Tải bản đầy đủ (.doc) (178 trang)

Nghệ thuật với vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.93 KB, 178 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ MINH TUẤN

NGHỆ THUẬT VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC
THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ MINH TUẤN

NGHỆ THUẬT VỚI VẤN ĐỀ GIÁO
DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO
SINH VIÊN Ở NƢỚC TA HIỆN
NAY

Ngành: Mỹ học
Mã số: 9 22 90 07

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Thu Nghĩa
2. GS. TS. Đỗ Huy Hùng

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án

NCS Đặng Thị Minh Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................. 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI.......................................................................................................................................... 6
1.1 Những nghiên cứu lý luận cơ bản về nghệ thuật, thị hiếu thẩm mỹ,
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị
hiếu thẩm mỹ............................................................................................................................... 6
1.2. Những nghiên cứu về thực trạng thị hiếu thẩm mỹ và thực trạng vận
dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta
hiện nay....................................................................................................................................... 24
1.3. Những nghiên cứu về nguyên tắc và giải pháp vận dụng nghệ thuật
trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay......................28
1.4. Những vấn đề luận án cần nghiên cứu.................................................................... 33
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHỆ THUẬT,
THỊ HIẾU THẨM MỸ VÀ VAI TRÒ CỦA NGHỆ THUẬT TRONG

GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ............................................................................ 36
2.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về nghệ thuật......................................................... 36
2.2. Những vấn đề lý luận cơ bản về thị hiếu thẩm mỹ và giáo dục thị hiếu
thẩm mỹ....................................................................................................................................... 51
2.3. Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ.................................. 73
Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT VỚI GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO
SINH VIÊN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY: THỰC TR

NG VÀ NHỮNG

VẤN ĐỀ ĐẶT RA................................................................................................................. 87
3.1. Những nhân tố tác động đến thị hiếu thẩm mỹ và vận dụng nghệ thuật
trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay......................87
3.2. Thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên ở nước ta hiện nay................................................................................................ 96
3.3. Một số vấn đề đặt ra khi vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu
thẩm mỹ cho sinh viên ở nước ta hiện nay.................................................................. 113


Chƣơng 4: NGUYÊN TẮC VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG NGHỆ THUẬT
TRONG GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN Ở
NƢỚC TA HIỆN NAY.................................................................................................... 123
4.1. Nguyên tắc vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên................................................................................................................................... 123
4.2. Giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên................................................................................................................................... 133
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ........................................ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 152
PHỤ LỤC.......................................................................................................................................... 161



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghệ thuật là thế giới của cái đẹp. Ở đó, cái đẹp hiện ra với tất cả vẻ lung
linh, diệu kỳ của nó qua tài năng sáng tạo tuyệt vời của người nghệ sĩ. Trong nghệ
thuật, cái đẹp được điển hình hoá. Bất kỳ một tác phẩm nghệ thuật nào cũng hướng
đến việc xây dựng và biểu hiện một hình tượng đẹp. Nghệ thuật chân chính được
xem như là một trong những yếu tố cơ bản góp phần định hướng tốt đẹp cho hoạt
động của con người, xây dựng tâm hồn của mỗi con người, làm cho mỹ cảm phong
phú hơn, nhân văn hơn.
Ở nước ta hiện nay, sự phát triển, mở rộng các quan hệ giao lưu, hội nhập
trên mọi lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục… đã có tác động không
nhỏ đến hệ thống các giá trị của xã hội trong đó có các giá trị thẩm mỹ. Trước tình
hình đó, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã
khẳng định: hiện nay vấn đề xây dựng, giữ gìn và phát huy hệ giá trị tốt đẹp về thị
hiếu thẩm mỹ trong quá trình xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện và
nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trở nên cấp bách. Nghiên cứu sự
biến đổi của hệ thống giá trị trong văn hóa Việt Nam thông qua nghiên cứu về nghệ
thuật, về thị hiếu thẩm mỹ, giáo dục thẩm mỹ vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa
thực tiễn.
Giáo dục đại học là hình thành đội ngũ nhân lực toàn diện đáp ứng được yêu
cầu phát triển của xã hội trong tương lai. Công tác giáo dục ở bậc đại học không chỉ
chú trọng đến chuyên môn nghề nghiệp mà còn phải chú trọng đến giáo dục phẩm
chất đạo đức và thị hiếu thẩm mỹ, tạo nền tảng xác lập thế giới quan và xây dựng lý
tưởng sống để sinh viên trở thành những con người có ích cho xã hội. Những cơ hội
và thách thức mới của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế càng đòi hỏi công
tác giáo dục đại học phải đảm nhận sứ mệnh đào tạo nên những con người phát triển
toàn diện “đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng
sáng tạo, khỏe về thể chất” [19, tr.29] cho xã hội. Do đó, giáo dục đại học không thể

bỏ qua đời sống tinh thần của sinh viên, trong đó thị hiếu thẩm mỹ là một yếu tố
quan trọng.

1


Đời sống thẩm mỹ của giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng ở nước ta
hiện nay đang có nhiều diễn biến phức tạp. Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng trên
nhiều lĩnh vực, giao lưu văn hoá diễn ra với nhiều hình thức đã có những tác động
tích cực lẫn tiêu cực đến nhận thức và thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên. Có những
kiểu thị hiếu thẩm mỹ mới lạ, thậm chí là lệch lạc phát triển trong đời sống thẩm mỹ
của các bạn trẻ. Nhiều sinh viên đã không tạo cho mình khả năng tự phòng ngừa,
"miễn dịch" hiệu quả trước những sản phẩm phản nghệ thuật, độc hại. Một bộ phận
sinh viên chạy theo thị hiếu thấp hèn, lối sống thực dụng, cá nhân, vị kỷ, có quan
niệm lệch lạc về cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài... Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên ở nước ta hiện nay là một yêu cầu cần thiết nhằm góp phần tạo ra sự cân
bằng giữa đào tạo chuyên môn và giáo dục lối sống, xây dựng lý tưởng trong sinh
viên, giúp cho công tác giáo dục ở các trường đại học và cao đẳng ngày càng hoàn
thiện về mọi mặt đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực toàn diện cho xã hội.
Có nhiều cách để giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên nhưng với tính
cách là biểu hiện đặc trưng của quan hệ thẩm mỹ, nghệ thuật là cầu nối giữa con
người với thế giới cái đẹp, giúp sinh viên phát triển năng lực cảm thụ và sáng tạo
thẩm mỹ đồng thời xác lập môi trường văn hoá cho thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên,
là nền tảng cơ bản định hướng thị hiếu thẩm mỹ, xây dựng nhân cách của sinh viên.
Nhận thức rõ vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
mang ý nghĩa quan trọng của việc xây dựng con người phát triển toàn diện đối với
quá trình phát triển của đất nước, Đảng ta luôn “khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm
những phương thức thể hiện và phong cách nghệ thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh
thần lành mạnh đa dạng và bồi dưỡng lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng
đặc biệt là thế hệ trẻ” [18, tr.224].

Từ thực tiễn đời sống thẩm mỹ và yêu cầu của công tác giáo dục đại học, trên
cơ sở định hướng của Đảng về giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho thế hệ trẻ, tác giả
chọn vấn đề: “Nghệ thuật với vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở
nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu, góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn của yêu cầu xây dựng con người phát triển toàn diện trong thời kỳ mới.

2


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Mục đích của luận án là làm rõ mối quan hệ giữa nghệ thuật với giáo dục thị
hiếu thẩm mỹ, chỉ ra vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên, góp phần xây dựng và phát triển thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên ở nước ta
hiện nay trước yêu cầu xây dựng con người phát triển toàn diện.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của luận án là:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về nghệ thuật, thị hiếu thẩm mỹ và vai trò
của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ.
- Nghiên cứu và trình bày những vấn đề lý luận cơ bản của nghệ thuật và thị
hiếu thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, làm rõ mối quan hệ giữa nghệ thuật với
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ thông qua việc phân tích vai trò của nghệ thuật đối với
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ.
- Nghiên cứu, điều tra, tổng hợp và phân tích thực trạng vận dụng nghệ thuật
trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở Việt Nam hiện nay.
- Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục
thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội ở Việt Nam
hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên ở
Việt Nam hiện nay trên bình diện triết học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài đã chọn, về mặt lý luận, luận án nghiên cứu khía cạnh
triết học của nghệ thuật và một số nội dung cơ bản của vấn đề giáo dục thị hiếu
thẩm mỹ chủ yếu trên lập trường của thẩm mỹ học mácxít; phân tích mối liên hệ
giữa nghệ thuật với quá trình giáo dục thị hiếu thẩm mỹ nhằm chỉ ra vai trò của
nghệ thuật trong xây dựng thị hiếu thẩm mỹ của con người; về mặt thực tiễn, luận
án nghiên cứu thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho

3


sinh viên ở Việt Nam trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI và đề xuất những giải
pháp đối với việc vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh
viên nhằm phát huy thị hiếu thẩm mỹ tốt trong sinh viên phù hợp với quá trình phát
triển đang diễn ra ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là những nguyên lý triết học và mỹ học của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về giáo dục, giáo dục thẩm mỹ, văn hóa và nghệ thuật, đồng thời, có kế thừa
những kết quả của một số công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến chủ đề
luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời, với từng phần cụ thể, luận
án sử dụng những phương pháp tương ứng:
- Phần trình bày về những vấn đề lý luận cơ bản của nghệ thuật, thị hiếu
thẩm mỹ và vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, luận án sử

dụng phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, hệ
thống hóa...
- Phần trình bày về thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm
mỹ cho sinh viên ở Việt Nam hiện nay, luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội
học, điều tra giáo dục, so sánh - đối chiếu, phân tích và tổng hợp, khái quát hóa...

- Phần trình bày về nguyên tắc và giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục
thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên, luận án sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp,
quy nạp và diễn dịch, tham khảo, nghiên cứu tài liệu, phương pháp giả thuyết ...

5. Đóng góp mới của luận án
- Góp phần hệ thống hóa lý luận về nghệ thuật, thị hiếu thẩm mỹ với tư cách
là đối tượng của triết học - mỹ học, phân tích vai trò của nghệ thuật đối với vấn đề
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ theo quan điểm mácxít nhằm bổ sung một cách nhìn toàn
diện hơn về triết học duy vật biện chứng cũng như chức năng giá trị của hệ thống
triết học này.

4


- Nghiên cứu thực trạng vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm
mỹ cho sinh viên ở Việt Nam hiện nay, góp phần làm rõ vai trò của nghệ thuật đối
với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên.
- Đề xuất những giải pháp vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm
mỹ cho sinh viên, góp phần định hướng thị hiếu thẩm mỹ trong sinh viên, phát huy
những thị hiếu thẩm mỹ tốt, xây dựng chuẩn mực thẩm mỹ cho sáng tạo nghệ thuật
và hoạt động sống của cá nhân cũng như góp phần bảo tồn, xây dựng và phát huy hệ
giá trị tốt đẹp của xã hội ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận: luận án phân tích vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị

hiếu thẩm mỹ cho sinh viên.
- Về mặt thực tiễn: thông qua việc phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp
vận dụng nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên, luận án có thể
dùng làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy và học tập các môn triết học, mỹ học ở
các trường đại học hoặc làm tài liệu tham khảo phục vụ vào đánh giá, dự báo, định
hướng thị hiếu thẩm mỹ cho các hoạt động thưởng thức, sáng tạo nghệ thuật và lối
sống lành mạnh trong xã hội hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận
án gồm 4 chương, 12 tiết.

5


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1 Những nghiên cứu lý luận cơ bản về nghệ thuật, thị hiếu thẩm mỹ, giáo dục
thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nghệ thuật đối với giáo dục thị hiếu thẩm mỹ
1.1.1. Những nghiên cứu về nghệ thuật
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, nghệ thuật là một hoạt động nhận
thức của con người bằng phương tiện hình tượng. Thế giới hình tượng nghệ thuật và
các quy luật phát triển của thế giới nghệ thuật là nguồn cảm hứng vô tận cho các
nghệ sĩ tự do sáng tạo, đồng thời là đề tài nghiên cứu của các học giả, các nhà khoa
học quan tâm phân tích với nhiều khía cạnh khác nhau.
Từ thời cổ đại, các nhà triết học Hy Lạp đã thể hiện sự quan tâm của mình
đối với nghệ thuật. Tiêu biểu ở thời kỳ cổ đại Hy Lạp về nghệ thuật phải kể đến
Nghệ thuật thi ca của Aristotle được dịch ra tiếng Việt lần đầu tiên vào năm 1964,
Nxb Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội. Mặc dù chủ yếu bàn về bi kịch trong thơ ca,
nhưng trong tác phẩm này, Aristotle đã chỉ ra cốt lõi của nghệ thuật là thực hiện mô
phỏng tự nhiên từ đối tượng đến phương thức và mục đích. Có thể nói, Nghệ thuật

thi ca là viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của mỹ học duy vật và
nghệ thuật trong lịch sử khoa học thế giới.
Từ đó đến nay, các nhà mỹ học lớn như Diderot, Immanuel Kant, G.W.F.Hegel,
C.Mác, Denis Huisman... đã có những nghiên cứu sâu sắc về nguồn gốc, bản chất của
nghệ thuật, về các loại hình nghệ thuật và cả lịch sử phát triển của nghệ thuật. Đến
Hegel, vấn đề bản chất của nghệ thuật được trình bày vô cùng sâu sắc cùng với quan
niệm về cái đẹp và những luận giải về các ngành nghệ thuật riêng biệt trong các bài
giảng của ông về mỹ học ở trường đại học Heisenberg và trường đại học Berlin từ năm
1817 đến năm 1829. Các bài giảng này sau đó đã được học trò của ông tập hợp lại và
xuất bản thành cuốn Mỹ học. Cuốn sách này được Phan Ngọc dịch sang tiếng Việt và
chia thành hai tập do nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1999.

Tiếp thu các thành quả nghiên cứu của các nhà mỹ học trong lịch sử, C.Mác
và Ph.Ăngghen coi nghệ thuật là một hình thái của ý thức xã hội. Trong các tác

6


phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra nhiều suy nghĩ về nghệ thuật và mỹ
học quanh câu hỏi: “cái gì biến nghệ thuật thành một giá trị vĩnh cửu bất chấp tính
lịch sử của nó?” mà Mác đặt ra trong Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị
(1858). Những suy nghĩ của C.Mác và Ph.Ăngghen về nghệ thuật sau này được các
nhà nghiên cứu chủ nghĩa Mác tập hợp lại trong cuốn Về văn học nghệ thuật, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1977. Công trình này là một trong những tư liệu lý luận cơ bản cho
việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mỹ học và nghệ thuật.
Trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, công trình Mỹ học cơ bản và
nâng cao do M.F.Ốpxiannhicốp chủ biên, Phạm Văn Bích dịch, Nxb. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, 2001 phân tích một cách đầy đủ và chi tiết lý luận về nghệ thuật
theo quan điểm của các nhà lãnh đạo Liên bang Xôviết. Đây là giáo trình dành cho
sinh viên các trường đại học khoa học xã hội và các trường nghệ thuật trong toàn

Liên bang Xôviết trước đây. Trong công trình đồ sộ này, lý luận về nghệ thuật được
trình bày với ba phần: đặc trưng của nghệ thuật, các loại hình nghệ thuật và bản chất
xã hội của nghệ thuật.
Ở đây, đặc trưng của nghệ thuật được các tác giả phân tích thông qua hình
tượng nghệ thuật, quá trình sáng tạo nghệ thuật, tác phẩm nghệ thuật, nội dung và
hình thức trong nghệ thuật và cảm thụ thẩm mỹ tác phẩm nghệ thuật. Theo các tác
giả, hình tượng nghệ thuật là một biến thể của tư duy hình tượng và nó là biểu hiện
cho đặc trưng của nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật là nơi mà đặc trưng của nghệ
thuật được bộc lộ thông qua sự thống nhất và tác động qua lại giữa nội dung và hình
thức trong nghệ thuật. Nội dung nghệ thuật đóng vai trò chủ đạo, quyết định đối với
hình thức nghệ thuật, đồng thời hình thức nghệ thuật có tính độc lập tương đối và
tích cực. Nội dung nghệ thuật phản ánh, tái tạo các lĩnh vực khác nhau của thực tại
tự nhiên và xã hội qua hình tượng nghệ thuật. Còn hình thức nghệ thuật là phương
thức biểu hiện và tồn tại về vật chất của nội dung theo những quy luật của một loại
hình và thể loại nghệ thuật nhất định. Sau khi ra đời, tác phẩm nghệ thuật có quá
trình tác động nhiều mặt đến con người và xã hội. Vì vậy, đặc trưng của nghệ thuật
còn được thể hiện qua việc con người cảm thụ thẩm mỹ các tác phẩm nghệ thuật.
Cảm thụ thẩm mỹ là một hình thức hoạt động tâm lý đặc biệt của con người. Chính

7


trong quá trình này, giá trị nghệ thuật của các tác phẩm nghệ thuật đi vào ý thức của
con người cụ thể một cách tự nhiên như nó vốn có.
Từ việc phân tích đặc trưng của nghệ thuật, các tác giả đi đến phân chia các
loại hình nghệ thuật. Bắt nguồn từ bản chất của hoạt động nghệ thuật, ông chia các
loại hình nghệ thuật thành nhiều nhóm: nhóm các nghệ thuật ứng dụng với kiến trúc
và nghệ thuật trang trí; nhóm các nghệ thuật tạo hình bao gồm điêu khắc, hội hoạ,
đồ hoạ, nghệ thuật nhiếp ảnh; nhóm nghệ thuật ngôn từ với văn học; nhóm nghệ
thuật âm thanh với âm nhạc; nhóm các nghệ thuật biểu diễn gồm ca vũ tổng hợp,

điện ảnh, vô tuyến truyền hình, nghệ thuật tạp kỹ và xiếc.
Trên cơ sở những phân tích về đặc trưng của nghệ thuật và sự trình bày về
các loại hình nghệ thuật, các tác giả bày tỏ quan điểm của mình về bản chất của
nghệ thuật. Đó là, nghệ thuật mang bản chất xã hội. Nghệ thuật trước hết là một
hiện tượng xã hội và bản chất xã hội của nghệ thuật thể hiện rõ nhất qua các chức
năng xã hội của nghệ thuật (cụ thể là chức năng nhận thức và chức năng giáo dục).
Đồng thời, các tác giả cũng khẳng định nghệ thuật thực hiện các chức năng của
mình trong quá trình thống nhất phản ánh, nhận thức đời sống xã hội và chỉ có thể
xem xét các chức năng của nghệ thuật trong tương quan của quá trình khái quát hoá
lý luận. Vì vậy, bản chất xã hội của nghệ thuật còn được thể hiện qua mối quan hệ
biện chứng giữa nghệ thuật với các hình thái ý thức xã hội khác như triết học, khoa
học, đạo đức, tôn giáo. nhấn mạnh bản chất xã hội của nghệ thuật còn được thể hiện
qua tính nhân dân, tính giai cấp, tính đảng của nghệ thuật.
Những lý luận về nghệ thuật của các tác giả trong Mỹ học cơ bản và nâng
cao là cơ sở cho luận án khi khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm,
bản chất và chức năng của nghệ thuật.
Ở Việt Nam, vấn đề nguồn gốc và bản chất của nghệ thuật cũng được nhiều
tác giả dày công nghiên cứu. Các công trình: Mỹ học với tư cách là một khoa học
của Đỗ Huy, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; Mỹ học đại cương của Đỗ Văn
Khang, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2002; Giáo trình mỹ học Mác - Lênin của
hai tác giả Đỗ Huy - Vũ Trọng Dung, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003... mặc
dù cách thức triển khai khác nhau nhưng đều có các chương trình bày các quan

8


điểm mỹ học Mác - Lênin với tư cách là một khoa học hoàn chỉnh và hệ thống,
khẳng định quan điểm thẩm mỹ, quan điểm nghệ thuật của chủ nghĩa Mác - Lênin
dưới dạng giáo trình khoa học.
Nổi bật là công trình Mỹ học Mác – Lênin cho trình độ sau đại học ngành

văn hoá nghệ thuật của Đỗ Huy, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2006. Trong công
trình này, tác giả đã phân tích ba vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của nghệ thuật
là: khái niệm và nguồn gốc của nghệ thuật, bản chất thẩm mỹ của nghệ thuật và
bản chất xã hội của nghệ thuật. Ba vấn đề này được trình bày trong chương năm
của cuốn sách. Ở đó, tác giả đã dựa vào cơ sở tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen
về nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội và tư tưởng Hồ Chí Minh về tính nhân
dân, tính dân tộc của nghệ thuật để phân tích sâu sắc tính bất đồng của nghệ thuật
với phát triển kinh tế và làm rõ bản chất xã hội của nghệ thuật qua những phân tích
về tính dân tộc, tính nhân dân và tính thời đại của mọi nghệ thuật hiện thực. Trong
chương sách này, tác giả cũng đã trình bày nghiên cứu của mình về nghệ thuật với
tư cách là sản phẩm của sáng tạo, mô hình hoá tình cảm thẩm mỹ. Theo tác giả,
nghệ thuật có lịch sử lâu đời, có bản chất xã hội, có đặc trưng thẩm mỹ, có công
chúng và có đánh giá. Chương sách cũng trình bày các vấn đề về đánh giá, hưởng
thụ và sáng tạo nghệ thuật. Những nghiên cứu này là một trong các cơ sở lý luận để
luận án trình bày những vấn đề cơ bản về nghệ thuật.
Nghệ thuật là một bộ phận quan trọng của mỹ học. Thế giới nghệ thuật là thế
giới của cái đẹp. Các quy luật phát triển của thế giới nghệ thuật cũng chính là hệ
quy chiếu cho các quy luật phát triển trong mỹ học. Vì vậy, không chỉ dừng lại ở
nguồn gốc và bản chất của nghệ thuật, các nhà mỹ học còn quan tâm đến việc tìm
hiểu các quy luật phát triển của thế giới nghệ thuật qua các loại hình của nó. Ở góc
độ này, công trình nghiên cứu đầy đủ nhất, công phu nhất có thể kể đến là: Hình
thái học của nghệ thuật của tác giả M. Cagan, (bản dịch của Phan Ngọc), Nxb. Hội
Nhà văn, Hà Nội, 2004. Đây là tác phẩm chuyên khảo đầu tiên một cách có hệ
thống theo quan điểm mácxít về cơ cấu nội tại của thế giới nghệ thuật. Trong công
trình này, thế giới nghệ thuật được xem xét với tính cách là một chỉnh thể thống
nhất chứ không phải là một bộ phận riêng biệt nào đó. Ở đây, tác giả nghiên cứu

9



toàn bộ cơ cấu bên trong của thế giới nghệ thuật, phát hiện tất cả những cấp độ căn
bản của sự phân chia hoạt động sáng tạo nghệ thuật, làm sáng tỏ những quy luật tổ
chức bên trong của thế giới nghệ thuật qua một hệ thống những lớp, những nhóm,
những loại hình và loại thể của nó. Trong sự trình bày của mình, tác giả chia cuốn
sách thành ba phần lớn: phần thứ nhất, đề xuất các vấn đề phương pháp luận để
nghiên cứu hệ thống các loại hình nghệ thuật, trình bày một cách khái quát lịch sử
nghiên cứu hình thái học nghệ thuật và các khuynh hướng cơ bản của nó; phần thứ
hai, tập trung phân tích hình thái học nghệ thuật trong lịch sử tư tưởng mỹ học
mácxít; phần thứ ba, đi sâu nghiên cứu các lớp và các nhóm nghệ thuật.
Trên quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, M. Cagan cho rằng,
hoạt động nghệ thuật xuất phát từ nhu cầu nghệ thuật của xã hội và gắn liền với thực
tiễn thưởng thức, đánh giá, sáng tạo của con người. Trong sự hình thành của phân
công lao động xã hội, tình trạng lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay đã dẫn
đến sự tách biệt của nghệ thuật ra khỏi cái cơ sở vụ lợi của nó để tồn tại độc lập, trở
thành một ngành đặc biệt của văn hoá. Tuy nhiên, nghệ thuật không tách khỏi hoạt
động thực tiễn một cách tuyệt đối mà ngược lại “thế giới nghệ thuật vẫn gắn liền với
cái thế giới chung quanh của thực tiễn xã hội bởi một vùng gồm những hiện tượng
hai mặt, hai chức năng vẫn giữ tính hỗn đồng đầu tiên của yếu tố nghệ thuật và yếu
tố vụ lợi” [6, tr.286]. Chính vì xuất phát từ nhu cầu nghệ thuật của xã hội ấy mà sự
phát triển của nghệ thuật có tính khu biệt và đặc thù. Điều này đặt cơ sở cho sự phân
chia các loại hình nghệ thuật khác nhau và hình thành nên cơ cấu của toàn bộ thế
giới nghệ thuật.
Nguyên tắc để phân chia thế giới nghệ thuật thành các nhóm, lớp, các biến
thể và loại hình khác nhau được M. Cagan đề xuất là: thứ nhất, thừa nhận xuất phát
và quyết định của sự tồn tại thực tế của tác phẩm nghệ thuật; thứ hai, dựa vào cấu
trúc của nghệ thuật và thứ ba, dựa vào chức năng của nghệ thuật. Từ đó, ông cho
rằng, người ta có thể so sánh và phân biệt các loại hình nghệ thuật căn cứ vào nhiều
tiêu chí như từ ngữ, âm thanh, vận động thân hình ... , hoặc căn cứ vào phương thức
tri giác các tác phẩm nghệ thuật (thị giác, thính giác ...), hoặc căn cứ vào sự sáng tạo
tác phẩm nghệ thuật (khởi tạo, trình diễn), hoặc căn cứ vào phương thức phản ánh


10


thực tế (miêu tả, không miêu tả), hoặc căn cứ vào hình thức tồn tại của hình tượng
nghệ thuật v.v... có nghĩa là, tất cả mọi các sự phân loại đều mang tính tương đối.
Trên cơ sở những nguyên tắc đã đề xuất, với quan điểm biện chứng, M.
Cagan đi xây dựng một mô hình cấu trúc hệ thống của thế giới nghệ thuật bằng việc
phân xuất các nhóm nghệ thuật chính là nghệ thuật ngôn ngữ, nghệ thuật âm nhạc,
nghệ thuật miêu tả ... và phân tích sự đa dạng của mỗi nhóm với các loại hình nghệ
thuật và các biến thể con của nó. Qua đó, ông đã nêu bật được những quy luật khách
quan của sự hình thành thế giới nghệ thuật và mang lại một cách nhìn mới mẻ trong
nghiên cứu về nghệ thuật.
Cũng nghiên cứu nghệ thuật với tính cách là một chỉnh thể, ở Việt Nam, có
công trình: Nghệ thuật học của Đỗ Văn Khang, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,
2004. Với công trình này, Đỗ Văn Khang đã khái quát sự phát triển của nghệ thuật
qua các thời đại lịch sử với các tác giả, tác phẩm tiêu biểu và điển hình để rút ra
những đường nét lớn mà toàn bộ nghệ thuật chịu ảnh hưởng, cung cấp cho người
đọc cơ sở cần thiết để hiểu và vận dụng trong sáng tạo khoa học cũng như trong
thưởng thức, đánh giá các tác giả, tác phẩm và thời đại nghệ thuật.
Nghệ thuật còn được nghiên cứu với tư cách là một môn lịch sử. Ở góc độ
này, tác giả Xavier Barral Ialtet đã có một công trình khảo cứu đầy đủ trong Lịch sử
nghệ thuật được dịch sang tiếng Việt bởi Nguyễn Văn Quảng, Nxb. Thế giới, Hà
Nội, 2003. Theo Xavier Barral Ialtet, lịch sử nghệ thuật là một môn khoa học độc
lập được hình thành dần dần qua các trường phát tư tưởng nghệ thuật khác nhau.
Lịch sử nghệ thuật khác với các bộ môn khác như Khảo cổ học, Dân tộc học, Triết
học, Xã hội học, Lịch sử kinh tế ... nhưng lại có mối liên hệ gắn bó chặt chẽ với
chúng. Lịch sử nghệ thuật không có giới hạn về mặt địa lý. Phạm vi của lịch sử
nghệ thuật được chia thành hai nhóm lớn: một là các bộ phận hợp thành của nghệ
thuật như kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật màu sắc, nghệ thuật tạo hình..., hai là lịch

sử các hoạt động sáng tạo nghệ thuật động như sân khấu, múa, thơ ca, âm nhạc, điện
ảnh... Trong cuốn sách của mình, tác giả phân chia nghệ thuật thành các giai đoạn
theo tiến trình lịch sử và các phạm vi của nó thông qua các tác phẩm nghệ thuật và
các nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật. Theo tác giả, nghệ thuật được phân chia thành

11


bốn giai đoạn chính là thời Tiền sử và văn minh Cổ đại; thời Trung cổ, thời Phục
hưng, Barốc và chủ nghĩa Cổ điển; thế kỷ XIX và thời hiện đại. Trong mỗi giai đoạn
có các phạm vi nghệ thuật của nó. Chẳng hạn, thời tiền sử và văn minh cổ đại có
nghệ thuật Ai Cập, nghệ thuật Mésopotamie; thời trung cổ có nghệ thuật phương
Tây trung cổ với nghệ thuật Roman, nghệ thuật Gôtích và nghệ thuật không phải
phương Tây với Byzance, nghệ thuật đạo Hồi, nghệ thuật Á Đông, nghệ thuật châu
Mỹ, châu Phi và châu Đại Dương... Với cuốn sách này, Xavier Barral Ialtet đã vừa
làm công việc của một nhà phê bình nghệ thuật vừa làm công việc của một nhà sử
học: nhận ra các tác phẩm và tính xác thực của chúng, đưa ra nhận xét có tính phê
bình về các giá trị lịch sử và thời sự của chúng, định vị chúng trong khung cảnh lịch
sử của mỗi giai đoạn, tìm ra sự gần gũi của các tác phẩm về mặt khảo cổ nhằm khôi
phục các bước kỹ thuật của việc thực hiện chúng, tìm tòi các tài liệu viết liên quan
đến chúng và giới thiệu các tác phẩm ấy đến với công chúng rộng rãi.
Nghệ thuật không chỉ được nghiên cứu dưới góc độ lịch sử mà còn được
nghiên cứu dưới góc độ xã hội học. Tác giả Bùi Quang Thắng trong cuốn Xã hội
học nghệ thuật, Viện Văn hoá và Nxb. Văn hoá Thông tin, 1998 cho rằng cần thiết
phải nghiên cứu nghệ thuật dưới góc độ xã hội học với lý do: thứ nhất, xuất phát từ
thực tiễn nghệ thuật của các xã hội phát triển đa dạng, đột biến đến mức các nhà
nghiên cứu phải xét lại các lý thuyết nghệ thuật truyền thống; thứ hai, sự phân tầng
xã hội của các tầng lớp công chúng ngày càng phức tạp dẫn đến những phân tầng
trong nhu cầu, thị hiếu và thói quen tiêu dùng nghệ thuật. Vì vậy, vấn đề đặt ra là
phải có những phương tiện lý thuyết và thực nghiệm để nghiên cứu và định hướng

nghệ thuật trong công chúng. Từ những lý do đó, Xã hội học nghệ thuật của Bùi
Quang Thắng đã đi vào phân tích những quan điểm khác nhau về nghệ thuật trên
bình diện xã hội học, chỉ ra chức năng xã hội của nghệ thuật, nêu bật vị trí xã hội
học của nghệ thuật trong mối quan hệ với các khoa học khác có cùng đối tượng là
nghệ thuật. Đặc biệt, bằng cách tiếp cận xã hội học về nghệ thuật, trên cơ sở trình
bày phương diện lý thuyết của xã hội học thực nghiệm về nghệ thuật, dựa vào việc
phân tích một số loại hình nghệ thuật như âm nhạc, điện ảnh, sân khấu... tác giả đã
chỉ ra sự phân hoá của nghệ thuật, sự thay đổi của các quan hệ nghệ thuật gắn chặt

12


với sự phát triển của quan hệ tiền - hàng trong nền kinh tế tư bản. Tác giả cũng đề
cập đến sự gắn kết giữa các yếu tố nghệ sĩ - tác phẩm - công chúng với vấn đề nhu
cầu nghệ thuật đồng thời khẳng định rằng sự hiểu biết về nhu cầu, sở thích, kiểu ứng
xử của công chúng là cơ sở để thiết lập kế hoạch quản lý, tác động vào quá trình
hoạt động nghệ thuật.
Bên cạnh cách tiếp cận xã hội học, còn có một cách tiếp cận khác khi nghiên
cứu về nghệ thuật, đó là cách tiếp cận mang tính nhân học mà Cynthia Freeland đã
thực hiện trong cuốn Thế mà là nghệ thuật ư (But is it art) được dịch bởi Như Huy,
Nxb. Tri thức, năm 2009. Cuốn sách là một đề dẫn lý thuyết về nghệ thuật với mục
đích phổ cập nghệ thuật dành riêng cho công chúng phương Tây nhưng lại thể hiện
một sự minh triết, sâu sắc và gọn gàng của một nỗ lực đại chúng hoá triết học về
nghệ thuật. Cuốn sách đưa ra những phân tích về khái niệm nghệ thuật và tác phẩm
nghệ thuật đồng thời giúp người đọc tiếp cận với những lý thuyết mới nhất về nghệ
thuật hiện đang chi phối mặt bằng phê bình nghệ thuật phương tây, qua đó, có thể
nắm bắt được phần nào phương cách mà nghệ thuật đương đại thế giới đang quan
niệm. Đề dẫn lý thuyết về nghệ thuật này cũng phân tích sự phát triển của nghệ
thuật với tính cách là một hệ thống mở, đặt nghệ thuật trong mối liên hệ với các yếu
tố ngoại vi mà nó cho là có tác động tương tác tới những cuộc chuyển hoá của chính

khái niệm nghệ thuật. Với cách trình bày của mình, Cynthia Freeland đã “tìm ra
cách để chắt lọc các lý thuyết nghệ thuật, lịch sử mỹ học và cả một chuyến du hành
về lịch sử nghệ thuật vào một văn bản ngắn gọn với những thông tin phong nhiêu
một cách siêu hạng” (như Carolyn W. Korsmeyer ở đại học New York đã nhận xét).
Vì vậy, cuốn sách là một trong những tài liệu đối với luận án trong việc nghiên cứu
khái niệm nghệ thuật, sự phát triển của nghệ thuật và vấn đề những tác nhân làm
biến đổi đánh giá, thưởng thức, sáng tạo nghệ thuật.
Ngoài ra, trong những năm gần đây, cũng có nhiều tác giả, nhiều nhà khoa
học quan tâm đến những vấn đề khác nhau của nghệ thuật như đời sống nghệ thuật,
hoạt động nghệ thuật, tác phẩm nghệ thuật, hay ý nghĩa thực tiễn của nghệ thuật
trong việc định hướng hoạt động của con người cũng như xây dựng hệ giá trị trong
xã hội... Sự quan tâm đó thể hiện qua rất nhiều các công trình như: Bàn về văn hoá

13


nghệ thuật của Trường Chinh, Nxb. Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, 1993; Văn hóa thẩm
mỹ và sự phát triển con người Việt Nam trong thế kỷ mới do tác giả Nguyễn Văn Huyên
chủ biên, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1997; Văn hóa thẩm mỹ và
sự phát triển năng lực sáng tạo của con người của Nguyễn Ngọc Thu, Nxb. Đại học
Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh; Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ của
Trần Tuý, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005; các luận văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ
như: Vai trò của nghệ thuật trong đời sống tinh thần của con người của Đào Duy
Thanh, Luận án tiến sĩ năm 1999; các bài viết trên các tạp chí như: “Mấy suy nghĩ về
vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Mỹ thuật
thời nay, số 12 năm 1996 và “Văn hóa nghệ thuật với vấn đề xây dựng và phát triển
nhân cách trong tiến trình đổi mới ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 1 năm
2001 của Đỗ Huy; “Cái đẹp nghệ thuật và đời sống xã hội”, Tạp chí Triết học, số 2
năm 1993 của Vũ Minh Tâm; “Đánh giá nghệ thuật - hệ chuẩn phổ biến của hoạt động
đánh giá thẩm mỹ”, Tạp chí Triết học, số 4 năm 2000 của Đào Duy Thanh; “Cội nguồn

của ý thức thẩm mỹ và sự thức tỉnh những năng lực sáng tạo nghệ thuật”, Tạp chí Triết
học, số 2 năm 2002 của Đỗ Thị Minh Thảo ...

Tóm lại, nghệ thuật được nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có
công trình tiếp cận ở góc độ bản thể luận, có công trình tiếp cận ở góc độ giá trị
luận, có công trình phân tích các loại hình của nghệ thuật, có công trình lại phân
tích mối quan hệ giữa nghệ thuật với hoạt động thực tiễn của con người, v.v... Tuy
nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu nghệ thuật dưới góc độ cụ thể,
chẳng hạn, nghiên cứu vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên hiện nay. Đây là hướng nghiên cứu mới của luận án, làm rõ khía cạnh triết
học của mối liên hệ giữa nghệ thuật với quá trình giáo dục thị hiếu thẩm mỹ nhằm
nhận thức rõ vai trò của nghệ thuật trong xây dựng chuẩn mực thẩm mỹ và hệ giá trị
thẩm mỹ ở một đối tượng cụ thể là sinh viên ở nước ta hiện nay.
1.1.2. Những nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ, giáo dục thẩm mỹ và giáo dục thị
hiếu thẩm mỹ
Thị hiếu thẩm mỹ cũng không phải là vấn đề mới mẻ trong lịch sử mỹ học. Từ
thế kỷ XVII - XVIII, đã có một số nhà triết học ở phương Tây... bắt đầu quan tâm

14


nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ. Người nghiên cứu thị hiếu thẩm mỹ rất công phu và
đầy đủ phải kể đến đầu tiên là I. Kant - nhà triết học của nền triết học cổ điển Đức thế
kỷ XVIII - XIX với tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán (được Bùi Văn Nam Sơn
dịch và chú giải, Nxb. Tri thức, 2007). Trong tác phẩm này, I. Kant đã trình bày toàn bộ
tư tưởng mỹ học của mình bằng việc tiến hành phân tích các dạng phán đoán phản tư
nhằm trả lời cho câu hỏi: tôi có thể cảm nhận và suy tưởng như thế nào về bản thân
mình và thế giới xung quanh? Có thể gọi Phê phán năng lực phán đoán là “viên đá
đỉnh vòm” trong toàn bộ toà nhà triết học Kant với vai trò là kết thúc của công cuộc
phê phán lý tính đồng thời tự đặt cho mình nhiệm vụ bàn về điều kiện khả thể cho hai

lĩnh vực khác xa nhau là năng lực phán đoán thẩm mỹ trong thế giới của cái đẹp, của
nghệ thuật, của tài năng thiên bẩm và năng lực phán đoán mục đích luận trong thế giới
hữu cơ cũng như trong sự thống nhất có hệ thống của toàn bộ giới tự nhiên. Vì vậy, tác
phẩm được chia thành hai phần rõ rệt, trong đó Kant dành toàn bộ phần một để bàn về
bản chất và hiệu lực của phán đoán thẩm mỹ.

Kant gọi thị hiếu thẩm mỹ là phán đoán thẩm mỹ hay phán đoán sở thích. Về
mặt chất, phán đoán sở thích là có tính thẩm mỹ mang tính chủ quan. Nó biểu hiện
cảm giác thích thú một cách độc lập, không phải tuân theo trình tự thông thường của
nhận thức. Theo Kant, phán đoán sở thích diễn tả sự thích thú, sự hài lòng của con
người về đối tượng. Sự thích thú, sự hài lòng đó không diễn tả tính chất nào ở đối
tượng mà chỉ là cách thức đối tượng tác động lên chúng ta; nó diễn ra trong chúng
ta mà chúng ta không cần quan tâm đến sự hiện hữu của vật. Vì vậy, Kant khẳng
định rằng, phán đoán thẩm mỹ về bản chất mang tính vô tư, không mục đích, không
khái niệm. Về mặt lượng, phán đoán sở thích mang tính phổ quát. Bởi vì, phán đoán
thẩm mỹ là sự vui sướng thuần tuý, không bị ràng buộc bởi bất kỳ ai hay bất kỳ
nguyên tắc nào. Kant lập luận rằng, sở dĩ phán đoán thẩm mỹ mang tính phổ quát vì
nó không đến từ cảm giác mà phát sinh từ trạng thái tâm lý con người đã thoát ra
mọi sự ràng buộc của những điều kiện riêng tư và đối tượng đến với ta một cách tự
do; khi đó, phán đoán thẩm mỹ tạo ra tín hiệu lan truyền của “tính giá trị hiệu lực
phổ biến”. Vì vậy, sở thích (thị hiếu) thẩm mỹ không dựa trên bất cứ một khái niệm
nào mà dựa trên tình cảm. Nói cách khác, phán đoán thẩm mỹ là phán đoán sở thích

15


thuần tuý chứ không phải là các loại phán đoán mang tính khái niệm hay mục đích.
Từ sự phân biệt ấy, Kant vạch ra đặc điểm của phán đoán thẩm mỹ là sự hài lòng do
cách thức cảm nhận của chủ thể về đối tượng quyết định và bao giờ cũng là một
phán đoán cá biệt về đối tượng. Cho nên, “không thể có một nguyên tắc khách quan

nào về sở thích” [57, tr.219] và “nguyên tắc của sở thích là nguyên tắc chủ quan của
năng lực phán đoán nói chung” [57, tr.221]. Như vậy, quan niệm của Kant về nguồn
gốc và bản chất của thị hiếu thẩm mỹ mang đậm tính duy tâm chủ quan. Đồng thời,
sự trình bày của Kant về phán đoán thẩm mỹ cũng cho thấy ông đã không giải quyết
được mối quan hệ giữa tính cá biệt và tính phổ biến của thị hiếu thẩm mỹ. Trong lập
luận của mình, Kant đưa ra phương thức để xác lập tính tất yếu về sự hài lòng đối
với cái đẹp là bằng sự suy tưởng. Vì là suy tưởng nên Kant cho rằng tính tất yếu về
cái đẹp thông qua phán đoán thẩm mỹ là một tất yếu đặc biệt còn được gọi là tất
yếu điển hình. Một sự tất yếu của việc mọi người nhất trí với một phán đoán được
coi là mẫu mực cho một qui tắc phổ quát về cái đẹp. Qui tắc phổ quát này, theo
Kant, ta không nêu rõ được nhưng vẫn tồn tại. Sở dĩ không nêu rõ ra được vì đây là
nguyên tắc hoàn toàn chủ quan trong sự xác định cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp
bằng cảm giác mà thôi chứ không bằng khái niệm nhưng vẫn có giá trị phổ quát.
Ông đi đến giả thiết rằng: trong phán đoán về sự hài lòng có sự tồn tại của sự cảm
quan chung. Chính cảm quan chung này quy định tính tất yếu phổ quát của phán
đoán thẩm mỹ. Tuy nhiên, thực tế vẫn xảy ra là khi đứng trước một bức tranh thì có
người say mê chiêm ngưỡng nhưng vẫn có kẻ thờ ơ. Rõ ràng ở mỗi người có quy
phạm hay chuẩn mực thẩm mỹ riêng của bản thân. Trong phán đoán sở thích thì
những quy phạm, chuẩn mực này không thể là khách quan. Vậy thì làm sao có cảm
quan chung về cái đẹp? Kant đành phải biện minh rằng: “... kinh nghiệm không thể
được lấy làm cơ sở cho cảm quan chung này được, bởi vì cảm quan chung là nhằm
biện minh cho những phán đoán có chứa đựng một cái “nên là” (ein Sollen); nó
không nói rằng bất cứ ai cũng sẽ đồng ý với phán đoán của ta, trái lại, nên đồng ý
với ta. (...) nên cảm quan chung chỉ là một quy phạm hay chuẩn mực đơn thuần có
tính lý tưởng mà thôi” [57, tr.133]. Như vậy, bản thân Kant đã tự mâu thuẫn với
chính mình khi xem xét về tính cá biệt và tính phổ biến của thị hiếu thẩm mỹ.

16



Tóm lại, dù có những phức tạp trong tư tưởng nhưng Phê phán năng lực
phán đoán của Kant mà đặc biệt là phần một của tác phẩm đã thể hiện một sự
nghiên cứu công phu về thị hiếu thẩm mỹ. Đây là một tư liệu quan trọng để luận án
khái quát, so sánh những quan điểm khác nhau về thị hiếu thẩm mỹ trong lịch sử mỹ
học khi phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về thị hiếu thẩm mỹ.
Sau Kant, các nhà mỹ học dân chủ Nga như N. Khasenco, N. Tsécnưsépxki,
G. Plêkhanốp... cũng có những công trình nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ. Một đại
diện trong số họ là G. Pơlêkhanốp. Những nghiên cứu về mỹ học và nghệ thuật của
ông được trình bày trong tác phẩm Nghệ thuật và đời sống xã hội (Từ Lâm dịch),
Nxb. Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, 1963, trong đó, những vấn đề về thị hiếu thẩm
mỹ được trình bày chủ yếu ở phần Bàn về nghệ thuật (từ trang 126 đến 164). Trên
quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, ông đã chứng minh mọi thị hiếu thẩm mỹ
đều có nguồn gốc xã hội của chúng. Ông cho rằng, sự phát triển của nghệ thuật
không thể tách rời sự phát triển của những điều kiện vật chất xã hội, do đó sự thay
đổi các thị hiếu thẩm mỹ qua các thời kỳ hoàn toàn phụ thuộc vào quá trình đấu
tranh giai cấp cũng như chịu sự quyết định của các điều kiện lịch sử và xã hội của
chúng. Theo ông, bản chất, thị hiếu, ước vọng, tập quán của con người đều thay đổi
theo những điều kiện sinh hoạt của họ. Vì vậy, “phải căn cứ vào tình trạng lực lượng
sản xuất của họ, nghĩa là vào phương thức sản xuất của họ, để tìm ra nguyên nhân
tại sao họ lại có những thị hiếu và quan niệm thẩm mỹ này, chứ không phải là
những thị hiếu và quan niệm khác” [97, tr.163]
Ở Việt Nam, các công trình của các tác giả Đỗ Huy, Đỗ Văn Khang, Nguyễn
Văn Huyên, Lê Ngọc Trà, Lâm Vinh, ... đều có đề cập đến thị hiếu thẩm mỹ. Trong
số đó, tác giả Đỗ Huy là người có nhiều công trình nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ
khá công phu và cặn kẽ.
Trong công trình Mỹ học với tư cách là một khoa học, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1996, Đỗ Huy đã dành toàn bộ chương X để bàn về bản chất của thị
hiếu thẩm mỹ. Coi thị hiếu thẩm mỹ là một biểu hiện quan trọng của năng lực thẩm
mỹ, là phong vũ biểu thẩm mỹ của con người trong thưởng thức, đánh giá và sáng
tạo nghệ thuật, tác giả đã giới thiệu một cách tỉ mỉ các quan điểm của mỹ học Mác –


17


Lênin về cơ sở hình thành của thị hiếu thẩm mỹ, bản chất xã hội và các đặc trưng
chủ yếu của thị hiếu thẩm mỹ thể hiện ở tính phản ứng mau lẹ, sự hào hứng, tính cá
biệt, tính hệ thống hình tượng, tính giai cấp, tính dân tộc. Tác giả còn có những
phân tích cặn kẽ hơn về thị hiếu thẩm mỹ trên quan điểm của mỹ học Mác – Lênin
trong công trình Mỹ học – Khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2001. Trên lập trường của mỹ học Mác – Lênin, tác giả phân tích các
quan điểm khác nhau về các quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực từ tri
giác, biểu tượng, phán đoán, nhu cầu, thị hiếu, lý tưởng đến cái đẹp, cái cao cả, cái
bi, cái hài, hưởng thụ, đáng giá và sáng tạo nghệ thuật, ... Đặc biệt, khi nghiên cứu
mặt chủ thể của các quan hệ thẩm mỹ, tác giả trình bày vai trò to lớn của chủ thể
trong quan hệ thẩm mỹ, trong đó nhấn mạnh vai trò của thị hiếu thẩm mỹ đồng thời
nêu bật quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về yêu
cầu nâng cao và phát huy vai trò của thị hiếu thẩm mỹ trong hưởng thụ, đánh giá và
sáng tạo nghệ thuật cho xã hội.
Cũng nghiên cứu về vấn đề thị hiếu thẩm mỹ, còn có công trình Thoả mãn
nhu cầu văn hoá và nâng cao thị hiếu nghệ thuật của tập thể tác giả Viện Văn hoá,
Nxb Văn hoá nghệ thuật – Hà Nội, 1987. Công trình này gồm tập hợp các bài viết
về các góc độ của nhu cầu văn hoá và thị hiếu nghệ thuật. Các tác giả qua các bài
viết của mình đều thể hiện quan điểm thống nhất giữa thị hiếu thẩm mỹ và thị hiếu
nghệ thuật, coi thị hiếu nghệ thuật là biểu hiện của thị hiếu thẩm mỹ trong lĩnh vực
nghệ thuật và thị hiếu thẩm mỹ là bộ phận quan trọng nhất của nhu cầu văn hoá, nhu
cầu sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật. Tác giả Dương Viết Á trong bài Thưởng
thức nghệ thuật cho rằng, thị hiếu thẩm mỹ có tác động trực tiếp đến thưởng thức
nghệ thuật của từng con người cụ thể. Theo ông, thị hiếu là cái “gu”, cái khiếu, cái
sở thích riêng của từng người. Thị hiếu tuy mang sắc thái phán đoán nhưng là phán
đoán cảm tính, trực quan, là sự đánh giá thẩm mỹ nhưng chưa phải là sự đánh giá lý

tính. Xét về quá trình nhận thức, thị hiếu thẩm mỹ thuộc giai đoạn trực quan sinh
động và có tác động sâu sắc đến quá trình thưởng thức nghệ thuật của con người.
Thị hiếu thẩm mỹ là nơi bộc lộ cái riêng của con người trong thưởng thức nghệ
thuật. Cái riêng của thị hiếu thẩm mỹ của một người là một hình thức cụ thể biểu

18


hiện và phản ánh trong một mức độ nhất định trình độ, xu hướng nói chung của một
xã hội, một thời đại. Vì vậy, nếu xoá bỏ thị hiếu thì không còn cái riêng của con
người nữa, lúc đó, xã hội sẽ mất hết ý nghĩa. Cùng chung quan điểm với tác giả
Dương Viết Á, tác giả Lê Anh Trà trong bài Vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ đã
phân tích cơ chế hình thành của thị hiếu thẩm mỹ trên cơ sở gắn liền thị hiếu thẩm
mỹ với nhân sinh quan, thế giới quan, trình độ văn hoá, lý tưởng, trí tuệ và toàn bộ
nhân cách, lối sống của chủ thể nhất định.
Tác giả Lâm Vinh trong Mỹ học: về cái đẹp – về nghệ thuật – về con người,
Nxb. Đại học Sư phạm – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 1997 cho rằng,
thị hiếu thẩm mỹ là một hiện tượng của sự thống nhất giữa tình cảm và lý trí trong
con người. Theo tác giả, thị hiếu thẩm mỹ cũng như mọi loại hiện tượng khác đều
mang tính chất quy luật. Có nhiều loại quy luật chi phối nhưng có ba loại quy luật
thường xuyên tác động đến sự hình thành và phát triển của thị hiếu thẩm mỹ. Đó là,
quy luật xã hội học, quy luật tâm lý và quy luật thẩm mỹ học. Trên cơ sở đó, ông đã
có những phân tích ngắn gọn nhưng sâu sắc về vai trò của từng loại quy luật khi tác
động đến sự hình thành và phát triển của thị hiếu thẩm mỹ.
Đặc biệt, những năm đầu của thế kỷ XXI, nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ có
công trình Luận án tiến sĩ Thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nó trong đời sống thẩm
mỹ của Nguyễn Chương Nhiếp, Viện Triết học, Trung tâm khoa học xã hội và Nhân
văn, Hà Nội, 2000. Trong luận án này, tác giả trình bày một cách có hệ thống các
phương diện khác nhau của thị hiếu thẩm mỹ và đời sống thẩm mỹ, phân tích sâu
sắc về vai trò của thị hiếu thẩm mỹ đối với đời sống thẩm mỹ, đồng thời đề xuất

một số nguyên tắc và giải pháp nhằm nâng cao và phát huy vai trò của thị hiếu thẩm
mỹ trong đời sống thẩm mỹ ở nước ta những năm đầu của thế kỷ XXI. Sau đó, trên
cơ sở kết quả của luận án, Nguyễn Chương Nhiếp đã cho xuất bản cuốn Thị hiếu
thẩm mỹ trong đời sống, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. Cuốn sách góp
phần làm sáng tỏ bản chất và vai trò của thị hiếu thẩm mỹ nhằm thực hiện yêu cầu
nâng cao và phát huy vai trò thị hiếu thẩm mỹ của công chúng, tạo điều kiện cho
công chúng hưởng thụ, đánh giá và sáng tạo ngày càng nhiều giá trị thẩm mỹ cho xã
hội.

19


Từ những nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ, các nhà nghiên cứu đã bày tỏ sự
quan tâm đến vai trò của giáo dục thẩm mỹ và giáo dục thị hiếu thẩm mỹ. Nếu
không kể đến các giáo trình mỹ học hay các tập bài giảng mỹ học vì trong đó phần
giáo dục thẩm mỹ là phần không thể thiếu thì nghiên cứu về giáo dục thẩm mỹ đầu
tiên phải kể đến là cuốn Giáo dục thẩm mỹ và xây dựng con người mới Việt Nam
của tác giả Lê Anh Trà, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982. Cuốn sách trình bày về vai trò
của giáo dục thẩm mỹ và yêu cầu xây dựng con người mới Việt Nam trước thời kỳ
đất nước đổi mới, trong đó, tác giả xác định nội dung cốt lõi của giáo dục thẩm mỹ
đối với việc xây dựng con người mới Việt Nam là cái đẹp mới xã hội chủ nghĩa –
cái đẹp bắt nguồn từ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc kết hợp với lối
sống xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất những lĩnh
vực của giáo dục thẩm mỹ, đó là giáo dục thẩm mỹ trong lĩnh vực thiên nhiên, giáo
dục thẩm mỹ qua lĩnh vực đời sống xã hội với môi trường gia đình, trường học, lĩnh
vực lao động sản xuất và bảo vệ tổ quốc, các nếp sống ngoài lao động và giáo dục
thẩm mỹ qua lĩnh vực nghệ thuật.
Tiếp theo là công trình Giáo dục thẩm mỹ - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
của Đỗ Huy, Nxb. Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1987. Cuốn sách trình bày những vấn
đề phương pháp luận trong việc giáo dục thẩm mỹ và xây dựng con người mới; Vai

trò của mỹ học Mác - Lênin trong việc định hướng sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ;
Bản chất của giáo dục thẩm mỹ trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta
xung quanh các chủ đề: Giáo dục thẩm mỹ và việc định hướng các nhu cầu thẩm
mỹ, giáo dục thẩm mỹ và việc xây dựng các thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh, giáo dục
thẩm mỹ và sự hình thành các khả năng sáng tạo. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra
các hình thức và các biện pháp giáo dục thẩm mỹ hiệu quả, đó là: giáo dục thẩm mỹ
bằng và thông qua lao động; giáo dục thẩm mỹ thông qua những tấm gương người
tốt, việc tốt; giáo dục thẩm mỹ thông qua hệ thống thông tin đại chúng và giáo dục
thẩm mỹ bằng nghệ thuật và trong nghệ thuật.
Trong vấn đề giáo dục thẩm mỹ, các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến
đối tượng là thế hệ trẻ. Đỗ Xuân Hà trong công trình Giáo dục thẩm mỹ, món nợ
lớn đối với thế hệ trẻ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997 đã chỉ ra rằng, nhiệm vụ giáo
dục

20


×