Tải bản đầy đủ (.docx) (252 trang)

Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh tây bắc việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.12 MB, 252 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

NGUYN THANH HUYN

THựC HIệN PHáP LUậT Về DÂN CHủ
CấP Xã ở CáC TỉNH TÂY BắC VIệT NAM

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: Lí LUN V LCH S NH NC V PHP LUT

Mó s: 62 38 01 01

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. NGUYN CNH QUí

H NI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo qui định.
Tác giả luận án

Nguyễn Thanh Huyền
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CẤP XÃ Ở
CÁC TỈNH TÂY BẮC
1.1.


Các công trình nghiên cứu trong nước
1.2.
Công trình nghiên cứu nước ngoài
1.3.
Các nhận xét, đánh giá và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu; giả
thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN
CHỦ CẤP XÃ
2.1.
Khái niệm, đặc điểm, hình thức và vai trò thực hiện pháp luật về dân
chủ cấp xã
2.2.
Nội dung và các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về dân chủ
cấp xã
2.3.
Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở một số tỉnh và những giá trị
thể tham khảo cho việc Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở các
tỉnh Tây Bắc

Chương 3: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CẤP XÃ Ở CÁC TỈNH TÂY B
3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở
các tỉnh Tây Bắc
3.2. Những kết quả đạt được trong thực hện pháp luật về dân chủ cấp xã ở


các tỉnh Tây Bắc và nguyên nhân
3.2. Những hạn chế, bất cập trong thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở
các tỉnh Tây Bắc và nguyên nhân


Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ DÂN CHỦ CẤP XÃ Ở CÁC TỈNH TÂY BẮC
4.1.
Các quan điểm thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây B
4.2.
Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh
Tây Bắc hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCĐ

: Ban chỉ đạo

CBCC

: Cán bộ, công chức

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CQCX

: Chính quyền cấp xã


CT-XH

: Chính trị - xã hội

DCCX

: Dân chủ ở cấp xã

DTTS

: Dân tộc thiểu số

GSDTCĐ

: Giám sát đầu tư cộng đồng

HĐND

: Hội đồng nhân dân

HTCT

: Hệ thống chính trị

MTTQ

: Mặt trận Tổ quốc

NCUT


: Người có uy tín

PLTHDCOXPTT

: Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn

PBGDPL

: Phổ biến, giáo dục pháp luật

QCDC

: Quy chế dân chủ

QLNN

: Quản lý nhà nước

QPPL

: Quy phạm pháp luật

QHXH

: Quan hệ xã hội

TTND

: Thanh tra nhân dân


THPL

: Thực hiện pháp luật

UBND

: Ủy ban nhân dân

UBMTTQ

: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

UBTVQH

: Ủy ban Thường vụ Quốc hội

VH-XH

: Văn hoá - xã hội

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là khát vọng lớn lao, là đòi hỏi bức xúc của con người, là một nhu cầu

đặc biệt quan trọng mà con người mong muốn vươn tới; đồng thời, dân chủ cũng là
một động lực quan trọng thúc đẩy xã hội phát triển. Sự phát triển của dân chủ ghi
nhận nấc thang tiến bộ của xã hội loài người.
Dân chủ cấp xã là biểu hiện cụ thể của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN),
bởi lẽ, cấp xã là nơi tập trung các hoạt động sống, lao động, sinh hoạt của tuyệt đại đa
số các tầng lớp Nhân dân, là nơi Nhân dân thực hiện và phát huy trực tiếp nhất, đầy
đủ nhất các quyền dân chủ. Thực hiện pháp luật (THPL) về dân chủ cấp xã (DCCX)
nói chung và ở các tỉnh Tây Bắc nói riêng là làm cho những quy định của pháp luật
về DCCX đi vào thực tiễn đời sống xã hội, chuyển từ sự nhận thức về các quyền dân
chủ của Nhân dân trên địa bàn cấp xã thành hành vi pháp luật thực tế hợp pháp của
các chủ thể pháp luật. Do vậy, thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở Việt Nam
trong đó có các tỉnh Tây Bắc có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát huy cao độ
quyền làm chủ, sức sáng tạo của Nhân dân trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội;
thu hút Nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội; kiểm tra giám sát các
hoạt động của chính quyền cấp xã; góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội
ở cấp xã đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh,
xây dựng hệ thống chính trị (HTCT) ở cấp xã trong sạch vững mạnh.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa quyết định của thực hiện pháp luật về
dân chủ cấp xã nên ngay từ khi ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn
đề dân chủ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, coi đó là mục tiêu và động lực của
công cuộc đổi mới; một vấn đề hệ trọng, có ý nghĩa chiến lược sâu sắc đối với sự phát
triển của đất nước. Đảng ta đã tiếp thu, phát triển những giá trị tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã.
Đó là: tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân, dân là gốc, dân là chủ và dân làm chủ. Theo
đó, thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã được coi như phương cách hữu hiệu, không thể
thiếu để xây dựng và vận hành một nhà nước pháp quyền thực sự
ở nước ta hiện nay. Điều đó, không chỉ được khẳng định trong chủ trương, đường lối

của Đảng mà còn được thể chế hóa và bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp và hệ
thống pháp luật của Nhà nước.



2
Dưới góc độ lý luận, vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã nói chung và
các tỉnh Tây Bắc nói riêng đã có một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
về vấn đề này ở khía cạnh này hoặc khía cạnh khác. Tuy nhiên, chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện có hệ thống về thực hiện pháp luật về dân
chủ cấp xã trong cả nước cũng như các tỉnh Tây Bắc.
Về mặt thực tiễn, trong những năm qua, thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã
ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam đã đạt được một số kết quả quan trọng, góp phần thực

hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương: bầu không khí
dân chủ và ý thức chấp hành pháp luật của Nhân dân được nâng lên. Nhiều xã,
phường, thị trấn đã phát huy quyền làm chủ thực sự của Nhân dân, kịp thời khơi dậy
sức sáng tạo của Nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng
cường đoàn kết, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, ngăn chặn tình trạng quan liêu,
tham nhũng, góp phần thực hiện tốt mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh"; thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa, giáo
dục, y tế, thể thao; tác động mạnh đến việc xây dựng nông thôn kiểu mới, xây dựng
đời sống văn hóa mới khu dân cư; thúc đẩy công tác xây dựng Đảng, chính quyền
trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân nhất là trên lĩnh vực
CCHC và giải quyết khiếu nại, tố cáo tại địa phương.
Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc bên
cạnh những thành tựu quan trọng vẫn còn những hạn chế, bất cập do những yếu tố
đặc thù mang dấu ấn riêng. Có nơi có lúc cấp ủy đảng, chính quyền còn lúng túng
trong thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã, chưa thực sự coi trọng, nắm chắc nội
dung của pháp luật dân chủ nên việc chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện còn mang tính hình
thức, hiệu quả không cao. Việc xây dựng và thực hiện các quy chế, quy ước, hương
ước ở một số nơi còn thiếu thường xuyên, chất lượng chưa cao, chưa thành nề nếp.
Vẫn còn có xã, phường, thị trấn việc công khai, dân chủ về quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất, chính sách tái định cư, giá cả đền bù về đất... còn hạn chế. Một số cơ quan
công quyền còn thiếu công khai, minh bạch về quản lý thu, chi tài chính công; về quy
hoạch, đào tạo, đề bạt và đãi ngộ cán bộ. Các vụ việc quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực vẫn xảy ra. Tình hình đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, đề nghị còn diễn
biến phức tạp, nhất là tại địa bàn tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu (dự án tái định cư
thủy điện Sơn La). Cùng với đó, nhận thức của đại đa số đồng bào dân tộc thiểu số
(DTTS) còn rất hạn chế về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của công


3
dân nên dễ bị kẻ xấu lợi dụng, kích động lôi kéo thực hiện âm mưu Diễn biến hòa
bình, gây mất ổn định ở cấp xã tạo ra những điểm nóng chính trị - xã hội (sự kiện
Mường Nhé năm 2010)… Do vậy, các tỉnh Tây Bắc dù được Đảng và Nhà nước quan
tâm đầu tư về cơ sở hạ tầng và nhiều chính sách ưu tiên nhưng đến nay, theo thống
kê, các tỉnh Tây Bắc vẫn là các tỉnh nghèo nhất cả nước, thu nhập bình quân đầu
người chỉ bằng ½ mức bình quân chung của cả nước, tỉ lệ hộ nghèo chiếm 26,5%, cao
hơn gấp 3 lần mức bình quân chung, số huyện nghèo chiếm gần 70%, số xã đặc biệt
khó khăn chiếm gần 50% cả nước.
Trong thế giới đương đại hiện nay vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ đang được
nhiều nước đề cao và quan tâm nghiên cứu, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế, tham
gia vào toàn cầu hóa, cách mạng công nghiệp lần thứ tư 4.0 hiện nay việc bảo đảm và
thúc đẩy dân chủ lại càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Chính vì vậy, nghiên cứu thực hiện
pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc cần phải được tiến hành đầy đủ, đồng bộ
cả về mặt lý luận và thực tiễn để tìm ra những giải pháp phù hợp đáp ứng yêu cầu của
thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc.

Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: "Thực hiện pháp
luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam" để làm Luận án tiến sĩ. Đây là
đề tài rất cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ cấp
xã và thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc, Luận án
xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về dân
chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, Luận án có nhiệm vụ:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài,

đánh giá những giá trị của các công trình nghiên cứu trước đó và từ đó rút ra những
vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã

bao gồm các vấn đề như: xây dựng khái niệm, làm rõ chủ thể, phân tích các nội dung,
hình thức thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã; luận giải xác định rõ các vai trò và
các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở Việt Nam.


4
- Luận án phân tích, đánh giá đúng thực trạng những kết quả đạt được, hạn chế,

bất cập và rút ra các nguyên nhân của thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở các
tỉnh Tây Bắc trong những năm qua.
- Xây dựng và phân tích hệ thống các quan điểm; luận giải và đề xuất các giải

pháp cụ thể có tính khả thi nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở
các tỉnh Tây Bắc Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện

pháp luật về dân chủ cấp xã trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc hiện nay dưới góc độ tiếp
cận của chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật. Trên cơ sở mục đích
nghiên cứu, đề tài sẽ tập trung đi vào khảo sát các đối tượng chủ yếu là các tổ chức cơ
sở đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ chức đoàn thể ở cấp xã;
cán bộ, công chức (CBCC) cấp xã và Nhân dân ở các tỉnh Tây Bắc trực tiếp tham gia
thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Là một đề tài thuộc chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận
án tập trung nghiên cứu trong phạm vi:
- Về không gian:
Luận án tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân
chủ cấp xã ở 4 tỉnh Tây Bắc (Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình).
- Về thời gian:
Luận án triển khai nghiên cứu pháp luật và đánh giá thực trạng thực hiện pháp
luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam từ sau khi Bộ Chính trị khóa VIII
ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/2/1998; trọng tâm từ năm 2007 khi thực hiện
Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI về
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đến năm 2018.
- Luận án nghiên cứu Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây

Bắc xin được hiểu là Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc
để tránh trùng lặp trong tên của đề tài.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật nói chung và lý luận THPL về dân


5
chủ nói riêng và các quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, nhất là việc thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
4.2. Về phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện bởi phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và
duy vật biện chứng kết hợp với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương
pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học; phương pháp
kết hợp lý luận với thực tiễn; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh...để giải
quyết các vấn đề đặt ra trong nghiên cứu nội dung đề tài của luận án
Các phương pháp được sử dụng nhằm làm rõ nội dung cơ bản của đề tài, đảm
bảo tính khoa học và logic giữa các vấn đề của đề tài trong các chương. Căn cứ vào
tính chất của từng chương, từng phần của luận án đề tài sẽ sử dụng chủ đạo một trong
các phương pháp trên. Phương pháp phân tích tổng hợp là phương pháp chính sẽ
được dùng trong các Chương 1, Chương 2, Chương 3 và Chương 4 của Luận án.
Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, thống kê, điều tra xã hội học, so sánh sẽ
được sử dụng chủ yếu trong Chương 3 và Chương 4
Cụ thể một số phương pháp là:
- Phương pháp phân tích tài liệu: Phương pháp này được áp dụng để phân tích

cả tài liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp. Trong đó: các văn bản pháp luật và các Văn kiện
của Đảng có liên quan, các số liệu thống kê chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, các vụ việc cũng như số liệu thống kê do tác giả thực hiện thông qua phỏng
vấn và điều tra sử dụng bảng hỏi được coi là tài liệu sơ cấp. Các nghiên cứu khoa học
đã công bố, tạp chí, kết luận, bài báo... được coi là tài liệu thứ cấp. Chương 1 và
Chương 2 của luận án sẽ sử dụng phương pháp này.
- Phương pháp chọn mẫu: Chọn 24 xã trong 8 huyện, thị, thành phố trực thuộc

4 tỉnh Tây Bắc có tính đặc thù về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế xã hội, các xã có
nhiều vấn đề phức tạp về an ninh, chính trị, nguồn cán bộ, thành phần dân tộc, trình
độ học vấn. Chọn các cơ sở có sự đan xem các cơ sở hoạt động yếu kém, trung bình
và mạnh để làm rõ tính đặc thù, tính phổ biến trong việc thực hiện pháp luật về dân

chủ cấp xã ở 4 tỉnh Tây Bắc. Phương pháp này được sử dụng ở Chương 3.
- Phương pháp phỏng vấn: Sử dụng phương pháp phỏng vấn (thông qua phiếu

điều tra xã hội học) nhằm thăm dò dư luận xã hội đánh giá thực trạng về THPL dân


6
chủ ở cấp xã, đây là phương pháp áp dụng phổ biến khi nghiên cứu các vấn đề thuộc
phạm trù khoa học pháp lý và khoa học xã hội.
Mục đích của hoạt động này là để có những dữ liệu phục vụ cho việc đánh giá
đúng thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trên địa bàn 4 tỉnh Tây Bắc.
Xây dựng phiếu điều tra để đối tượng các nhóm được điều tra khảo sát có những ý
kiến thể hiện nhận thức của mình về vấn đề thực hiện dân chủ cấp xã. Phương pháp
này chủ yếu sử dụng ở Chương 3.
- Phương pháp tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng nhằm mục đích đưa

ra những luận giải, nhận xét và đề xuất của chính tác giả luận án trên cơ sở tổng hợp
các số liệu, thông tin hữu ích có được từ hoạt động phân tích tài liệu, hỏi chuyên gia
hay phỏng vấn. Phương pháp này được sử dụng ở cả 4 Chương.
- Phương pháp đàm thoại: Đối thoại trực tiếp với các đối tượng tại đơn vị cơ

sở. Tổ chức hội thảo khoa học lấy ý kiến các chuyên gia và đánh giá về thực trạng tổ
chức và hoạt động của chính quyền cơ sở, về tình hình thực hiện pháp luật về dân chủ
cấp xã. Tìm ra những kiến giải có tính đặc thù và phổ biến, nhằm bảo đảm thực hiện
pháp luật về dân chủ cấp xã hiện nay ở 4 tỉnh miền núi Tây Bắc. Phương pháp này sử
dụng chủ yếu ở Chương 3.
- Phương pháp hỏi chuyên gia: Phương pháp này được sử dụng để thu thập

thông tin và ý kiến của những chuyên gia, những nhà khoa học Việt Nam đã và đang
nghiên cứu về vấn đề dân chủ, Dân chủ cấp xã, thực hiện pháp luật và thực hiện pháp

luật về dân chủ cấp xã. Phương pháp này được thực hiện thông qua việc tác giả luận
án sẽ liên lạc trực tiếp với các chuyên gia, các nhà khoa học qua các cuộc hội thảo,
hội nghị các buổi phỏng vấn, xin ý kiến trực tiếp. Phương pháp này được sử dụng ở
các chương 2,3,4.
- Phương pháp luật học so sánh: Phương pháp này được áp dụng để nghiên cứu

kinh nghiệm nước ngoài, kinh nghiệm của các vùng, miền khác trong cả nước, qua đó
rút ra bài học và lựa chọn những hạt nhân, yếu tố hợp lý, phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh để áp dụng đối với Việt Nam, vùng Tây Bắc. Phương pháp này dược sử dụng ở
Chương 2 và Chương 4.
5. Đóng góp mới của luận án

Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã
ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam. Tác giả luận án phân tích toàn diện cơ sở lý luận và
đánh giá về thực tiễn về thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây


7
Bắc Việt Nam từ đó xác lập các quan điểm, đề xuất hệ thống giải pháp (giải pháp
chung và giải pháp cụ thể mang tính đặc thù) nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về
dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam.
Những đóng góp chủ yếu là:
- Về mặt lý luận: Dưới góc độ lý luận về nhà nước và pháp luật, Luận án đã xây

dựng được khái niệm dân chủ, Dân chủ cấp xã, pháp luật về dân chủ cấp xã và thực
hiện pháp luật về dân chủ cấp xã, nhất là những vấn đề lý luận hiện nay đang đặt ra
đối với hoạt động thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã nói chung và ở các tỉnh Tây
Bắc Việt Nam nói riêng.
- Về thực tiễn: Lần đầu tiên luận án phân tích đánh giá được những yếu tố đặc


thù tác động tới quá trình thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã; kết quả, hạn chế của
thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam; chỉ ra
nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và một số vấn đề đặt ra hiện nay từ thực hiện pháp
luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc trong thời gian qua.
Lần đầu tiên luận án xây dựng được các quan điểm, đề xuất hệ thống giải pháp
cụ thể (giải pháp chung và giải pháp cụ thể mang tính đặc thù) nhằm bảo đảm thực
hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam.
Đây cũng là công trình luận án tiếp cận thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã
trên quy mô một vùng - các tỉnh Tây Bắc. Tiếp cận này hiện tại dựa trên không gian
không chỉ về địa lý mà cùng với văn hóa, văn hóa pháp luật, đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội ở cơ sở.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về lý luận
Kết quả và đóng góp mới của luận án góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm
những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ nói chung, về thực hiện pháp
luật về dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc nói riêng, qua đó góp phần vào giải quyết
một số vấn đề lý luận đang đặt ra đối với thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân ở
cấp xã, nhất là đối với một bộ phận là người dân tộc thiểu số (DTTS), sinh sống ở
cùng cao, vùng sâu,vùng đặc biệt khó khăn.
6.2. Về thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ là tài liệu cung cấp các thông tin có giá trị

tham khảo giúp các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể ở các tỉnh Tây Bắc


8
có cơ sở để hoạch định, chỉ đạo nhằm thực hiện đúng, nghiêm túc pháp luật về dân
chủ cấp xã.
- Kết quả của luận án còn góp phần nâng cao nhận thức cho các cấp ủy Đảng,


chính quyền, các tổ chức đoàn thể và Nhân dân các dân tộc các tỉnh Tây Bắc về pháp
luật dân chủ; vai trò của CBCC trong thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã.
- Những kiến thức khoa học của luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong

công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn Nhà nước và pháp luật của hệ thống
nhà trường thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các trường luật, các khoa
luật trong cả nước. Luận án còn có giá trị tham khảo tốt cho việc nghiên cứu, xây
dựng và hoàn thiện HTCT cấp cơ sở, thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã đối với
những vùng có điều kiện, hoàn cảnh đặc thù tương đồng với các tỉnh Tây Bắc và cho
những ai quan tâm đến những vấn đề của luận án.
7. Kết cấu của luận án
Nội dung luận án gồm 4 chương, 11 tiết; ngoài ra còn có: phần mở đầu, kết
luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CẤP XÃ Ở CÁC TỈNH TÂY BẮC
Trong những năm gần đây, vấn đề dân chủ, pháp luật về dân chủ, dân chủ cấp
xã đã có một số nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Các nhà
khoa học luôn đặt dân chủ trong mối tương quan với thể chế chính trị, thể chế nhà
nước, chính quyền địa phương, hệ thống pháp luật để nghiên cứu. Sự tiếp cận dân
chủ, thực hiện pháp luật về dân chủ, dân chủ cấp xã được tiếp cận đa ngành và liên
ngành. Cụ thể như sau:
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC

1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến dân chủ và pháp luật
về dân chủ cấp xã

Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo trong cuốn: "Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa" [94], tác giả đã làm rõ khái niệm dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ
tư sản. Luận giải quá trình, nội dung dân chủ hóa ở nước ta, dự báo xu hướng vận
động của quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm của các mô hình
dân chủ trên thế giới. Cuốn sách cũng đề cập đến các đặc trưng của nền dân chủ
XHCN và tính tất yếu của nền dân chủ XHCN.
Đỗ Mười trong cuốn sách: "Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa xây dựng nhà
nước của dân, do dân, vì dân trong sạch, vững mạnh" [88] tác giả đã luận giải vai trò
của dân chủ trong việc hình thành nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa dân chủ xã
hội chủ nghĩa và nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Lê Quốc Lý chủ biên cuốn sách: "Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở
nước ta" [81]. Trong cuốn sách tập thể các tác giả đã phân tích những luận điểm cơ
bản về hệ thống chính trị và việc phải đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện
nay, thực trạng hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong quá trình đổi mới, có
tác dụng tham khảo về quan điểm, phương hướng và giải pháp trong việc đổi mới hệ
thống chính trị cấp xã hiện nay.
Trần Thành với cuốn sách: "Vấn đề dân chủ và dân chủ hóa đời sống xã hội
lịch sử và hiện đại" [113] cuốn sách đã phân tích khá kỹ về khái niệm về dân chủ và
lịch sử hình thành, phát triển dân chủ hiện nay; chế độ dân chủ tư sản và dân chủ tư
sản đương đại; chế độ dân chủ XHCN và vấn đề xây dựng chế độ dân chủ ở Việt
Nam hiện nay.


10
Nguyễn Tiến Phồn: "Dân chủ và tập trung dân chủ- lý luận và thực tiễn" [97]
Cuốn sách luận giải về vấn đề dân chủ và tập trung dân chủ, cơ sở lý luận và thực tiễn
của vấn đề tập trung dân chủ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Các tác giả Đào Trí Úc - Trịnh Đức Thảo- Vũ Công Giao- Trương Hồ Hải: "Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ trực tiếp, Dân chủ cơ sở trên thế giới và
Việt Nam" [135]. Nội dung là tập hợp những bài tham luận tại cuộc Hội thảo "Dân

chủ trực tiếp, Dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam" một loạt kiến thức thông tin
hữu ích về vấn đề lý luận, thực tiễn về các mô hình tổ chức thực hiện dân chủ trực
tiếp, Dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam đã được các tác giả đã chia sẻ; cùng
với đó là những quan điểm, giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và các cơ chế
bảo đảm thực hiện dân chủ trực tiếp, Dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay.
Hoàng Chí Bảo với cuốn sách: "Dân chủ và Dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến
trình đổi mới" [6], cuốn sách phân tích ý thức dân chủ của người Việt Nam từ lịch sử đến
hiện đại; dân chủ xã hội chủ nghĩa và quy chế dân chủ (QCDC) cơ sở; quan hệ giữa thể
chế chính thống và phi chính thống trong việc củng cố, xây dựng HTCT ở cơ sở nông
thôn; tác động của QCDC ở cơ sở đối với việc xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn; Cuốn
sách cũng đề cập đến những hạn chế, yếu kém trong quá trình thực hiện dân chủ cở sở ở
nông thôn nước ta trong thời gian qua và đưa ra một số bài học kinh nghiệm từ các địa
phương về quá trình triển khai thực hiện QCDC cơ sở, góp phần thực hiện ngày càng có
hiệu quả hơn việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội.

Lê Minh Quân với cuốn sách: "Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay" [100]. Bài viết nêu đặc điểm của quá trình dân chủ hóa ở Việt
Nam, dân chủ hóa từ cơ sở và bằng cơ sở, dân chủ hóa từ pháp luật và bằng pháp luật.
Hội đồng lý luận Trung ương: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra
trong tình hình hiện nay" tập III [69]. Nội dung cuốn sách là tập hợp các chuyên đề
của các nhà khoa học tập trung làm rõ: Xu hướng và triển vọng của chủ nghĩa xã hội
(CNXH) trong thế giới đương đại và những nhận thức lý luận mới về CNXH của
Đảng ta từ thực tiễn đổi mới; một số vấn đề lý luận và thực tiễn cốt yếu về thực hiện
dân chủ và đổi mới HTCT ở nước ta hiện nay.
Hoàng Chí Bảo - Tống Đức Thảo trong cuốn sách Mối quan hệ dân chủ với văn
hóa pháp luật [7] đã phân tích lý luận về dân chủ, các chủ thể dân chủ đồng thời cuốn
sách cũng luận giải mối quan hệ tương hỗ giữa dân chủ và văn hóa, văn hóa pháp
luật, các giải pháp để đảm bảo và phát huy mối quan hệ này trong thực tế



11
ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt các tác giả cuốn sách khẳng định thực hành dân chủ,

THPL về dân chủ cơ sở là giải pháp quan trọng để xây dựng văn hóa dân chủ và văn
hóa pháp luật.
Nguyễn Minh Phương trong cuốn sách: "Vai trò của chính quyền xã đối với
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta" [98]. Nội dung cuốn sách là
những phân tích về cơ sở lý luận và pháp luật về vai trò của chính quyền xã đối với
quản lý phát triển xã hội, thực trạng phát triển xã hội ở nông thôn và quản lý phát
triển xã hội của chính quyền xã, trên cơ sở đó đưa ra các quan điểm, giải pháp phát
huy vai trò của chính quyền xã đối với việc quản lý phát triển xã hội ở nước ta.
Hồ Bá Thâm và Nguyễn Tôn Thị Tường Vân trong cuốn sách "Phản biện xã hội
và phát huy dân chủ pháp quyền" [119]. Nội dung cuốn sách đã tập trung phân tích khái
niệm, bản chất và các đặc điểm của phản biện xã hội; Chủ thể, khách thể, đối tượng,
nguyên tắc và phương thức của phản biện xã hội; Vấn đề phản biện xã hội trong nền dân
chủ pháp quyền ở nước ta hiện nay; Phản biện xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh đặc điểm,
vấn đề và khó khăn hiện nay. Cùng với phần phụ lục trình bày vấn đề Phản biện xã hội
trong nền dân chủ hiện đại phương Tây, cuốn sách đã đi sâu phân tích cơ sở lý luận và
thực tiễn của phản biện xã hội và vai trò của phản biện xã hội trong việc tăng cường, phát
huy dân chủ pháp quyền ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Ngô Huy Cương trong cuốn sách: "Dân chủ và pháp luật" [32], tác giả đã phân
tích tính tất yếu của dân chủ, bản chất của dân chủ, đưa ra khái niệm về dân chủ và
các thành tố của dân chủ; đánh giá tính dân chủ trong pháp luật, hiện trạng dân chủ
trong pháp luật Việt Nam (bảo đảm quyền con người, hình thức dân chủ) từ đó đề cập
đến việc xây dựng dân chủ và pháp luật dân chủ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Bắc Son- Chủ tịch hội đồng biên soạn cuốn sách: "Hỏi đáp về dân chủ
cấp xã" [105] Sách được kết cấu dưới dạng hỏi, đáp, được sắp xếp theo từng vấn đề,
dễ nhớ, dễ thuộc và dễ tra cứu; trên cơ sở khái quát và cụ thể hóa những quy định
pháp lý cơ bản nhất trong các lĩnh vực về dân chủ cấp xã; quyền và nghĩa vụ của

nhân dân, chính quyền cấp xã, trưởng thôn, bản... trong hoạt động dân chủ ở cấp xã.
Luận án tiến sĩ luật học: "Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật trong điều
kiện Việt Nam hiện nay" của Đỗ Minh Khôi [79] đi sâu luận giải làm rõ nội dung
quan hệ giữa dân chủ và pháp luật về mặt lý thuyết và so sánh với việc thực hiện mối
quan hệ này ở Việt Nam. Luận án đề xuất những kiến nghị để hoàn thiện mối


12
quan hệ giữa dân chủ và pháp luật trên cơ sở xác định các hình thức biểu hiện cơ bản
của mối quan hệ và tính chất của mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật; phân tích
nội dung tương tác giữa pháp luật và dân chủ;
Bài viết: "Nâng cao nhận thức về dân chủ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên góp
phần đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng ở nước ta hiện nay" của
Tống Đức Thảo - Nguyễn Thanh Huyền [116]. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích
từ lý luận về vị trí, vai trò của dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng; thực trạng
nhận thức về dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng đưa ra một số giải pháp nhằm
nâng cao nhận thức về dân chủ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên góp phần đổi mới và
hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng.
Ngoài ra còn có một số công trình khác tập trung nghiên cứu về vấn đề dân chủ
và THPL về dân chủ ở cấp xã: Đề tài khoa học cấp bộ: Xây dựng cơ chế kiểm soát
quyền lực trong bộ máy nhà nước hiện nay ở nước ta (đã nghiệm thu xuất sắc), TS
Lâm Quốc Tuấn làm chủ nhiệm, Học viện Xây dựng Đảng là cơ quan chủ trì; GS Hồ
Văn Thông:" Dân chủ là gì?", Tạp chí cộng sản số 3 năm 1990; Lê Minh Quân: "Dân
chủ và dân chủ hóa - một số tiếp cận cơ bản", Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số
10/2012; Lê Minh Quân: "Về quá trình xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Cộng sản, số 841, tháng 11/2012; Bùi Văn
Bồng: "Quyền dân chủ và thực hiện quyền dân chủ", tạp chí Xây dựng Đảng số tháng
2/2012; PGS TS Nguyễn Minh Đoan: "Dân chủ với pháp luật", Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 10/2007; Ngọ Văn Nhân: " Về đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân
chủ đại diện trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay", Tạp chí triết học số 204, tháng

5/2008; Nguyễn Thọ Khang: "Thực hiện DCCX và vấn đề đặt ra đối với báo chí ở
nước ta hiện nay", tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số 6/2013; Đỗ Văn
Dương: "Những giải pháp phát huy vai trò HTCT cơ sở nhằm bảo đảm thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên", tạp chí Lý luận chính
trị và truyền thông, số tháng 7/2013…
Các công trình, bài viết nói trên tập trung làm rõ khái niệm dân chủ, các đặc trưng
của dân chủ xã hội chủ nghĩa; mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật; đưa ra các đánh giá
về thành quả, tiến bộ mà chủ nghĩa tư bản có được cũng như chỉ ra những hạn chế trong
quan niệm về dân chủ do bản chất giai cấp của nền dân chủ tư sản quy định; đề cao
nguyên tắc tập trung dân chủ; chỉ ra các cơ chế thực hiện dân chủ; phân tích nội hàm khái
niệm dân chủ cấp xã; các khía cạnh lý luận và thực tiễn của quy chế dân chủ


13
cơ sở; coi DCCX như một sức mặt truyền thống của dân tộc Việt Nam, có cội nguồn
từ trong truyền thống của làng xã Việt Nam; vấn đề đổi mới dân chủ trực tiếp dân chủ
đại diện trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay, mối quan hệ giữa vấn đề dân chủ và
cải cách bộ máy chính quyền địa phương. Tren cơ sở đó khẳng định: thực hiện dân
chủ ở cấp xã càng được thực hiện nghiêm túc bao nhiêu thì càng có tác dụng củng cố,
xây dựng chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh, từ đó, góp phần quan trọng thúc
đẩy sự phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay ở Việt Nam. Đây là những tài liệu
tham khảo hữu ích đối với tác giả khi đề cập và luận bàn đến nội hàm và bản chất của
vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ cấp xã.
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật
và thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã
Nguyễn Văn Mạnh và tập thể tác giả trong cuốn sách: "Thực hiện pháp luật Những vấn đề lý luận và thực tiễn" [83] đã phân tích những vấn đề lý luận về THPL như:
khái niệm, chủ thể, nội dung, hình thức, các yếu tố bảo đảm THPL và những vấn đề đặt ra
trong THPL ở nước ta. Đây là những vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật, có giá
trị tham khảo khi nghiên cứu cơ sở lý luận của việc THPL về DCCX.


Dương Xuân Ngọc trong cuốn sách: "Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã một số vấn đề lý luận và thực tiễn" [90] đã luận giải và làm rõ ý nghĩa, tầm quan
trọng và phân tích, đánh giá thực trạng của việc thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ
ở cấp xã, đưa ra những giải pháp phù hợp cho việc thực hiện QCDC ở nước ta trong
điều kiện mới.
Vũ Văn Hiền chủ biên cuốn sách "Quy chế dân chủ ở cơ sở- Vấn đề lý luận và
thực tiễn" [59]. Nội dung cuốn sách là các bài viết, bài phát biểu của lãnh đạo Đảng
và Nhà nước và một số các bài viết của nhiều tác giả đã được đăng trên các tạp chí
Trung ương, chủ đề xoay quan vấn đề lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm thực hiện
QCDC cơ sở ở nước ta trong những năm gần đây.
Lương Gia Ban trong cuốn sách : Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ
cơ sở [3] đã phân tích thực trạng của tiến trình dân chủ ở nước ta, đặc biệt là vai trò
của DCCX đối với sự phát triển.
Hồ Văn Thông - Nguyễn Văn Sáu (đồng chủ biên) cuốn sách "Thực hiện quy
chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay", [122]. Nội dung
cuốn sách là bài viết của tập thể các tác giả đánh giá về những thành tựu đổi mới
trong phát triển KT-XH của nhiều địa phương trên cả nước; những hạn chế, yếu


14
kém của chính quyền cấp xã trong công tác quản lý, chỉ đạo, tổ chức và vận động
Nhân dân khi triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở địa phương. Đề xuất các giải
pháp nhằm xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay.
Nguyễn Hồng Chuyên trong cuốn sách: "Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã
phục vụ xây dựng nông thôn mới" [29] đã đề cập phân tích một số vấn đề lý luận về
xây dựng nông thôn mới; đánh giá vai trò của công cuộc xây dựng NTM ở nước ta;
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta về thực hiện
DCCX và xây dựng nông thôn mới; thực trạng công tác THPL về DCCX phục vụ
NTM qua kết quả điều tra xã hội học trên địa bàn tỉnh Thái Bình và luận giải phân
tích các giải pháp bảo đảm THPL về DCCX phục vụ công cuộc xây dựng NTM ở
nước ta hiện nay.

Nguyễn Văn Hiển (chủ biên) trong cuốn sách: "Về thi hành pháp lệnh thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007" [62]. Nội dung cuốn sách: là kết quả khảo
sát, đánh giá Dự án điều tra cơ bản về "Thực trạng thi hành Pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn", cuốn sách đã khái quát chung về pháp luật thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn; Khái quát thực trạng thi hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn; Việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong một số lĩnh
vực cụ thể; Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật về thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Chí Bảo, Bùi Thành Bôn trong cuốn sách Đổi mới quan
hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị- xã hội trong hệ thống chính trị ở
Việt Nam [91] đã trình bày cơ sở lý luận, thực tiễn, thực trạng và quan điểm, nguyên
tắc và các giải pháp đổi mới, dân chủ hóa tổ chức, hoạt động của HTCT ở nước ta.
Hoàng Văn Hoan chủ biên: "Xây dựng nông thôn mới vùng đồng bào dân tộc thiểu
số ở Tây Bắc nước ta hiện nay" [634]. Cuốn sách đã đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn về
xây dựng mô hình nông thôn mới (NTM), thực trạng xây dựng mô hình NTM và vấn đề
thực hiện dân chủ của vùng đồng bào DTTS ở Tây Bắc từ đó đưa ra các giải pháp xây
dựng NTM và thực hiện dân chủ ở vùng đồng bào DTTS các tỉnh Tây Bắc.

Nguyễn Hồng Chuyên trong cuốn sách: "Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp
xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam"
[30] đã phân tích làm rõ mối quan hệ tác động qua lại giữa THPL về DCCX và xây

dựng nhà nước pháp quyền XHCN, từ đó khẳng định: một nền dân chủ thực sự với
việc phát huy đầy đủ các quyền dân chủ của Nhân dân chỉ có thể có được khi gắn


15
liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó, thực hành DCCX là
một khâu quan trọng trong hệ thống cơ chế dân chủ và liên quan đến tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng

chính tạo điều kiện cần thiết về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội bảo đảm cho việc
THPL về DCCX đạt được chất lượng và hiệu quả cao.
Luận án tiến sĩ luật học " Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở
Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Tiến Thành [114], trên góc độ phân tích về lý luận và
thực trạng cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, tác giả đã
đưa ra quan điểm, giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ
sở ở Việt Nam hiện nay.
Bài viết: " Nhìn lại 10 năm thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn" của
tác giả Huỳnh Đảm [36] đã đánh giá những thành tựu bước đầu về kết quả đạt được trong
10 năm thực hiện QCDC trên địa bàn cấp xã ở nước ta, đồng thời chỉ ra những hạn chế,
khuyết điểm và đưa ra các giải pháp để tiếp tục đẩy mạnh và nâng lên một tầm cao mới
việc thực hiện dân chủ ở cấp xã trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Bài viết: " Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở " của Đặng Đình Tân
- Đặng Minh Tuấn [111] đã đưa ra những nhận xét đánh giá, bước đầu về các kết quả

đạt được trong công tác thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã trong quá trình triển
khai, thực hiện về nhận thức của cấp ủy, chính quyền và Nhân dân...Tác giả cũng chỉ
ra một số hạn chế trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã và đưa ra các giải pháp
để tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cấp xã, trong đó đặc biệt chú trọng vào
giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng và huy động sự vào cuộc
của các đoàn thể nhân dân.
Bài viết "Không thể có một nền dân chủ "hòa tan" ở Việt Nam" của tác giả Bắc
Hà [56] xuất phát từ thực trạng hiện nay ở Việt Nam có một số đối tượng xấu lợi dụng
công nghệ thông tin để xuyên tạc, bôi nhọ và vu khống Đảng, nhà nước ta là vi phạm
dân chủ, quyền con người tác giả đã phân tích sâu sắc dân chủ là gì từ đó đưa ra lập
luận: Nền dân chủ XHCN của Việt Nam bắt nguồn từ lịch sử, bản chất chính trị và từ
những quy định về pháp lý, thực tiễn cách mạng Việt Nam minh chứng điều đó. Chế
độ xã hội và nền dân chủ XHCN ở Việt Nam đã phải chống chọi với các thế lực xâm
lược hùng hậu trong các cuộc kháng chiến anh dũng bảo vệ Tổ quốc kéo dài hơn 30

năm (1945-1975) với không biết bao nhiêu hy sinh xương máu của đồng bào và chiến
sĩ. Đó là thành quả đấu tranh của cả dân tộc, là


16
nguyện vọng của Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó,
khẳng định không thể có một nền dân chủ "hòa tan" ở Việt Nam.
Bài viết " Thực hiện dân chủ cấp xã trong qúa trình đổi mới- thành tựu, vấn đề
và giải pháp" của Phạm Ngọc Quang [99] đã khẳng định chủ trương đúng đắn của
Đảng ta, tính khách quan, tất yếu của sự ra đời của Quy chế dân chủ ở nước ta trong
sự nghiệp đổi mới đất nước, quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong tiến
trình dân chủ hóa xã hội; trách nhiệm của HTCT cơ sở trong thực hiện pháp lệnh dân
chủ ở xã, phường, thị trấn; qua phân tích một số thành tựu nổi bật của hoạt động thực
hiện DCCX, tác giả cũng chỉ rõ những những khó khăn, vướng mắc trong quá trình
thực hiện, vấn đề đang đặt ra trong quá trình thực hiện DCCX ở nước ta hiện nay;
nêu và phân tích những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện DCCX đáp ứng yêu
cầu, đòi hỏi của tiến trình đổi mới đất nước; trong đó nhấn mạnh đến vai trò của tổ
chức đảng, chính quyền và đặt biệt là trưởng thôn trong thực hiện Pháp lệnh dân chủ
xã, phường, thị trấn.
Bài viết "Một số điển hình trong thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở" của Nguyễn
Thanh Huyền [75] trên cơ sở Hội nghị toàn quốc về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và
thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở tháng 7-2018, tác giả đã tập hợp những tham luận, bài
học kinh nghiệm hay, hiệu quả trong xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở của
một số tỉnh, thành trong cả nước về xây dựng thành công nông thôn mới, xóa đói, giảm
nghèo, phát triển kinh tế xã hội ở địa phương... là bài học kinh nghiệm cho các tỉnh
thành, trong đó có các tỉnh Tây Bắc nghiên cứu vận dụng, áp dụng.
Ngoài các bài viết kể trên, còn có một số bài viết khác như: " Thực hiện quy chế
dân chủ tạo điều kiện để Nhân dân giám sát bảo đảm chính quyền hoạt động có hiệu
quả" của Trần Hữu Thắng, Tạp chí Tổ chức Nhà nước năm 2005; " Đưa quy chế thực
hiện dân chủ vào cuộc sống" của Nguyễn Ninh Thực, Tạp chí tổ chức Nhà nước, năm

2005; " Thực hiện Quy chế DCCX ở nông thôn" của Đỗ Thị Thạch, Tạp chí Lý Luận
chính trị năm 2006; " Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của MTTQ và các đoàn
thể xã, phường, thị trấn- Giải pháp bảo đảm THPL về dân chủ cấp xã", của Nguyễn
Thanh Huyền, Tạp chí MTTQ, số 139, tháng 5/2015." Một vài suy nghĩ về kết quả 10
năm xây dựng và thực hiện Quy chế DCCX ", Tạp chí Dân vận, số 07/2009; " Nâng cao
hiệu quả hoạt động quy chế DCCX " Hoàng Trọng Chính, Tạp chí Lao động và công
đoàn, số 358/2006; " Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật DCCX ở nước ta hiện
nay" của Quách Sĩ Hùng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 06/2009... Các công


17
trình khoa học, bài viết nêu trên ở những mức độ khác nhau đã góp phần làm rõ thêm
các đặc điểm của quá trình THPL về DCCX ở nước ta trong những năm qua; bước
đầu tổng kết, nêu rõ những kết quả, hạn chế và những vấn đề đặt ra trong xây dựng và
THPL về DCCX, các nguyên nhân và giải pháp khắc phục.
Chủ đề THPL về DCCX gắn với từng địa bàn, địa phương cụ thể đã trở thành
nhiều đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, cụ thể: Trần Quốc Huy (2005), Hoàn
thiện Quy chế thực hiện DCCX ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà
Nội. Phạm Đăng Thình (2010), THPL về dân chủ ở các xã trên địa bàn huyện Từ
Liêm, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học. Nguyễn Thị Thu Hiền (2012),
THPL dân chủ trực tiếp của Nhân dân cấp xã trên địa bàn tỉnh Nghệ An, Luận văn
thạc sĩ Luật học; Đào Anh Dũng (2012), THPL về DCCX cấp xã trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ Luật học. Lại Thế Nguyên (2016), thực hiện pháp luật
về dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, Luận văn thạc sĩ Luật học. Nguyễn
Thị Nhài (2016), THPL về dân chủ ở các phường trên địa bàn quận Hoàng Mai
thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học. Đỗ Văn Dương (2014), THPL về dân
chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Luận án tiến sĩ Luật
học...
Những công trình kể trên đã tập trung phân tích cơ sở lý luận về THPL về
DCCX ; chỉ ra những thành tựu, kết quả đã đạt được và các hạn chế, bất cập của quá

trình THPL về DCCX, phân tích nguyên nhân; nêu lên những quan điểm có tính chất
chỉ đạo và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả THPL về DCCX đặt trong đặc thù
của từng khu vực, từng địa phương.
1.2. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI

1.2.1. Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học nước ngoài có liên
quan đến đề tài
1.2.1.1. Về dân chủ, dân chủ cơ sở, xây dựng nền dân chủ
Nhóm tác giả: N.M.Voskresenskaia, N.B. Davletshina trong cuốn Chế độ dân
chủ, nhà nước và xã hội [145] đã trình bày nhiều vấn đề có liên quan về dân chủ.
Trong đó có phân tích các quan niệm khác nhau về dân chủ, giá trị dân chủ, cơ chế
dân chủ, thể chế dân chủ, cấu trúc của chế độ dân chủ, từ đó các tác giả khẳng định:
dân chủ XHCN theo mô hình Xô Viết là một chế độ toàn trị, xa lạ với nguyên tắc, giá
trị dân chủ cho nên nó đã trở thành quá khứ của nước Nga.
Thomas Meyer và Nicole Breyer trong cuốn sách: "Tương lai của nền dân chủ
xã hội" [120] đã phân tích, khẳng định dân chủ xã hội ra đời và phát triển trên cơ sở


18
sự không hoàn thiện của dân chủ tự do. Cuốn sách đã trình bày một cách đầy đủ dự
án dân chủ xã hội và những nhiệm vụ quan trọng nhất trong tương lai trong thế giới
toàn cầu hóa của chúng ta, các quyền cơ bản về dân sự và chính trị phải được bổ sung
bằng các quyền xã hội và kinh tế, để tạo dựng được những điều kiện sống có nhân
phẩm cho tất cả mọi người. Tác giả cũng phân tích làm rõ sự khác nhau giữa dân chủ
xã hội và chủ nghĩa tự do thuần túy. Trên cơ sở đó, các tác giả đã đưa ra những luận
chứng về tương lai phát triển của dân chủ xã hội với dân chủ tân tự do trong thế giới
đương đại. Đây là những vấn đề rất mới mà thế giới đang đặt ra và đồng thời là
những vấn đề của những người nghiên cứu về dân chủ đang quan tâm cả về lý luận và
thực tiễn.
Nhóm giáo sư Hoa Kỳ: Michael Alvarez, Fernando Limongi, Jose Antonio

Cheibub và Adam Przeworski trong cuốn sách: "What makes Democracies Endure?"
(Điều gì làm nên các nền dân chủ bền vững?) [153]. Nội dung cuốn sách: trên cơ sở
kết quả khảo sát 135 quốc gia trên thế giới nhóm tác giả đưa ra nhận định mức độ thu
nhập bình quân đầu người phản ánh mức độ dân chủ của các nước. Nhóm nghiên cứu
cũng khẳng định: sự tăng trưởng kinh tế là yếu tố quan trọng, quyết định sự tồn tại và
phát triển của nền dân chủ.
Nhóm các nhà nghiên cứu chính trị độc lập Olof Petersson, Joergen
Hermansson, Michele Micheletti, Anders Westholm với cuốn sách: Dân chủ và lãnh
đạo [95]. Nội dung cuốn sách là tập hợp báo cáo của tổ chức đánh giá dân chủ Thụy
Điển năm 1996, trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng về dân chủ ở Thụy Điển,
các tác giả đã đưa ra tiêu chuẩn tối thiểu của dân chủ hiện nay để đánh giá tình hình
dân chủ của Thụy Điển như: Hội đồng lập pháp phải được bầu ra thông qua bầu cử
phổ thông đầu phiếu tự do, các cuộc tổng tuyển cử phải được diễn ra đều đặn, các quy
trình bỏ phiếu đúng đắn phải được tuân thủ và không được phép có yếu tố cưỡng bức.
Robert Alan Dalh trong cuốn sách" Democracy and its Critics" (Dân chủ và sự
phê phán) [154] Tác giả đã khẳng định quyền lực nhà nước là quyền lực gốc của
Nhân dân, do đó, một nền dân chủ phải có sự chế ước lẫn nhau giữa các chủ thể trong
xã hội. Tuy nhiên mỗi một chế độ dân chủ được duy trì, phát triển còn phục thuộc vào
điều kiện kinh tế, văn hóa, truyền thống dân tộc của mỗi quốc gia khác nhau. Ông
cho rằng để đạt tới nền dân chủ lý tưởng cần phải đạt được 05 tiêu chí về dân chủ đó
là: Fffective participation (Sự tham gia hiệu quả); Voting equality at the


19
decisive stage (bình đẳng công bằng trong bầu cử); Enlightened understanding (sự
hiểu biết sâu sắc); Control of the agenda (kiểm soát các chương trình nghị sự);
Inclusiveness (tính toàn diện).
Virginia Beramandi, Andrew Elis và các tác giả khác trong cuốn Dân chủ trực
tiếp- Sổ tay IDEA quốc tế [19] nội dung cuốn sách cung cấp các thông tin về việc vận
dụng dân chủ trực tiếp, nhất là trưng cầu ý dân, sáng kiến công dân, sáng kiến chương

trình nghị sự và bãi miễn được thực hiện ở các vùng trên thế giới. Ở đây dân chủ
được tiếp cận theo nghĩa là chế độ chính trị, hệ thống tổ chức quyền lực và cơ chế,
quy trình vận hành hệ thống dân chủ; cuốn sách cũng đưa ra các khuyến nghị và bài
học thực tiễn trong vận dụng dân chủ trực tiếp ở các vùng trên thế giới trên cơ sở
đánh giá điển hình ở một số quốc gia như ở Thụy Sĩ, Uruguay, Venezuela, Hungary
và bang Oregan (Hoa Kỳ) về các hoạt động trưng cầu dân ý, sáng kiến chương trình
nghị sự và bãi miễn…
Bài viết Về nền dân chủ và pháp luật những bước tiến mới trong lý luận và phân
tích của Neal Tate C [108]. Bài viết là tập hợp phản ánh những nội dung cơ bản các bài
viết của nhiều tác giả về các công trình nghiên cứu lý thuyết và thực tế về một chủ đề
quan trọng để hiểu rõ nền dân chủ và quá trình dân chủ hoá. Các công trình nghiên cứu ở
22 quốc gia thuộc các châu lục khác nhau có truyền thống dân chủ khác nhau như: Braxil,
Canada, Mỹ (Châu Mỹ); Đức, Bỉ, Đan Mạch, Áo, Tây Ban Nha, Pháp, Anh, Hy Lạp,
IreLand, North Ireland, ItaLia, Luxembuorg, Hà Lan, Bồ Đào Nha (Châu Âu); Bungaria,
Hungary, Ba Lan (Đông Âu); Ấn Độ và Philippines (Châu Á ).

Bài viết "Dân chủ và tiến bộ đối với sự phát triển kinh tế- xã hội" của O.T.
Bogomolov [96], tác giả đã trình bày các nguyên tắc nền tảng của dân chủ; cuộc
khủng hoảng của dân chủ phương Tây; mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển ở các
nước trên thế giới và Nga. Tác giả nhận định: chính từ những thành tựu mà Liên Xô
đạt được đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự ra đời của mô hình nhà nước phúc lợi, do
vậy việc Nga xây dựng nhà nước phúc lợi là niềm mong đợi của nhiều người và phù
hợp với kinh nghiệm lịch sử.
Bài viết "Thành tựu 30 năm công tác xây dựng Đảng cộng sản Trung Quốc" của
Tập Cận Bình [20] trong tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu tổng kết 30 năm đổi
mới, tác giả khẳng định:muốn thúc đẩy dân chủ trong toàn xã hội, lấy hài hòa trong
nội bộ Đảng để thúc đẩy hài hòa trong toàn xã hội cần phải tăng cường dân chủ trong
Đảng vì dân chủ trong Đảng là "tính mạng của Đảng" nếu không có dân chủ là không
thể có CNXH và không thể hiện đại hóa XHCN được.



20
1.2.1.2. Về thực hiện pháp luật, thực hiện pháp luật về dân chủ
Montesquieu trong cuốn sách Bàn về tinh thần pháp luật [87] đã phác họa
những nét cơ bản về một xã hội công dân và nhà nước pháp quyền, trong đó ba
quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp độc lập với nhau và tương tác lẫn nhau để đảm
bảo tính công bằng xã hội và phát triển đất nước dưới quyền cai trị của một ông vua
sáng. Đây được coi là là tác phẩm " mở đường" cho dân chủ tư sản Pháp, bởi lẽ, dưới
góc độ luật học thì những đề cập và lý giải về vấn đề lý luận và thực tiễn trong tác
phẩm vẫn có giá trị tham khảo cho đến ngày nay. Trong tác phẩm này trên nguyên tắc
và hiện thực của các thể chế khác nhau, ông cho rằng: " phải có cái gì trong sáng vô
tư, cao cả" vì một xã hội bình đẳng, bác ái và hạnh phúc của con người.
Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp Liên Xô (cũ) trong cuốn sách: Lý luận
về nhà nước và pháp luật [23] Tại Chương XIII có đề cập, phân tích nội dung các
hình thức thực hiện pháp luật, bao gồm tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử
dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Cuốn sách cũng đề cập đến những yêu cầu đối
với văn bản áp dụng pháp luật: phải nêu rõ được cơ quan ban hành, thời gian ban
hành, đối tượng thực hiện, quyết định giải quyết vấn đến gì, những căn cứ pháp lý và
căn cứ thực tiễn khi ban hành quyết định, người ký văn bản và các giai đoạn của quá
trình áp dụng pháp luật...
Cuốn sách Gestion locale et autogestion en France ( Quản lý địa phương và tự
quản ở Pháp) của B.P. Cerebrennikov [147] đã tập trung nghiên cứu về các đặc trưng
của quản lý địa phương và tự quản ở Pháp trong sự so sánh với một số các quốc gia
khác (Anh, Mỹ, Canada..); các quy định của Hiến pháp về tự quản địa phương và
thực hiện các quy định pháp luật về tự quản; quản lý công xã và tự quản; địa vị pháp
lý của công xã. Qua phân tích so sánh đã chỉ ra những hạn chế trong những quy định
tự quản của Pháp, từ đó tác giả nhận định: ở Pháp chú trọng đến xây dựng nền hành
pháp, tổ chức quyền lực theo truyền thống tập trung nên quyền tự quản, tự quyết của
cộng đồng địa phương còn nhiều hạn chế.
Matinne Lombard và Gille Dumont trong cuốn Pháp luật hành chính của Cộng

hoà Pháp [80]. Trong cuốn sách này, lần đầu tiên thuật ngữ dân chủ ở địa phương
được đề cập; nội hàm của thuật ngữ đề cập tới các quyền được minh bạch trong quản
lý hành chính ở địa phương, theo đó, DCCX phải gắn với quyền lực Nhân dân, do
Nhân dân quyết định. Dân chủ ở cấp xã phải được thể hiện dưới hình thức trưng cầu
dân ý, tham khảo, lấy ý kiến Nhân dân cấp xã trước khi chính quyền


21
đưa ra các quyết định, trên cơ sở đó, Nhân dân trực tiếp thông qua các quyết định mà
chính quyền xã ban hành.
Luận án tiến sĩ triết học Dân chủ hóa với quá trình xây dựng chế độ dân chủ
Nhân dân ở Lào hiện nay của tác giả Dao Hương Sintanac [33] đã phân tích sự ra đời,
phát triển, đặc trưng, thực trạng của chế độ dân chủ Nhân dân ở Lào. Trong đó, tác
giả khẳng định: chế độ dân chủ Nhân dân chưa phải là chế độ dân chủ XHCN với
những đặc trưng đầy đủ của nó nhưng nó khác hẳn với chế độ dân chủ tư sản. Xây
dựng chế độ dân chủ Nhân dân ở Lào theo yêu cầu của quá trình dân chủ hóa cần tạo
lập các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa cần thiết; phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, đổi mới HTCT và nâng cao dân trí, xây dựng ý thức pháp quyền.
Luận án tiến sĩ triết học Vấn đề xây dựng chế độ dân chủ Nhân dân Lào hiện
nay của tác giả Khăm Phon Bun Na Di [78] đã phân tích quá trình xây dựng phát triển
chế độ dân chủ Nhân dân ở Lào; lịch sử ra đời, phát triển, quan điểm đổi mới của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào ở các mặt kinh tế, xã hội, chính trị...thực trạng và giải
pháp xây dựng chế độ dân chủ Nhân dân ở Lào trên các nội dung kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội và hoạt động đối ngoại
Bài viết Mô hình nhà nước phúc lợi của phương Tây của Hà Tử Anh [2] từ việc
trình bày nguồn gốc sự hình thành và tái cơ cấu nhà nước phúc lợi phương Tây tác
giả đã chỉ rõ thực chất của mô hình nhà nước phúc lợi phương Tây, đó là: Chủ nghĩa
thị trường tự do; CNXH dân chủ; Chủ nghĩa hợp tác bảo thủ. Theo tác giả thông qua
việc tăng thêm cung cấp phúc lợi xã hội, xóa đói, giảm nghèo, giảm thiểu tối đa thất
nghiệp... sẽ đảm bảo được quyền lợi xã hội của mỗi công dân, từ đó kinh tế sẽ phát

triển bền vững và ổn định. Do vậy, nhà nước phúc lợi sẽ giúp cân bằng giữa phát triển
thị trường với sự thúc đẩy công bằng xã hội, là mô hình tối ưu.
1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về nước ngoài của các nhà khoa học
Việt Nam có liên quan đến đề tài
Cuốn sách: "Trào lưu xã hội dân chủ ở một số nước Phương Tây hiện đại" của
Tống Đức Thảo và Bùi Việt Hương [115] đã khái quát trào lưu xã hội dân chủ, nguồn
gốc, nội dung, bản chất, các giai đoạn phát triển của trào lưu xã hội dân chủ ở các
nước phương Tây; những ảnh hưởng trào lưu dân chủ cũng như bối cảnh hậu chiến
tranh lạnh đến sự phát triển của trào lưu xã hội dân chủ ở các nước phương tây.
Ngoài ra, cuốn sách còn đề cập đến tác động của trào lưu xã hội dân chủ đối với đời
sống CT-XH ở các nước phương tây hiện nay, những giá trị cũng như những hạn chế,
ảnh hưởng của trào lưu dân chủ đối với Việt Nam.


×