĩa của việc phân loại
16
1.2.
Khái niệm, đặc điểm, phân loại bảo đảm tiền vay bằng giấy
tờ có giá tại tổ chức tín dụng
22
1.2.1.
Khái niệm bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức
tín dụng
22
1.2.2.
Đặc điểm của bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ
chức tín dụng
23
1.2.2.1.
Là biện pháp bảo đảm được thiết lập nhằm bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trả nợ tiền vay của bên vay vốn đối với bên
cho vay là tổ chức tín dụng
23
1.2.2.2.
Tài sản dùng để bảo đảm tiền vay là giấy tờ có giá
25
1.2.2.3.
Một bên chủ thể trong giao dịch bảo đảm tiền vay bằng giấy
tờ có giá là tổ chức tín dụng
26
1.3.
Vai trò của bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức
tín dụng
28
1.4.
Nội dung của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có
giá tại tổ chức tín dụng
29
1.4.1.
Khái quát pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá
tại tổ chức tín dụng
29
1.4.2.
Nội dung của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có
31
5
giá tại tổ chức tín dụng
1.4.2.1.
Quy định của pháp luật về loại giấy tờ có giá được dùng
làm tài sản bảo đảm
32
1.4.2.2.
Quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục nhận tài sản bảo
đảm tiền vay là giấy tờ có giá
33
1.4.2.3.
Quy định của pháp luật về hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng
giấy tờ có giá
34
1.4.2.4.
Quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm là giấy tờ
có giá
36
1.4.2.5.
Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp liên quan
đến bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá
37
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY
BẰNG GIẤY TỜ CÓ GIÁ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở
VIỆT NAM
39
2.1.
Điều kiện, trình tự thủ tục nhận tài sản bảo đảm tiền vay
bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng
39
2.1.1.
Các điều kiện khi tổ chức tín dụng nhận giấy tờ có giá làm
tài sản bảo đảm tiền vay
39
2.1.1.1.
Điều kiện về chủ thể - bên bảo đảm
39
2.1.1.2.
Điều kiện về giấy tờ có giá làm tài sản bảo đảm
43
2.1.2.
Trình tự, thủ tục nhận tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá tại tổ
chức tín dụng
50
2.2.
Phạm vi bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá
51
2.3.
Hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức
tín dụng
56
2.3.1.
Loại hợp đồng bảo đảm được ký kết
56
2.3.2.
Đối tượng của hợp đồng bảo đảm
56
2.3.3.
Các bên chủ thể của hợp đồng bảo đảm
57
2.3.4.
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo đảm
58
2.3.4.1.
Quyền và nghĩa vụ của bên cầm cố
59
2.3.4.2.
Quyền và nghĩa vụ của bên nhận cầm cố
59
6
2.3.5.
Hiệu lực của hợp đồng bảo đảm
60
2.3.6.
Công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm
62
2.4.
Chuyển giao và quản lý tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá
63
2.5.
Xử lý tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá
67
2.6.
Tranh chấp và giải quyết tranh chấp về bảo đảm tiền vay
bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng
70
Chương 3: MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG
GIẤY TỜ CÓ GIÁ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở
VIỆT NAM
77
3.1.
Các yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền
vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam
77
3.2.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay
bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam
81
3.3.
Một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm
tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam
82
3.3.1.
Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp luật về bảo
đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam
83
3.3.2.
Xây dựng cơ chế đồng bộ nhằm hỗ trợ, hướng dẫn, quản lý
giám sát và bảo đảm thực hiện trên thực tế bảo đảm tiền vay
bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam
90
KẾT LUẬN
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
7
BLDS
: Bộ luật Dân sự
CCCN
: Công cụ chuyển nhượng
GTCG
: Giấy tờ có giá
NHNN
: Ngân hàng Nhà nước
TCTD
: Tổ chức tín dụng
MỞ ĐẦU
8
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sau 11 năm đàm phán không mệt mỏi với rất nhiều cam kết song
phương và đa phương cùng các nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), tháng 11 năm 2006 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên
của tổ chức này. Đây là một dấu mốc vô cùng quan trọng trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Vấn đề hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã mở ra nhiều cơ hội to lớn
nhưng cũng đặt ra vô vàn thách thức trong điều kiện mới. Khi nền kinh tế thế
giới có nhiều sự thay đổi đến "chóng mặt", "lúc nóng", "lúc lạnh" sẽ ảnh
hưởng ngay đến nền kinh tế Việt Nam. Chính vì vậy, việc điều tiết nền kinh tế
thông qua các công cụ tài chính ngân hàng luôn được Đảng và Nhà nước ta
"quan tâm" đặt lên hàng đầu. Thông qua các công cụ tài chính ngân hàng,
nguồn tiền từ các tổ chức tín dụng (TCTD) được thúc đẩy "bơm" ra thị trường
hoặc yêu cầu "thắt chặt" lại. Để thực hiện được mục tiêu này thì tất yếu phải
thông qua việc điều tiết hoạt động tín dụng (cho vay) của các tổ chức tín dụng.
Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đóng vai trò vô cùng quan
trọng đối với đời sống kinh tế xã hội. Việc đảm bảo an toàn trong hoạt động
cho vay của TCTD ở Việt Nam là rất cần thiết, vì chỉ cần một TCTD có dấu
hiệu không tốt sẽ có khả năng ảnh hưởng "dây chuyền" đến hoạt động của các
TCTD khác, từ đó sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội.
Trong quan hệ cho vay, hợp đồng vay giữa TCTD và bên vay được
thiết lập thông qua quá trình thương thảo giữa hai bên và là kết quả của quá
trình TCTD thực hiện thẩm định bên vay. Khi TCTD đồng ý "cấp vốn" cho
bên vay có nghĩa là TCTD đã tin tưởng và tín nhiệm vào thiện chí cũng như
khả năng trả nợ của bên vay. Tuy nhiên, nếu không có những thiết chế, những
công cụ đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay, dự liệu trường
9
hợp bên vay không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả
nợ, thì TCTD sẽ tự đặt mình trước những "nguy cơ" khó lường khi chính
TCTD cũng đi vay (nhận tiền gửi của khách hàng gửi tiền) để cho vay.
Một trong những công cụ để đảm bảo bên vay thực hiện nghĩa vụ trả
nợ mà TCTD áp dụng vào hoạt động cho vay đó là biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trả nợ tiền vay hay còn gọi là bảo đảm tiền vay. Trong hợp
đồng cho vay, ngoài việc thỏa thuận về áp dụng các chế tài như thu hồi nợ
trước hạn, lãi suất nợ quá hạn, lãi suất nợ lãi quá hạn…, TCTD còn yêu cầu
bên vay thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay.
Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá (GTCG) là một trong những
biện pháp bảo đảm được pháp luật công nhận, bảo hộ, được TCTD và bên vay
lựa chọn áp dụng. Hiện nay, pháp luật điều chỉnh về bảo đảm tiền vay bằng
GTCG tại TCTD ở Việt Nam được quy định tại nhiều văn bản pháp luật khác
nhau nhưng mới chỉ là những quy định mang tính chất chung chung như Bộ
luật Dân sự (BLDS) năm 2005, Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt
Nam, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, Luật Các công cụ chuyển nhượng
(CCCCN) năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Chứng khoán năm
2006, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính
phủ về giao dịch bảo đảm (sau đây gọi tắt là Nghị định số 163), Nghị định số
83/2010/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2010 của Chính phủ về đăng ký giao
dịch bảo đảm (sau đây gọi tắt là Nghị định số 83), Quy chế phát hành giấy tờ
có giá của các tổ chức tín dụng năm 2008 (sau đây gọi tắt Quy chế phát hành
GTCG),… Pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD còn thiếu
những quy định, hướng dẫn cụ thể, thống nhất dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn
trong việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn.
Vì vậy, với mong muốn tìm hiểu những vấn đề pháp lý và thực tiễn
của bảo đảm tiền vay bằng GTCG để góp phần hoàn thiện các quy định
pháp luật về vấn đề này, tác giả quyết định lựa chọn nghiên cứu về đề tài
10
"Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại các tổ chức tín dụng - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ luật học, pháp luật về GTCG và bảo đảm bằng GTCG đã
được đề cập đến tại một số công trình nghiên cứu khoa học như:
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Anh Thơ, bảo vệ
thành công năm 2006 về: "Giấy tờ có giá - Một loại tài sản trong quan hệ
pháp luật dân sự";
- Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Điệp, bảo vệ
thành công năm 2010 về: "Giấy tờ có giá - Một loại tài sản theo quy định
pháp luật hiện hành";
- Đề tài nghiên cứu khoa học của nhóm nghiên cứu khoa học về: "Một
số kiến nghị nhằm triển khai và phát triển nghiệp vụ cầm cố chứng khoán trên
thị trường chứng khoán Việt Nam".
Bên cạnh đó, một số bài trao đổi, nghiên cứu liên quan đến giao dịch
bảo đảm bằng GTCG được đăng tải trên một số trang web và tạp chí chuyên
ngành tài chính ngân hàng như:
- Bài viết:"Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế" của tác giả Nguyễn Văn Phương đăng trên Tạp chí
Ngân hàng số 11/2007;
- Bài viết: "Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động tín
dụng của các ngân hàng thương mại: một số nhận định từ góc độ pháp lý đến
thực tiễn" của ThS. Nguyễn Thùy Trang đăng tải trên trang web của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngoài ra, một số khía cạnh pháp lý liên quan đến nghiệp vụ cho vay
trên cơ sở có bảo đảm bằng cầm cố GTCG, cầm cố chứng khoán tại các
TCTD cũng được nhiều bài báo viết, báo điện tử đăng tải.
11
Nhưng, các công trình nghiên cứu, các bài trao đổi, bài viết trên đây
chỉ mới dừng lại ở việc phân tích GTCG là một loại tài sản trong quan hệ
pháp luật dân sự, phân tích về biện pháp bảo đảm bằng GTCG dưới góc độ
của một loại GTCG cụ thể như chứng khoán, hay chỉ mới dừng lại phân tích
về một số nhầm lẫn liên quan đến nhận sổ tiết kiệm làm tài sản bảo đảm như
là một loại GTCG. Qua quá trình tra cứu tài liệu cho thấy, hiện chưa có một
công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về biện pháp
bảo đảm tiền vay bằng GTCG. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả
đã lựa chọn đề tài nghiên cứu để tìm hiểu một cách đầy đủ, toàn diện về lý
luận và thực tiễn áp dụng bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt
Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD, từ đó thấy được
những kết quả cũng như những vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân của những
hạn chế, tồn tại đó và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Với mục đích như trên, các nhiệm vụ phải giải quyết của luận văn là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng
GTCG tại tổ chức tín dụng như: khái niệm, đặc điểm, phân loại GTCG với tư
cách là một tài sản bảo đảm; khái niệm, đặc điểm, phân loại, vai trò của bảo đảm
tiền vay bằng GTCG; nội dung pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG.
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm
tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam qua việc đưa ra những nhận định
khái quát và cụ thể những mặt được, những mặt hạn chế, bất cập của pháp
luật hiện hành và thực tế áp dụng bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở
Việt Nam.
- Đưa ra định hướng và những kiến nghị, đề xuất, giải pháp cơ bản nhằm
hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam.
12
4. Phạm vi của việc nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật hiện hành điều chỉnh về bảo
đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam đặt trong mối quan hệ với
pháp luật về GTCG và các văn bản pháp lý chuyên ngành tài chính ngân hàng
điều chỉnh hoạt động cho vay của TCTD. Từ đó, làm nổi bật các đặc trưng
của bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD so với các biện pháp bảo đảm
dân sự khác và so với các biện pháp bảo đảm tiền vay khác. Đồng thời nghiên
cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này, để phát hiện các tồn tại, bất
cập và kiến nghị phương hướng khắc phục, hoàn thiện.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Với mục đích triển khai những nội dung cơ bản của luận văn, tác giả
đã vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và
các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, giải thích, so sánh … để lý
giải những vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Là công trình nghiên cứu pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG
tại TCTD ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật một cách cụ thể, luận
văn có những đóng góp mới là:
- Trình bày, phân tích một cách khoa học và có hệ thống các vấn đề lý
luận cơ bản của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD.
- Nêu và phân tích nguyên nhân, đánh giá thực trạng pháp luật và thực
tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt
Nam; tìm hiểu và phân tích các tranh chấp về bảo đảm tiền vay bằng GTCG
thường phát sinh trong hoạt động cho vay có bảo đảm bằng GTCG tại TCTD
ở Việt Nam.
- Luận văn kiến nghị, đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam nhằm góp
phần xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, mang tính khả thi.
13
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm tiền vay
bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có
giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
Chương 3: Một số phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp
luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
14
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
TIỀN VAY BẰNG GIẤY TỜ CÓ GIÁ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại giấy tờ có giá
1.1.1. Khái niệm giấy tờ có giá
Dưới góc độ luật học, khi nghiên cứu một vấn đề, chúng ta không thể
bỏ qua các khái niệm pháp lý liên quan đến vấn đề đó. Vì vậy, một khi đã đề
cập đến giao dịch đảm bảo tiền vay bằng GTCG, đương nhiên phải đề cập đến
khái niệm về GTCG.
"Giấy tờ có giá" là thuật ngữ khá quen thuộc thường được sử dụng
trong hoạt động huy động vốn và cho vay của các TCTD. Ngoài ra, một số
thuật ngữ khác cũng thường xuyên được đề cập đến như cổ phiếu, trái phiếu,
kỳ phiếu, tín phiếu, hối phiếu, chứng khoán, công cụ chuyển nhượng …. Vậy,
GTCG là gì? Cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng khoán, CCCN
có phải là GTCG hay không?
Theo nghĩa chung nhất, "giấy tờ có giá nói chung được hiểu là chứng
chỉ hoặc bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể
nhất định (tổ chức, cá nhân) xét trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể
khác" [32].
Trên phương diện kinh tế, GTCG là một loại hàng hóa được mua bán,
trao đổi trên thị trường tiền tệ, gồm rất nhiều loại như trái phiếu, tín phiếu,
công trái do Chính phủ phát hành; cổ phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu và
các GTCG khác do TCTD và các doanh nghiệp khác phát hành; …
Xét trên phương diện pháp lý, giấy tờ có giá được quy định tại nhiều
văn bản pháp luật khác nhau.
15
Trên thế giới, văn bản đầu tiên quy định về GTCG ở dạng hối phiếu ra
đời vào năm 1603 đó là Pháp lệnh Humburg. Đây là pháp lệnh được ban hành
trên cơ sở tập quán thương mại về phát hành và sử dụng thương phiếu. Năm
1874, Pháp lệnh chung về hối phiếu Đức đã được tập hợp hóa từ 55 pháp lệnh
hối phiếu của từng bang riêng rẽ. Đến năm 1882, Vương Quốc Anh ban hành
Luật hối phiếu (Bill of Exchange Act 1882). Sau năm 1930, năm ký kết công
ước Giơ-ne-vơ về hối phiếu một loạt quốc gia đã lần lượt ban hành luật hối
phiếu của quốc gia mình cho dù có gia nhập hay không gia nhập Công ước
1930 về hối phiếu. Đến năm 1988, Hiệp ước thống nhất về hối phiếu đòi nợ
và hối phiếu nhận nợ quốc tế đã được Ủy ban Luật thương mại Liên hợp quốc
(gọi tắt là UNCITRAL) soạn thảo và được Đại Hội đồng Liên Hợp quốc
thông qua trong khóa họp toàn thể lần thứ 43 ngày 9/12/1988.
Ở Việt Nam, khái niệm GTCG hiện đang được đề cập tại nhiều văn
bản pháp luật thực định.
Bộ luật Dân sự Việt Nam quy định về GTCG với tư cách là một loại
tài sản dùng trong các giao dịch dân sự. Theo đó, Điều 172 BLDS năm 1995
trước đây quy định: "Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được
bằng tiền và các quyền tài sản", Điều 163 BLDS năm 2005 quy định: "Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [19, Điều 163].
Theo Khoản 9 Điều 3 Nghị định số 163 thì: "giấy tờ có giá bao gồm
cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, giấy tờ có
giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép
giao dịch" [3, Khoản 9 Điều 3].
Như vậy, khái niệm GTCG được quy định dưới dạng liệt kê các loại
giấy tờ được coi là GTCG, được dùng làm tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự. Giấy tờ có giá là tên gọi chung của các loại giấy tờ như cổ phiếu, trái
phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, và những loại giấy tờ
khác thỏa mãn hai điều kiện: trị giá được thành tiền và được phép giao dịch.
16
Luật NHNN với tư cách là đạo luật quy định về tổ chức, hoạt động
của NHNN đã định nghĩa về GTCG dưới góc độ là một loại giấy tờ do các tổ
chức phát hành để huy động vốn và được NHNN chấp nhận như một công cụ
để chiết khấu, hoặc chấp nhận như một loại tài sản bảo đảm trong trường hợp
NHNN cho các TCTD vay vốn hoặc NHNN mua bán GTCG đó thông qua
nghiệp vụ thị trường mở theo đó giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa
vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có
giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác
(khoản 8 Điều 6).
Trong trường hợp các TDTD phát hành GTCG để huy động vốn, khái
niệm GTCG được đề cập tại Quy chế phát hành GTCG. Theo Khoản 1 Điều 4
Quy chế này thì: "Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát
hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền
trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết
khác giữa tổ chức tín dụng và người mua" [12, Khoản 1 Điều 4].
Cũng quy định về hoạt động huy động vốn của các tổ chức phát hành,
Luật Chứng khoán đã xác lập khái niệm "chứng khoán". Theo đó, chứng
khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu
đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể
hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm
các loại sau đây: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần,
chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm
chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại
chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định. Từ khái niệm này cho thấy, Luật
Chứng khoán chỉ làm rõ chứng khoán là gì, gồm những loại nào, còn việc nó
có phải là một loại GTCG hay không thì pháp luật về chứng khoán còn bỏ
ngỏ. Mặc dù, trong phần liệt kê các loại chứng khoán thì một số loại chứng
khoán cũng thuộc diện được liệt kê là GTCG tại BLDS năm 2005, ví dụ như
cổ phiếu, trái phiếu.
17
Trong lĩnh vực tố dụng dân sự, Tòa án nhân dân Tối cao cũng có
hướng dẫn về cách nhận diện, xác định các loại GTCG. Theo hướng dẫn của
Tòa án Nhân dân Tối cao thì GTCG bao gồm:
Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển
nhượng khác được quy định tại Điều 1 của Luật Các công cụ
chuyển nhượng năm 2005; trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty,
kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 4 của
Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005; tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu,
công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ được quy
định tại điểm 16 Điều 3 của Luật Quản lý nợ công năm 2009; các
loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua
cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng
tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; hợp đồng
góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy
định) được quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật Chứng khoán năm
2006 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2010); trái phiếu
doanh nghiệp được quy định tại Điều 2 của Nghị định số
52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ về phát
hành trái phiếu doanh nghiệp [30].
Từ những liệt kê và phân tích nêu trên cho thấy, hiện chưa có một khái
niệm "chuẩn", thống nhất về GTCG. Khái niệm về GTCG đang được quy
định tại nhiều văn bản pháp luật, được xác lập theo nhiều cách khác nhau,
theo nhiều cách tiếp cận khác nhau tùy thuộc vào mục đích, phạm vi điều
chỉnh và đối tượng áp dụng của văn bản pháp luật đó đang hướng tới.
Nói chung, cho dù dưới góc độ nào, việc nhận thức chính xác khái
niệm về GTCG đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thiết lập và thực
hiện các giao dịch liên quan đến GTCG, cũng như trong việc xây dựng quy
định pháp luật liên quan đến GTCG. Khái niệm về giấy tờ có giá phải thể hiện
18
được những đặc điểm cơ bản của nó. Theo tác giả, giấy tờ có giá là chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét
trong mối quan hệ pháp lý với chủ thể khác, trị giá được bằng tiền và có thể
chuyển giao trong giao dịch dân sự.
1.1.2. Đặc điểm của giấy tờ có giá
Như đã phân tích ở trên, GTCG nhìn dưới các góc độ, phương diện
khác nhau sẽ có các định nghĩa khác nhau. Nhưng, cho dù được định nghĩa
như thế nào, GTCG vẫn phải mang những đặc điểm đặc trưng, những thuộc
tính cơ bản để nhận biết đó là GTCG và để phân biệt GTCG với các loại tài
sản khác.
Mặc dù, BLDS năm 2005 không hề có điều khoản nào quy định rõ
GTCG có những đặc điểm nào đó để phân biệt với các loại tài sản khác cũng
như đối với các loại giấy tờ khác. Tuy nhiên, từ việc kết nối các định nghĩa về
GTCG tại các văn bản pháp luật thực định, cũng như từ việc phân tích ở
phương diện ngôn ngữ của thuật ngữ GTCG có thể thấy rằng GTCG có ba
đặc điểm, thuộc tính cơ bản là: (1) Xác nhận quyền tài sản của một chủ thể
xác định; (2) Trị giá được bằng tiền; và (3) Có thể chuyển giao quyền sở hữu
cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự.
Thứ nhất, giấy tờ có giá xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định.
Xét về mặt ngôn ngữ, bản thân thuật ngữ GTCG ngay khi được
"xướng tên" đã tự nó "toát lên" những đặc điểm riêng biệt để nhận biết, trước
tiên nó là một loại giấy tờ có giá trị và thứ đến giá trị của nó có thể trị giá
được bằng tiền.
Giấy tờ có giá là tài sản và bản thân nó là bằng chứng xác nhận quyền
tài sản của một chủ thể xác định. Theo Điều 181 BLDS năm 2005 thì quyền
tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch
dân sự. Đặc điểm này của GTCG được thể hiện rất rõ trong quy định tại các
19
văn bản pháp luật thực định như Luật NHNN, Quy chế phát hành GTCG,
Luật CCCCN, Luật Chứng khoán. Tuy nhiên, việc xác nhận quyền tài sản của
người sở hữu các loại GTCG khác nhau sẽ có những nét đặc trưng riêng.
Trong phạm vi hoạt động của NHNN và các TCTD, GTCG được quy
định dựa trên góc độ đây là loại giấy tờ mà các tổ chức phát hành để huy động
vốn. Cụ thể, theo Luật NHNN thì: "Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận
nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy
tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện
khác" [30, khoản 8 Điều 6].
Tương tự như Luật NHNN, Khoản 1 Điều 4 Quy chế phát hành
GTCG quy định giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành
để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một
thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ
chức tín dụng và người mua.
Theo các quy định trên đây, thì GTCG là bằng chứng xác nhận nghĩa
vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các
điều khoản cam kết khác của tổ chức phát hành GTCG (trong đó có TCTD)
đối với người sở hữu, người mua GTCG. Điều này cũng đồng nghĩa với việc
GTCG xác nhận quyền chủ nợ của người sở hữu, người mua GTCG. Với tư
cách là chủ nợ, người sở hữu GTCG có quyền yêu cầu tổ chức phát hành trả
nợ một khoản tiền bằng mệnh giá ghi trên GTCG kèm theo trả các khoản lãi
vào ngày đáo hạn GTCG.
Luật Các công cụ chuyển nhượng ghi nhận đặc điểm của GTCG về việc
xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định dưới góc độ khác với Luật
NHNN và Luật Các TCTD. Theo Luật CCCCN thì "công cụ chuyển nhượng là
giấy tờ có giá ghi nhận lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều
kiện một số tiền xác định vào một thời điểm nhất định" [21, khoản 1 Điều 4].
20
Như vậy, quyền tài sản của chủ thể sở hữu GTCG theo quy định của
Luật CCCCN chính là quyền của người thụ hưởng trong việc yêu cầu người
phát hành, người bị ký phát thanh toán một số tiền xác định vào một thời
điểm xác định cho người thụ hưởng. Quyền yêu cầu của người thụ hưởng xuất
phát từ việc người ký phát, người phát hành thực hiện phát hành CCCN trên
cơ sở giao dịch mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, cho vay, giao dịch
thanh toán và giao dịch tặng cho theo quy định của pháp luật.
Cũng xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định, nhưng quyền
tài sản của chủ sở hữu chứng khoán lại là quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn góp của tổ chức phát hành. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Chứng khoán thì chứng khoán là bằng
chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản
hoặc phần vốn của tổ chức phát hành.
Tùy thuộc vào loại chứng khoán khác nhau (cổ phiếu, trái phiếu,
chứng chỉ quỹ, quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền
chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán hay
hợp đồng góp vốn đầu tư) mà quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu chứng
khoán loại đó sẽ có nội dung và phạm vi khác nhau. Ví dụ, loại chứng khoán là
"Quyền mua cổ phần" sẽ "mang lại cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phần
mới theo điều kiện đã được xác định" [22, khoản 6 Điều 6] còn loại chứng khoán
là "Hợp đồng góp vốn đầu tư" sẽ "mang lại cho người góp vốn lợi nhuận và
được phép chuyển đổi thành chứng khoán khác" [26, khoản 8a Điều 6].
Như vậy, giấy tờ có giá dù là loại nào đi nữa thì cũng luôn mang đặc
điểm là bằng chứng xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định, tuy rằng
nội dung và phạm vi của quyền tài sản mà loại GTCG đó ghi nhận là không
giống nhau.
Thứ hai, giấy tờ có giá trị giá được bằng tiền.
Một trong những đặc điểm nổi bật khác của GTCG đó là GTCG có thể
trị giá được bằng tiền, nghĩa là có thể hoán đổi GTCG thành tiền.
21
Thật vậy, qua khái niệm về GTCG như đã phân tích ở trên có thể thấy
rằng vì bản thân GTCG xác nhận quyền yêu cầu trả nợ, quyền yêu cầu thanh
toán một khoản tiền trong một thời hạn nhất định và khoản tiền đó luôn được
xác định rõ trên GTCG nên GTCG có thể trị giá bằng tiền.
Đặc điểm trị giá được bằng tiền của GTCG thể hiện rất rõ trong các
mối quan hệ pháp lý liên quan đến GTCG như quan hệ giữa người sở hữu
GTCG với tổ chức phát hành GTCG để huy động vốn, quan hệ chiết khấu, tái
chiết khấu GTCG hay bảo đảm tiền vay bằng GTCG.
Trong mối quan hệ giữa người sở hữu GTCG với tổ chức phát hành
GTCG, khi đến hạn thanh toán của GTCG, người sở hữu GTCG có quyền yêu
cầu tổ chức phát hành trả nợ một khoản tiền bằng mệnh giá của GTCG cộng
với số tiền lãi tính trên mệnh giá GTCG. Như vậy, đến ngày đáo hạn, GTCG
đã được quy ra một khoản tiền và tổ chức phát hành có nghĩa vụ trả cho người
sở hữu số tiền đó.
Xét trong mối quan hệ chiết khấu GTCG, khi bên nhận chiết khấu
đồng ý chiết khấu GTCG của khách hàng thì bên nhận chiết khấu phải trả cho
khách hàng số tiền chiết khấu (gọi là giá chiết khấu) dựa trên giá trị GTCG
khi đến hạn thanh toán, lãi suất chiết khấu và thời hạn còn lại của GTCG.
Trong giao dịch bảo đảm tiền vay bằng GTCG, mức cho vay được xác
định dựa trên giá trị của GTCG. Mức cho vay thường không vượt quá giá trị
của GTCG.
Ngoài ra, đặc điểm trị giá được bằng tiền của GTCG còn thể hiện ở
chỗ, có nhiều loại GTCG còn được coi như tiền, làm phương tiện thanh toán
trong thị trường. Khoản 1 điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
NHNN (số 10/2003/QH11 ngày 17/6/2003) trước đây đã từng quy định
GTCG là một loại tiền tệ theo đó tiền tệ là phương tiện thanh toán, bao gồm
tiền giấy, kim loại và các giấy tờ có giá như tiền. Mặc dù vậy, trên thực tế,
các loại GTCG tuy có giá trị như tiền nhưng được sử dụng trong các giao dịch
22
dân sự thông thường hạn chế hơn so với tiền hoặc chỉ được dùng làm phương
tiện lưu thông giữa một số chủ thể nhất định theo quy định của pháp luật (ví
dụ, séc).
Thứ ba, người sở hữu giấy tờ có giá có thể chuyển giao quyền sở hữu
giấy tờ có giá cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự.
Đặc điểm đặc trưng khác của GTCG đó là GTCG được chuyển nhượng,
tức là người sở hữu GTCG có thể chuyển giao quyền sở hữu GTCG cho chủ
thể khác trong giao dịch dân sự.
Pháp luật hiện hành xem GTCG là một loại tài sản, vì vậy, người sở
hữu GTCG được quyền chuyển nhượng GTCG cho chủ thể khác theo cách
thức và thông qua các hình thức giao dịch phù với quy định của pháp luật như
mua, bán, cho, tặng, trao đổi, thừa kế,
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp người sở hữu GTCG đều
có thể tự do chuyển nhượng quyền sở hữu GTCG đó cho người khác. Thực tế,
việc chuyển nhượng quyền sở hữu GTCG trong nhiều trường hợp là không
được thực hiện hoặc thực hiện trong những điều kiện, giới hạn nhất định.
Việc một GTCG không được hoặc bị hạn chế chuyển nhượng thường
do loại GTCG đó thuộc trường hợp pháp luật quy định không được chuyển
nhượng. Các văn bản pháp luật hiện hành như Luật CCCCN, Luật Doanh
nghiệp, Quy chế phát hành GTCG, Luật Các TCTD … quy định rất cụ thể các
trường hợp cấm hoặc hạn chế chuyển nhượng GTCG, đặc biệt GTCG là cổ
phiếu hoặc CCCN.
Ngoài ra, giấy tờ có giá không được hoặc bị hạn chế chuyển nhượng
do tình trạng pháp lý của GTCG đó tại thời điểm xác lập giao dịch chuyển
nhượng chưa thỏa mãn hết các điều kiện để được tham gia giao dịch (ví dụ, cổ
phiếu mà cổ đông chưa thanh toán hết tiền mua cổ phiếu hoặc cổ phiếu mà
các bên thỏa thuận không được dùng làm tài sản bảo đảm).
23
Việc xem xét một loại GTCG cụ thể có được tự do chuyển nhượng
cho chủ thể khác hay không có ý nghĩa hết sức quan trọng trong các giao dịch
dân sự liên quan đến GTCG như giao dịch tặng, cho, mua bán, giao dịch bảo
đảm bằng GTCG. Nếu một người sở hữu loại GTCG thuộc diện không được
chuyển nhượng hoặc hạn chế chuyển nhượng thì người đó sẽ không thể chuyển
nhượng GTCG đó cho chủ thể khác hay nếu muốn chuyển nhượng thì phải thỏa
mãn các điều kiện mà pháp luật đã đặt ra hoặc tổ chức phát hành đã ấn định.
Như vậy, GTCG bản thân nó là một loại tài sản có ba đặc điểm đặc
trưng cơ bản là xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định, trị giá được
bằng tiền và có thể chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao
dịch dân sự. Đây là ba đặc điểm để nhận biết GTCG và để phân biệt GTCG
với các loại giấy tờ khác, cũng như với loại tài sản khác.
1.1.3. Phân loại giấy tờ có giá và ý nghĩa của việc phân loại
Các loại GTCG tồn tại theo các hình thức pháp lý khác nhau. Mỗi loại
GTCG có đặc trưng riêng. Tuy nhiên, căn cứ vào các tiêu chí nhất định,
GTCG được phân loại thành các nhóm trong đó GTCG thể hiện được một số
đặc điểm chung. Sau đây là một số tiêu chí phân loại cơ bản về GTCG:
Thứ nhất, căn cứ vào thời hạn của GTCG, GTCG được phân thành
GTCG dài hạn và GTCG ngắn hạn.
Giấy tờ có giá ngắn hạn: "là GTCG có thời hạn dưới một một năm bao
gồm kỳ phiếu, tín phiếu và các GTCG ngắn hạn khác" [12, Khoản 4 Điều 4].
Giấy tờ có giá dài hạn: "là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở
lên, bao gồm trái phiếu và các GTCG dài hạn khác" [12, Khoản 5 Điều 4].
Thời hạn GTCG là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày đến
hạn thanh toán.
Việc phân loại GTCG theo thời hạn của GTCG có ý nghĩa quan trọng
trong các giao dịch liên quan đến GTCG như mua, bán, tặng cho… đặc biệt là
24
giao dịch bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tiền vay bằng GTCG và giao dịch chiết
khấu, tái chiết khấu GTCG của NHNN hoặc TCTD.
Trong giao dịch bảo đảm tiền vay bằng GTCG, thời hạn của GTCG là
cơ sở để NHNN và các TCTD xác định thời hạn cho vay trên cơ sở đảm bằng
GTCG. Thời hạn cho vay không quá thời hạn còn lại của GTCG. Thời gian
gia hạn nợ không vượt quá ngày đến hạn của GTCG. Ngoài ra, trong giao
dịch chiết khấu, tái chiết khấu GTCG thì "thời hạn chiết khấu, tái chiết khấu
không vượt quá thời hạn còn lại của giấy tờ có giá" [11, Khoản 1 Điều 9].
Thứ hai, căn cứ vào chủ thể phát hành GTCG, các GTCG được chia
thành GTCG do TCTD phát hành và GTCG do các tổ chức khác phát hành.
Giấy tờ có giá do TCTD phát hành là chứng nhận của TCTD phát
hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong
một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa
TCTD và người mua bao gồm tín phiếu, trái phiếu và các GTCG khác.
Các tổ chức khác phát hành GTCG như doanh nghiệp, Bộ Tài chính,
Kho bạc Nhà nước, Ủy ban nhân dân. Các loại GTCG do các tổ chức này phát
hành chủ yếu là trái phiếu, cổ phiếu (đối với doanh nghiệp) và có thể liệt kê
một số loại GTCG như dưới đây:
- Trái phiếu doanh nghiệp: "là loại chứng khoán nợ do doanh nghiệp
phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả gốc, lãi, và các nghĩa vụ khác (nếu có) của
doanh nghiệp đối với chủ sở hữu trái phiếu" [2, Khoản 1 Điều 2].
- Trái phiếu Chính phủ: "là loại trái phiếu do Bộ Tài chính phát hành
nhằm huy động vốn cho ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn cho chương trình,
dự án đầu tư cụ thể thuộc phạm vi đầu tư của nhà nước" [5, Khoản 1 Điều 2].
- Trái phiếu chính quyền địa phương: "là loại trái phiếu do Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh) phát hành nhằm huy động vốn cho công trình, dự án đầu tư của
địa phương" [5, Khoản 3 Điều 2].
25
- Tín phiếu kho bạc: "là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn 13 tuần,
26 tuần hoặc 52 tuần và đồng tiền phát hành là đồng Việt Nam. Các kỳ hạn khác
của tín phiếu kho bạc do Bộ Tài chính quyết định tùy theo nhu cầu sử dụng vốn
và tình hình thị trường nhưng không vượt quá 52 tuần" [5, khoản 1 Điều 10].
- Trái phiếu kho bạc: "là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ một
(01) năm trở lên và đồng tiền phát hành là đồng tiền Việt Nam hoặc ngoại tệ
tự do chuyển đổi" [5, Khoản 2 Điều 10].
- Công trái xây dựng Tổ quốc: "là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn
từ một (01) năm trở lên, đồng tiền phát hành là đồng Việt Nam và được phát
hành nhằm huy động nguồn vốn để đầu tư xây dựng những công trình quan
trọng quốc gia và các công trình thiết yếu khác phục vụ sản xuất, đời sống,
tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước" [5, Khoản 3 Điều 10].
Thứ ba, dựa vào hình thức của GTCG, GTCG được phân thành GTCG
ghi danh (ghi tên) và GTCG vô danh (không ghi tên).
Giấy tờ có giá ghi danh: "là GTCG phát hành theo hình thức chứng
chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu" [12, Khoản 4 Điều 4].
Giấy tờ có giá vô danh: "là GTCG phát hành theo hình thức chứng chỉ
không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của
người nắm giữ GTCG" [12, Khoản 5 Điều 4].
Như vậy, đối với GTCG ghi danh thì người sở hữu GTCG được ghi rõ
trên GTCG. Số lượng người sở hữu GTCG có thể chỉ là một cá nhân, một tổ
chức, pháp nhân hoặc có thể là nhiều cá nhân, nhiều tổ chức, nhiều pháp
nhân hoặc vừa tổ chức vừa là cá nhân nhưng luôn xác định được. Chính vì
vậy, chỉ có những chủ thể được ghi tên trên GTCG mới có quyền quyết định
chuyển nhượng GTCG cho chủ thể khác thông qua việc bán, tặng cho, để lại
thừa kế, Thủ tục chuyển quyền sở hữu loại GTCG này cho chủ thể khác
thường phức tạp khi phải đăng ký và phải có xác nhận của cơ quan phát hành
GTCG đó.
26
Trong nhiều trường hợp, pháp luật còn đưa ra các điều kiện đối với
người sở hữu GTCG ghi danh và hạn chế việc chuyển nhượng đối với loại
giấy tờ này như cổ phần của một số đối tượng nhất định phải được phát hành
dưới hình thức cổ phiếu có ghi tên và việc chuyển nhượng cổ phần của những
đối tượng này thực hiện thủ tục xin chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền (Khoản 1 Điều 14 Quyết định số 1122/2001/QĐ-NHNN ngày 4 tháng 9
năm 2001 của Thống đốc NHNN quy định về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu và
vốn điều lệ của ngân hàng thương mại nhà nước và nhân dân).
Đối với GTCG vô danh, trên GTCG không ghi tên người sở hữu, giấy
tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ nó. Do đó, việc
chuyển quyền sở hữu GTCG vô danh sẽ đơn giản hơn so với chuyển giao
quyền sở hữu GTCG ghi danh, không cần thông qua thủ tục đăng ký, xác
nhận của cơ quan phát hành GTCG. Ngoài ra, vì GTCG vô danh thuộc quyền
sở hữu của người nắm giữ GTCG nên pháp luật quy định người sở hữu
GTCG vô danh phải tự chịu trách nhiệm về việc bảo quản GTCG và tổ chức
phát hành sẽ không chịu trách nhiệm trong các trường hợp GTCG vô danh bị
mất cắp hoặc bị sử dụng với mục đích lừa đảo (Khoản 6 Điều 6 Điều lệ mẫu
áp dụng cho các công ty niêm yết trên sở giao dịch/trung tâm giao dịch chứng
khoán ban hành kèm theo Quyết định số 15/2007/QĐ-BTC ngày 19 tháng 03
năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính).
Thứ tư, căn cứ vào loại công cụ trên thị trường vốn, GTCG được phân
thành GTCG thuộc công cụ nợ và GTCG thuộc công cụ vốn.
Một tài sản tài chính mang lại cho người nắm giữ nó "quyền hưởng
một khối lượng tiền cố định, được ấn định trước", được gọi là công cụ nợ
(debt instrument), như trái phiếu kho bạc, trái phiếu công ty, hay các khoản
cho vay. Một tài sản tài chính mà buộc người phát hành phải trả cho người
nắm giữ "một số tiền căn cứ vào lợi nhuận thu được (nếu có)", sau khi đã
thanh toán xong những khoản nghĩa vụ, được gọi là công cụ vốn (equity
instrument), như cổ phiếu.
27
Nếu xét về mặt hình thức cũng như bản chất của GTCG, thì GTCG
thuộc công cụ nợ là loại GTCG có mệnh giá, có thời hạn, có lãi suất, xác nhận
nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành đối với người sở hữu GTCG đó (người
sở hữu GTCG là chủ nợ của tổ chức phát hành). Giấy tờ có giá thuộc công cụ
vốn là loại GTCG có mệnh giá, xác nhận vốn góp của người sở hữu GTCG tại
tổ chức phát hành (người sở hữu GTCG là chủ sở hữu tổ chức phát hành).
Như vậy, dựa vào định nghĩa về công cụ nợ và công cụ vốn như vừa
nêu thì GTCG thuộc công cụ nợ gồm kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu và GTCG
thuộc công vụ vốn có cổ phiếu.
Sự khác nhau cơ bản giữa GTCG thuộc công cụ vốn và GTCG thuộc
công cụ nợ là số tiền mà người nắm giữ GTCG đó được tổ chức phát hành
GTCG thanh toán có cố định và có được ấn định trước hay không. Đối với
GTCG thuộc công cụ nợ, số tiền được thanh toán (gốc, lãi) đã được xác định
rõ trên GTCG, không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của tổ chức phát
hành. Còn GTCG thuộc công cụ vốn thì số tiền lãi được trả căn cứ vào lợi
nhuận mà tổ chức phát hành thu được. Ngoài ra, giá trị của GTCG thuộc công
vụ vốn cũng luôn biến động trên thị trường.
Chính sự khác biệt giữa hai loại GTCG này sẽ ảnh hưởng đến quyết
định đầu tư GTCG của nhà đầu tư trên thị trường, cũng như ảnh hưởng đến
chính sách cho vay có bảo đảm bằng GTCG của các tổ chức, cá nhân cho vay.
Những nhà đầu tư muốn có khoản thu nhập ổn định từ GTCG sẽ đầu tư vào
GTCG thuộc công cụ nợ vì số tiền thu được từ loại GTCG đó đã được xác
định trước, không phụ thuộc vào biến động của thị trường và ít rủi ro. Những
nhà đầu tư "thích mạo hiểm" lại đầu tư vào GTCG thuộc công cụ vốn vì
khoản thu mà nhà đầu tư thu được có thể sẽ rất cao khi thị trường tốt và
nhưng có thể xuống thấp khi thị trường không ổn định, người sở hữu GTCG
loại này lại có các quyền và lợi ích hợp pháp khác với tư cách là chủ sở hữu tổ
chức phát hành (ví dụ, người sở hữu cổ phiếu phổ thông có quyền biểu quyết
28
trong cuộc họp Đại hội đồng cổ đông của tổ chức phát hành, quyền đề cử, ứng
cử người vào Hội đồng quản trị của tổ chức phát hành, …).
Xét trong mối quan hệ về đảm bảo tiền vay bằng GTCG, bên cho vay
cũng đưa ra những chính sách nhận bảo đảm khác nhau đối với các loại
GTCG khác nhau. Thường thì bên cho vay sẽ ưu tiên nhận tài sản bảo đảm là
GTCG thuộc công cụ nợ để giảm thiểu rủi ro vì tính ổn định và được đảm bảo
giá trị của loại GTCG này. Các loại GTCG thuộc công cụ vốn luôn được bên
cho vay xem xét, cân nhắc rất cẩn thận.
Thứ năm, căn cứ vào sự luân chuyển nguồn vốn, GTCG được phân
thành GTCG sơ cấp và GTCG thứ cấp.
Giấy tờ có giá sơ cấp là GTCG được tiến hành mua bán ở thị trường
sơ cấp khi người mua mua được GTCG phát hành để bán lần đầu từ tổ chức
phát hành theo đó vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang tổ chức phát hành
thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
Giấy tờ có giá thứ cấp là GTCG được tiến hành mua bán ở thị trường
thứ cấp khi GTCG được phát hành ở thị trường sơ cấp đã được mua đi bán lại
một hoặc nhiều lần theo đó nguồn vốn từ nhà đầu tư này sẽ được chuyển sang
nhà đầu tư kia.
Cuối cùng, căn cứ vào chức năng thanh toán trên thị trường, GTCG
được phân thành GTCG như tiền và GTCG khác.
Giấy tờ có giá như tiền là GTCG có thể làm phương tiện thanh toán
trong các giao dịch thanh toán. Giấy tờ có giá như tiền được pháp luật hiện
hành coi là một loại tiền tệ. Theo đó, Khoản 1 điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật NHNN (số 10/2003/QH11 ngày 17/6/2003) trước đây
quy định: Tiền tệ là phương tiện thanh toán, bao gồm tiền giấy, kim loại và
các GTCG như tiền.
Mặc dù các văn bản pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể
GTCG như tiền gồm những loại nào, nhưng dựa vào chức năng thanh toán có