Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

TIỂU LUẬN THỰC TIỄN vận HÀNH mối QUAN hệ GIỮA NHÀ nước PHÁP QUYỀN với KINH tế THỊ TRƯỜNG và xã hội dân sự ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.31 KB, 79 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA LUẬT

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN
THỰC TIỄN VẬN HÀNH MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN VỚI KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
VÀ XÃ HỘI DÂN SỰ Ở VIỆT NAM


GVHD: Lưu Đức Quang

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


MỤC LỤC

BÀI TẬP 1: THỰC TIỄN VẬN HÀNH MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VỚI
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI DÂN SỰ Ở VIỆT NAM..........................................................1
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. THỰC TIỄN VẬN HÀNH MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.........................................................................................................................3
1.1.

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN.....................................................................................................3

1.1.1.

Khái niệm............................................................................................................................3

1.1.2.



Các yêu cầu cần thiết để xây dựng Nhà nước pháp quyền................................................4

1.2.

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG..........................................................................................................5

1.3.

MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG..........6

1.4. THỰC TIỄN VẬN HÀNH MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.....................................................................................................................9
1.5.

TÌNH HUỐNG THỰC TẾ...................................................................................................... 25

1.5.1.

Việt Nam gia nhập CPTPP................................................................................................ 25

1.5.2.

Nhà máy Lọc hoá dầu Nghi Sơn vận hành thương mại.................................................. 26

1.5.3.

Điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ để ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối.........28

CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN VẬN HÀNH MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ

XÃ HỘI DÂN SỰ.................................................................................................................................... 34
2.1.

KHÁI QUÁT XÃ HỘI DÂN SỰ............................................................................................. 34

2.1.1

Khái niệm xã hội dân sự................................................................................................... 34

2.1.2

Đặc trưng cơ bản của xã hội dân sự................................................................................. 36

2.1.3

Các loại tổ chức xã hội dân sự.......................................................................................... 39

2.2.

PHẠM VI TƯƠNG TÁC CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ XÃ HỘI DÂN SỰ.........41

2.3.

THỰC TIỄN VẬN HÀNH XÃ HỘI DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM...........................................45

LỜI KẾT.................................................................................................................................................. 55


THỰC TIỄN VẬN HÀNH MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN VỚI KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

VÀ XÃ HỘI DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

Page | 1


LỜI MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, lần đầu tiên,
được nêu ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (ngày
29-11-1991) và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
của Đảng (năm 1994) cũng như trong các văn kiện khác của Đảng và Nhà nước. Với
Hiến pháp năm 2013, bản chất và đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta đã được thể chế hóa rõ hơn. Về bản chất, đó là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân (Điều 2 Hiến pháp năm 2013).
Để xây dựng nhà nước pháp quyền, không thể không nhắc đến hai thành tố kinh tế
thị trường và xã hội dân sự. Trong sự phát triển của các quốc gia trên thế giới, hai thành
tố này đã sớm trở nên quen thuộc và mối quan hệ giữa nhà nước và các thành tố cũng
sớm được xây dựng và phát triển một cách mềm dẻo. Có thể nói, không một đất nước
phát triển nào lại không có một mối quan hệ vững chắc trong ba đối tượng kể trên. Nước
Việt Nam ta trong chặng đường phát triển của mình nếu sớm hình thành một đường lối
chính trị đúng đắn về nhà nước pháp quyền – kinh tế thị trường – xã hội dân sự thì chắc
chắn đây sẽ là nền tảng cơ sở vững chắc để cả nhà nước và người dân hợp lực xây dựng
đất nước và cuộc sống của chính bản thân họ.
Tuy nhiên, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta vẫn
còn nhiều bất cập. Tổ chức bộ máy nhà nước có chỗ còn chưa hợp lý. Hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực còn hạn chế. Luật pháp, cơ chế, chính sách chưa
đồng bộ. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn khá nghiêm trọng làm giảm lòng
tin của nhân dân vào Đảng và nhà nước, ảnh hưởng không tốt đến quá trình phát triển của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hàng loạt vấn đề về lý luận
và thực tiễn trong việc xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay đang đặt ra những đòi hỏi cấp bách mà Đảng, nhà nước và nhân dân ta

cũng như các nhà khoa học Việt Nam cần phải tập trung giải quyết.

Page | 1


Vì vậy, nhóm chúng em nhận đề tài “Thực tiễn vận hành mối quan hệ giữa nhà
nước pháp quyền với kinh tế thị trường và xã hội dân sự” làm đề tài nghiên cứu cho
chuyên đề tốt nghiệp của mình với mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé và
khiêm tốn của bản thân vào giải quyết những vấn đề trên của đất nước.

Page | 2


CHƯƠNG 1. THỰC TIỄN VẬN HÀNH MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

1.1.1. Khái niệm
Nhà nước pháp quyền không phải là vấn đề hoàn toàn mới lạ, mà là một phạm trù
có nguồn gốc lịch sử tư tưởng từ xa xưa. Sự ra đời và phát triển của tư tưởng “Nhà nước
pháp quyền” gắn liền với sự ra đời và phát triển của dân chủ, của tư tưởng loại trừ sự
chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, vô pháp luật. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải
có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ chức, thực
hiện quyền lực Nhà nước. Đó là hai yếu tố không thể thiếu được khi nói đến Nhà nước
pháp quyền nói chung. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xuất hiện rất sớm trong lịch sử
tư tưởng nhân loại, ngay từ khi xuất hiện nhà nước cổ đại và được tiếp tục phát triển, nhất
là trong thời kỳ cách mạng tư sản. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền phản ánh khát vọng
của nhân dân về một Nhà nước bảo đảm tự do, dân chủ, nhân quyền, đối lập với sự độc

đoán, độc tài của Nhà nước chủ nô và chế độ chuyên chế hà khắc của Nhà nuớc phong
kiến.
Vậy, Nhà nước pháp quyền theo quan điểm của các nhà tư tưởng trong lịch sử
nhân loại là nhà nước như thế nào? Đó là Nhà nước bảo đảm tính tối thượng của pháp
luật trong đời sống xã hội, trong đó pháp luật phải phản ánh ý chí chung, lợi ích chung
của nhân dân; thực hiện và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Nhà nước chịu
trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình và yêu cầu công dân thực hiện
các nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Nhà nước pháp quyền có hình thức tổ chức
quyền lực Nhà nước thích hợp bảo đảm chủ quyền thuộc về nhân dân, tổ chức thực hiện
có hiệu quả quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; ngăn chặn được sự tuỳ tiện, lạm quyền
từ pháp luật, kể cả vi phạm pháp luật của các cơ quan và công chức Nhà nước.
Như vậy, Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu Nhà nước gắn với một giai
cấp (Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ
Page | 3


nghĩa) mà là hình thức tổ chức quyền lực Nhà nước, bảo đảm tổ chức hoạt động của Nhà
nước tuân theo quy định của pháp luật, thực hiện được quản lý xã hội theo pháp luật, bảo
đảm chủ quyền và quyền tự do, dân chủ của nhân dân1.
1.1.2. Các yêu cầu cần thiết để xây dựng Nhà nước pháp quyền
Xây dựng được một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, bảo đảm thực hiện
ngày càng đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu tổ chức và chế hoạt động của nhà
nước phải đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm quyền làm
chủ, quyền con người của nhân dân, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân.
Xây dựng một nhà nước có đủ năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội có hiệu
quả, phát huy được mọi tiềm năng của dân tộc; đồng thời, tiếp thu hợp lý những thành
tựu khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới của thế giới và những tinh hoa văn hoá của nhân
loại.
Xây dựng nhà nước có bộ máy gọn nhẹ, được tổ chức chính quy, có quy chế làm
việc khoa học, bảo đảm kiểm tra, giám sát và điều hành được hoạt động của xã hội, cũng

như hoạt động của bản thân bộ máy nhà nước.
Xây dựng Nhà nước hoạt động trên cơ sở pháp luật, thực hiện quản lý xã hội theo
pháp luật, giữ vững kỷ cương Nhà nước và trật tự xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng,
bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.
Xây dựng một Nhà nước có đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, toàn tâm, toàn
ý phục vụ nhân dân, có trách nhiệm với dân, đồng thời có bản lĩnh chính trị, năng lực
quản lý, loại trừ được bệnh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân.
Bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.

1 Thái Xuân Sang, Tác động của kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế đến tổ chức
thực hiện quyền lực nhà nước Việt Nam hiện nay,
Page | 4


Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân phải trở thành định hướng, yêu cầu bao trùm toàn bộ tổ chức hoạt động của Nhà
nước, đồng thời là trách nhiệm của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của
Mặt trận và mọi công dân1.
1.2.

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Lịch sử phát triển của xã hội loài người có các kiểu tổ chức nền kinh tế là: Nền

kinh tế tập quán truyền thống; nền kinh tế chỉ huy; nền kinh tế thị trường và Nền kinh tế
hỗn hợp (kinh tế thị trường hiện đại). Như vậy kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức nền
kinh tế. Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó thị trường
quyết định về sản xuất và phân phối. Trong nền kinh tế thị trường người sản xuất và
người tiêu dùng tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định những vấn đề cơ bản của tổ
chức kinh tế như sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Đồng thời thị

trường quyết định phân phối tài nguyên cho nền sản xuất xã hội. Trong lịch sử phát triển
kinh tế thị trường đã từng tồn tại các mô hình tổ chức kinh tế thị trường như sau: Kinh tế
thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội và mô hình kinh tế thị trường hiện đại. Trong
mô hình kinh tế thị trường hiện đại có vai trò can thiệp của nhà nước đối với thị trường
được phát huy triệt để; nhà nước khuyến khích cạnh tranh song giải quyết tốt các vấn đề
xã hội trên cơ sở phát huy triệt để dân chủ, bảo đảm bình đẳng của mọi người dân, mọi
tầng lớp xã hội; doanh nghiệp bình đẳng trong cạnh tranh. Mô hình này được áp dụng
phổ biến ở các nước phát triển như Nhật, Mỹ…
Kinh tế thị trường có những đặc trưng cơ bản: Sự luân chuyển của các yếu tố sản
xuất (vốn, sức lao động, khoa học công nghệ…) và sản phẩm từ sản xuất đến tiêu dùng
được thực hiện thông qua mua bán trên thị trường, do thị trường quyết định, lấy tiêu
chuẩn ngang giá làm đầu. Sản xuất, trao đổi, tiêu dùng hàng hóa tự do khi tham gia vào
thị trường như tự do lựa chọn sản phẩm, công nghệ sản xuất; tự do lựa chọn đối tác trao
đổi; tự do thỏa thuận giá cả… Tự do cạnh tranh; cạnh tranh là thuộc tính của kinh tế thị
1 Thái Xuân Sang, Tác động của kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế đến tổ chức
thực hiện quyền lực nhà nước Việt Nam hiện nay,
Page | 5


trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng hàng hóa,
dịch vụ có lợi cho người tiêu dùng. Các quy luật kinh tế chi phối mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh như quy luật cung cầu, quy luật giá cả, quy luật giá trị (ví dụ, sự chi phối của
quy luật cung cầu: khi cung = cầu thì giá cả xoay quanh giá trị hàng hóa; khi cung lớn
hơn cầu thì giá giảm, hàng hóa mất giá; khi cung nhỏ hơn cầu thì tăng giá, hàng có giá).
Kinh tế thị trường đề cao giá trị của đồng tiền: đồng tiền đóng vai trò quyết định đối với
nền kinh tế; các đối tác đều theo đuổi lợi ích của mình. Thất nghiệp là hiện tượng phổ
biến của kinh tế thị trường.
Kinh tế thế giới ngày càng có xu thế mở, liên kết giữa các nền kinh tế và tính phụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng: các nước phát triển cần thị trường, cần
nguồn cung cấp nguyên, nhiên liệu và nguồn nhân công rẻ trong khi các nước chậm phát

triển và đang phát triển lại cần vốn, cần công nghệ, cần kỹ năng quản lý và thị trường. Có
thể nói, trong thời đại ngày nay không quốc gia nào có thể đứng một mình, tự cô lập với
thế giới bên ngoài mà phát triển được. Tính phụ thuộc lẫn nhau của nền kinh tế thị trường
khiến các quốc gia, dù muốn hay không, buộc phải xích lại gần nhau, hợp tác với nhau để
giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu1.
1.3.

MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
Thứ nhất, thị trường đóng vai trò quyết định số lượng và chất lượng sản phẩm. Thị

trường cho phép nắm bắt được mức cầu và qua đó quyết định mức cung (về lượng và về
chất). Thực tế này diễn ra vì kinh tế thị trường căn cứ trên nguyên tắc phi tập trung hóa.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường không mang lại những giải pháp lý tưởng và Nhà nước đóng
vai trò quan trọng trong việc khắc phục những vấn đề mà bản thân cơ chế thị trường
không thể giải quyết triệt để. Ngoài ra, cơ chế thị trường cũng không tránh khỏi sức ép từ
các vấn đề về chính sách công trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay như: lạm phát, thất
nghiệp, ô nhiễm, nghèo đói và các hàng rào thương mại quốc tế khác.
1 Thái Xuân Sang, Tác động của kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế đến tổ chức
thực hiện quyền lực nhà nước Việt Nam hiện nay,
Page | 6


Thứ hai, sản xuất, kinh doanh trong kinh tế thị trường có nhiệm vụ đạt đầu ra tối
đa từ các yếu tố đầu vào mà các nhà sản xuất, kinh doanh sử dụng. Tức, nó giải quyết vấn
đề quan trọng nhất mà mọi cơ chế kinh tế phải đối mặt: làm thế nào để một xã hội có thể
sản xuất hàng hóa và dịch vụ một cách có hiệu quả nhất? Nghiên cứu nhu cầu của người
tiêu dùng, nhà sản xuất xác định giá bán hay đổi mới công nghệ sản xuất nhằm thu lợi
nhuận tối đa và giành thắng lợi trong cạnh tranh với các nhà sản xuất, kinh doanh khác.
Tất nhiên, nhà sản xuất, kinh doanh không thể lường trước mọi biến đổi trên thị

trường một cách toàn diện, do vậy thường gặp rủi ro thất bại. Cân nhắc giữa rủi ro và
thắng lợi của các cá nhân và các doanh nghiệp cho thấy vai trò quan trọng của nhà nước
pháp quyền trong kinh tế thị trường là bảo vệ quyền sở hữu tài sản và thực thi hợp đồng
hợp pháp. Quyền sở hữu phải được xác định rõ trong luật pháp. Chỉ khi quyền tự do sở
hữu đó được đảm bảo, các chủ thể cá nhân và các doanh nghiệp mới sẵn sàng chịu rủi ro
về tiền bạc để đầu tư vào kinh doanh hoặc, mới mở rộng kinh doanh. Cạnh tranh là nhân
tố đi liền với thị trường, và chính nó có lợi cho người tiêu dùng, đặc biệt chính sách mở
cửa kinh tế càng làm cho cạnh tranh có vai trò quan trọng hơn nữa, nhất là trên phương
diện đổi mới công nghệ sản xuất. Song, một mối nguy hiểm sẽ xuất hiện ở đây là khả
năng kinh doanh không đồng đều giữa các doanh nghiệp các nước làm cho một số doanh
nghiệp không có khả năng cạnh tranh bị phá sản. Xét từ góc độ quản lý xã hội, ở đây sẽ
nảy sinh một vấn đề là tính hợp lý và khuôn khổ của chính sách hạn chế tự do thương mại
nhằm bảo vệ công ăn việc làm trong một số ngành công nghiệp, tức việc làm tốt cho đất
nước, vì công nhân và chủ doanh nghiệp trong các ngành ấy sẽ có thu nhập và lợi nhuận
cao hơn, chi tiêu phần lớn số tiền đó ở trong nước. Chính sách như vậy chỉ đúng một
phần, vì nó còn làm phương hại đến người tiêu dùng (giá cả và chất lượng sản phẩm).
Thứ ba, mặc dù thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất
lao động và chất lượng sản phẩm, song còn có hàng loạt lĩnh vực thị trường không thể
can dự, đòi hỏi can thiệp của nhà nước bằng luật. Vai trò của nhà nước pháp quyền ở đây
không thay thế thị trường mà hoàn thiện các chức năng của thị trường. Như lĩnh vực quốc

Page | 7


phòng, an ninh, môi trường - sinh thái cho thấy vai trò không thể thay thế được củanhà
nước trong việc sử dụng luật pháp vì phúc lợi chung của một dân tộc.
Thứ tư, trong lĩnh vực hoạt động xã hội rất cần đến quản lý bằng pháp luật của nhà
nước nhằm đưa xã hội đi lên, đó là lĩnh vực giáo dục. Tham gia vào quá trình đào tạo hay
tái đào tạo, công dân tìm kiếm cách cải thiện cuộc sống của mình chứ không cần thiết
phải của cả cộng đồng. Nhưng kết quả từ nâng cao học vấn của người đó là người lao

động trở thành thành viên hữu ích và có học vấn cao hơn trong cộng đồng. Người lao
động có những kỹ năng mới và qua đó có thể xây dựng được một doanh nghiệp mới để
tạo cơ hội và việc làm cho người khác. Như vậy, học vấn của công dân nêu trên sẽ làm lợi
cho những người khác, hay nói cách khác, giáo dục đem lại lợi ích ngoại sinh cho một
quốc gia do những công nhân có học vấn thường linh hoạt và có năng suất lao động cao
hơn, ít có khả năng thất nghiệp hơn. Điều này có nghĩa là chi tiêu nhiều hơn cho giáo dục
có thể dẫn đến những khoản tiết kiệm của xã hội và cá nhân không phải chi tiêu vào việc
phòng chống tội phạm, nghèo đói và các vấn đề xã hội khác, cũng như nâng cao trình độ
kỹ năng, tính linh hoạt và năng suất của lực lượng lao động. Do vậy, nhà nước cần sử
dụng pháp luật để quy định trợ cấp hoặc khuyến khích các lĩnh vực hoạt động nhằm
mang lại lợi ích ngoại sinh. Đó, trước hết là giáo dục công lập nhằm tận dụng tối đa
nguồn lực trí tuệ, nhân tài của đất nước.
Thứ năm, phát triển xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường trực tiếp liên quan
đến phương diện pháp lý. Mặc dù kinh tế thị trường không phải là “giấy phép” cho bóc
lột hay trộm cướp, song ở đây rõ ràng có những lạm dụng. Do vậy, nhà nước cần phải tạo
ra khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thị trường nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của các
bên tham gia quan hệ thị trường, lành mạnh hóa kinh tế và xã hội, qua đó kích thích mọi
người tích cực tham gia sản xuất, kinh doanh với tâm trạng vững vàng và qua đó đem lại
hiệu quả tối đa. Cạnh tranh hợp pháp là đòn bẩy của phát triển kinh tế và các hình thức
sáng tạo khác. Chính nhà nước pháp quyền cần đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp
trong xã hội.

Page | 8


Thứ sáu, kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến phân hóa xã hội. Do vậy, để xã hội phát
triển bền vững, ổn định, nhà nước chắc chắn phải sử dụng pháp luật để can thiệp bằng các
chương trình tái phân phối thu nhập, phương tiện hữu hiệu và phổ biến ở đây là các chính
sách thuế để phân phối thu nhập sau thuế trở nên công bằng hơn. Tất nhiên, việc tái phân
phối thu nhập thông qua thuế có thể làm suy giảm động cơ của một nhóm người có thu

nhâp cao, hơn nữa việc xác định công bằng và hợp lý là gì vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ.
Song, kinh nghiệm của tất cả các nước có nền kinh tế thị trường đầy đủ cho thấy, vì lòng
trắc ẩn và tính công bằng, nhà nước pháp quyền luôn có trách nhiệm hỗ trợ các gia đình
nghèo và giúp họ thoát khỏi cảnh bần cùng. Đây là “mạng lưới an sinh xã hội” cần được
triển khai nhờ hệ thống luật của nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường.
Như vậy, nguyên tắc pháp quyền đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong quản lý
nhà nước đối với thị trường nhằm đảm bảo phúc lợi chung cho mỗi công dân và toàn thể
quốc gia1.
1.4.

THỰC TIỄN VẬN HÀNH MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Việt Nam mặc dù đã đổi mới hơn 30 năm, nhưng việc giải quyết vấn đề này trong

thực tiễn còn nhiều hạn chế. Trước tình hình đó, tại Đại hội XII của Đảng đã bổ sung:
“giải quyết tốt các mối quan hệ lớn... giữa nhà nước và thị trường” 2 và đây cũng là một
trong chín mối quan hệ lớn cần phải giải quyết trong thời gian tới.
Trước đổi mới, ở Việt Nam, do chủ trương phát triển nền kinh tế kế hoạch nên vấn
đề thị trường không được nhắc tới và bàn đến. Đặc trưng chủ yếu của Nhà nước lúc này
là thâu tóm tất cả về vật tư, hàng hóa, thống nhất thu mua, phân phối, tiêu thụ; về nhân
lực thống nhất đào tạo, phân phối; về tiền vốn thống nhất thu, chi; quyền đầu tư tập trung

1Lê Bích Phương, Hà Kiên Tân, Vai trò của nhà nước pháp quyền đối với kinh tế thị trường và kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ờ Việt Nam hiện nay, />2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb ST, H.
1991, tr. 9-10
Page | 9


vào trong tay chính quyền Trung ương. Những điều này đã phủ định sản xuất hàng hóa và
trao đổi hàng hóa. Hậu quả là kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn khẳng định, nền kinh tế thị trường mà chúng
ta xây dựng phải có sự quản lý của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước đối với kinh tế thị
trường không chỉ xuất phát từ yêu cầu phổ biến của quá trình phát triển kinh tế thị trường,
mà còn xuất phát từ tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991)
của Đảng đã xác định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” 1 là
một trong bảy phương hướng cơ bản trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược:
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, kiên quyết “xóa bỏ triệt để cơ chế quản lý tập
trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng
pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ các
thị trường….”2 trên cơ sở nguyên tắc: “Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng
pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật
thị trường. Tăng cường công tác giám sát, nhất là giám sát thị trường tài chính, chủ động
điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho thị trường hoặc
can thiệp làm lệch lạc các quan hệ thị trường”3.
Thị trường, kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ giữa người với người trong sản
xuất, trao đổi và tiêu dùng, nên mang đậm dấu ấn của quan hệ xã hội, của thể chế chính
trị mà nền kinh tế đó tồn tại. Sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay có sự
định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhân tố sâu xa nhằm bảo đảm định hướng chính trị đối
với kinh tế là đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền.
Song, để đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng biến thành hiện thực vận động
của nền kinh tế, chúng phải được thể chế hóa thành hệ thống pháp luật, chương trình, kế
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb ST, H.
1991, tr. 9-10
2Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Sđd, tr.12
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.141
Page | 10



hoạch phát triển kinh tế - xã hội và được triển khai thông qua Nhà nước, dưới sự quản lý
của Nhà nước do Đảng lãnh đạo. Do đó, sự tham gia của Nhà nước vào quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, trong đó có kinh tế thị trường là tất yếu khách quan.
Đặc biệt, nền kinh tế thị trường của nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đây là hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của thị
trường, vừa dựa trên cơ sở và sự dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội: khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng
cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi
trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; phân phối kết quả làm ra chủ yếu theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực
khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; Nhà nước quản lý
phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường; phát
huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế 1. Vì vậy, sự định hướng,
chỉ đạo của Nhà nước là cần thiết. Việc nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong việc định
hướng sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta không mâu thuẫn với vấn đề có
tính nguyên tắc: sự vận hành của nền kinh tế thị trường nào cũng trước hết và chủ yếu do
các quy luật thị trường quyết định. Song, quy luật kinh tế thị trường lại thuộc lĩnh vực
quy luật xã hội. Tính khách quan của nó được thể hiện và thực hiện thông qua hoạt động
có ý thức của con người, mà cụ thể ở đây là của Nhà nước.
Trong các Đại hội gần đây, Đảng ta một mặt thừa nhận sự tồn tại khách quan của
kinh tế thị trường. Mặt khác, Đảng cũng thấy rõ những khuyết tật của nó không phù hợp
với bản chất của chủ nghĩa xã hội, nên luôn đề cao vai trò quản lý của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội từng bước được hiện thực hóa. Hệ thống
luật pháp tạo khung khổ pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đã được bổ sung, hoàn thiện. Các loại thị trường bước đầu được hình thành đồng bộ, gắn
1Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.204 - 206
Page | 11



kết ngày càng tốt hơn với thị trường thế giới. Các loại hình doanh nghiệp dựa trên các
hình thức sở hữu khác nhau (một điều kiện cơ bản để kinh tế thị trường tồn tại) đều được
khuyến khích phát triển; trong đó, “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật
chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh
tế vĩ mô”1. Quản lý nhà nước về kinh tế đã chuyển đổi căn bản sang phương thức quản lý
chủ yếu bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các
nguồn lực kinh tế; nhằm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập và phát triển đầy đủ,
đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường. Những thay đổi quan trọng này đã đảm bảo
cho nền kinh tế nước ta hội đủ các điều kiện để trở thành thành viên thứ 150 của WTO và
đến nay, đã có gần 30 nước công nhận nước ta có nền kinh tế thị trường đầy đủ.
Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường sau 30 năm đổi mới cho thấy, Đảng ta
đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới
và phức tạp, thị trường nhiều hay ít, nhà nước ít hay nhiều để nền kinh tế vận hành tốt,
phát huy những lợi thế vốn có? Vì vậy hiện nay, việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà
nước và thị trường chưa rõ ràng, còn rất nhiều mâu thuẫn, bất cập.
Một là, trong thực tiễn đổi mới, Nhà nước Việt Nam đã sử dụng các hệ thống công
cụ chủ yếu để quản lý nền kinh tế thị trường như: Hệ thống pháp luật nhằm tạo ra “luật
chơi” cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế; Công tác kế hoạch và quy hoạch,
nhằm hoạch định các mục tiêu và xác lập các phương tiện để đạt các mục tiêu đề ra; Các
chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô, đặc biệt chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ; Sử
dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để bổ khuyết thị trường (trong đó quan trọng nhất
là các loại dự trữ quốc gia); Cung cấp dịch vụ và hàng hoá công cộng; hành chính công;
sử dụng các công cụ hỗ trợ như thông tin, xúc tiến thương mại, cung cấp các dịch vụ sản
xuất… Tuy nhiên, các hệ thống công cụ quản lý, điều tiết của Nhà nước nêu trên đều
chưa đáp ứng yêu cầu. Chẳng hạn, hệ thống pháp luật của nước ta trong quản lý kinh tế
thị trường chưa hoàn thiện. Hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước về kinh tế còn thấp,
một mặt là do sự can thiệp của Nhà nước không phù hợp với sự vận động của thị trường.
1Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.101
Page | 12



Mặt khác, Nhà nước lại thiếu công cụ và cơ chế giám sát, chế tài để bảo đảm các chủ thể
tham gia các quan hệ thị trường tuân thủ “luật chơi” đã đề ra.
Công tác kế hoạch và quy hoạch của Nhà nước trên nhiều lĩnh vực còn bất cập,
chưa phù hợp với thực tế. Theo các chuyên gia, hiện nay ở Việt Nam có đến đến 80% kế
hoạch, quy hoạch, dự án không khả thi. Trong đó, tập trung ở các chương trình có vốn từ
ngân sách nhà nước hoặc do Nhà nước bảo lãnh. Chẳng hạn, dự án tuyến đường sắt số 1
Bến Thành - Suối Tiên (TP.Hồ Chí Minh) đội vốn lên tới hơn 126%, tuyến Cát Linh - Hà
Đông (Hà Nội) đội vốn lên 57%, dự án Nhà máy Gang thép Thái Nguyên giai đoạn 2 đội
vốn từ 4.000 lên 8.000 tỷ đồng, kéo dài trong 8 năm chưa xong 1. Bên cạnh đó, việc triển
khai nhiệm vụ sau khi quy hoạch rất trì trệ, không đáp ứng kịp yêu cầu quản lý. Điển
hình nhất là trường hợp Quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2050 được phê duyệt từ năm 2011, đã 5 năm trôi qua nhưng nhiều quy
hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết chưa được phê duyệt.
Hai là, còn có sự nhầm lẫn giữa nhà nước và thị trường. Kinh tế thị trường được
vận động với sự tham gia của ba chủ thể chính: người sản xuất, người tiêu dùng và Nhà
nước. Nhưng trong quản lý nền kinh tế của Việt Nam hiện nay, còn có sự lẫn lộn về vị trí,
vai trò của ba chủ thể này. Nhiều việc Nhà nước cần phải làm, nhưng lại không làm hoặc
làm không đầy đủ. Tổng kết 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam đã chỉ rõ hạn chế
của mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường là: “Chưa làm sáng tỏ vai trò của Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường do chưa phân định rõ chức năng Nhà nước - thị trường. Nhà
nước vẫn bao biện nhiều chức năng mà thị trường đảm nhiệm hiệu quả hơn (phân bổ vốn;
quản trị doanh nghiệp) trong khi chưa chú ý đúng mức đến những chức năng mà Nhà
nước phải hoàn thành (xây dựng và thực thi khung khổ quản lý nhà nước “khung khổ
hành chính - pháp lý”, cung cấp hàng hóa và dịch vụ công, hỗ trợ phát triển,...)” 2. Bên
cạnh đó, trong nhiều trường hợp, Nhà nước đã can thiệp vào vai trò, chức năng của các
1 Số liệu theo bài Còn bất cập trong quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, tác giả Hoài Anh, báo Hải
Quan, bản điện tử, cập nhật ngày 24-01-2016
2TS Đinh Thế Huynh, GS.TS Phùng Hữu Phú, GS.TS Lê Hữu Nghĩa (chủ biên): 30 năm đổi mới và phát

triển ở Việt Nam, Nxb CTQG - ST, Hà nội. 2015, tr.96
Page | 13


chủ thể khác. Điển hình như, trong lĩnh vực quản lý kinh tế vĩ mô, vai trò quan trọng nhất
của Nhà nước là định hướng mục tiêu phát triển, dự báo tình hình biến động của thị
trường; kiểm soát độc quyền; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh…, nhưng Nhà nước
không tập trung đúng mức, mà lại can thiệp vào vấn đề giá cả, tiền lương… đây là chức
năng của doanh nghiệp. Việc chậm thay đổi thói quen can thiệp của Nhà nước vào thị
trường bằng các biện pháp hành chính, thay vì sử dụng các công cụ can thiệp gián tiếp để
điều tiết thị trường cũng là một nguyên nhân khiến Nhà nước vận hành thị trường thiếu
hiệu quả.
Ba là, “hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao; kỷ luật, kỷ cương chưa
nghiêm: Nhà nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn trong nền kinh tế. Vẫn còn tình trạng
bao cấp, xin – cho trong xây dựng và thực hiện một số cơ chế, chính sách” 1. Nhà nước
can thiệp quá sâu vào hoạt động, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại
không chịu trách nhiệm về vật chất đối với các quyết định của mình. Quan hệ hàng hóa,
tiền tệ bị coi nhẹ, do đó, trong nhiều trường hợp, đáng lý là quan hệ cung cầu, thì quyền
lực và sự duy ý chí lại đi trước dẫn dắt thị trường.
Trước những bất cập trong mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường ở nước ta
hiện nay, Đại hội XII đã khẳng định, cần phải tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa Nhà
nước và thị trường và chỉ khi nào việc phân vai giữa Nhà nước - thị trường được làm rõ,
được quy định bởi pháp luật, bằng các chức năng, nhiệm vụ cụ thể, thì khi đó mối quan
hệ giữa Nhà nước và thị trường mới là biện chứng, tương hợp và hỗ trợ cho nhau. Quan
hệ giữa thị trường với Nhà nước cần phải được xác định phù hợp với trình độ phát triển
của sức sản xuất. Bởi vì, các quốc gia khác nhau sẽ ở những giai đoạn phát triển khác
nhau, có trình độ phát triển sức sản xuất, trình độ phát triển thị trường khác nhau, nên xử
lý mối quan hệ giữa vai trò của thị trường với vai trò của Nhà nước cần phải xuất phát từ
thực tế mỗi nước, dựa trên nguyên tắc làm gì đều phải có lợi cho phát triển sức sản xuất,
không thể bê nguyên xi một lý luận, một công thức để áp dụng trong mọi trường hợp.


1Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 100
Page | 14


Hạn chế lớn nhất trong mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường là sự bất cập
trong quản lý của Nhà nước đối với thị trường dẫn tới: “Thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, chưa có cơ chế đột phá để thúc đẩy phát
triển”1. Vì vậy, Đảng ta chỉ đạo trong những năm tiếp theo, chúng ta phải tập trung hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là một trong
những nội dung chủ yếu của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XII) về hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu đến năm 2020 “phấn đấu cơ bản
hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo
các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế” 2. Tính
hiện đại và hội nhập quốc tế thể hiện ở chỗ: Kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát
triển kinh tế thị trường của nhân loại, kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn 30 năm đổi mới;
có hệ thống pháp luật, các thiết chế, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại
thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với thị trường và các
nền kinh tế trên thế giới; vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường được xác định và
thực hiện phù hợp với thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực phổ biến của thế giới đương đại.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đóng vai trò
định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng,
minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà
nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ tài
nguyên, môi trường; phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội. Thị trường đóng vai trò chủ
yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải
phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 5
(khóa XII) đã nhấn mạnh hoàn thiện thể chế về sở hữu. Đặc biệt, lần đầu tiên Đảng ta đã

đề cập tới hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ. Bởi trong xu thế phát triển và hội nhập
1Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 60
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 104
Page | 15


kinh tế sâu rộng như hiện nay thì sở hữu trí tuệ còn có giá trị lớn hơn rất nhiều những tài
sản hữu hình khác. Bên cạnh đó, Đảng ta cũng khẳng định: xây dựng và hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu
đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững phải đi
đôi với đổi mới, hoàn thiện bộ máy tổ chức, cán bộ của toàn hệ thống chính trị; xác định
rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường
và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững
và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nền kinh tế ấy vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường nhưng vẫn bảo đảm những yếu
tố nhân văn của thể chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở khía cạnh bảo đảm: “sự hài hoà giữa
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững”1.
Trong lý thuyết kinh tế đã tồn tại các trường phái khác nhau, từ nhấn mạnh vai trò
thị trường, đến nhấn mạnh vai trò nhà nước hay nhấn đến sự cần thiết của cả nhà nước và
thị trường trong nền kinh tế hỗn hợp. Tuy nhiên, không có ngưỡng chung cho việc xử lý
mối quan hệ này, mà ở mỗi nền kinh tế, mức độ tham gia của nhà nước hay mức độ quyết
định của thị trường là rất đa dạng, tùy thuộc vào trình độ phát triển lực lượng sản xuất,
quan niệm về mô hình vận hành, tập quán truyền thống văn hóa... Ngay trong bản thân
mỗi nền kinh tế, trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau, cũng đều có sự điều chỉnh
trong sự can thiệp của nhà nước vào thị trường. Đồng thời thực tiễn lịch sử cho thấy, sự
thất bại của không ít nền kinh tế là do tuyệt đối hóa vai trò của nhà nước hoặc tuyệt đối
hóa vai trò thị trường. Mô hình chung có tính phổ biến hiện nay là phát triển nền kinh tế
hỗn hợp mà ở đó, vai trò nhà nước và vai trò thị trường đều được phát huy, bổ khuyết cho
nhau.

Trong mô hình kinh tế thị trường ở các nước phát triển phương Tây, nhà nước
được chú ý nhiều hơn trong vai trò là người dẫn dắt, điều chỉnh. Vai trò này đặc biệt được
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá XII về hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Page | 16


chú ý trong các thời kỳ khủng hoảng. Nhiều quốc gia đã đẩy mạnh quá trình tư nhân hóa,
hoặc chuyển giao công - tư, nhà nước hầu như không triển khai đầu tư kinh doanh trực
tiếp, bản thân các dịch vụ công cũng được chuyển cho tư nhân tham gia cung cấp. Nhà
nước sử dụng các công cụ điều tiết, nhất là các chính sách tài chính - tiền tệ, thuế, ngân
sách, xây dựng các chiến lược, quy hoạch dài hạn... để điều chỉnh, định hướng nền kinh
tế, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho các chủ thể trên thị trường hoạt động. Ở
một số nền kinh tế Đông Á, trong thời kỳ đầu phát triển, nhà nước can thiệp khá mạnh
vào nền kinh tế, thực sự là động lực thúc đẩy và định hướng phát triển. Tuy nhiên, trong
những thập niên gần đây quá trình tư nhân hóa và phân quyền, giải điều tiết được đẩy
mạnh. Vai trò nhà nước tuy được nhấn mạnh hơn so với các nền kinh tế ở châu Âu và
Mỹ, song giữa nhà nước và thị trường đều có sự kết hợp chặt chẽ, nhà nước chú ý hơn
trong việc tạo lập hành lang pháp lý, xây dựng các quy tắc, tạo lập kết cấu hạ tầng, chú ý
các chính sách an ninh quốc gia và an ninh con người.
Ví dụ như Trung Quốc trong quá trình cải cách, thiết lập thể chế phát triển cũng đã
ngày càng chú ý đến vai trò thị trường, xem thị trường đóng vai trò quyết định trong phân
bổ nguồn lực phát triển, và cho đây là quy luật phổ biến của kinh tế thị trường và trong
quá trình kiện toàn thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần tuân thủ quy luật này.
Tóm lại, thực tiễn phát triển thế giới cho thấy, để khai thác tốt các nguồn lực, tạo môi
trường thuận lợi cho tăng trưởng, bảo đảm lợi ích các thực thể, rất cần xử lý phù hợp và
hiệu quả mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Cốt lõi vấn đề là ở chỗ chế định mối
quan hệ giữa nhà nước và thị trường để các thực thể không kìm chế, hạn chế nhau, mà để
chúng có thể phát huy vai trò một cách hiệu quả nhất. Mỗi thực thể đều có vị trí, vai trò,
chức năng khác nhau trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, đồng thời vị trí, vai

trò của các thực thể cũng có biến đổi cùng với sự biến đổi của mỗi thực thể trong các giai
đoạn của kinh tế thị trường. Nhà nước và thị trường nảy sinh và phát triển là kết quả phát
triển tất yếu của sự phát triển xã hội loài người. Vấn đề không phải ở chỗ chúng tồn tại
hay không mà là ở chỗ định hình thể chế phù hợp với mỗi giai đoạn trong tiến trình phát
triển của kinh tế thị trường.
Page | 17


Đối với Việt Nam, trong giai đoạn nền kinh tế kế hoạch tập trung, hệ thống sản
xuất, phân phối và tiêu dùng được thực hiện trên cơ sở kế hoạch của nhà nước, thị trường
đúng nghĩa bị thủ tiêu, vai trò các tổ chức xã hội được lồng ghép vào vai trò thống nhất
của nhà nước. Vì vậy, như thực tế cho thấy, sản xuất không hiệu quả, nguồn lực không
được khai thác tốt, động lực phát triển không được khơi dậy. Tuy nhiên, cũng không nên
phủ định sạch trơn thành quả của bao năm cả nước dốc sức vừa sản xuất vừa chiến đấu,
giải phóng miền Nam. Nền kinh tế kế hoạch tập trung cao độ phù hợp với giai đoạn đặc
biệt của đất nước khi phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược vừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất
nước. Có điều sau khi thống nhất đất nước chúng ta đã có sai lầm, chưa kịp thời chuyển
đổi cơ chế cho phù hợp với bối cảnh mới, bối cảnh hòa bình, cả nước cùng bước vào xây
dựng xã hội mới. Thực hiện đường lối đổi mới, vai trò các thực thể đã được xác định
ngày càng phù hợp hơn.
Thứ nhất, về xác định vai trò nhà nước.
Qua hơn 30 năm đổi mới, chúng ta đã có những thành công bước đầu trong việc
hình thành và hoàn thiện cơ chế thị trường, cũng như điều chỉnh vai trò tương ứng của
nhà nước trong phát triển kinh tế. Điều đó thể hiện ở sự thay đổi cơ bản quan niệm về
chức năng của nhà nước trong nền kinh tế. Đại hội VII của Đảng đã xác định: “Bộ máy
nhà nước từng bước chuyển sang thực hiện chức năng quản lý nhà nước, khắc phục dần
sự can thiệp vào điều hành kinh doanh của cơ sở” 1 và tại Đại hội VIII, Đảng ta khẳng
định tiếp: “ Thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở
hữu tài sản công của nhà nước. Tôn trọng và phát huy đầy đủ quyền tự chủ kinh doanh

của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường”2.
Các quan điểm trên đã được phát triển và tái khẳng định rõ và đầy đủ hơn tại Đại
hội X của Đảng: “Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng: định hướng sự phát triển
bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ
1Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, H. 1991, tr.23
2 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, H.1996, tr. 27
Page | 18


các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát huy các nguồn
lực của xã hội cho phát triển; bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế
vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của kinh tế thị trường; thực hiện quản lý
nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của
thị trường và doanh nghiệp...”1.
Tiếp đó, Đại hội XI nhấn mạnh việc thực hiện tốt chức năng nhà nước và giải
quyết đúng đắn mối quan hệ nhà nước với thị trường.Tại Đại hội XII, trong quan niệm về
chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế đã khẳng định rõ: “Vai trò của Nhà nước đã
được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ trong
đời sống kinh tế - xã hội”2. “Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện
thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng
các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền
kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển và bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát
triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội”3. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng kinh tế tư
nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật.
Gắn liền với đổi mới nhận thức trên về vai trò nhà nước, là quá trình thể chế hóa,
đưa các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Trước hết, là việc
thông qua Hiến Pháp 19924, tiếp đó là Hiến pháp 20135 đã chế định cụ thể vai trò quản lý
kinh tế của nhà nước: Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh
nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các

ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước… Cùng với đó, hệ thống pháp luật dân sự,
kinh tế được ban hành đồng bộ và ngày càng hoàn thiện. Việc ban hành và thực hiện các
văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vai trò nhiệm vụ nhà nước trong kinh tế đã

1Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, H. 2006, tr. 26-27
2 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H., 2016, tr. 98
3 Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm, BCHTW khóa XII, Văn phòng TƯ Đảng, H,2017, tr.32
4 Ban hành ngày 15/04/1992, có hiệu lực ngày 18/04/1992
5 Ban hành ngày 28/11/2013, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2014
Page | 19


góp phần quan trọng trong việc khơi thông các nguồn lực, phát triển kinh tế - xã hội; thực
hiện chính sách an sinh xã hội, tạo sự công bằng, bình đẳng trong xã hội.
Cùng với ban hành hệ thống khung văn bản pháp luật xác lập vai trò quản lý kinh
tế của nhà nước, nhà nước cũng đã ban hành nhiều chính sách bảo đảm môi trường vĩ mô
cho tăng trưởng. Trong đó đáng chú ý là các văn bản quy phạm pháp luật về tài chính đã
thiết lập các chuẩn mực để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tài
chính, từ phân phối, động viên tài chính, đến kiểm tra, giám sát các hoạt động tài chính
phát sinh trong nền kinh tế. Đối với hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước cũng đã có
nhiều quy định văn bản pháp luật, trong đó đáng chú ý là Luật Doanh nghiệp nhà nước
(năm 1995 và 2003) đã xác định rõ khuôn khổ hoạt động kinh tế của Nhà nước. Theo đó,
hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước được chú ý nâng cao hiệu quả, các doanh nghiệp
do Nhà nước thành lập và trực tiếp quản lý được đa dạng hóa chủ sở hữu thông qua cơ
chế cổ phần hóa hoặc các cơ chế có liên quan và cũng vì vậy số lượng doanh nghiệp nhà
nước giảm đi trong những năm qua. Gắn liền với đó là khu vực kinh tế tư nhân, khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được mở rộng dư địa và hoạt động, cạnh tranh bình
đẳng trên thị trường.
Thứ hai, về vai trò thị trường.
“Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các

nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được
phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường” 1. Thị
trường cũng chính là cơ chế chủ yếu thực hiện phân phối các thành quả của tăng trưởng
kinh tế, trong đó thu nhập của mỗi người được hình thành trên cơ sở và phù hợp với kết
quả lao động cũng như mức đóng góp về các nguồn lực trong quá trình tạo ra của cải xã
hội. Đây là những tiền đề quan trọng để mọi chủ thể xã hội phát huy năng lực và sức sáng
tạo, làm giàu cho chính mình và làm giàu cho xã hội. Rõ ràng là, quan niệm về vai trò thị
trường đã có bước đổi mới căn bản, từ chỗ không thừa nhận đến chỗ thừa nhận và khẳng

1Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm, BCHTW khóa XII, Văn phòng TƯ Đảng, H.2017, tr.32-33
Page | 20


định vai trò chủ yếu trong huy động phân bổ nguồn lực trong thúc đẩy sản xuất và tiêu
dùng. Các luận điểm này đã được thể chế hóa trong các quy định, các luật trong những
năm vừa qua.
Trước hết, tạo dựng khung pháp lý cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh,
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, khai thác hiệu quả nguồn lực xã hội. Khung
pháp lý này đã được quy định bởi các luật: Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987,
Luật Công ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990, Luật Doanh nghiệp nhà nước
1995 và Luật Hợp tác xã 1996, Luật Phá sản (1993, 2004, 2014). Bước ngoặt quan trọng
nhất của quá trình cải cách trong những năm gần đây là việc ban hành và thực thi Luật
Doanh nghiệp (1999, 2005, 2014), Luật đầu tư (chung), thay thế cho Luật đầu tư nước
ngoài (1987 sửa đổi, bổ sung 1990, 1992; 1996 sửa đổi, bổ sung 2000) và Luật khuyến
khích đầu tư trong nước (1994 sửa đổi, bổ sung 1998), được Quốc hội Việt Nam thông
qua năm 2005, có hiệu lực từ 01/7/2006.
Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về thị trường hàng hoá, dịch vụ đã và đang
tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận hành có hiệu quả. Cụ thể ban hành, Pháp lệnh về
hợp đồng kinh tế năm 1989, tạo khung khổ pháp lý cho các hành vi giao dịch kinh tế trên
thị trường. Bộ luật Dân sự 1995, 2005, 2015 và Luật thương mại 1997, 2005 cũng đã

được đưa vào thực hiện với nguyên tắc tự do, tự nguyện, tạo giúp cho các giao dịch trên
thị trường ngày càng trở nên sống động. Song song với những biện pháp kể trên, trong
những năm cuối của thập kỷ 80, Việt Nam đã tiến hành những biện pháp cải cách mạnh
mẽ trong lĩnh vực giá cả theo xu hướng hình thành hệ thống một giá tương ứng với giá
thị trường. Năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định 137- HĐBT về quản
lý giá và 10 năm sau, UBTVQH đã ban hành Pháp lệnh giá nhằm tạo lập khung pháp luật
cho việc quản lý giá trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đặc biệt Luật giá
2012 quy định quản lý giá theo cơ chế thị trường.
Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho việc xây dựng và vận hành thị trường
các yếu tố sản xuất quan trọng nhất bằng việc thông qua các luật: Luật Lao động năm
1994 (sửa đổi, bổ sung vào năm 2002, 2006, 2007) và năm 2012, Luật Đất đai năm 1987,
Page | 21


×