Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

CÁC TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.9 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: Các tổ chức thương mại quốc tế

ĐỀ TÀI :
HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thanh Tâm
NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 6
[1]


LỚP: ĐẠI HỌC LUẬT QUỐC TẾ 12A

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 6

STT

HỌ VÀ TÊN

MSSV

ĐÁNH GIÁ

1

Nguyễn Thị Đào

16047021



Hoàn thành

2

Vũ Tú Anh

16056731

Hoàn thành

3

Lại Mẫn Đạt

16036651

Hoàn thành

4

Lê Trung Hiệp

16018511

Hoàn thành

5

Phan Thị Mỹ Kim


16034541

Hoàn thành

6

Phan Thị Mỹ Nhi

16018351

Hoàn thành

7

Lê Cao Thanh Phương

16009691

Hoàn thành

8

Trần Ngọc Thảo

16052591

Hoàn thành

9


Nguyễn Thị Thắm

16016971

Hoàn thành

10

Lê Thị Minh Thi

16026001

Hoàn thành

11

Đặng Thị Thủy

16042161

Hoàn thành

[2]


PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ

ST
T

1

HỌ VÀ TÊN

NHIỆM VỤ
26/02
X

2

Vũ Tú Anh

X

X

X

Nhóm trưởng
Làm phần 2.3
Làm phàn 1.3

3

Lại Mẫn Đạt

X

X


X

Làm phần 1.1

4

Lê Trung Hiệp

X

X

X

5

Phan Thị Mỹ
Kim

X

X

X

Tổng hợp, làm
slide
Làm phần 2.2

6


Phan Thị Mỹ Nhi

X

X

X

7

Lê Cao Thanh
Phương
Trần Ngọc Thảo

X

X

X

X

X

X

Làm phần 1.3 và
phần kết luận
Làm phần 1.2 và

phần mở đầu
Làm phần 2.1

X

X

X

Làm phần 1.4

10

Nguyễn Thị
Thắm
Lê Thị Minh Thi

X

X

X

Sửa word, thư
ký, thuyết trình

11

Đặng Thị Thủy


X

X

X

Làm phần 2.3

8
9

Nguyễn Thị Đào

NGÀY HỌP
20/02 24/02
X
X

[3]

Ký tên


Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM
Lớp học phần: 420300245601 - Các tổ chức thương mại quốc tế
Nhóm: số 6
Lần họp: 1

I.
1.
2.
II.
1.
2.
3.

Thời gian, địa điểm
Thời gian: Ngày 20 tháng 2 năm 2019
Địa điểm: Thư viện trường ĐH Công Nghiệp tp Hồ Chí Minh
Nội dung buổi họp
Thành phần:
Nguyễn Thị Đào (NT) : 16047021
Phan Thị Mỹ Kim : 16034541
Đặng Thị Thủy : 16042161
Lê Trung Hiệp : 16018511
Lê Thị Minh Thi : 16026001
Lê Cao Thanh Phương : 16009691
Phạm Thị Mỹ Nhi : 16018351
Vũ Tú Anh : 16056731
Trần Ngọc Thảo : 16052591
Nguyễn Thị Thắm : 16016971
Lại Mẫn Đạt : 16036651
Nội dung thảo luận:
Thống nhất đề cương và phân chia công việc cho mọi người
Kết thúc buổi họp
Ngày 20 tháng 02 năm 2019
Nhóm trưởng


[4]


Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM
Lớp học phần: 420300245601 - Các tổ chức thương mại quốc tế
Nhóm: số 6
Lần họp: 2
I.

Thời gian, địa điểm
1. Thời gian: Ngày 24 tháng 2 năm 2019
2. Địa điểm: Thư viện trường ĐH Công Nghiệp tp Hồ Chí Minh
II.
Nội dung buổi họp
1. Thành phần:
- Nguyễn Thị Đào (NT) : 16047021
- Phan Thị Mỹ Kim : 16034541
- Đặng Thị Thủy : 16042161
- Lê Trung Hiệp : 16018511
- Lê Thị Minh Thi : 16026001
- Lê Cao Thanh Phương : 16009691
- Phạm Thị Mỹ Nhi : 16018351
- Vũ Tú Anh : 16056731
- Trần Ngọc Thảo : 16052591
- Nguyễn Thị Thắm : 16016971
- Lại Mẫn Đạt : 16036651
2. Nội dung thảo luận:

- Dựa vào tài liệu thông tin của các thành viên tìm được, mỗi người
đưa ra ý kiến, thống nhất với nhau về các ý cần đưa lên bài thuyết
trình.
3. Kết thúc buổi họp
Ngày 24 tháng 02 năm 2019
Nhóm trưởng

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
[5]


Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM
Lớp học phần: 420300245601 - Các tổ chức thương mại quốc tế
Nhóm: số 6
Lần họp: 3
I.
II.
-

Thời gian, địa điểm
1. Thời gian: Ngày 26 tháng 2 năm 2019
2. Địa điểm: Thư viện trường ĐH Công Nghiệp tp Hồ Chí Minh
Nội dung buổi họp
1. Thành phần:
Nguyễn Thị Đào (NT) : 16047021
Phan Thị Mỹ Kim : 16034541
Đặng Thị Thủy : 16042161
Lê Trung Hiệp : 16018511

Lê Thị Minh Thi : 16026001
Lê Cao Thanh Phương : 16009691
Phạm Thị Mỹ Nhi : 16018351
Vũ Tú Anh : 16056731
Trần Ngọc Thảo : 16052591
Nguyễn Thị Thắm : 16016971
Lại Mẫn Đạt : 16036651
2. Nội dung thảo luận:
Cùng nhau xem và thảo luận lại nội dung lẫn hình thức của bài
thuyết trình, chỉnh sửa lỗi sai, đưa ra các phương án cần thiết để giải
quyết khi gặp sự cố.
3. Kết thúc buổi họp
Ngày 26 tháng 02 năm 2019
Nhóm trưởng

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

9

PHẦN NỘI DUNG

11
[6]


CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) 11

1.1.


Giới thiệu về hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).......11

1.2. Những hoạt động chính của Hiệp định đối tác xuyên
Thái
Bình Dương...............................................................................................12
1.3. Mục tiêu và nguyên tắc của Hiệp định xuyên
Thái Bình
Dương (TPP).............................................................................................15
1.3.1. Mục tiêu của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương:................15
1.3.2. Nguyên tắc của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương.............17
1.4. Tầm quan trọng của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)
đối với Việt Nam........................................................................................18
CHƯƠNG II: LIÊN HỆ THỰC TIỄN KHI VIỆT NAM THAM GIA
DƯƠNG (TPP) 21

HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH

2.1. Giới thiệu về quá trình đàm phán hiệp định TPP của Việt Nam.........21
2.1.1. Trước khi Mỹ rút khỏi TPP.............................................................21
2.1.2. Sau khi Mỹ rút khỏi TPP.................................................................22
2.2 Cơ hội khi Việt Nam tham gia vào hiệp định đối tác xuyên
Thái
Bình dương (TPP)......................................................................................23
2.3 Thách thức và giải pháp của doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào
hiệp định TPP............................................................................................25
PHẦN KẾT THÚC

29

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


31

[7]


Lời cảm ơn
Lời đầu tiên, Nhóm 6 gửi lời cảm ơn đến giáo viên - Thạc sĩ Nguyễn Thị
Thanh Tâm đã tận tình hướng dẫn nhóm thực hiện tốt đề tài tiểu luận của
mình. Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài nhóm không tránh khỏi
những sai sót, hi vọng cô cùng các bạn chú ý quan sát, lắng nghe, sau đó có
những góp ý kiến về bài tiểu luận để nhóm tiếp thu và hoàn thiện bài của mình
tốt hơn.

[8]


LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đã chứng kiến sự ra đời của GATT, GATS, rồi sau đó là WTO
tương ứng với quá trình phát triển từ thương mại hàng hóa tới thương mại dịch
vụ, sở hữu trí tuệ trong thương mại quốc tế. Và giờ đây, chúng ta đang chứng
kiến sự ra đời của một Hiệp định mới – Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) – một Hiệp định thiết lập mối quan hệ song phương và đa
phương giữa các nước trong khu vực. “Đó là một khung pháp lý để vận hành
một nền kinh tế hiện đại. Đó là một bộ quy tắc chi tiết, để điều tiết và dẫn dắt
nền kinh tế Việt Nam vào một sân chơi bình đẳng với các nước phát triển. Đó
là một lộ trình thiết kế các quy tắc cho một nền kinh tế mở theo những tiêu chí
cao của thế giới, một môi trường kinh tế sạch và lành mạnh. Đó là một hệ
thống những cam kết mạnh về nghĩa vụ và quyền lợi để tiến tới thực hiện một
khu vực mậu dịch tự do trên phạm vi rộng. Đó là một lộ trình từng bước nâng

cao năng lực kinh tế của Việt Nam.” – trích từ báo Tri Thức Trẻ, bài phỏng vấn
ông Nguyễn Đình Lương - nguyên Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương
mại Việt – Mỹ (BTA), một chuyên gia nhiều kinh nghiệm về các hiệp định
quốc tế.
Nếu như nói trước đây Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ (BTA) tạo sức ép
Việt Nam rời khỏi nền kinh tế bao cấp thì sức ép mới của CPTPP – tiền thân là
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ đẩy Việt Nam bước vào
nền kinh tế thị trường hiện đại. Và khi tham gia bất kỳ một Hiệp định song
phương hay đa phương nào, các quốc gia đầu tiên đều hướng tới đó là khai thác
được những lợi ích mà Hiệp định đó mang lại, từ đó có được những lợi ích về
kinh tế và xã hội. Xét trong phạm vi các nước cùng tham gia Hiệp định TPP,
các nước thành viên TPP đều là những đối tác lớn của Việt Nam và đây là
những thị trường mà Việt Nam luôn có những thặng dư thương mại trong các
năm gần đây. Ở TPP có các tiêu chí để trở thành một Hiệp định thương mại tự
do “thế hệ mới” đầy tham vọng và tiêu chuẩn cao; là một thỏa thuận khu vực
mở rộng, linh hoạt và toàn diện như sau:
Thứ nhất, tiếp cận thị trường một cách toàn diện: Hiệp định TPP cắt
giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế đối với tất cả thương mại hàng
hóa và dịch vụ, điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực về thương mại, trong đó có
thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư.
Thứ hai, cách tiếp cận cam kết trong khu vực: Hiệp định TPP tạo thuận
lợi cho việc phát triển sản xuất và dây chuyền cung ứng, cũng như thương
mại không gián đoạn, đẩy mạnh tính hiệu quả và hỗ trợ thực hiện mục tiêu
về tạo việc làm, nâng cao mức sống, thúc đẩy các nỗ lực bảo tồn và tạo
thuận lợi cho việc hội nhập qua biên giới cũng như mở cửa thị trường trong
nước.

[9]



Thứ ba, xem xét các thách thức thương mại mới: Hiệp định TPP thúc
đẩy việc đổi mới, năng suất và tính cạnh tranh thông qua việc giải quyết
các vấn đề mới, trong đó bao gồm việc phát triển nền kinh tế số và vai trò
ngày càng tăng của các doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế toàn cầu.
Thứ tư, thương mại toàn diện: Hiệp định TPP bao gồm:
-

-

Các yếu tố mới bảo đảm các nền kinh tế ở tất cả các cấp độ phát triển và
doanh nghiệp thuộc mọi quy mô đều có thể hưởng lợi từ thương mại.
Các cam kết nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiểu rõ về Hiệp
định, tận dụng được những cơ hội mà Hiệp định mang lại và nêu lên
những thách thức đáng chú ý tới chính phủ các nước thành viên.
Những cam kết cụ thể về phát triển và nâng cao năng lực thương mại để
đảm bảo rằng tất cả các bên đều có thể đáp ứng được những cam kết
trong Hiệp định và tận dụng được đầy đủ những lợi ích của Hiệp định.

Thứ năm, nền tảng hội nhập khu vực: Hiệp định TPP được ra đời để tạo
ra nền tảng cho việc hội nhập kinh tế khu vực và được xây dựng để bao
hàm cả những nền kinh tế khác xuyên khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Song, có thể nói TPP là một Hiệp định quan trọng của thế kỷ XXI, đặt ra
các tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu, đồng thời tiếp tục giải quyết các
vấn đề của thời đại mới với phạm vi điều chỉnh sâu rộng, toàn diện so với các
hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập trong gần 20 năm
hội nhập kinh tế quốc tế đến nay. Để cùng tìm hiểu lý do tại sao Hiệp định TPP
được đánh giá cao, là cơ hội không thể bỏ qua, được kỳ vọng và được dư luận
trong nước, quốc tế quan tâm đến vậy, Nhóm 6 xin chọn đề tài “Hiệp định đối
tác xuyên Thái Bình Dương TPP” làm đề tài tiểu luận.
Vì giới hạn hiểu biết và gặp vấn đề về thời gian, bài tiểu luận có thể còn

nhiều thiết sót, nhóm chúng em rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý từ cô
để cho bài nghiên cứu hoàn thiện hơn.
Cấu trúc của đề tài
Ngoài lời mở đầu ,phụ lục và tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 3 phần:
Chương 1: Giới thiệu chung về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP).
Chương 2: Liên hệ thực tiễn khi Việt Nam tham gia vào Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Kết luận.

[10]


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN
THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
1.1.

Giới thiệu về hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)
* Lịch sử hình thành:

Hiệp định TPP (tên tiếng Anh là Trans-Pacific Strategic
Economic Partnership Agreement) là Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái
Bình Dương được ký kết giữa 12 nước vào ngày 4 tháng 2 năm 2016
tại Auckland, New Zealand sau 5 năm đàm phán với mục đích hội nhập các
nền kinh tế thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Do lúc đầu chỉ có 4 nước
tham gia nên còn được gọi là P4.
Khởi nguồn của hiệp định này là Hiệp định Đối tác kinh tế chặt chẽ hơn do
nguyên thủ 3 nước Chi-lê, Niu Di-lân và Xin-ga-po (P3) phát động đàm phán

nhân dịp Hội nghị Cấp cao APEC 2002 tổ chức tại Mê-xhi-cô. Tháng 4 năm
2005, Bru-nei xin gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng đàm
phán cuối cùng kết thúc, biến P3 thành P4.
Trước đây, TPP được biết đến với tên tiếng Anh là Pacific Three Closer
Economic Partnership (P3-CEP) và được tổng thống Chile Ricardo Lagos, thủ
tướng Singapore Goh Chok Tong và thủ tướng New Zealand Helen Clark đưa
ra thảo luận tại một cuộc họp các nhà lãnh đạo của APEC diễn ra tại Los
Cabos, Mexhico. Brunei nhanh chóng tham gia đàm phán ở vòng 5 vào tháng
04 năm 2005. Sau vòng đàm phán này, hiệp định lấy tên là Hiệp định Đối tác
Kinh tế Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPSEP hoặc P4).
Mục tiêu ban đầu của Hiệp định là giảm 90% các loại thuế xuất nhập khẩu
giữa các nước thành viên trước ngày 1 tháng 1 năm 2006 và cắt giảm bằng 0
tới năm 2015. Đây là một thỏa thuận toàn diện bao quát tất cả các khía cạnh
chính của một hiệp định thương mại tự do, bao gồm trao đổi hàng hóa, các quy
định về xuất xứ, can thiệp, rào cản kỹ thuật, trao đổi dịch vụ, vấn đề sở hữu trí
tuệ, chính sách của các chính quyền...
Tiến trình đàm phán cho hiệp định bị trì hoãn nhiều lần do thiếu tiếng nói
chung xoay quanh nhiều vấn đề như: giảm thuế xuất - nhập khẩu, bảo trợ hàng
hóa nội địa, quyền sở hữu trí tuệ... Ngày 5 tháng 10 năm 2015 tại Atlanta, Hoa
Kỳ, tiến trình đàm phán hiệp định đã kết thúc thành công.
Đây là Hiệp định mang tính "mở". Tuy không phải là chương trình hợp tác
trong khuôn khổ APEC nhưng các thành viên APEC đều có thể gia nhập nếu
[11]


quan tâm. Xin-ga-po đã nhiều lần thể hiện mong muốn mở rộng TPP và sử
dụng TPP như một công cụ để hiện thực hóa ý tưởng về Khu vực Mậu dịch Tự
do Châu Á-Thái Bình Dương của APEC (FTAAP).
* Các nội dung chính của Hiệp định TPP – P4:
Hiệp định TPP có phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm cả hàng hóa, dịch vụ

(chưa bao gồm dịch vụ tài chính do được đàm phán sau), vệ sinh an toàn thực
phẩm (SPS), rào cản kỹ thuật (TBT), chính sách cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, mua
sắm chính phủ và minh bạch hóa. Ngoài ra, còn có một chương về hợp tác và
02 văn kiện đi kèm về Hợp tác Môi trường và Hợp tác Lao động.
Theo thỏa thuận, các bên tham gia P4 sẽ tiếp tục đàm phán và ký 02 văn
kiện quan trọng về đầu tư và dịch vụ tài chính, chậm nhất là sau 02 năm kể từ
khi P4 chính thức có hiệu lực (tức là từ tháng 3 năm 2008).
Điểm nổi bật nhất của P4 là tự do hóa rất mạnh về hàng hóa. Thuế nhập
khẩu được xóa bỏ hoàn toàn và phần lớn là xóa bỏ ngay từ khi Hiệp định có
hiệu lực.
Về dịch vụ, P4 thực hiện tự do hóa mạnh theo phương thức chọn - bỏ. Theo
đó, tất cả các ngành dịch vụ đều được mở, trừ những ngành nằm trong danh
mục loại trừ.

1.2.

Những hoạt động chính của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương
* Quá trình đàm phán và hiệu lực:

Quá trình đàm phán TPP được khởi động từ tháng 3/2010. Qua 19 phiên
đàm phán chính thức, 5 phiên cấp Bộ trưởng, việc đàm phán TPP đã hoàn tất
vào tháng 10/2015. Toàn văn Hiệp định đã được công bố sau đó 01 tháng. Sáng
04/02/2016, tại thành phố Auckland, New Zealand, Bộ trưởng của 12 nước
thành viên tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã đặt bút
ký vào văn bản này, đánh dấu việc các nước chính thức hoàn tất toàn bộ quá
trình đàm phán để có thể bắt đầu thủ tục phê chuẩn tại mỗi nước.
Sau lễ ký này, mỗi nước thành viên có thời gian 02 năm để thực hiện các
quy trình nội bộ, hoàn tất thủ tục phê chuẩn để TPP có hiệu lực. Theo quy định
tại văn kiện Hiệp định thì TPP sẽ chính thức có hiệu lực theo một trong các

cách sau:
TPP sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày tất cả các nước thành viên
TPP thông báo cho New Zealand (nước đóng vai trò Cơ quan lưu chiểu của
Hiệp định) về việc đã hoàn tất các thủ tục pháp lý (phê chuẩn) của nước đó;
Nếu trong vòng 02 năm kể từ ngày TPP được ký kết Hiệp định chưa
thể có hiệu lực theo cách (i) nhưng có ít nhất 06 nước thành viên chiếm ít
[12]


nhất 85% tổng GDP của khu vực thông báo đã hoàn tất các thủ tục pháp lý
nội bộ, thì Hiệu định sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ khi kết thúc thời hạn
02 năm sau đó;
Nếu cả hai trường hợp trên không xảy ra, thì Hiệp định sẽ có hiệu lực
sau 60 ngày kể từ thời điểm có ít nhất 06 nước thành viên, chiếm ít nhất
85% tổng GDP của khu vực thông báo hoàn tất thủ tục pháp lý nội bộ.
Trong các trường hợp TPP có hiệu lực có hiệu lực theo cách (ii) và cách
(iii), thì TPP chỉ có hiệu lực với các nước đã hoàn tất quá trình phê chuẩn và
thông qua nội bộ tại thời điểm đó. Các nước thành viên còn lại nếu muốn Hiệp
định có hiệu lực với mình sẽ phải thông báo với các nước đã thông qua về việc
mình đã hoàn thành các thủ tục phê chuẩn nội bộ và ý định muốn là thành viên
của Hiệp định. Theo đó, Hiệp định TPP sẽ tự động có hiệu lực với các nước
phê chuẩn TPP đợt đầu, còn với các nước còn lại, TPP chỉ có hiệu lực khi được
các nước phê chuẩn đợt đầu đồng ý.
Vậy có thể thấy, việc TPP có hiệu lực với Việt Nam vào thời điểm nào
không hoàn toàn phụ thuộc vào Việt Nam mà còn liên quan tới nhiều nước TPP
khác. Tuy nhiên, Việt Nam có thể hoàn toàn chủ động phê chuẩn TPP để Hiệp
định này có hiệu lực với Việt Nam ngay trong đợt đầu.
Vào ngày 23/01/2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump ký sắc lệnh rút Hoa
Kỳ ra khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương.
Ngày 08/03/2018, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình

Dương (CPTPP), tên gọi mới sau điều chỉnh một số nội dung của Hiệp định
Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, với 11 thành viên TPP (gồm Australia,
Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru,
Singapore và Việt Nam) đã được ký chính thức tại Santiago, Chile. CPTPP sẽ
đi vào thực hiện 60 ngày sau khi một nửa số nước tham gia ký hiệp định hoàn
tất thủ tục thông qua tại Quốc hội mỗi nước (dự kiến có hiệu lực vào cuối năm
2018 hoặc nửa đầu năm 2019).
* Những điểm riêng của TPP so với các hiệp định thương mại khác:
Về phạm vi điều chỉnh:
So với các hiệp định thương mại đã ký trước đây như hiệp định thương mại
Việt – Mỹ (BTA), Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)…nội
dung đàm phán của Hiệp định TPP rộng hơn, bao gồm cả các vấn đề phi truyền
thống (như môi trường, lao động, công đoàn, mua sắm công...), vốn không
được đề cập hoặc chỉ đề cập có mức độ trong các hiệp định thương mại trước
đây.

[13]


Ngoài ra, Hiệp định TPP còn điều chỉnh cả các vấn đề rất mới như các dịch
vụ mới, vấn đề thương mại liên quan chéo (liên quan đến nhiều ngành, lĩnh
vực).
Với phạm vi rộng như vậy, các cam kết tại Hiệp định TPP sâu rộng hơn,
toàn diện hơn các hiệp định thương mại tự do khác.
Về phương pháp tiện cận:
Khác so với một số hiệp định thương mại trước đây, Hiệp định TPP đàm
phán theo phương pháp chọn bỏ (nghĩa là được làm tất cả ngoài những điều xác
định là bị hạn chế). Theo đó, các quốc gia tham gia đàm phán TPP cần xây
dựng bản chào về danh mục các biện pháp không tương thích (danh mục NCM)
làm cơ sở để đàm phán bảo lưu hiện trạng các quy định pháp luật, chính sách

có nội dung không phù hợp hoặc khác với các nghĩa vụ dự kiến sẽ cam kết
trong Hiệp định; đồng thời cũng nhằm xác định quyền linh hoạt trong việc điều
chỉnh chính sách đối với một số lĩnh vực/ngành/phân ngành có mức nhạy cảm
cao, đáp ứng các mục tiêu phát triển và yêu cầu quản lý nhà nước. Cách tiếp
cận này thể hiện yêu cầu tự do hóa ở mức độ cao trong TPP, phạm vi cam kết là
tất cả các lĩnh vực/ngành chỉ trừ những lĩnh vực/ngành được đưa vào Danh
mục NCM nêu trên.
Về mức độ mở cửa thị trường:
Hiệp định TPP được đàm phán theo nguyên tắc WTO+. Trên cơ sở đánh
giá tổng thể về kỳ vọng của các đối tác khi tham gia đàm phán dịch vụ tài chính
ngân hàng trong TPP, mức độ yêu cầu cam kết mở cửa đối với lĩnh vực dịch vụ
tài chính ngân hàng trong Hiệp định TPP là ngang bằng hoặc cao hơn so với
mức cam kết gia nhập WTO của từng nước thành viên.
* Cơ chế kiểm soát thực thi TPP:
Để đảm bảo Hiệp định thực hiện đúng và đầy đủ, Hiệp định TPP đưa ra
nhiều hình thức kiểm soát việc thực thi của thành viên, như thành lập Hội đồng
đối tác xuyên TBD nhằm xem xét các vấn đề liên quan đến thực thi, vận hành
TPP và cơ chế giải quyết tranh chấp cấp nhà nước. Ngoài ra, một số chương
của Hiệp định (ví dụ mua sắm công, lao động …) cũng có các hình thức bảo
đảm thực thi riêng bên cạnh các hình thức chung của TPP như các ủy ban
chuyên môn, cơ chế giải quyết tranh chấp đặc thù.
Hội đồng đối tác xuyên TBD được thành lập từ các đại diện Chính phủ mỗi
bên ở cấp Bộ trưởng hoặc quan chức cấp cao do các bên quyết định của tất cả
các nước thành viên Hiệp định. Chức năng chủ yếu là giám sát việc thực thi và
vận hành của Hiệp định, ví dụ: rà soát quan hệ kinh tế và đối tác giữa các thành
viên sau 03 năm kể từ khi TPP có hiệu lực và ít nhất 05 năm một lần, xem xét
các đề xuất sửa đổi, bổ sung Hiệp định, giám sát hoạt động của các Ủy ban và
nhóm công tác chuyên môn được thành lập theo Hiệp định.
[14]



Cơ chế giải quyết tranh chấp trong TPP đóng vai trò cơ bản nhất để giám
sát việc thực thi TPP trong trường hợp phát sinh tranh chấp liên quan tới TPP.
TPP có 03 cơ chế giải quyết tranh chấp phổ biến:
Một là, cơ chế giải quyết tranh chấp cấp nhà nước giữa các nước thành
viên TP, áp dụng hầu hết các chương TPP.
Hai là, cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước - nhà đầu tư nước
ngoài, áp dụng riêng cho Chương đầu tư của TPP.
Ba là, có chế giải quyết tranh chấp song phương. Ví dụ Chương lao
động, trong thư song phương giữa VN và Hoa Kỳ quy định cơ chế xử lý
riêng trong trường hợp VN không tuân thủ nghĩa vụ về quyền tự do liên kết
người lao động.
Như vậy, cơ chế đảm bảo thực thi của Hiệp định TPP khá đa dạng, chặt
chẽ, tạo cho các nước thành viên TPP khả năng giám sát tốt, đồng thời cũng tạo
ra sức ép cho các quốc gia thành viên TPP nghĩa vụ thực thi đúng các nội dung
cam kết tại TPP.
Qua một số nội dung tổng quan về Hiệp định TPP nêu trên, có thể thấy,
Hiệp định TPP là một Hiệp định có phạm vi điều chỉnh bao quát, toàn diện,
trong đó có nhiều vấn đề mới, không chỉ các vấn đề thương mại truyền thống,
mức độ mở cửa thị trường rộng. Theo đó, khi Hiệp định TPP được thực thi
trong thời gian tới không chỉ mang đến nhiều thuận lợi cho các nước thành viên
mà bên cạnh đó cũng đặt ra nhiều thách thức cần xử lý:
Về thuận lợi, Hiệp định TPP sẽ mang đến cho các nước thành viên một số
tác động tích cực như:
Việc đảm bảo tiếp cận thị trường một cách toàn diện, bảo đảm sự dịch
chuyển tự do ở mức độ cao hơn của hàng hóa, dịch vụ...
Thúc đẩy hình thành mạng sản xuất và chuỗi cung ứng mới trong thị
trường 12 nước thành viên;
Bảo đảm cơ hội để các nền kinh tế thành viên có trình độ phát triển
khác nhau và doanh nghiệp thuộc mọi quy mô đều có thể được hưởng lợi;

Nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; ...
Về thách thức, Hiệp định TPP với mức độ mở cửa thị trường rộng sẽ tạo ra
sức ép cạnh tranh lớn, không chỉ ở thị trường các nước tham gia Hiệp định mà
ngay tại thị trường trong nước trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và
quốc gia – đặc biệt là cạnh tranh về chất lượng thể chế và môi trường kinh
doanh.

[15]


1.3. Mục tiêu và nguyên tắc của Hiệp định xuyên Thái Bình Dương
(TPP)
1.3.1. Mục tiêu của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương:
Mục tiêu chính của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa,
dịch vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên. TPP còn thống nhất nhiều
luật lệ, quy tắc chung giữa các nước như: sở hữu trí tuệ, chất lượng thực phẩm,
hay an toàn lao động… tạo “cú hích” phát triển mới cho mỗi thành viên. Cụ thể
như sau:
Tiếp cận thị trường một cách toàn diện. Hiệp định TPP cắt giảm thuế quan
và các hàng rào phi thuế về căn bản đối với tất cả thương mại hàng hóa và dịch
vụ và điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực về thương mại trong đó có thương mại
hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, nhằm tạo ra các cơ hội và lợi ích mới cho doanh
nghiệp, người lao động và người tiêu dùng của các nước thành viên.
Tiếp cận mang tính khu vực trong việc đưa ra các cam kết. Hiệp định TPP
tạo thuận lợi cho việc phát triển sản xuất và dây chuyền cung ứng, cũng như
thương mại không gián đoạn, đẩy mạnh tính hiệu quả và hỗ trợ thực hiện mục
tiêu về tạo việc làm, nâng cao mức sống, thúc đẩy các nỗ lực bảo tồn và tạo
thuận lợi cho việc hội nhập qua biên giới cũng như mở cửa thị trường trong
nước.
Giải quyết các thách thức mới đối với thương mại. Hiệp định TPP thúc đẩy

việc đổi mới, năng suất và tính cạnh tranh thông qua việc giải quyết các vấn đề
mới, trong đó bao gồm việc phát triển nền kinh tế số và vai trò ngày càng tăng
của các doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế toàn cầu.
Bao hàm toàn bộ các yếu tố liên quan đến thương mại. Hiệp định TPP bao
gồm các yếu tố mới được đưa ra để bảo đảm rằng các nền kinh tế ở tất cả các
cấp độ phát triển và doanh nghiệp thuộc mọi quy mô đều có thể hưởng lợi từ
thương mại. Hiệp định bao gồm các cam kết nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp
vừa và nhỏ hiểu rõ về Hiệp định, tận dụng được những cơ hội mà Hiệp định
mang lại và nêu lên những thách thức đáng chú ý tới chính phủ các nước thành
viên. Hiệp định cũng bao gồm những cam kết cụ thể về phát triển và nâng cao
năng lực thương mại để đảm bảo rằng tất cả các bên đều có thể đáp ứng được
những cam kết trong Hiệp định và tận dụng được đầy đủ những lợi ích của
Hiệp định.
Nền tảng cho hội nhập khu vực. Hiệp định TPP được ra đời để tạo ra nền
tảng cho việc hội nhập kinh tế khu vực và được xây dựng để bao hàm cả những
nền kinh tế khác xuyên khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Thắt chặt hơn các mối quan hệ kinh tế giữa các thành viên của TPP, thông
qua các biênj pháp giảm (thậm chí là loại bỏ hoàn toàn trong một số trường
hợp) các hàng rào thuế quan giữa các nước, giúp tăng cường trao đổi hàng hóa
[16]


và dịch vụ. Cùng với tăng cường dòng chảy vốn, TPP cũng được kỳ vọng sẽ
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của nhóm 12 thành viên.
Ngoài ra Mỹ còn có tham vọng thông qua TPP để tạo ra một nền kinh tế
hợp nhất trong khu vực có thể đối trọng với sự phát triển của Trung Quốc, bao
gồm cả RCEP và AIIB. Tổng thống Mỹ Obama cho rằng TPP sẽ “tạo sân chơi
bình đẳng” là vùng thương mại tự do lớn nhất thế giới, là nền tảng của “các quy
định thương mại thế kỷ XXI”; Thủ tướng Nhật Bản Abe coi “Đây là một kết
quả lớn không chỉ với Nhật mà với cả tương lai của CA-TBD.

Bộ trưởng thương mại Australia Andrew Robb mô tả TPP là thỏa thuận
quan trọng nhất mà các quốc gia đạt được trong 20 năm qua; còn Bộ trưởng
thương mại Canada Ed Fast lại cho rằng: “Chúng tôi đã đạt được những điều
mà nhiều người nói là bất khả thi”.
1.3.2. Nguyên tắc của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
* Nguyên tắc mở cửa và bảo hộ đầu tư nói chung:
Nhóm này gồm 3 nguyên tắc cơ bản sau :
Không phân biệt đối xử: Đòi hỏi nhà nước mới nhận đầu tư phải đối xử
với các nhà đầu tư từ các nước trong hiệp định không kém hơn đối với các
nhà đầu tư trong nội địa của mình.
Yêu cầu về hoạt động: Nguyên tắc này cấm các nước đầu tư đặt ra yêu
cầu bắt buộc liên quan tới :
-

-

Việc mua lại, thành lập, mở rộng quản lí, vận hành của các khoản đầu tư
(như phải xuất khẩu một tỉ lệ sản phẩm nhất định sản xuất ra, phải đạt
một tỉ lệ nội địa hóa nhất định; phải mua sử dụng sản phẩm cho một chủ
thể nào đó được chỉ định; phải đảm bảo tỉ lệ nhất định giữa kim ngach
giá trị xuất khẩu với khoản ngoại tệ được chuyển; phải chyển giao công
nghệ, quy trình hoặc kiến thức cụ thể nào đó cho một chủ thể nội địa…)
Nhân sự quản lí cao cấp và ban lãnh đạo : không cho phép nhà nước mới
nhận đầu tư đặt ra các yêu cầu về quốc tịch bắt buộc của nhân sự quản lí
cao cấp hay ban lãnh đạo. Tuy nhiên nhà nước vẫn có quyền yêu cầu đa
số các thành viên của ban lãnh đạo doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phải
có quốc tịch của một nước hoặc phải cư trú trên lãnh thổ nước mình.

* Nguyên tắc đảm bảo các quyền lợi cơ bản của nhà đầu tư:
Nguyên tắc chuẩn đối xử tối thiểu: Được hiểu là đối xử công bằng thỏa

đáng, bảo hộ an toàn, đầy đủ theo tập quán quốc tế. Tuy nhiên, do nội hàm khá
chung chung này nên đã trở thành nguyên tắc gây tranh cãi khá nhiều trong các
vụ kiện tụng về đầu tư khi mà nhà đầu tư thường dựa vào nguyên tắc này để
phản đối bất kì quy định nào của nước đầu tư bất lợi cho mình.

[17]


Trong Hiêp định TPP đã có thêm một số nỗ lực để giới hạn phạm vi của
nguyên tắc này. Cụ thể, TPP yêu cầu chuẩn đối xử tối thiểu phải là các nguyên
tắc phù hợp với tập quán pháp luật quốc tế, được hiểu là các nguyên tắc quốc tế
về bảo vệ đầu tư nước ngoài đã trở thành tập quán chung được các quốc gia áp
dụng phổ biến và liên tục để coi như ràng buộc mình.
Bảo vệ tài sản của người đầu tư trước các biện pháp tịch thu, cưỡng chế,
quốc hữu hóa: nhà nước chỉ được tịch thu cưỡng chế hay quốc hữu hóa các
khoản đầu tư của nhà đầu tư vì mục đích công cộng. Đồng thời các biện
pháp này phải được thực thi theo cách không phân biệt đối xử tuân thủ các
quy định và đảm bảo việc bồi thường nhanh chóng chính sát hiệu quả đúng
giá thị trường tại thời điểm liền trước việc tịch thu cưỡng chế.
Nguyên tắc đảm bảo việc chuyển vốn tự do: Nhà nước mới nhận đầu tư
phải cho phép các nhà đầu tư tự do chuyển vốn liên quan đến khoảng đầu tư
(vốn góp ban đầu, lợi nhuận, cổ phần, các khoản lãi, phí bản quyền, trị giá
hợp đồng, bồi thường tranh chấp… )

1.4. Tầm quan trọng của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP) đối với Việt Nam
* Tác động của TPP đối với dịch vụ tài chính:
TPP không phải là Hiệp định thương mại tự do duy nhất mà Việt Nam tham
gia. Trong thời gian vừa qua, nước ta đã gia nhập WTO và ký kết hơn 10 hiệp
định thương mại tự do song phương và đa phương với ASEAN, ASEAN +,

Hàn Quốc, Chile, Liên minh Nga-Kazakistan-Belarus, EU… Tuy nhiên, TPP
được kỳ vọng là hiệp định toàn diện và sâu rộng bậc nhất trong số các cam kết
hợp tác từng được ký kết trên thế giới và trở thành Khu vực mậu dịch tự do
(FTA) lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 40% tổng GDP toàn cầu và khoảng 1/3
tổng kim ngạch thương mại thế giới.
Khi đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam chỉ phải đàm phán hai lĩnh vực là
mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, cùng với đàm phán đa phương thì với
TPP, Việt Nam phải đàm phán tới 30 chương. Ở lĩnh vực tài chính, sau WTO,
gần như Việt Nam chưa đàm phán một hiệp định nào yêu cầu mở cửa tự do quy
mô lớn ở lĩnh vực này. Theo đó, những thuận lợi, khó khăn khi tham gia TPP
đối với một số dịch vụ tài chính như sau:
Đối với lĩnh vực ngân hàng: Việt Nam có cơ hội thu hút vốn đầu tư
nước ngoài vào lĩnh vực ngân hàng - một ngành cần vốn, công nghệ và
năng lực quản lý điều hành cao; tăng tỷ lệ sở hữu cho các đối tác chiến
lược nước ngoài. Thông qua đó, sẽ tạo điều kiện mở rộng hợp tác, nâng cao
năng lực quản trị và tài chính cho các ngân hàng nội địa.
Tuy nhiên, nếu so sánh với một số nước trong khu vực và trên thế giới nói
chung thì khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam còn chưa cao,
[18]


mức độ phân bố các chi nhánh và phòng giao dịch chưa đồng đều. Điều
này làm tăng cơ hội cho các ngân hàng quốc tế tiếp cận thị phần khách
hàng, ảnh hưởng tới thị trường tiềm năng của các ngân hàng trong nước.
Sức ép bị thâu tóm và chi phối cũng tăng cao khi hiệu quả hoạt động của hệ
thống ngân hàng Việt Nam còn thấp, đặc biệt một số ngân hàng có năng lực
quản lý yếu kém, vi phạm các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp và quản trị
rủi ro. Rủi ro từ việc phụ thuộc vào vốn ngoại sẽ tăng lên cho nền kinh tế
Việt Nam; khi thị trường tài chính toàn cầu gặp những cú sốc lớn khiến
dòng vốn quốc tế biến động mạnh, nền kinh tế Việt Nam sẽ càng dễ tổn

thương. Một cú sốc khiến vốn ngoại ngưng vào hoặc chảy ra sẽ tác động
khó lường tới sức ép phá giá ngoại tệ và sự ổn định của hệ thống tài chính.
Đối với lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm: Các cam kết trong lĩnh vực
bảo hiểm, chứng khoán được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các cơ hội
đầu tư, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính ở
Việt Nam. Việc nới rộng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trên thị
trường chứng khoán sẽ góp phần thúc đẩy dòng vốn ngoại chảy vào Việt
Nam nên thị trường chứng khoán sẽ khởi sắc. Nhu cầu của các doanh
nghiệp về dịch vụ bảo hiểm tăng khi tham gia hội nhập bởi nhiều rủi ro;
nhu cầu của dân cư tăng do cơ cấu dân số thay đổi, già hóa, thu nhập tăng,
tầng lớp trung lưu và đô thị gia tăng; khả năng chi trả tăng do thu nhập và
các kênh hỗ trợ tăng…, đây chính là cơ hội để doanh nghiệp bảo hiểm nắm
bắt và tăng trưởng doanh thu.
Theo đánh giá chung, các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ đều được
hưởng lợi khi các tập đoàn kinh tế lớn, nhà đầu tư nước ngoài dịch chuyển
đầu tư vào Việt Nam nên đây là mảng dịch vụ mà các doanh nghiệp nước ta
sẽ chịu nhiều sức ép cạnh tranh hơn các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
khi thực hiện TPP, bởi tiềm lực tài chính chưa đủ mạnh, thiếu đội ngũ nhân
lực, hệ thống thông tin quản lý yếu kém, nhiều doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ chưa được xếp hạng tín nhiệm từ các tổ chức có uy tín trên thế
giới... Thị trường chứng khoán của Việt Nam còn khá non trẻ, thiếu các sản
phẩm chuyên nghiệp như chứng khoán phái sinh, các loại hình chứng chỉ
quỹ đầu tư và quy mô nhỏ so với các nước tham gia TPP nên khó có thể
hấp thụ hết lượng vốn khổng lồ từ nước ngoài.
Đối với lĩnh vực kế toán, kiểm toán: Nhiều nước thành viên TPP có
thời gian phát triển lâu hơn với trình độ cao nên Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp
cận, được cập nhật và tăng áp lực áp dụng các chuẩn mực và thông lệ hành
nghề tốt của quốc tế. Tính minh bạch và giá trị so sánh của thông tin tài
chính được nâng cao sẽ góp phần thu hút các nhà đầu tư.
Bên cạnh những thuận lợi, việc thúc đẩy tự do hóa các dịch vụ tài chính

khó tránh khỏi nảy sinh cạnh tranh gay gắt trong thị trường dịch vụ nghề
nghiệp kế toán, kiểm toán trong nước, trong khi nguồn nhân lực ngành kế
[19]


toán, kiểm toán của Việt Nam còn có các hạn chế nhất định về tính chuyên
nghiệp, kỹ năng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; năng lực cạnh tranh, kỹ
năng quản trị của doanh nghiệp còn yếu. Cơ quan quản lý cũng sẽ gặp khó
khăn về kiểm soát về chất lượng kiểm toán, việc tuân thủ pháp luật và quy
chế kiểm toán, xử lý các bất đồng và tranh chấp về kết quả kiểm toán trong
khi nhiều nội dung, chuẩn mực của Việt nam chưa được sửa đổi phù hợp
với thông lệ quốc tế.
Với vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, dịch vụ tài chính đòi hỏi phải có
sự chuẩn bị chu đáo để tận dụng cơ hội và ngăn ngừa những rủi ro khi thực thi
các cam kết TPP. Cơ hội không tự nó biến thành lợi ích mà phụ thuộc vào hành
động của chủ thể; thách thức tuy là sức ép nhưng phụ thuộc vào đối sách của
chủ thể. Theo đó, đối với mỗi doanh nghiệp - là chủ thể quyết định sức cạnh
tranh vi mô, phải chủ động, đổi mới không ngừng trong đó nguồn lực con
người và kỹ năng quản trị phải được ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, doanh nghiệp
hoạt động trong khuôn khổ pháp lý và môi trường kinh doanh xác định, do đó
yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan quản lý nhà nước chính là kịp thời rà soát,
hoàn thiện thể chế, hệ thống luật pháp đảm bảo phù hợp với các cam kết trong
TPP cũng như tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi để doanh nghiệp phát
triển và cũng là công cụ để thực hiện tốt hơn vai trò quản lý, kiến tạo của mình.
Hy vọng rằng với sự nỗ lực của mỗi doanh nghiệp, doanh nhân và sự tham gia
vào cuộc, hỗ trợ tích cực từ cơ quan quản lý nhà nước, các cơ hội sẽ không bị
trôi đi và khó khăn sẽ không là lực cản khi thực thi Hiệp định TPP.

[20]



CHƯƠNG II.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN KHI VIỆT NAM THAM GIA HIỆP
ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
2.1. Giới thiệu về quá trình đàm phán hiệp định TPP của Việt Nam
2.1.1. Trước khi Mỹ rút khỏi TPP
Tại cuộc họp cấp cao các nước tham gia đàm phán TPP bên lề Hội nghị
Cấp cao APEC lần thứ 18 tổ chức tại Nhật Bản tháng 11 năm 2010, Việt Nam
tuyên bố tham gia đàm phán TPP với tư cách thành viên chính thức. Trước đó,
từ tháng 3 tới tháng 10 năm 2010, Việt Nam tham gia với tư cách thành viên
liên kết.
Dưới sự chủ trì đàm phán của Bộ Công Thương - Đoàn đàm phán Chính
phủ về kinh tế và thương mại quốc tế với các đối tác đàm phán: gồm 8 nước là
Bru-nây, Chi-lê, Hoa Kỳ, Ma-lai-xia, Niu Di-lân, Ôt-xtrây-lia, Pê-ru và Xinhga-po (đến tháng 9 năm 2012). Sau đó ,Việt Nam đã khởi động nghiên cứu khả
thi:
Tháng 4 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ Công
Thương, Phó Chủ tịch Ủy ban quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế chỉ đạo
triển khai nghiên cứu đánh giá tính khả thi của TPP đối với Việt Nam, kiến
nghị chủ trương và giải pháp tham gia.
Kết quả là nghiên cứu khả thi:
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã phối
hợp với các Bộ/ ngành triển khai nghiên cứu, đánh giá tính khả thi của việc
tham gia TPP của Việt Nam, kiến nghị chủ trương và giải pháp tham gia
TPP.
Các Hiệp định, thỏa thuận mở cửa thị trường tương đương của Việt Nam:
Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN.
Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc
Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc
Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN-Ấn Độ
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản

Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN-Ôtxtrâylia-Niu Di-lân
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam-Nhật Bản

[21]


“Mô tả các lĩnh vực đàm phán chính của Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên
Thái Bình Dương: Thúc đẩy thương mại và đầu tư, hỗ trợ việc làm, kích thích
tăng trưởng kinh tế và phát triển”.
“Tuyên bố của các Nhà Lãnh đạo các nước tham gia Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP)” vào ngày 12 tháng 11 năm 2011.
“Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương(TPP) Báo cáo của các Bộ
trưởng Thương mại trình các Nhà Lãnh đạo” vào ngày 12 tháng 11 năm 2011.
Dành riêng cho doanh nghiệp bên lề đàm phán:
Hội thảo “Quy định về xuất xứ hàng hoá và hải quan trong các Hiệp
định thương mại tự do” tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 18 tháng 5 năm
2011.
Hội thảo “Vấn đề môi trường trong các hiệp định thương mại tự do
(FTA), một số quy định liên quan và công tác thực thi” tại Hồ Chí Minh
ngày 11 tháng 10 năm 2011 và tại Hà Nội ngày 14 tháng 10 năm 2011.
Toạ đàm về “Đàm phán Danh mục bảo lưu các biện pháp không tương
thích (NCM) trong dịch vụ và đầu tư trong Hiệp định đối tác kinh tế xuyên
Thái Bình Dương (TPP)” tại Hà Nội ngày 11 tháng 01 năm 2012.
Hội thảo “Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam” tại Hà Nội ngày 11 tháng 4 năm
2012 và thành phố Hồ Chí Minh ngày 13 tháng 4 năm 2012.
Kể từ phiên đàm phán thứ 2 tại San Francisco, Hoa Kỳ, tháng 6 năm 2012,
các nước tham gia đàm phán TPP đã thường xuyên tổ chức diễn đàn dành riêng
cho các bên liên quan (Stakeholders’ Forum). Các bên liên quan, bao gồm cả
các doanh nghiệp, của các nước tham gia đàm phán TPP đều có thể đăng ký
tham gia diễn đàn này trên cơ sở tự chịu kinh phí. Thông tin về đăng ký và thủ

tục đăng ký có thể tham khảo tại Văn phòng Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh
tế quốc tế (Văn phòng Đoàn đàm phán Chính phủ) tại số 2A Phạm Sư Mạnh,
Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

2.1.2. Sau khi Mỹ rút khỏi TPP
Chính phủ Việt Nam hôm 18/10/2018 cho biết họ sẽ phê chuẩn hiệp định
thương mại đối tác xuyên Thái Bình Dương mà Tổng thống Donald Trump rút
Mỹ ra khỏi vào năm ngoái vì lo ngại công nhân Mỹ mất việc làm. Mười một
thành viên còn lại đã nhất trí tiếp tục theo đuổi hiệp định này với một phiên bản
chỉnh sửa sau khi nền kinh tế lớn nhất thế giới rút lui và đổi tên thành hiệp định
Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Chủ tịch Quốc
hội Nguyễn Thị Kim Ngân trong ngày làm việc cuối cùng của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội hôm 17/10 cho biết ủy ban này sẽ cho ý kiến trình Quốc hội phê
[22]


chuẩn hiệp định này. Theo quy trình, sau khi Ủy ban Thường vụ cho ý kiến,
Chính phủ sẽ hoàn thiện hồ sơ và trình Quốc hội phê chuẩn hiệp định này tại kỳ
họp thứ 6 khai mạc ngày 22/10 và kéo dài tới giữa tháng 11.
Ngày 2-11-2018, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã trình Quốc hội Hiệp
định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) để xem xét
phê chuẩn, sau khi Úc là nước thứ sáu đã phê chuẩn hiệp định này (tiếp theo
Canada, Nhật Bản, Mexico, Singapore, New Zealand). Chủ tịch nước Nguyễn
Phú Trọng đã khẳng định: “Việc phê chuẩn CPTPP thể hiện sự cam kết mạnh
mẽ của Việt Nam đối với việc đổi mới và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng;
khẳng định vai trò và vị thế địa chính trị quan trọng của Việt Nam trong khu
vực Đông Nam Á, cũng như châu Á - Thái Bình Dương”.
Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng còn nhấn mạnh về bối cảnh của việc phê
chuẩn CPTPP: “Đặc biệt trong bối cảnh tình hình chính trị, an ninh thế giới và
khu vực đang thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường, tham gia

CPTPP vừa giúp ta có điều kiện nâng cao nội lực để ứng phó, vừa giúp củng cố
vị thế để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa đi đôi với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh”.
Ngày 14 Tháng Giêng, 2019, Hiệp định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương
TPP với hai đặc tính mới là Toàn Diện và Tiến Bộ đã chính thức có hiệu lực với
Việt Nam. Đây là quốc gia thứ bảy sẽ thực thi Hiệp định, sau các nước Mexico,
Nhật Bản, Singapore, New Zealand, Canada và Úc.

2.2 Cơ hội khi Việt Nam tham gia vào hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình dương (TPP)
Việt Nam đã chính thức ký kết TPP vào ngày 04 tháng 02 năm 2016 và
TPP sẽ bắt đầu có hiệu lực 2 năm sau đó. Việc tham gia Hiệp định TPP được
coi là một bước đi quan trọng của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế; và được xem như cơ hội lớn để Việt Nam đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế, cải cách thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
cũng như của cộng đồng doanh nghiệp.
Trước khi mỹ rút khỏi TPP(TPP) :
Về cơ hội:
Thứ nhất, tham gia TPP giúp Việt Nam đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu và
thay đổi cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn.
Thứ hai, tạo điều kiện để Việt Nam hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường,
cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Với những cam kết
sâu và rộng hơn trong WTO, TPP tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam phân
bổ lại nguồn lực theo hướng hiệu quả hơn. Đồng thời, hỗ trợ tích cực cho quá
[23]


trình tái cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa và đổi mới mô hình
tăng trưởng, chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng trên cơ sở phát huy lợi thế
so sánh sẵn có sang tăng trưởng theo chiều sâu, dựa vào việc khai thác lợi thế

cạnh tranh động để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả xuất khẩu.
Thứ ba, góp phần tạo động lực để các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao
năng lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng hàng hóa dịch vụ và phát triển khả
năng sản xuất của nền kinh tế.
Thứ tư, giúp Việt Nam thu hút được dòng FDI với giá trị lớn hơn và công
nghệ cao hơn.
Thứ năm, góp phần tạo cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia hiệu
quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Quá trình tự do hóa thương mại và hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam đang giúp Việt Nam trở
thành một trong những địa chỉ hấp dẫn về đầu tư, thu hút nhiều dự án đầu tư
lớn .
Thứ sáu, tạo điều kiện để Việt Nam nâng cao thực thi quyền sở hữu trí tuệ,
minh bạch hóa thị trường mua sắm công, đấu thầu chính phủ.
Về thách thức:
Thứ nhất, những hạn chế trong năng lực cạnh tranh quốc gia có thể là nhân
tố cản trở Việt Nam khai thác những cơ hội mà TPP mang lại.
Thứ hai, sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tăng lên
và nguy cơ thất bại của các doanh nghiệp trên chính thị trường nội địa.
Thứ ba, tham gia TPP có thể khiến Việt Nam giảm nguồn thu ngân sách từ
thuế nhập khẩu.
Thứ tư, tham gia TPP sẽ dẫn tới gia tăng chi phí cải cách hành chính của
Chính phủ và các chi phí của doanh nghiệp.
Thứ năm, tham gia TPP có thể dẫn tới những tác động tiêu cực từ việc mở
cửa thị trường mua sắm công, ảnh hưởng đến vấn đề việc làm và thu nhập của
người lao động.
Sau khi Mỹ rút khỏi: ( Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương (CPTPP).
Về lợi ích :
Việc Việt Nam sớm phê chuẩn CPTPP đã thể hiện cam kết mạnh mẽ đối
với đổi mới và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; khẳng định vai trò và vị

thế địa - chính trị quan trọng của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á cũng
như châu Á-Thái Bình Dương, thực sự nâng cao vị thế của Việt Nam trong khối
ASEAN, trong khu vực cũng như trên trường quốc tế.
[24]


Mở ra cơ hội lớn để Việt Nam kết nối với các nền kinh tế lớn trên thế giới,
thúc đẩy thương mại và đầu tư. Theo tính toán, CPTPP có thể giúp GDP và
xuất khẩu của Việt Nam tăng tương ứng 1,32% và 4,04% đến năm 2035.
Doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều lợi thế hơn rất nhiều khi hàng loạt
hàng rào thuế quan được xóa bỏ. Bên cạnh đó, CPTTP còn thúc đẩy cải cách,
tạo thuận lợi cho kinh doanh, xóa bỏ rào cản thương mại. Việt Nam có thể tích
cực áp dụng cam kết để mở rộng thị trường. Khi hiệp định có liệu lực, hàng
triệu việc làm được tạo ra cho người lao động, giúp xóa đói giảm nghèo
Về khó khăn :
Việt Nam lo ngại nhất là cơ hội tiếp cận thị trường Mỹ sẽ trở nên khó khăn
hơn. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với tỷ trọng xuất khẩu
chiếm 18 - 20%. Nếu Mỹ không tham gia TPP, mọi ưu đãi cũng sẽ mất đi và
Việt Nam cũng khó có thể tìm kiếm được thị trường nào để thay thế cho thị
trường Mỹ. Vì thế Việt Nam buộc phải nâng cao năng lực cạnh tranh.
CPTTP mang đến nhiều lợi thế song cũng không ít thách thức đặt ra cho
cộng đồng doanh nghiệp. Ngoài những mặt hàng có thế mạnh, Việt Nam sẽ bị
ảnh hưởng một số mặt hàng như thực phẩm, ô tô.

2.3 Thách thức và giải pháp của doanh nghiệp Việt Nam khi tham
gia vào hiệp định TPP
Như chúng ta đã biết TPP có mức độ cam kết mở cửa thị trường cao hơn,
đưa ra các tiêu chuẩn toàn diện hơn , cân bằng lợi ích về thương mại hóa , dịch
vụ đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và những cam kết về thể chế kinh tế thị
trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công, nhằm tạo ra một môi trường

kinh doanh minh bạch và cạnh tranh công bằng.
TPP được coi như là FTA thế hệ mới, đánh dấu bước phát triển quan trọng
hướng tới mục tiêu cuối cùng là tự do hóa thương mại hội nhập trong toàn khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Những thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam:
Về môi trường pháp lý, thể chế
TPP đòi hỏi một môi trường kinh doanh minh bạch và có tính cạnh tranh
cao. Do vậy khi tham gia TPP, Việt Nam phải đổi mới về mặt thể chế, bộ máy
chính quyền và cộng đồng doanh nghiệp.
Hệ thống các quy định của Việt Nam nhìn chung chưa phát triền bằng
những hệ thống quy định của các nước thành viên TPP khác. Do đó, việc đưa
hệ thống quy định lên một mức tương xứng với các bên là một thách thức.

[25]


×