Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Những vấn đề pháp lý và thực tiễn xác định biên giới trên bộ giữa Việt Nam với Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.45 KB, 7 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TIỂU LUẬN
MÔN CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

Đề tài số 2:
Những vấn đề pháp lý và thực tiễn xác định biên giới
trên bộ giữa Việt Nam với Lào

Họ và tên:

Nguyễn Minh Tuân

Sinh ngày:

09/11/1991

Lớp:

Luật KT - K15

Ngành:

Luật Kinh tế

Ngày 04 tháng 4 năm 2019


PHẦN A: MỞ ĐẦU
Biên giới quốc gia là một vấn đề quan trọng hàng đầu của bất cứ quốc gia


nào. Đường biên giới của mỗi quốc gia là cơ sở để phân chia lãnh thổ của các
quốc gia với nhau. Tuy nhiên trên thực tế vẫn nảy sinh rất nhiều tranh chấp giữa
các quốc gia láng giềng về đường biên giới, đặc biệt là các đường biên giới trên
bộ. vì vậy, vấn đề hoàn thiện đường biên giới trên bộ luôn được các quốc gia hết
sức quan tâm.
Đối với Việt Nam, chúng ta có cả đường biên giới trên bộ và trên biển.
vấn đề hoạch định đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng luôn được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt trong những thập niên qua. Hiện nay,
đường biên giới trên bộ của nước ta đã tương đối hoàn thiện, phần lớn đã được
phân giới, cắm mốc trên thực địa.
Tuy vậy, việc tiếp tục về các nguyên tắc phân định biên giới trên bộ cũng
như thực tiễn áp dụng để có cái nhìn toàn diện, đầy đủ về biên giới trên bộ của
nước ta vẫn là công việc hết sức cần thiết không chỉ đối với các nhà khoa học
mà còn đối với cả sinh viên nói chung và sinh viên Luật nói riêng. Vì vậy, em
xin lựa chọn đề tài “Những vấn đề pháp lý và thực tiễn xác định biên giới trên
bộ giữa Việt Nam với Lào” để hiểu thêm về vấn đề này.

2


PHẦN B: NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ BIÊN GIỚI TRÊN BỘ CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.

Việt Nam là một quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á, trên bán đảo
Đông Dương. Nước ta có diện tích khoảng 330.000 km² thuộc nhóm nước có
diện tích trung bình trên thế giới. lãnh thổ Việt Nam gồm các bộ phận: đất liền,
hải đảo, vùng biển, vùng trời. vùng biển nước ta rộng khoảng 1 triệu km² nằm ở
khu vực biển Đông cùng với đó là hệ thống các đảo ven bờ và hai quần đảo xa
bờ là Hoàng Sa và Trường Sa.

Lãnh thổ trên đát liền của nước ta hình chữ S nằm ở rìa bán đảo Đông
Dương và tiếp giáp với biển Đông. Việt nam có biên giới chung với Trung Quốc
ở phía Bắc, tiếp giáp với Lào ở phía Tây, tiếp giáp với Cam- Pu- Chia ở phía
Tây Nam. Đường biên giới trên bộ của nước ta dài khoản 4.510 km , đi qua 25
tỉnh, 90 huyện, khoảng 390 xã với trên 50 dân tộc sinh sống. Đường biên giới
với Trung Quốc dài khoảng 1.400 km; đường biên giới với Lào dài khoảng
2.067 km; đường biên giới với Cam- Pu- Chia dài khoảng 1.137 km. Đất nước ta
với địa hình 3/4 là đồi núi vì vậy, đường biên giới trên đất liền của nước ta với
các nước láng giềng chủ yếu chạy dọc theo các dãy núi cao, rừng rậm.
Đất nước ta trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với bao thăng
trầm, biến cố lớn. Tuy nhiên, phải đến cuối thể kỷ XVIII đường biên giới trên bộ
của nước ta mới hình thành gần giống với ngày nay, nhưng vẫn chưa được hoạch
định bằng bất cứ điều ước nào. Đến khi Thực dân Pháp xâm lược nước ta, vầ cơ
bản đưườg biên giới trên bộ của nước ta cũng không có sự thay đổi đáng kể. sau
khi giành được độc lập, nước ta cùng với các nước láng giềng đã thống nhất duy
trì đường biên giới từ thời Pháp thuộc, đồng thời điều chỉnh những đoạn còn
chưa rõ ràng.
Hiện nay, về cơ bản đường biên giới trên bộ của nước ta đã được hoạch
định xong. Ta cùng các nước láng giềng đã tiến hành phân giới, cắm mốc thực
địa. phần lớn biên giới của nước ta với các nước đã được phân định bằng hệ
thống cột mốc kiên cố, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân ta và cá
dân tộc anh em. Việt nam và các nước láng giềng đang cố gắng giải quyết
nhanh chóng các vấn đề biên giới còn tồn tại trên cơ sở các nguyên tắc mà
các bên đã thống nhất.
II. NGUYÊN TẮC TRONG PHÂN ĐỊNH BIÊN GIỚI VỚI LÀO VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG
1. Nguyên tắc phân định
Trước năm 1945 cả Việt Nam và Lào đều là thuộc địa của Pháp. Pháp sát
nhập hai nước vào “ Đông Dương thuộc Pháp”, sau đó lại chia hai nước thành
các lãnh thổ hành chính để cai trị, bao gồm: Xứ Ai Lao, xứ Bắc Kỳ, xứ Trung kỳ

và xứ Nam kỳ. Biên giới giữa hai nước Việt Nam và Lào trước kia biến thành
ranh giới hành chính giữa các Xứ Ai Lao và hai xứ Bắc kỳ và Trung kỳ. Dưới
ách thống trị của thực dân Pháp, vấn đề biên giới giữa hai nước Việt Nam và
3


Lào đã không được đặt ra.
Sau khi hai nước đã giành được độc lập hoàn toàn năm 1976 vấn đề
biên giới giữa hai nước mới có điều kiện để giải quyết. Đầu năm 1976, hai Bộ
Chính trị hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã
họp để thống nhất các nguyên tắc trong việc xác định đường biên giới giữa
hai quốc gia.
Trên cơ sở thỏa thuận của hai Bộ Chính trị hai nước, có thể thấy nguyên
tắc được áp dụng để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước là nguyên tắc “
Uti possidetis” – Hãy tiếp tục sở hữu cái gì mà anh đang sở hữu. Nguyên tắc Uti
possidetis là một trong những nguyên tắc cơ bản trong việc xác định đường biên
giới quốc gia được pháp luật quốc tế thừa nhận. Việc áp dụng nguyên tắc này
chính là việc công nhận, duy trì và tiếp tục sử dụng các đường ranh giới đã có.
Việc áp dụng nguyên tắc Uti possidetis để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai
nước hoàn toàn phù hợp với thực tiễn tình hình biên giới lúc bấy giờ. Nếu như
đường biên giới Việt- Trung đã là đường biên giới quốc tế hình thành trên cơ sở
Điều ước quốc tế đã được thừa nhận thì đường biên giới Việt- Lào chưa được
xây dựng bằng bất kỳ điều ước quốc tế nào giữa các bên. Đường biên giới Việt –
Lào tuy đã được hình thành từ lâu đời và mang tính lịch sử, tuy nhiên mới chỉ
được thực dân Pháp ghi nhận với tư cách là ranh giới hành chính giữa xứ Ai Lao
với Bắc kỳ và Trung kỳ. Việc thừa nhận đường ranh giới hành chính này để
chuyển thành đường biên giới quốc gia là cơ sở quan trọng để hai nước giải
quyết tốt vấn đề biên giới chung.
Trên cơ sở nguyên tắc Uti possidetis, hai nước đã cùng nhau xây dựng đường
biên giới dựa trên đường ranh giới hành chính được thể hiện trên bản đồ của Sở

Địa dư Đông Dương in năm 1945. Nơi nào không có bản đồ của Sở Địa dư
Đông Dương in năm 1945 thì dùng bản đồ in trước đó hoặc sau đó vài năm.
Thực hiện nguyên tắc này, hai Bộ Chính trị hai nước đã họp để tiến hành hoạch
định biên giới, cùng thời điểm đó Việt Nam tuyên bố trả một số vùng đất trước
kia đã mượn của Lào như Sa Môi, Tà Vi….
3. Thực tiễn áp dụng
Trên thực tế có những đoạn biên giới không có bản đồ hoặc chưa được
quy định trên bản đồ của Pháp, do đó việc xác định biên giới theo nguyên tắc
Uti possidetis là chưa đủ. Hai nước Việt – Lào sử dụng một cách xác định nữa
đó là vạch các đoạn biên giới mới. Trên cơ sở phiên họp của hai Bộ Chính trị hai
nước năm 1976, nguyên tắc xác lập các đoạn biên giới mới có thể được hiêu như
sau: Ở những nơi nào cả hai bên đều thấy là cần thiết phải điều chỉnh đường
biên giới và ở những nơi đường biên giới chưa được vẽ trên bản đồ của Pháp.
Hai bên hoạch định biên giới trên cơ sở hoàn toàn nhất trí, tôn trọng lẫn nhau vì
lợi ích của mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước.
Để thực hiện hiệp ước đã ký năm 1976, hai nước đã thành lập Ủy ban
Liên hợp phân giới cắm mốc Việt – Lào. Ủy ban đã thống nhất các nguyên tắc
cũng như phương pháp cắm mốc. Ủy ban đã hoàn thành việc kết quả cắm mốc
vào ngày 24/8/1984 trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước. Một số điều chỉnh
4


về biên giới được hai nước ghi nhận trong Hiệp ước bố sung Hiệp ước hoạch
định biên giới quốc gia giữa Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và nước
Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào ngày 24/1/1986. Từ đây hai nước đã có một
đường biên giới chính thức được đánh dấu bằng hệ thống mốc quốc giới quy
định trên thực địa.
Như vậy, với việc áp dụng một cách sáng tạo nguyên tắc Uti possidetis kết
hợp với nguyên tắc xác lập các đoạn biên giớ mới, hai nước Việt – Lào đã xây
dựng đường biên giới chung, hoàn chỉnh, một đường biên giới của tình đoàn kết

hữu nghị Việt – Lào.
III. BIỆN PHÁP HOÀN CHỈNH HỆ THỐNG BIÊN GIỚI.

Trên cơ sở thực hiện các nguyên tắc đã nêu ở trên, phần lớn đường biên
giới trên bộ của Việt Nam với các nước láng giềng đã được phân định, cắm mốc
trên thực địa. Đối với đoạn biên giới Viêt – Trung, việc hoạch định, cắm mốc đã
hoàn thành. Tuy nhiên, để bảo vệ chủ quyền và quản lý tốt khu vực biên giới Nhà
nước ta cần tăng cường công tác các công trình biên giới với sự phối hợp của tát
cả các lực lượng chức năng trên toàn tuyến biên giới phức tạp và nhạy cảm này.
Đồng thời Nhà nước ta cũng cần phối hợp chặt chẽ với phía Trung Quốc trong
việc quản lý các công trình biên giới, thống nhất về việc tự do đi lại của tàu
thuyền tại khu vực cửa sông Bắc Luân, hợp tác phát triển du lịch tai khu vực thác
Bản Giốc. Đối với tuyến biên giới Việt – Lào, với khoảng cách trung bình giữa
hai cột mốc là 10 Km như hiện nay là quá xa, rất khó cho công tác quản lý biên
giới. Vì vậy, cần phải tăng dầy số cột mốc, đồng thời tôn tạo các cột mốc biên giới
quốc gia đã có. Phải tăng cường bổ sung thiết bị, phương tiện, cơ sở vật chất khác
phục vụ cho lực lượng chức năng thực hiện nhiệm vụ canh gác, bảo vệ biên giới
của mình. Đối với tuyến biên giới Việt Nam – Cam Pu Chia, Nhà nước ta cần
phối hợp chặt chẽ với nước bạn để đẩy nhanh tiến độ phân giới, cắm mốc trên
thực địa. Tăng cường các lực lượng, cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện để thực
hiện việc phân giới, cắm mốc cho những đoạn biên giới còn chưa hoàn thành việc
cắm mốc. Đối với những đoạn biên giới đã cắm mốc, phải tăng cường bảo vệ và
tôn tạo các công trình biên giới. Một khó khăn hiện nay diễn ra trên toàn tuyến
biên giới trên bộ của nước ta đó là lực lượng bộ đội biên phòng còn quá ít so với
chiều dài của đường biên, chúng ta cần phải tăng cường về số lượng cũng như
trang thiết bị, nhu yếu phẩm cần thiết đẻ đảm bảo cuộc sống và điều kiện làm việc
cho các cán bộ, chiến sĩ làm công tác bảo vệ biên giới.
Tuy nhiên công tác quan trọng nhất cần phải tiến hành ngay đó là tăng
cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các tầng lớp nhân dân, nhất là người
dân địa phương vùng biên giới về vai trò, tầm quan trọng của đường biên

giới. Đây là biện pháp đầu tiên và cũng là quan trọng nhất phải thực hiện.
Trong chính sách an ninh quốc phòng, Nhà nước ta cần chú trọng đến vai trò
của nhân dân trong vấn đề an ninh biên giới bên cạnh các lực lượng chuyên
trách như: bộ đội biên phòng, công an, hải quan… thì nhân dân là lực lượng
đông đảo có khả năng nắm thông tin, tạo điều kiện giúp các cơ quan chức
năng thực hiện nhiệm vụ của mình.
5


PHẦN C: KẾT LUẬN
Tuyến biên giới trên bộ của nước ta được tạo thành bởi ba bộ phận tiếp
liền nhau là đoạn biên giới Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào, Việt Nam
– Cam Pu Chia. Xuất phát từ yếu tố lịch sử để lại, đồng thời để phù hợp với
pháp luật quốc tế, trong qúa trình hoạch định biên giới quốc gia. Việt Nam và
mỗi nước đã áp dụng những nguyên tắc khác nhau để hoạch định. Đối với Trung
Quốc là nguyên tắc “kế thừa các điều ước quốc tế” cụ thể là Hiệp ước Pháp –
Thanh năm 1887 và Hiệp ước bổ sung năm 1895. Đối với Lào và Cam Pu Chia,
Sử dụng nguyên tắc Uti possidetis bằng việc thừa nhận đường biên giới lịch sử
được hình thành trong thời Pháp thuộc. các nguyên tắc này được vận dụng một
cách sáng tạo phù hợp với tình hình Việt Nam và các nước láng giềng, đồng thời
việc hoạch định biên giới với các nước còn kết hợp sử dụng nguyên tắc “ xác lập
các đoạn biên giới mới” để tạo nên đường biên giới trên bộ như hiện nay. Tuy
nhiên trên tuyến biên giới giữa nước ta với Cam Pu Chia, vẫn còn nhiều đoạn
chưa được phân giới, cắm mốc. Đảng và Nhà nước ta cần phối hợp chặt chẽ với
nước bạn để thúc đẩy tiến độ phân giới, cắm mốc trên các đoạn biên giới này.

6


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2007;
2. Lê Mai Anh & Trần Văn Thắng, Luật quốc tế - Lí luận và thực tiễn,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001;
3. Nguyễn Thị Kim Ngân & Chu Mạnh Hùng, Giáo trình Luật quốc tế,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2010;
4. Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979;
5. Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới
lãnh thổ giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa, ký ngày 19/10/1993;
6. Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, ký ngày 30/12/1999;
7. Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, ký ngày 18/7/1977;
8. Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,
ký ngày 24/1/1986;
9. Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân CamPuChia, ký ngày
20/7/1983;
10. Hiệp ước giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương
quốc CamPuChia bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giwosi quốc gia năm 1985,
ký ngày 10/10/2005;
11. Nguyễn Xuân Quang, Hệ thông biên giới trên bộ của Việt Nam với
các nước láng giềng – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp,
Hà Nội, 2010;
12. Phạm Thị Kiều My, Biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc những
vấn đề pháp lý và thực tiễn, Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2010;
13. Lưu Ngọc Tố Tâm, Đường biên giới quốc gia trên đất liền trong luật pháp
quốc tế và thực tiễn biên giới của Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 1995.


7



×