Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Nhân vật người lính trong giã từ vũ khí của hemingway và nỗi buồn chiến tranh của bảo ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.87 KB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

ĐẶNG THỊ THẠCH

NHÂN VẬT NGƯỜI LÍNH TRONG
GIÃ TỪ VŨ KHÍ CỦA HEMINGWAY
VÀ NỖI BUỒN CHIẾN TRANH
CỦA BẢO NINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành : Lý luận văn học
Người hướng dẫn khoa học
TS PHÙNG GIA THẾ

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp, tôi đã nhận được rất
nhiều sự giúp đỡ của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo Phùng Gia Thế, người đã
trực tiếp tận tình hướng dẫn để tôi có thể hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngữ văn, đặc
biệt là các thầy cô trong Tổ bộ môn Lý luận văn học đã tạo điều kiện thuận lợi
để khoá luận của tôi được hoàn thành.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2014
Sinh viên

Đặng Thị Thạch



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong khóa luận này là
kết quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo
Phùng Gia Thế. Những nội dung này không trùng với kết quả nghiên cứu của
các tác giả khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2014
Sinh viên

Đặng Thị Thạch


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................
6
1. Lí do chọn đề tài....................................................................................................
6
2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................................
7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên............................................................................
10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................................
11
5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................
11
6. Đóng góp của khóa luận.....................................................................................
11
7. Bố cục của khóa luận..........................................................................................
11

NỘI DUNG ............................................................................................................
13
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HỌC SO SÁNH ........
13
1.1. Khái niệm văn học so sánh và sự hình thành của bộ môn Văn học so sánh
13
1.1.1 Khái niệm văn học so sánh ...........................................................................
13
1.1.2. Sự hình thành của bộ môn Văn học so sánh ...............................................
16
1.2. Các loại hình nghiên cứu văn học so sánh .....................................................
17
1.2.1. Nghiên cứu ảnh hưởng .................................................................................
17
1.2.2. Nghiên cứu song song ..................................................................................
21
1.2.3. Nghiên cứu liên ngành .................................................................................
25


1.3. Ý nghĩa và tác dụng của bộ môn văn học so sánh.........................................
26
CHƯƠNG 2. NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG CỦA HÌNH TƯỢNG
NGƯỜI LÍNH TRONG GIÃ TỪ VŨ KHÍ VÀ NỖI BUỒN CHIẾN
TRANH ...................................................................................................... . 27
2.1. Con người cô đơn lạc lõng ..............................................................................
27
2.2. Con người tự nhiên, bản năng.........................................................................
30
2.3. Con người chấn thương...................................................................................

32
2.4. Bi kịch tình yêu................................................................................................
36


CHƯƠNG 3. NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CỦA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI
LÍNH TRONG GIÃ TỪ VŨ KHÍ VÀ NỖI BUỒN CHIẾN TRANH ............
39
3.1. Những khoảnh khắc thời gian khác biệt.........................................................
39
3.1.1.Thời gian hiện thực của người lính trong Giã từ vũ khí..............................
39
3.1.2. Thời gian hai chiều của người lính trong Nỗi buồn chiến tranh ...............
39
3.2. Cảm quan của người lính: hai lí lẽ trái ngược................................................
42
3.2.1. Người lính trong Giã từ vũ khí: áp lực chiến trận và lựa chọn cá nhân ....
42
3.2.2. Người lính trong Nỗi buồn chiến tranh: nhận thức như một lẽ sống ........
43
KẾT LUẬN............................................................................................................ 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tác phẩm văn học chân chính luôn hướng con người đến các giá trị
chân - thiện - mĩ. Chính vì vậy mà M.Gorki đã xem “văn học là nhân học”.
Trong tác phẩm tự sự, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết, việc thiết tạo nhân vật là
vấn đề cực kì quan trọng. Nhân vật trong tác phẩm không chỉ thể hiện chủ đề,

tư tưởng của các tác phẩm, mà còn là nơi thể hiện tập trung tài năng và phong
cách nghệ thuật của nhà văn.Thành công của một tác phẩm văn học được
quyết định phần lớn bởi giá trị của thế giới nhân vật.
1.2. Nhân vật người lính được xây dựng trong văn học là hình ảnh khá
phổ biến trong các tác phẩm văn học đặc biệt là tác phẩm thời chiến. Kiểu
nhân vật này khắc họa cuộc sống khó khăn, gian khổ và những khắc nghiệt do
chiến tranh gây ra cho con người, nhất là những con người trực tiếp đứng trên
chiến tuyến. Nhân vật người lính truyền tải những thông điệp của nhà văn về
các cuộc chiến.
1.3. Giã từ vũ khí của Hemingway và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh là hai tác phẩm văn học nổi tiếng viết về đề tài chiến tranh. Đồng thời là
hai tác phẩm đại diện cho hai dân tộc, hai nền văn hóa khác nhau. Nghiên cứu
về hai tác phẩm này, nhất là hình tượng người lính đều chưa được nhìn nhận
trên phương diện văn học so sánh. Mặc dù cả hai tác phẩm đều đã có rất nhiều
những bài viết, nhận định, đánh giá trên nhiều phương diện phong phú.
1.4. Trong chương trình Ngữ văn ở bậc học trung học phổ thông, học
sinh được tiếp xúc với nhiều tác phẩm viết về người lính với những đặc trưng
khác nhau. Thiết nghĩ, việc nghiên cứu về nhân vật người lính trong Giã từ vũ
khí và Nỗi buồn chiến tranh là một cách gợi mở hướng tiếp cận mới cho học
sinh, đồng thời cung cấp những tư liệu phục vụ cho giáo viên, học sinh trong
quá trình tìm hiểu, lý giải phân tích các tác phẩm văn học thời chiến.

6


Với những lí lẽ trên, tác giả khóa luận lựa chọn đề tài: “Nhân vật người
lính trong Giã từ vũ khí của Hemingway và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh” với mục đích làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt về phương
diện nhân vật người lính của hai tác phẩm. Đồng thời, với đề tài này chúng tôi
hi vọng sẽ góp một phần công sức vào việc khẳng định vị trí của bộ môn Văn

học so sánh và việc ứng dụng bộ môn này trong thực tiễn nghiên cứu văn học
hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Giã từ vũ khí và Nỗi buồn chiến tranh là hai tác phẩm nổi tiếng. Đã có
nhiều nhà nghiên cứu phân tích các tác phẩm này ở các khía cạnh khác nhau.
Có thể kể đến một số bài viết tiêu biểu như sau:
Giã từ vũ khí (A Farewell to Arms) là một tiểu thuyết bán tự truyện của
nhà văn Ernest Hemingway viết 1929. Phần lớn cuốn tiểu thuyết này được
viết tại nhà bố mẹ vợ Hemingway ở Piggott, Arkansas. Được nhiều nhà phê
bình xem là một trong những tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại nhất mọi thời đại,
câu chuyện được thuật lại thông qua lời kể của trung úy Frederic Henry, một
người Mỹ nhưng lái xe cứu thương trong quân đội Ý vào thời Đệ nhất thế
chiến.
Nhìn nhận về Giã từ vũ khí có nhiều đánh giá khẳng định về giá trị của
tác phẩm, trong đó, có thể kể đến bài viết của Lê Hữu Huy trên trang
“VIETNAM GLOBAL NETWORK (Kết nối - phát huy giá trị Việt). Theo tác
giả, Giã từ vũ khí “được nhiều nhà phê bình xem là một trong những tiểu
thuyết chiến tranh vĩ đại nhất mọi thời đại”. Giáo trình Văn học phương Tây
của Đặng Anh Đào và một số tác giả đã dành mục viết về Giã từ vũ khí với
nhận xét: Giã từ vũ khí - Cuốn tiểu thuyết hiện đại về tình yêu, chiến tranh và
phản anh hùng”. Bên cạnh đó còn có một số bài viết về đề tài trong Giã từ vũ
khí hay sự thay đổi kết truyện tới 47 lần của tác phẩm,...

7


Từ trước đến nay, Giã từ vũ khí được các tác giả nghiên cứu, đánh giá
trên nhiều phương diện, nhưng việc nghiên cứu tác phẩm trên tinh thần so
sánh, đối chiếu với các tác phẩm có cùng chủ đề, đề tài thì vẫn còn hạn chế.
Trong bài giới thiệu về Nỗi buồn chiến tranh, nhà văn Nam Dao

viết: “Tác phẩm không hậu hiện đại qua những hình thức thời thượng. Tác
phẩm cổ điển từ cấu trúc đến văn phong. Tác phẩm nói về chiến tranh qua thân
phận thời hậu chiến, với cái đau đằng đẵng của con người cứ tưởng chiến
tranh chấm dứt. Không, không như tiếng bom đạn thôi nổ trên đầu, nó nổ
trong đầu. Máu không chảy ra ngoài, nó chảy vào trong. Đã xảy ra, chiến tranh
không bao giờ thực sự kết thúc với những người sống xót sau cuộc chiến. Nó
chỉ kết thúc trên những trang sử biên niên, với ngày tháng trơ lỳ. Nhưng trong
văn chương đích thực, nó còn đó như những vết trầy trụa đớn đau chẳng bao
giờ lành, cảnh báo để những thế hệ mai hậu biết trân quí hòa bình…” [20;
tr.113 - tr.127]
Bên cạnh một số nhận xét phủ định giá trị Nỗi buồn chiến tranh của
Bảo Ninh, nhìn chung cuốn tiểu thuyết này được đánh giá rất cao từ phía các
nhà nghiên cứu phê bình và độc giả. Đó cũng là xu hướng chung của các nhà
nghiên cứu hiện thời.
Trong bài viết Thân phận tình yêu của Bảo Ninh (in trong Thi pháp
hiện đại), nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu đã đánh giá cao về tác phẩm, về ngôn
từ nghệ thuật cũng như vai trò của nhà văn: “Thân phận tình yêu hay Nỗi
buồn chiến tranh là một hiện tượng ngôn từ lạ lùng mang tính đa thanh, tính
đối thoại..., là một cuộc phiêu lưu muốn nhập vào văn học hiện đại thế giới”
[10; tr.271]. Tuy vậy, việc đánh giá ở đây mới ở mức khái quát, chưa đi sâu
vào phân tích cụ thể, chi tiết các yếu tố ngôn từ của tác phẩm.
Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp với bài “Kĩ thuật dòng ý thức qua Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh” (in trong cuốn Tự sự học - một số vấn đề lí

8


luận và lịch sử) đã có những nghiên cứu rất sâu về kĩ thuật dòng ý thức một

9



thủ pháp trần thuật đặc sắc của Bảo Ninh ở tiểu thuyết này. Nhà phê bình
viết: “Ở Việt Nam, cũng từng có một số nhà miêu tả dòng ý thức nhân vật
nhưng phải đến “Nỗi buồn chiến tranh” thì kĩ thuật dòng ý thức được vận dụng
triệt để trở thành nguyên tắc nghệ thuật chi phối cách tổ chức của tác phẩm”
[8; tr.121] Bên cạnh đó, một số bài viết trong công trình hợp tuyển những
bài
nghiên cứu văn học với tiêu đề Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề
nghiên cứu và giảng dạy cũng quan tâm tới tác phẩm ở nhiều bình diện khác
nhau. Nguyên Ngọc trong bài Văn xuôi Việt Nam hiện nay - logic quanh co
của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng cho rằng: “Về mặt
nghệ thuật, Nỗi buồn chiến tranh là thành tựu cao nhất của văn học đổi
mới...” [17; tr.96]. Phạm Xuân Thạch ở bài Nỗi buồn chiến tranh viết về chiến
tranh thời hậu chiến - từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp
thì nhấn mạnh: “Riêng Bảo Ninh, anh đã đẩy khuynh hướng nghệ thuật của
nhà văn đi trước một chiều kích mới. Anh quyết liệt từ bỏ hình thức tiểu hiện
thức truyền thống để theo đuổi tiểu thuyết tâm lý” [24; tr.34].
Đúng như lời nhận xét của Đỗ Đức Hiểu: “Tác phẩm là cuộc phiêu lưu
muốn hòa nhập vào văn học thế giới” [10; tr.271]. Tiểu thuyết của Bảo Ninh
đã được dịch, giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới và được chào đón nồng
nhiệt. Tờ Independent - một nhật báo uy tín của nước Anh đã nhận xét: “Vượt
ra ngoài sức tưởng tượng của người Mỹ, “Nỗi buồn chiến tranh” đi ra từ chiến
tranh Việt Nam đã đứng ngang hàng với cuốn tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại
của thế kỉ Mặt trận phía tây vẫn yên tĩnh của Erich Maria Rowmaco...” [24].
Trên một số tạp chí văn học và trang web cũng xuất hiện một loạt
những bài viết về tác phẩm này. Chẳng hạn như bài viết Thời gian trong Thân
phận tình yêu của Bảo Ninh của Đào Duy Hiệp trên Tạp chí nghiên cứu văn

10



học số 8 - 2007, bài Hiện tượng phân giã cốt truyện trong Phiên chợ Giát và
Thân phận tình yêu của Lưu Thị Thu Hà, bài viết Về nhân vật Phương, người

11


phụ nữ Hà Nội, và chủ đề văn học trong Nỗi buồn chiến tranh của Đoàn Thị
Cầm trên trang web Evan.com.vn...
Nhìn chung, có thể thấy, đã có nhiều ý kiến bình luận khác nhau về Nỗi
buồn chiến tranh song hầu hết các nhà nghiên cứu đều khẳng định vị trí quan
trọng của tác phẩm trong đời sống tiểu thuyết đương đại.
Dựa trên lí thuyết của văn học so sánh và đặc điểm của hai tác phẩm
Giã từ vũ khí của Hemingway và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, tác giả
khóa luận lựa chọn đề tài “Nhân vật người lính trong Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh và trong Giã từ vũ khí của Hemingway” với mục đích làm rõ
điểm tương đồng và khác biệt trong cách thiết tạo hình tượng nhân vật người
lính của hai tác phẩm đồng thời góp phần ứng dụng lí thuyết văn học so sánh
vào nghiên cứu trong thực tiễn văn học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Áp dụng lí thuyết của văn học so sánh vào việc nghiên cứu về đề tài
“Nhân vật người lính trong Giã từ vũ khí của Hemingway và Nỗi buồn chiến
tranh của Bảo Ninh” nhằm thấy được nét đặc sắc cùng những giá trị của mỗi
tác phẩm.
- Đối chiếu nhân vật người lính trong hai tác phẩm để nhận biết những
ảnh hưởng, sáng tạo và đặc thù của mỗi tác phẩm.
- Góp phần vào việc khẳng định sự thành công về đề tài người lính của
hai tác giả qua tác phẩm của mình ở những thời điểm lịch sử khác nhau. Việc

nghiên cứu đề tài này còn góp phần vào việc khẳng định vị trí, tầm quan trọng
của bộ môn Văn học so sánh trong bối cảnh nghiên cứu văn học hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp và trình bày những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu so sánh hình tượng người lính trong hai tác phẩm nêu trên
cả trên hai bình diện tư tưởng và thi pháp nghệ thuật.

12


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân vật người lính trong hai tác phẩm Giã từ vũ khí của Hemingway
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khóa luận tập trung phạm vi nghiên cứu trong hai tác phẩm:
- Giã từ vũ khí của Hemingway, Nhà xuất bản Văn hóa - thông tin, Hà
Nội, 2001.
- Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Nhà xuất bản trẻ, 2012.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, người viết sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp hệ thống
Trong đó so sánh là phương pháp chủ yếu.
6. Đóng góp của khóa luận
- Về phương diện lí luận, khóa luận góp phần làm rõ đặc trưng của văn
học so sánh với tư cách là một bộ môn nghiên cứu mối quan hệ giữa các nền
văn học dân tộc.

- Trên cơ sở so sánh nhân vật người lính trong Giã từ vũ khí của
Hemingway và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, khóa luận chỉ ra những
nét tương đồng cũng như điểm khác biệt trong cách xây dựng hình tượng
nhân vật của hai tác giả.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung khóa luận được cấu trúc thành 3 chương:

13


Chương 1: Những vấn đề chung về văn học so sánh
Chương 2: Những điểm tương đồng của hình tượng người lính trong
Giã từ vũ khí và Nỗi buồn chiến tranh
Chương 3: Những điểm khác biệt của hình tượng người lính trong Giã
từ vũ khí và Nỗi buồn chiến tranh

14


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HỌC SO SÁNH
1.1. Khái niệm văn học so sánh và sự hình thành của bộ môn Văn học so
sánh
1.1.1 Khái niệm văn học so sánh
Trên thế giới hiện nay thuật ngữ “Văn học so sánh" đã trở nên rất đỗi
quen thuộc trong giới nghiên cứu và giảng dạy văn học. Trong đời sống, trong
sáng tạo nghệ thuật, kể cả trong nghiên cứu văn học, bằng thói quen hoặc từ ý
thức thẩm mĩ người ta thường dùng thao tác so sánh. Nhưng các thao tác ấy,

phần nhiều chỉ biến khái niệm trừu tượng hiển hiện thành hình ảnh sinh động,
thành hình tượng nghệ thuật, khơi gợi trực tiếp ấn tượng, xúc cảm. Còn các
công trình học thuật, trước thế kỷ XVII - XVIII, chỉ mới dừng lại đối sánh
những hiện tượng trong cùng một nền văn học. Khi đó, chúng chỉ là thao tác
so sánh, ở cấp độ phương pháp, tức so sánh văn học.
Vậy thế nào là văn học so sánh? Xuất phát từ các cách nhìn nhận và ở
các thời điểm khác nhau các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều định nghĩa về văn
học so sánh. Một số nhà văn học so sánh cho rằng, bản thân từ văn học so
sánh là cái tên không hoàn chỉnh, dễ gây nên hiểu lầm. Wellek cho rằng: “So
sánh là phương pháp mà tất cả phê bình và khoa học đều sử dụng, bất luận thế
nào nó cũng không thể trình bày đầy đủ về quá trình đặc thù của nghiên cứu
văn học”. Vả lại do mỗi nước có cách biểu đạt và phiên dịch khác nhau về từ
“văn học so sánh”, nên trọng điểm mà họ nhấn mạnh cũng khác nhau. Ví dụ,
từ “so sánh” trong “văn học so sánh” tiếng Pháp là Compar‟ee, nó ám chỉ
trong lịch sử văn học đã từng nảy sinh quan hệ văn học giữa các nước, ở tiếng
Anh, Comparative là tính từ nó làm định ngữ cho từ literature (văn học), còn

15


ở Trung Quốc hai chữ so sánh (比比: tỷ giáo) trong tiếng Hán dễ làm cho
người ta nghĩ đến động tác so sánh, đồng thời, từ “văn học so sánh” trong
tiếng Hán về mặt chữ không có hàm nghĩa là nghiên cứu văn học. Mặc dù các
nước lý giải văn học so sánh là khác nhau nhưng do tính quy ước của bản thân
ngôn ngữ, nên khái niệm văn học so sánh được các nước thừa nhận. Người ta
tiếp nhận cách nói giản lược này.
Trong mục từ: “Văn học so sánh” viết cho cuốn “Trung Quốc đại bách
khoa toàn thư”, giáo sư Nhạc Đại Vân ở đại học Bắc Kinh đưa ra một giới
định: “Văn học so sánh - một phân nhánh của nghiên cứu văn học, xuất hiện
vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nó là một khoa học nghiên cứu so sánh

một cách lịch sử quá trình có tác dụng tương hỗ giữa hai nền văn học dân tộc
trở lên, nó nghiên cứu mối quan hệ tương hỗ hình thức nghệ thuật và hình thái
ý thức của các nền văn học dân tộc đó [19; tr.16].
Daniel định nghĩa có phần đầy đủ hơn: “Văn học so sánh là chuyên
ngành nghiên cứu mối quan hệ tương đồng, quan hệ học hàng hay ảnh hưởng
giữa văn học với các lĩnh vực nghệ thuật hay các lĩnh vực tư duy khác, giữa
các sự kiện hay văn bản văn học, những mối quan hệ này có thể gần hay xa.
Trong không gian hay trong thời gian, miễn là chúng thuộc nhiều ngôn ngữ
khác nhau, hoặc nhiều văn hóa khác nhau, cho dù có chung một truyền thống”
[14; tr.12].
Remak, nhà nghiên cứu Hoa Kì viết: “Văn học so sánh là nghiên cứu
văn học vượt ra ngoài phạm vi một nước và nghiên cứu mối quan hệ giữa văn
học với tri thức khác và lĩnh vực tín ngưỡng, bao gồm nghệ thuật (như hội
họa, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc), triết học, lịch sử, khoa học xã hội (chính
trị, kinh tế, xã hội học), khoa học tự nhiên, tôn giáo,... Tóm lại, theo Remark,
“Văn học so sánh là so sánh văn học của một nước này với một nước khác,

16


hoặc nhiều nước khác, là so sánh văn học với nhiều lĩnh vực biểu hiện khác
của nhân loại”.

17


Tại Việt Nam, sự quan tâm đến văn học so sánh cũng được thể hiện
trong nhiều bài viết khá công phu. Trương Đăng Dung trong bài báo “Văn
học dịch và những vấn đề lí luận của văn học so sánh” định nghĩa rằng: “Văn
học so sánh là một trong những ngành khoa học văn học nghiên cứu mối quan

hệ qua lại cũng như những đặc điểm tương đồng và khác biệt giữa các nền văn
học nhằm tiếp cận tiến trình văn học lớn nhất: Văn học thế giới” [7; tr.23].
Nguyễn Văn Dân thì định nghĩa: “Văn học so sánh là một bộ môn văn học sử
nghiên cứu các mối quan hệ giữa văn học so sánh và các nền văn học dân tộc
[hay các nền văn học quốc gia] có nghĩa là “nó nghiên cứu các mối quan hệ
giữa các nền văn học quốc gia” [6; tr.22]. Như vậy, nhà nghiên cứu này đã nói
tới đặc trưng quan trọng nhất của bộ môn văn học so sánh là nghiên cứu so
sánh các tác giả, tác phẩm... thuộc các quốc gia và thậm chí là so sánh các nền
văn học trên thế giới.
Về “Văn học so sánh” có nhiều ý kiến nghiên cứu song xét về bản chất
văn học so sánh là tên gọi một hệ phương pháp luận, một bộ môn trong khoa
nghiên cứu văn chương. Nó phải tuân theo những nguyên tắc đặc thù của bộ
môn. Cụ thể, nó chỉ bao hàm những so sánh liên văn học: nó tiến hành đối
sánh các nền văn học dân tộc với nhau. Quá trình đối sánh này phải đảm bảo
tính khách quan, phi dịnh kiến: nhà nghiên cứu, không vì lòng tự tôn, tự ti dân
tộc, mà nhân danh văn học so sánh để hạ thấp các nền văn học dân tộc khác,
hoặc mặc cảm về văn học dân tộc mình. Thao tác so sánh phải trên cơ sở cùng
loại: tác phẩm sánh cùng tác phẩm, tác giả đi bên tác giả,... sự so sánh phải đa
diện, với nhiều cấp độ, nhiều hệ thống. Tất cả hướng về lợi ích quốc tế, giải
quyết mọi cái riêng qua cái chung. Sự giàu có của văn học thế giới phải hội tụ
từ vẻ đẹp phong phú, đặc sắc của từng nền văn học dân tộc. Ngược lại, văn
học từng dân tộc, cũng nhờ đặt trong hệ thống, mà thấy mình độc đáo, đầy sức
sống.
Mục đích của văn học so sánh, vì thế, nhằm mục đích tính khái quát
18


của văn học nhân loại, đồng thời chứng minh tính đặc thù của mỗi nền văn

19



học dân tộc. Đó cũng là quá trình giải quyết cái chung và cái riêng, cái quốc
tế và cái dân tộc. Mọi trường phái văn học so sánh, muốn thật sự khách quan,
khoa học, đều phải tuân thủ các nguyên tác và các mục đích cụ thể này.
Nói một cách ngắn gọn có thể hiểu văn học so sánh là sự nghiên cứu đối
chiếu, so sánh giữa hai hay nhiều hiện tượng (tác giả, tác phẩm, trào lưu,...)
thuộc các nền văn học dân tộc để chỉ ra mối quan hệ giữa các nền văn học dân
tộc, là sự so sánh giữa văn học và các lĩnh vực biểu hiện khác của nhân loại.
1.1.2. Sự hình thành của bộ môn Văn học so sánh
1.1.2.1. Điều kiện hình thành của bộ môn văn học so sánh.
Văn học so sánh hình thành dựa trên nhiều yếu tố, trong đó có hai điều
kiện cơ bản là điều kiện văn hóa - xã hội và điều kiện học thuật:
- Điều kiện văn hóa - xã hội
Văn học thế giới đã có mối liên hệ từ xa xưa nhưng ý thức hệ của con
người chưa hướng nhiều tới sự tác động, ảnh hưởng qua lại đó. Phải tới thế kỉ
XIX, khi xã hội loài người có sự chuyển đổi hình thái kinh tế, nhu cầu giao
lưu về mọi mặt cao hơn trong đó có văn học thì mới hình thành nền văn học
thế giới và lúc đó ý thức so sánh mới bắt đầu.
Sự ra đời của bộ môn văn học so sánh liên quan trực tiếp đến sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản và ý thức chủ nghĩa thế giới. Phương thức sản xuất
của chủ nghĩa tư bản không ngừng thúc đẩy mối liên hệ và giao lưu các mặt
kinh tế thị trường cũng như giao lưu về mặt văn hóa.
Từ trào lưu văn học lãng mạn chủ nghĩa cuốn hút toàn châu Âu và sự
thúc tỉnh của văn học thế giới chủ nghĩa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX là
điều kiện cho sự ra đời của văn học so sánh.
- Điều kiện học thuật
Từ đầu thế kỉ XIX, sự phát triển cực thịnh của khoa học lịch sử tạo điều
kiện cho sự phát triển nở rộ của các bộ môn lịch sử văn học.


20


Phương pháp so sánh được áp dụng ngày càng chuyên sâu trong nhiều
ngành khoa học (lịch sử ngôn ngữ học so sánh, lịch sử Folklore so sánh,...).
1.1.2.2. Quá trình phát triển của bộ môn Văn học so sánh
Giai đoạn thứ nhất: Nửa cuối thế kỉ XIX, đây là giai đoạn hình thành và
khẳng định. Giai đoạn này có công lao chủ yếu của các nhà so sánh luận và sử
gia văn học người Anh, Pháp, Đức, Mĩ, Thụy Sĩ, Italia,...
Giai đoạn thứ hai: Nửa đầu thế kỉ XX, là giai đoạn văn học so sánh chú
ý đến sự ảnh hưởng và vay mượn. Tiêu biểu cho giai đoạn này là một số tác
giả nghiên cứu văn học người Pháp như: Fernand Baldensperger, Paul Van
Tieghem... với trường phái thực chứng - lịch sử.
Giai đoạn thứ ba: Từ giữa thế kỉ XX đến nay, là giai đoạn hoàn chỉnh
bộ môn Văn học so sánh bằng cách mở rộng đối tượng nghiên cứu của nó
sang lĩnh vực các hiện tượng tương đồng.
1.2. Các loại hình nghiên cứu văn học so sánh
1.2.1. Nghiên cứu ảnh hưởng
1.2.1.1. Khái niệm
“Ảnh hưởng” là khái niệm hạt nhân của phương pháp nghiên cứu ảnh
hưởng. Khái niệm “ảnh hưởng” của văn học so sánh khác với khái niệm “ảnh
hưởng” mang ý nghĩa chung chung. Thông thường nói ảnh hưởng là chỉ sự
vật này có sự tác động với sự vật khác, rồi dẫn đến sự phản ứng và phản hồi
của sự vật sau. “Ảnh hưởng” của văn học so sánh nhấn mạnh đến “tính ngoại
lai”, nó quan tâm đến sự xâm nhập của yếu tố ngoại lai.
Nghiên cứu ảnh hưởng (còn được gọi là nghiên cứu các mối quan hệ
trực tiếp) trong văn học so sánh là “việc dùng phương pháp lịch sử để xử lí
các mối liên hệ thực tế tồn tại giữa các nền văn học dân tộc khác nhau, căn cứ
của nó là sự giao lưu tiếp xúc lẫn nhau giữa các nền văn học dân tộc. Nghiên
cứu ảnh hưởng nhấn mạnh đến thực chứng và liên hệ thực tế, phàm các suy


21


luận hoặc phán đoán thiếu căn cứ thực tế đều không thuộc về phạm trù nghiên
cứu ảnh hưởng” [15; tr.71].
Chẳng hạn, chúng ta có thể nghiên cứu ảnh hưởng giữa hai nhà văn Lỗ
Tấn và Gôgôn, giữa nhà văn với trào lưu văn học như Xuân Diệu với chủ nghĩa
tượng trưng, giữa hai nền văn học như văn học Việt Nam và Văn học Trung
Quốc.
Nghiên cứu ảnh hưởng là loại hình nghiên cứu có sức thuyết phục,
cũng là phương pháp xuất hiện sớm nhất. Đóng góp cho loại hình nghiên cứu
này là các nhà nghiên cứu người Pháp.
1.2.1.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu được các hiện tượng văn học theo hướng so sánh ảnh
hưởng, trước tiên người nghiên cứu phải “đặt giả thiết” (phải có tư tưởng thì
mới có giả thiết). Sau đó phải “tìm tư liệu” để chứng minh và làm sáng tỏ giả
thiết đó. Sau khi có tư liệu người viết sử dụng phương pháp “phân tích”
những tư liệu đó để tìm cội nguồn, tìm sự sáng tạo của đối tượng so sánh. Và
cuối cùng dùng phương pháp tìm “ảnh hưởng” và “siêu ảnh hưởng” để nghiên
cứu về đối tượng.
1.2.1.3. Điều kiện nảy sinh ảnh hưởng
Trước hết đó là cái gây ảnh hưởng, là cái phải có sức lan tỏa, về mặt
nào đó phải có vị trí vượt trội dẫn đầu hoặc phải có một số nhân tố phù hợp
với điều kiện của cái chịu ảnh hưởng.
Bên cạnh cái gây ảnh hưởng là cái chịu ảnh hưởng, cái chịu ảnh
hưởng là hoàn cảnh xã hội của nước tiếp nhận (mức độ cởi mở của chính
trị, tinh thần dân tộc và kết cấu tâm lí văn hóa). Truyền thống nghệ thuật,
thói quen thưởng thức của nước tiếp nhận cũng là một yếu tố chịu ảnh
hưởng. Ngoài ra, còn có điều kiện nội tại của cá nhân người chịu ảnh

hưởng (tư tưởng, cá tính, khí chất, hứng thú của nhà văn với mọt hiện

22


tượng văn học cụ thể nào đó).

23


1.2.1.4. Tính chất và mức độ ảnh hưởng
Về tính chất ảnh hưởng có thể nhìn nhận ở hai khía cạnh đó là ảnh
hưởng trực tiếp hay gián tiếp và ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực. Ảnh hưởng
trực tiếp (tiếp xúc, tiếp nhận trực tiếp); ảnh hưởng gián tiếp (tiếp xúc, tiếp
nhận qua “môi giới” như dịch thuật, bình luận, giới thiệu,...). Ảnh hưởng trực
tiếp và ảnh hưởng gián tiếp có mối quan hệ mật thiết. Ảnh hưởng trực tiếp
thường thúc đẩy ảnh hưởng gián tiếp, nhưng rồi ảnh hưởng gián tiếp lại
chuyển hóa thành ảnh hưởng trực tiếp. Chẳng hạn như một số chí sĩ Đông du
Nhật Bản, họ thông qua Nhật Bản để học tập phương Tây, ví dụ: Sách dịch
Tây học thời cận đại Trung Quốc, không ít danh từ trong Trung văn đều vay
mượn của Nhật Bản.
Ảnh hưởng tích cực (thúc đẩy làm phong phú sáng tác của nước khác
hoặc có thể nói vật chịu ảnh hưởng tiếp nhận, tiêu hóa nhân tố ngoại lai, sáng
tác ra từ các tác phẩm ưu tú); ảnh hưởng tiêu cực (ngăn cản, phá hoại sáng tác
của nước khác hay nói cách khác là vật chịu ảnh hưởng chống lại hoặc phủ
định một số nhân tố của vật gây ảnh hưởng). Ảnh hưởng tích cực và ảnh
hưởng tiêu cực trong một số trường hợp chúng xen lẫn vào nhau. Chẳng hạn
như ở thời Ngũ tứ của Trung Quốc, ảnh hưởng của các trào lưu văn học
phương Tây với văn đàn Trung Quốc làm phong phú các sáng tác nhưng đồng
thời cũng tạo ra sự đứt đoạn giữa văn học mới với văn học truyền thống.

Về mức độ ảnh hưởng, có thể là sự vay mượn đề tài, chủ đề, cốt truyện,
hoặc ảnh hưởng về kĩ thuật viết văn hay ảnh hưởng về quan niệm,...
1.2.1.5. Các loại hình nghiên cứu ảnh hưởng
Nghiên cứu ảnh hưởng không chỉ dừng lại ở cái ảnh hưởng, mà phải
đứng từ góc độ của cái bị ảnh hưởng, phải xuất phát từ yêu cầu xã hội thực tế
của cái bị ảnh hưởng mới thấy hết giá trị đặc thù dân tộc của nó. Ảnh hưởng

24


×