Tải bản đầy đủ (.docx) (169 trang)

Đặc điểm thuật ngữ đông y tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (910.63 KB, 169 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----- ***** ----NGUYỄN CHI LÊ

ĐẶC ĐIỂM THUẬT NGỮ ĐÔNG Y TIẾNG
VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số:

9229020

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Phạm Ngọc Hàm
2. PGS.TS Trương Việt
Bình

Hà Nội, 2019

1

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết
quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng
công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tôi xin cam đoan luận án được tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc và
kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước đã được tiếp thu một cách chân


thực, cẩn trọng, có trích nguồn dẫn cụ thể trong luận án.

Hà Nội, ngày

tháng năm 2019

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

2

2


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo khoa Ngôn ngữ học, Ban lãnh đạo
Học viện cùng toàn thể cán bộ, các thầy giáo, cô giáo của Học viện Khoa học xã hội đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu, triển khai
thực hiện luận án.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Phạm Ngọc Hàm và
PGS.TS Trương Việt Bình đã luôn tận tình hướng dẫn, định hướng cho tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành luận án của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam đã
quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu, hoàn thành nhiệm vụ được
giao. Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp luôn quan tâm, động viên và đồng hành cùng
tôi, tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận án này.

Hà Nội, ngày 09 tháng 09 năm 2019
Tác giả luận án

Nguyễn Chi Lê


3

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………
1. Lý do lựa chọn đề tài …………………………………………………………
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ………………………………………….
2.1. Mục đích nghiên cứu …………………………………………………………
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ……………………………………………………..…
3. Đối tượng, phạm vi và cách tiếp cận nghiên cứu ………………………….

1
1
2
2
2
2

3.1. Đối tượng nghiên cứu ………………………………………………………..

2

3.2. Phạm vi nghiên cứu …………………………………………………………..

3

3.3. Tư liệu nghiên cứu …………………………………………………………..


3

3.4. Cách tiếp cận nghiên cứu ……………………………………………………
4. Phương pháp nghiên cứu …………………..………………………………..
5. Điểm mới của luận án ……………………………………………………….
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án ……………………………………..

3
3
4
4

6.1.
Ý
nghĩa

…………………………………………………………………

4

luận

4

6.2. Ý nghĩa thực tiễn ………………………………………………………………
7. Bố cục luận án ………………………….…………………………………….
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ

5


LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ……………………………………………………….
1.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới và ở Việt Nam………….

6
6

1.1.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới …….………………………

6

1.1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở Việt Nam …………………………….

8

1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ Đông y ………………………………..

12

1.2.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ Trung y ở Trung Quốc ………………….

12

1.2.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ Đông y ở Việt Nam ……………………..

18

1.3. Một số vấn đề về lý thuyết liên quan đến đề tài ……………………………
1.3.1. Lý thuyết về thuật ngữ ………………………………….............................
1.3.1.1. Khái niệm về thuật ngữ ………………...……………..............................

1.3.1.2 Vai trò của thuật ngữ trong hệ thống ngôn ngữ …………….……..............
1.3.1.3. Đặc điểm của thuật ngữ …………………………………….......................
1.3.1.4. Thuật ngữ và một số lớp từ vựng liên quan ………………..……………

20
20
20
22
24
23

1.3.1.5. Hệ thống thuật ngữ Đông y tiếng Việt …………………………………...

26

1.3.2. Lý thuyết về cấu tạo và phương thức cấu tạo từ, ngữ ………………….

28

1.3.2.1. Quan niệm về từ và các kiểu cấu tạo từ ………………………………….
4
4

28


1.3.2.2. Quan niệm về ngữ và các kiểu cấu tạo ngữ ……………………………….

31


1.3.3. Lý thuyết về định danh …………………………………………………..

32

1.3.3.1. Khái niệm định danh ……………………………………………………..

32

1.3.3.2. Đơn vị định danh ………………………………………………………….

33

1.3.3.3. Cơ chế định danh ………………………………………………………….
1.4. Tiểu kết ………………………………………………………………………
2.1. Những con đường hình thành thuật ngữ Đông y tiếng Việt ………..........

34
35
37
37

2.1.1. Thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường ………………………………….….

38

2.1.2. Tạo mới thuật ngữ trên cơ sở ngữ liệu vốn có …………………..……….

40

2.1.2.1. Ghép các yếu tố ngôn ngữ sẵn có …………………………………………


41

1.2.2.2. Ghép lai ……………………………………………………………………

41

2.1.3. Vay mượn thuật ngữ Trung y – Trung Quốc ……………………………

41

2.2. Các mô hình cấu tạo thuật ngữ Đông y tiếng Việt ………………………..

41

2.2.1. Đặc điểm thuật ngữ Đông y có cấu tạo là từ ……………………………

43

2.2.1.1. Cấu tạo của thuật ngữ Đông y là từ đơn …………………………………

43

2.2.1.2. Cấu tạo của thuật ngữ Đông y là từ ghép ……………………………….

44

2.3. Đặc điểm thuật ngữ Đông y là ngữ định danh …………………………….
2.3.1. Thuật ngữ Đông y là ngữ định danh 3 thành tố ………….…………….
2.3.1.1 Về từ loại ………………………..……………………………….............

2.3.1.2 Về nguồn gốc ………. …………….……………………….………...........
2.3.1.3 Về mô hình cấu tạo ……………………………...………………………...
2.3.2. Thuật ngữ Đông y là ngữ định danh 4 thành tố ………….…………….
2.3.2.1 Về từ loại …………………..………….………………..………….............
2.3.2.2 Về nguồn gốc ………………… .……………………...……………...........
2.3.2.3 Về mô hình cấu tạo ……………………………...………………………...
2.3.3. Thuật ngữ Đông y là ngữ định danh 5 thành tố ………….…………….
2.3.3.1 Về từ loại …………………………..………………………………............
2.3.3.2 Về nguồn gốc ……………. ………………………………………...........
2.3.3.3 Về mô hình cấu tạo …………………………...……….………………...
2.3.4. Thuật ngữ Đông y là ngữ định danh 6 thành tố ………….…………….
2.3.4.1 Về từ loại …………………………..………………………………............
2.3.4.2 Về nguồn gốc …………. …………………………….……………...........
2.3.4.3 Về mô hình cấu tạo ……………………………………....………..……...
2.3.5. Thuật ngữ Đông y là ngữ định danh 7 thành tố ………….…………….

61
62
62
62
62
65
65
65
65
72
72
72
72
79

79
80
81
85

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA THUẬT NGỮ ĐÔNG Y TIẾNG VIỆT …..

5

5


2.3.5.1 Về từ loại …………………………..……………………………...............
2.3.5.2 Về nguồn gốc ……………. ……………………………………….............
2.3.5.3 Về mô hình cấu tạo ………………………………….…………..………...
2.4. Một số nhận xét về đặc điểm cấu tạo thuật ngữ Đông y tiếng Việt ……….
2.5 Tiểu kết ……………………………………………………………………….
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH CỦA THUẬT NGỮ ĐÔNG Y
TIẾNG VIỆT …………………………………………………………………….

85
85
86
89
93
96
96
96
96
96

97
97
97
97
98
98

3.1 Các lớp thuật ngữ thuộc các phạm trù chuyên môn hẹp của Đông y ……
3.1.1 Thuật ngữ lý luận cơ bản Đông y ……………………………………………
3.1.2 Thuật ngữ chẩn đoán học Đông y …………………………………………...
3.1.3 Thuật ngữ bệnh học Đông y …………………………………………………
3.1.4 Thuật ngữ điều trị học Đông y ………………………………………………
3.1.5 Thuật ngữ châm cứu – huyệt vị ……………………………………………...
3.1.6 Thuật ngữ Đông dược ………………………………………………………..
3.1.7 Thuật ngữ phương tễ ………………………………………………………...
3.2. Đặc điểm định danh thuật ngữ đông y tiếng Việt ………………………….
3.2.1 Đặc điểm định danh của thuật ngữ Đông y tiếng Việt
xét theo kiểu
ngữ nghĩa
3.2.2 Đặc điểm định danh thuật ngữ Đông y tiếng Việt xét
theo cách thức biểu thị
3.2.2.1 Các thuật ngữ lý luận cơ bản Đông y ……………………………………..
3.2.2.2 Các thuật ngữ chẩn đoán học Đông y …………………………………….
3.2.2.3 Các thuật ngữ bệnh học Đông y …………………………………………..
3.2.2.4 Các thuật ngữ điều trị học Đông y …………………………………………
3.2.2.5 Các thuật ngữ châm cứu – huyệt vị ………………………………………..
3.2.2.6 Các thuật ngữ Đông dược ………………………………………………….
3.2.2.7 Các thuật ngữ phương tễ …………………………………………………..
3.3. Một số nhận xét về đặc điểm định danh của thuật ngữ Đông y tiếng Việt


101
108
115
121
125
134
139
142

3.4. Tiểu kết ……………………………………………………………………..
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………….
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ………………….
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………….

144
146
150
151

6

6

99


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
1.1. Nghiên cứu hệ thuật ngữ khoa học nhằm hệ thống hóa và chuẩn hóa hệ thống
thuật ngữ của một ngành khoa học là cần thiết, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế

- bối cảnh xã hội đòi hỏi các ngành khoa học cần có các hệ thuật ngữ mang tính hiện đại,
phù hợp với thực tiễn phát triển của khoa học và các hệ thống thuật ngữ chuẩn quốc tế.
Nghiên cứu, xây dựng hệ thống thuật ngữ và biên soạn, xuất bản các từ điển thuật ngữ
chuyên ngành đang là nhu cầu cần thiết trong xu thế phát triển mạnh mẽ của tất cả các
ngành khoa học trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Kết quả nghiên cứu hệ thống thuật
ngữ của các chuyên ngành cụ thể sẽ góp phần thiết thực vào việc phát triển khoa học, kĩ
thuật và công nghệ của đất nước.
1.2. Trong tiến trình hình thành và phát triển của nền văn minh nhân loại, y học cổ
truyền được coi là một di sản văn hóa dân tộc, nó thể hiện rõ nét bản sắc văn hóa của một
dân tộc, đặc trưng của khu vực, vùng miền. Đây là một di sản cần được bảo vệ, lưu trữ và
phát triển. Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và kinh tế kỹ thuật,
y học cổ truyền đã không ngừng lớn mạnh và có sức ảnh hưởng sâu rộng tới sự phát triển
kinh tế, khoa học, văn hóa và xã hội của một quốc gia. Công cuộc phát triển và kế thừa
thành quả của nền y dược học cổ truyền đã khiến cho một khối lượng tri thức đồ sộ về y lý,
đông dược, phương tễ, huyệt vị, châm cứu, thực tiễn lâm sàng,… được diễn đạt bằng ngôn
ngữ khoa học ngày càng trở nên phong phú, đa đạng và độc đáo, tạo nên một hệ thuật ngữ
khoa học về Đông y. Những kho tàng kiến thức về y dược học cổ truyền được thể hiện qua
các thuật ngữ Đông y này đã được các thế hệ vận dụng một cách có hệ thống vào thực tiễn
công tác khám chữa bệnh, nghiên cứu khoa học, bảo tồn và lưu trữ. Có thể nói, thuật ngữ
Đông y là một trong những thuật ngữ quan trọng của hệ thống từ vựng trong ngôn ngữ, được
con người nhận thức và sử dụng từ rất sớm. Chúng có số lượng lớn, phản ánh quá trình nhân
loại tìm kiếm các loại thảo dược từ phổ thông đến quý hiếm, các phương pháp chẩn đoán
bệnh và khám chữa bệnh cho bản thân, cho cộng đồng từ đơn giản đến phức tạp. Vì vậy,
thuật ngữ Đông y phản ánh rõ những nét đặc trưng văn hóa dân tộc trong phương thức định
danh và cấu tạo ngữ nghĩa. Nghiên cứu hệ thống thuật ngữ Đông y của các quốc gia có nền y
học cổ truyền phát triển là một việc làm không chỉ có giá trị về mặt ngôn ngữ học mà còn có
ý nghĩa quan trọng, góp phần tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc của các quốc gia đó.
Dưới góc độ chuyên ngành y học cổ truyền, thuật ngữ Đông y phần lớn được thể
hiện qua giáo trình, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo và các cuốn từ điển về Đông y…
Nhờ vậy, hệ thuật ngữ Đông y đã được lưu trữ, truyền tải một cách khoa học và có hệ

thống. Tuy nhiên, dưới góc độ ngôn ngữ học, thuật ngữ Đông y chưa thực sự được giới
chuyên môn quan tâm, chú ý. Việc khảo sát một cách chuyên sâu, có hệ thống và toàn
7

7


diện hệ thống thuật ngữ Đông y trong tiếng Việt vẫn còn là một khoảng trống lớn bị bỏ
ngỏ. Chính vì những lý do trên, là một giảng viên của Học viện Y Dược học cổ truyền
Việt Nam, chúng tôi đã lựa chọn “Đặc điểm thuật ngữ Đông y tiếng Việt” làm đề tài
nghiên cứu của mình. Luận án của chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu những đặc điểm cấu
tạo và đặc điểm định danh của hệ thuật ngữ Đông y tiếng Việt. Chúng tôi hi vọng rằng các
kết quả nghiên cứu của luận án sẽ trở thành nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác
giảng dạy ngoại ngữ chuyên ngành, biên soạn từ điển chuyên ngành, cũng như góp phần
vào việc biên soạn sách giáo khoa, tài liệu tham khảo về ngoại ngữ chuyên ngành y dược
học cổ truyền. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận án cũng sẽ trở thành nguồn tài
liệu tham khảo hữu ích cho các dược tá, các y, bác sĩ trong công tác khám, chữa và điều
trị bệnh bằng các bài thuốc Đông y cho bệnh nhân.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là thông qua khảo sát, miêu tả, phân tích các thuật
ngữ Đông y tiếng Việt, nhằm làm sáng tỏ đặc trưng về phương diện cấu tạo và định danh
của hệ thống thuật ngữ này. Trong chừng mực nhất định, luận án cũng liên hệ với thực tế
giảng dạy, biên phiên dịch, biên soạn giáo trình ngoại ngữ chuyên ngành Y học cổ truyền
để làm nổi bật tính chuyên môn, tính đặc thù, tính độc đáo của thuật ngữ Đông y trong
tiếng Việt.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, chúng tôi đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về thuật ngữ trên thế giới, đặc biệt là nghiên cứu
về thuật ngữ Trung y ở Trung Quốc và Việt Nam; hệ thống hóa các vấn đề lý luận về ngôn

ngữ khoa học và lý luận liên quan đến thuật ngữ, từ đó xác lập khung lý thuyết cho luận
án.
- Khảo sát, thống kê, phân loại thuật ngữ Đông y tiếng Việt; tìm hiểu đặc điểm cấu
tạo thuật ngữ Đông y gồm: nhận diện thuật ngữ, tìm hiểu đặc điểm cấu tạo, miêu tả và
phân tích các mô hình cấu tạo thuật ngữ Đông y tiếng Việt.
- Chỉ ra đặc điểm định danh của thuật ngữ Đông y tiếng Việt về các mặt: cách thức
biểu thị, đặc điểm phân định nội dung biểu đạt theo tính chuyên môn làm cơ sở định danh
của hệ thuật ngữ.
3. Đối tượng, phạm vi và cách tiếp cận nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các thuật ngữ Đông y trong tiếng Việt hiện đại.
Chúng tôi quan niệm thuật ngữ Đông y là những từ, ngữ bao gồm cụm từ cố định biểu đạt
các khái niệm được sử dụng trong lĩnh vực y học cổ truyền Việt Nam, bao gồm các thuật
8

8


ngữ về lý luận y học cổ truyền, đông dược, phương tễ, châm cứu – huyệt vị, các chuyên
khoa y học cổ truyền: nội, ngoại, sản, nhi, lão v.v...
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu đặc điểm thuật ngữ Đông y tiếng Việt trên các
phương diện: đặc điểm cấu tạo, đặc điểm ngữ nghĩa và phương thức định danh. Trong
giới hạn của phạm vi nghiên cứu này, luận án hướng tới việc đưa ra khung nghiên cứu
tổng quát về hệ thuật ngữ Đông y tiếng Việt.
3.3. Tư liệu nghiên cứu
Tư liệu dùng để khảo sát chủ yếu là:
(1)Hoàng Bảo Châu, Nguyễn Đức Đoàn (2007), Danh từ thuật ngữ Y – Dược cổ
truyền, Nxb Y học.
(2) Nguyễn Đức Đoàn (2004), Nam y nghiệm phương, Nxb Y học.

(3) Nguyễn Trung Hòa (2009), Đông y toàn tập, Nxb Thuận Hóa.
(4) Trần Văn Kỳ(2000), Từ điển Y học cổ truyền Hán – Việt – Anh, Nxb Y học.
(5) Đỗ Tất Lợi (2009), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Y học.
(6) Lê Quý Ngưu (2003), Từ điển huyệt vị châm cứu, Nxb Thuận Hóa.
(7) Nguyễn Thiện Quyến, Nguyễn Mộng Hưng (1990), Từ điển Đông y học cổ
truyền, Nxb Khoa học xã hội.
(8) Lương y Trần Khiết (1988), Y học cổ truyền – Lý, Pháp, Phương, Dược, Nxb Y học.
(9) Chu Quốc Trường (chủ biên-biên dịch), (2009), Thuật ngữ y học cổ truyền của
Tổ chức y tế thế giới khu vực Tây Thái Bình Dương.
3.4. Cách tiếp cận nghiên cứu
Nghiên cứu thuật ngữ Đông y tiếng Việt, chúng tôi sử dụng một số cách tiếp cận sau đây:
- Cách tiếp cận hệ thống: từ các đơn vị thuật ngữ Đông y được khảo sát trong các
cuốn từ điển chuyên ngành, luận án tiến hành tổng hợp, phân tích cấu trúc thuật ngữ này
được tạo nên bởi các yếu tố nào, đặc điểm của các yếu tố đó ra sao, giữa chúng có mối
quan hệ và được kết hợp với nhau như thế nào để cấu tạo thành thuật ngữ Đông y. Từ đó,
xác lập các mô hình của các yếu tố tạo thành thuật ngữ Đông y, chỉ ra các đặc điểm chung
và riêng của hệ thuật ngữ này.
- Cách tiếp cận đồng đại: luận án xem xét các thuật ngữ Đông y tiếng Việt trên
phương diện đồng đại, trong tiếng Việt hiện đại.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, luận án sử dụng các phương pháp
và thủ pháp nghiên cứu sau đây:
a. Phương pháp miêu tả
9

9


Phương pháp miêu tả dùng để miêu tả đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của các
thuật ngữ Đông y, các kiểu cấu tạo thuật ngữ, các lớp thuật ngữ được sử dụng trong lĩnh

vực chuyên môn Đông y, và đặc điểm định danh của hệ thuật ngữ Đông y tiếng Việt.
b.Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp
Phương pháp này được áp dụng để phân tích cấu tạo thuật ngữ theo thành tố trực
tiếp nhằm xác định các yếu tố cấu tạo nên thuật ngữ. Từ đó, tìm ra các nguyên tắc, cơ sở
tạo thành thuật ngữ Đông y tiếng Việt cũng như các mô hình, quy luật cấu tạo, nguồn gốc
của đơn vị cấu tạo và mô hình định danh của lớp thuật ngữ này.
c. Phương pháp phân tích thành tố nghĩa
Phương pháp phân tích thành tố nghĩa được áp dụng để nghiên cứu ngữ nghĩa của
các thuật ngữ Đông y tiếng Việt, từ đó xây dựng các mô hình định danh thuật ngữ, cơ sở
định danh của hệ thuật ngữ và các kiểu quan hệ ngữ nghĩa tạo nên thuật ngữ mới trong
chuyên ngành Đông y Việt Nam.
d. Thủ pháp thống kê
Thủ pháp thống kê được sử dụng để thu thập tư liệu từ các nguồn khác nhau. Trên
cơ sở đó, luận án tiến hành phân loại tư liêu, hệ thống hóa, thống kê về từ loại, các thành
tố chính, các thành tố phụ, các yếu tố độc lập và các yếu tố không độc lập cấu tạo thuật
ngữ, nguồn gốc của các thành tố cấu tạo thuật ngữ, các đặc trưng được chọn làm cơ sở
định danh thuật ngữ Đông y, v.v… và xây dựng các sơ đồ, bảng biểu, v.v…Từ đó, dựa
vào số liệu thống kê chính xác về thành tố cấu tạo, tần số, tần suất xuất hiện, tỉ lệ phần
trăm của của từng nhóm lĩnh vực trong hệ thuật ngữ, để làm cơ sở cho những miêu tả,
phân tích, nhận xét, đánh giá và kết luận của luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án này là công trình đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu, khảo sát và phân tích
một cách hệ thống, toàn diện về đặc điểm cấu tạo, con đường hình thành, phương thức
định danh và nét khác biệt về đặc trưng định danh của thuật ngữ Đông y tiếng Việt. Dựa
vào kết quả nghiên cứu đạt được, luận án sẽ giúp cho các giảng viên giảng dạy chuyên
ngành, các giảng viên giảng dạy ngoại ngữ chuyên ngành, những người làm công tác biên
soạn giáo trình, từ điển, các học sinh – sinh viên chuyên ngành y học cổ truyền…có được
một cái nhìn tổng quát về thuật ngữ Đông y tiếng Việt.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp thêm vào việc nghiên cứu lí thuyết chung

về thuật ngữ học, góp phần làm sáng tỏ các luận điểm đại cương về đặc điểm của thuật
ngữ chuyên ngành y học cổ truyền; đồng thời chỉ ra những đặc điểm riêng về phương diện
cấu tạo, đặc điểm ngữ nghĩa và phương thức định danh của thuật ngữ Đông y tiếng Việt.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
10

10


Luận án sẽ trở thành cầu nối tri thức ngôn ngữ học với tri thức khoa học của ngành y
dược học cổ truyền, là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà chuyên môn, các nhà khoa
học và người sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp trong công tác giảng dạy, học tập, nghiên
cứu và công tác khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền. Kết quả nghiên cứu của luận án

có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, biên phiên
dịch, biên soạn giáo trình chuyên ngành y dược học và giảng dạy chuyên ngành y học cổ
truyền ở nước ta.
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa thiết thực cho việc định hướng để xây
dựng, biên soạn và chỉnh lý các thuật ngữ Đông y trong giáo trình, sách giáo khoa và từ
điển chuyên ngành; là cơ sở khoa học, khách quan để đề xuất lựa chọn, chuẩn hóa và phát
triển hệ thuật ngữ Đông y tiếng Việt nói riêng, cũng như sự phát triển ngành y học cổ
truyền Việt Nam nói chung.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, thư mục Tài liệu tham khảo và Phụ lục kèm theo,
luận án cấu tạo gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận của đề tài
CHƯƠNG 2: Đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ Đông y tiếng Việt
CHƯƠNG 3: Đặc điểm định danh của thuật ngữ Đông y tiếng Việt


11

11


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Dẫn nhập
Trong bất cứ lĩnh vực khoa học hoặc hoạt động chuyên môn nào cũng đều có một
lớp từ vựng chuyên dụng để biểu thị các khái niệm hay đối tượng thuộc lĩnh vực khoa học
hoặc hoạt động chuyên môn đó. Lớp từ vựng chuyên dụng đó được gọi là hệ thuật ngữ.
Là bộ phận quan trọng trong từ vựng của mỗi ngôn ngữ, thuật ngữ chiếm một tỉ lệ lớn
trong vốn từ, đồng thời cũng là bộ phận phát triển nhanh nhất so với các lớp từ ngữ khác.
Đặc biệt, thuật ngữ có một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của khoa học,
do đó, chúng cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, cải tạo xã hội.
Vì vậy, thuật ngữ nói chung và thuật ngữ chuyên ngành nói riêng là một mảng đề tài có
tầm quan trọng đặc biệt và mang ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Từ trước
đến nay đã có rất nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu mảng đề tài này
dưới nhiều góc độ khác nhau. Sau đây, chúng tôi sẽ điểm lại và phác họa bức tranh tổng
quát về tình hình nghiên cứu thuật ngữ nói chung, thuật ngữ Đông y nói riêng trên thế
giới và ở Việt Nam.
1.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới và ở Việt Nam
1.1.1.Tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới
Thuật ngữ học là một bộ môn liên quan đến việc nghiên cứu và hệ thống các bộ
phận từ ngữ chuyên môn có tính đặc thù của một ngành khoa học. Từ thế kỷ XVIII, các
hoạt động liên quan đến thuật ngữ đã bắt đầu manh nha, với các nghiên cứu tập trung chủ
yếu về việc xây dựng và xác định các nguyên tắc cho một số hệ thuật ngữ đặc biệt. Các
nghiên cứu trong lĩnh vực hóa học của Lavoisier và Berthollet hay các nghiên cứu trong
thực vật học và sinh vật học của Linne trong thế kỷ XVIII đã cho thấy nhu cầu về loại từ

vựng khoa học chuyên ngành để diễn đạt các kiến thức chuyên môn sâu. Trong thế kỷ
XIX, nhu cầu này ngày càng được khẳng định và là đề tài chính thức của nhiều hội nghị
khoa học chuyên ngành: hội nghị của các nhà thực vật học năm 1867, hội nghị của các
nhà sinh vật học năm 1889, hội nghị của các nhà hóa học năm 1892.
Mặc dù vấn đề thuật ngữ đã được quan tâm từ rất lâu, tuy nhiên phải tới thế kỷ XX,
thuật ngữ học mới thực sự được khẳng định như một ngành khoa học. Việc nghiên cứu
thuật ngữ xuất phát từ hai vấn đề nền tảng: thứ nhất là do kết quả quan sát quá trình hình
thành lý thuyết nhằm đáp ứng sự ra đời của một phận từ ngữ đặc biệt trong ngôn ngữ
chuyên môn; thứ hai là do trên thực tế, trong giao tiếp, nhóm từ ngữ đặc biệt này được coi
là những từ ngữ có ứng dụng độc lập.
Các vấn đề về thuật ngữ khoa học chỉ thực sự được bàn đến từ những năm 30 của
thế kỷ XX khi hai trung tâm nghiên cứu thuật ngữ lớn ra đời (trung tâm thứ nhất đặt tại
Áo, trung tâm thứ hai đặt tại Liên Xô) với mục đích chỉnh lý những thuật ngữ hiện có và
xây dựng các thuật ngữ mới.
12
12


Trung tâm thuật ngữ học Xô Viết gắn liền với tên tuổi của các nhà khoa học nổi tiếng,
như: D.S.Lotte, V.V.Vinogradov, A.I.Moiseev, A.A. Reformatskij, V.P. Danilenko, A.C.
Gerd, S.I. Corsunop, T.L Kandelaki, G.O. Vinokur, v.v... Những nghiên cứu của họ đi sâu
vào phân tích bản chất, chức năng, mối quan hệ của thuật ngữ với các khái niệm, định nghĩa
và tiêu chuẩn của thuật ngữ [13], [17], [32], [52], [57], [76]. Đối với các công trình nghiên
cứu về thuật ngữ của các nhà ngôn ngữ học Xô Viết, có thể chia thành bốn nhóm: (1) Nhóm
nghiên cứu về bản chất của thuật ngữ, điển hình là N.P. Cudoxin; (2) Nhóm nghiên cứu về
chức năng của thuật ngữ, tiêu biểu là G.O Vinnokur, L.A Kapatnadze, X.M Burdin;
(3)Nhóm nghiên cứu nghiêng về xác định thuật ngữ trong mối quan hệ của nó với khái
niệm, có O.X Akhmanova, A.A Reformatskij, v.v...; (4) Nhóm nghiên cứu về khái niệm và
định nghĩa, điển hình có T.L. Kandelaka, V.P. Đanilencô, A.X. Lotte, v.v... Ngoài ra, các nhà
nghiên cứu Xô Viết cũng quan tâm nghiên cứu về tiêu chuẩn của thuật ngữ, chẳng hạn như

A.X Lotte, A.A Refomatxki [dẫn theo 27].
Tại Trung tâm thuật ngữ học ở Áo, khi nghiên cứu các thuật ngữ, È. Vjuster – người
đứng đầu trung tâm đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc đưa ra các nguyên tắc
thuật ngữ khoa học và từ điển học. Theo ông, đó là cơ sở cho các hoạt động nghiên cứu và
biên soạn thuật ngữ. Ông là người có đóng góp quan trọng trong việc soạn thảo bản chỉ
dẫn biên soạn các cuốn từ điển thuật ngữ quốc tế, khởi thảo ra vấn đề xây dựng và chỉnh
lý các hệ thống thuật ngữ.
Ngoài ra, ở Tiệp Khắc, ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, các nhà khoa học
cũng đã nghiên cứu về thuật ngữ học. Họ tập trung vào việc miêu tả cấu trúc và chức năng
của các ngôn ngữ chuyên ngành, trong đó thuật ngữ đóng vai trò quan trọng, vấn đề chuẩn
hóa các ngôn ngữ và chuẩn hóa thuật ngữ cũng rất được quan tâm.
Bên cạnh đó, nói đến thuật ngữ học còn phải kể đến các nhà thuật ngữ học Âu – Mỹ
như E.Wuster (Đức), R.W. Brown (Mỹ), W.E. Flood (Mỹ), J.C. Segen (Mỹ),
J.C.Boulanger (Anh). Các nhà thuật ngữ này nghiên cứu thuật ngữ dưới góc độ khái niệm
hay định nghĩa. Ngoài ra, họ còn đưa ra các tiêu chuẩn chung của thuật ngữ. Chẳng hạn,
J.C. Segen (Mỹ) đã đưa ra bốn tiêu chuẩn chung của thuật ngữ, gồm: tính hệ thống, tính
quy ước, tính ổn định và tính chính xác [dẫn theo 31].
Có thể nói, khi đề cập tới hướng nghiên cứu thuật ngữ theo sự điều chỉnh phù hợp với
hệ thống ngôn ngữ, người ta không thể không nhắc đến ba trường phái và cũng là ba cái nôi
nghiên cứu thuật ngữ tiêu biểu và lớn nhất trên thế giới là Liên Xô, Cộng hòa Séc và Áo.
Cả ba trường phái này đều có chung một quan điểm đó là nghiên cứu thuật ngữ dựa trên
ngôn ngữ học, họ đều xem thuật ngữ như là một phương tiện diễn đạt và giao tiếp.
Thuật ngữ học có gắn kết chặt chẽ với các chuyên ngành hẹp, chuyên biệt. Do đó, bên
cạnh cái chung, mỗi ngành khoa học đều tạo dựng cho mình các cơ sở xây dựng nên những
hệ thống thuật ngữ chuyên ngành khác nhau, vì thế chúng có những đặc thù riêng. Tuy
nhiên, thuật ngữ không phải là mục đích tự nó mà còn là để phục vụ cho khoa học, công
13

13



nghệ và hoạt động giao tiếp, truyền thông, nó phải gắn với các hoạt động trong phạm vi phục
vụ cho các lĩnh vực khoa học khác.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở Việt Nam
Tuy xuất hiện khá muộn, nhưng thuật ngữ tiếng Việt đã trải qua những giai đoạn phát
triển khác nhau cùng với những lĩnh vực nghiên cứu về thuật ngữ khác nhau. Theo Hà
Quang Năng [61], lịch sử tiếng Việt hiện đại nước ta trải qua bốn dấu mốc lớn, đó là: a. Sự
xuất hiện của người Pháp và sự ra đời của chữ quốc ngữ; b. Sau cách mạng tháng 8; c.
Những năm 60 của thế kỷ 20 và sau năm 1985. Những cột mốc này đã ghi nhận sự phát
triển mạnh mẽ của tiếng Việt, đó cũng là những dấu mốc quan trọng của lịch sử phát triển
thuật ngữ tiếng Việt.
Ở thời kỳ đầu, số lượng thuật ngữ tiếng Việt không nhiều, chất lượng chưa cao, song
có thể coi đây là bước đầu đặt cơ sở cho việc nghiên cứu thuật ngữ. Về các thuật ngữ khoa
học kỹ thuật thì có các tạp chí khoa học, chuyên môn, trong đó có Khoa học tạp chí (19311933) và Báo khoa học (1942-1943). Về thuật ngữ khoa học nước ngoài thì có các tác giả,
tác phẩm tiêu biểu như Danh từ khoa học (Toán, Lý, Hóa, Cơ, Thiên Văn) của Hoàng Xuân
Hãn (1948, Khoa học tùng thư, Nhà sách Vĩnh Bảo, Sài Gòn), Danh từ vạn vật học của Đào
Văn Tiến (do Tổng Hội sinh viên cứu quốc xuất bản sau Cách mạng tháng Tám, Hà Nội,
1945); Danh từ thực vật của Nguyễn Hữu Quán và Lê Văn Căn (Tủ sách nông học Việt
Nam, Thuận Hóa, 1945); Danh từ y học của Lê Khắc Thiên và Phạm Khắc Quảng, v.v...
Trong số các học giả thời kỳ này, Hoàng Xuân Hãn có thể coi là người đầu tiên đặt vấn đề
xem xét các thuật ngữ khoa học kỹ thuật một cách có hệ thống. Trong tác phẩm của mình,
ông đề ra cho thuật ngữ 8 yêu cầu và nêu lên 3 phương sách đặt thuật ngữ khoa học, đó là:
dùng tiếng thông thường, phiên âm, lấy gốc chữ Nho [dẫn theo 40]. Vận dụng 3 phương
thức đó, Hoàng Xuân Hãn đã xây dựng được cuốn thuật ngữ đối chiếu Pháp – Việt đầu tiên
về các môn toán, lý, cơ, thiên văn dùng cho bậc trung học. Quan điểm của ông được đánh
giá là “tuy có hạn chế về mặt lịch sử nhưng đã ghi dấu ấn quan trọng trong việc biên soạn
nghiên cứu thuật ngữ tiếng Việt” [28].
Cách mạng tháng Tám thành công, tiếng Việt đã trở thành ngôn ngữ chính thức của nhà
nước Việt Nam, được sử dụng rộng rãi trong tất cả mọi lĩnh vực xã hội, chính trị, kinh tế, văn
hóa, quân sự, nghệ thuật, v.v... và được sử dụng làm phương tiện giảng dạy duy nhất ở tất cả

các cấp học. Nhờ vậy, thuật ngữ khoa học tiếng Việt cũng được phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt
là từ sau ngày hòa bình lập lại (1954), miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội đã tạo
ra bước phát triển mới cho việc nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ khoa học tiếng Việt. Chính
vì vậy, trong giai đoạn này, vấn đề xây dựng và thống nhất thuật ngữ thực sự trở thành mối
quan tâm lớn của các nhà khoa học Việt Nam. Tuy nhiên, khi xây dựng thuật ngữ, các nhà
khoa học có quan điểm hết sức khác nhau, không có được một đường hướng chung thống
nhất. Trước tình hình đó, năm 1960, Ủy ban Khoa học Nhà nước đã ban hành Quy định tạm
thời về nguyên tắc biên soạn danh từ khoa học tự nhiên [dẫn theo 36] và bản Nguyên tắc xây
dựng thuật ngữ Khoa học xã hội. Hai bản qui định này đã phát huy được tác dụng nhất định
14
14


trong việc thúc đẩy các ngành chuyên môn xây dựng thuật ngữ theo một hướng thống nhất
hơn. Nhờ vậy, hệ thống thuật ngữ khoa học tiếng Việt đã có thể đáp ứng được nhu cầu nghiên
cứu, học tập và giảng dạy kể cả ở bậc trên đại học. Tuy vậy, do có những điểm quy định chưa
rõ ràng, thiếu chặt chẽ nên khi áp dụng vào thực tiễn các tiểu ban thuật ngữ có quan niệm và
giải quyết khác nhau. Vì thế, tình trạng không thống nhất trong cách đặt thuật ngữ mới cũng
như trong cách phiên thuật ngữ nước ngoài vẫn còn khá phổ biến.
Trước tình hình đó, Ủy ban khoa học Nhà nước cũng đã tổ chức nhiều hội nghị bàn về
vấn đề thuật ngữ, như: Hội nghị bàn về vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học được tổ chức
vào tháng 12/1964; Hội nghị trưng cầu ý kiến về vấn đề dùng thuật ngữ khoa học tháng
5/1965. Và sau đó, Hội đồng Thuật ngữ - Từ điển khoa học được thành lập. Hội đồng đã
đưa ra một đề án Quy tắc phiên thuật ngữ khoa học nước ngoài ra tiếng Việt, được Ủy ban
Khoa học xã hội công bố dưới dạng quy định tạm thời vào tháng 6/1966. Quy tắc này cũng
đã góp phần thúc đẩy công tác nghiên cứu thuật ngữ lên một bước mới và cho ra đời một
loạt gần 50 tập thuật ngữ đối chiếu. Do vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất về thuật
ngữ khoa học tiếng Việt nên chỉ trong hai năm 1978 và 1979 đã có 4 hội nghị khoa học về
chuẩn mực hóa chính tả và thuật ngữ đã được tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà văn
hóa, các nhà khoa học, nhà chuyên môn trong cả nước. Rất nhiều ý kiến đã được đưa ra và

đăng tải trên Tạp chí Ngôn ngữ, một tạp chí uy tín và là diễn đàn để các nhà khoa học chia
sẻ những lý luận, quan điểm khác nhau về ngôn ngữ, với các bài của Lê Khả Kế [34], [35],
Lưu Vân Lăng [46], [47], Nguyễn Như Ý [107], Hoàng Văn Hành [24], Lê Văn Thới [87],
Nguyễn Thạc Cát [1], v.v... Nội dung chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau: xác định khái
niệm thuật ngữ, tiêu chuẩn của thuật ngữ, phương thức xây dựng thuật ngữ, vấn đề vay
mượn thuật ngữ nước ngoài, có nên chấp nhận hay không những yếu tố ngoại lai, v.v...
Vào những năm 80 thế kỷ XX, để phục vụ cho cải cách giáo dục, Bộ Giáo dục đã ban
hành Qui định về chính tả tiếng Việt và Qui định về thuật ngữ tiếng Việt (5/3/1984), trong
đó nêu ra những yêu cầu chuẩn đối với hai lĩnh vực kể trên. Để thực hiện những yêu cầu
chuẩn đó, Bộ đã thành lập ra hai Hội đồng cấp nhà nước: Hội đồng chuẩn hóa chính tả
tiếng Việt và Hội đồng chuẩn hóa thuật ngữ. Về thuật ngữ, các nhà khoa học đã đưa ra
những quy định cụ thể, như cấu tạo và sử dụng thuật ngữ tiếng Việt, việc chuẩn hóa, hệ
thống hóa, v.v... trong việc biên soạn sách giáo khoa, từ điển và giảng dạy.
Từ đầu những năm 90 cho đến cuối thế kỷ XX, các công trình nghiên cứu về thuật
ngữ ở Việt Nam thường mang tính tổng kết chung việc nghiên cứu thuật ngữ từ bối cảnh xã
hội. Hoàng Xuân Hãn là người đặt nền móng cho những nghiên cứu lý thuyết đối với thuật
ngữ Việt Nam. Sau Hoàng Xuân Hãn, những tên tuổi được biết đến với các công trình
nghiên cứu trong lĩnh vực lý thuyết về thuật ngữ là: Nguyễn Văn Tu, Lưu Vân Lăng,
Nguyễn Như Ý, Hoàng Văn Hành, Nguyễn Thiện Giáp, Lê Khả Kế, Đái Xuân Ninh,
Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn, Đỗ Hữu Châu, Lê Quang Thiêm, v.v...
Nhìn chung các nhà nghiên cứu về thuật ngữ ở Việt Nam thời kỳ này đã tập trung giải quyết
15

15


các vấn đề về định nghĩa thuật ngữ, vị trí thuật ngữ trong ngôn ngữ, đặc điểm của thuật ngữ,
con đường hình thành của thuật ngữ, vấn đề chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt, v.v...
Bước sang thế kỷ XXI, trong xu thế toàn cầu hóa, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học kỹ thuật và công nghệ, những vấn đề lý luận của thuật ngữ được đặc biệt quan tâm.

Việc nghiên cứu về thuật ngữ trong tiếng Việt trên bình diện lý thuyết đã có những thành
tựu tương đối lớn với những công trình mang tính chất tổng kết và phát triển sâu sắc của
Nguyễn Văn Khang, Hà Quang Năng, Nguyễn Đức Tồn, v.v... Năm 2000, Nguyễn Văn
Khang có cái nhìn sâu hơn, rộng hơn để Chuẩn hóa thuật ngữ, nhìn lại từ góc độ bối cảnh
xã hội và bàn về Những vấn đề đặt ra đối với việc xử lý từ ngữ nước ngoài trong tiếng Việt
[37], [38]. Tháng 11 năm 2008, Hội ngôn ngữ học Việt Nam đã tổ chức một hội thảo
Chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt trong đổi mới và hội nhập với 10 báo cáo khoa học, tham
luận được trình bày. Nội dung của hội thảo tập trung vào 3 vấn đề:
a. Vấn đề thống nhất, hoàn chỉnh và chuẩn hóa thuật ngữ.
b. Vấn đề đặc điểm thuật ngữ và tiêu chuẩn xác định thuật ngữ.
c. Vấn đề sử dụng thuật ngữ, giải thích thuật ngữ trong sách giáo khoa và trong văn
bản quản lý nhà nước.
Năm 2009, tác giả Hà Quang Năng có công trình Sự phát triển của từ vựng nửa sau
thế kỷ XX, trong đó ông dành một chương nghiên cứu về thuật ngữ tiếng Việt, nêu rõ con
đường hình thành thuật ngữ tiếng Việt cũng như những giải pháp cụ thể trong việc tiếp
nhận thuật ngữ nước ngoài vào tiếng Việt.
Năm 2010, Nguyễn Đức Tồn công bố bài viết Một số vấn đề về nghiên cứu, xây dựng
và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay [90], [91].
Năm 2011, ông và PGS.TS Nguyễn Kim Bảng đồng chủ nhiệm đề tài cấp Bộ Những vấn
đề thời sự của chuẩn hóa tiếng Việt”. Chương 4 của đề tài này đã dành riêng cho việc
nghiên cứu, xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu
hóa. Nội dung nghiên cứu tập trung vào việc tổng kết những vấn đề lý luận truyền thống về
thuật ngữ như vấn đề định danh ngôn ngữ và vấn đề xây dựng thuật ngữ, vấn đề vay mượn
thuật ngữ nước ngoài và vấn đề áp dụng lý thuyết điển mẫu vào nghiên cứu và chuẩn hóa
thuật ngữ tiếng Việt.
Năm 2012, Nguyễn Đức Tồn tiếp tục thực hiện đề tài nghiên cứu cấp Bộ về thuật ngữ
tiếng Việt Nghiên cứu, khảo sát thuật ngữ tiếng Việt phục vụ cho việc xây dựng Luật ngôn
ngữ ở Việt Nam [65]. Trong công trình này, ông đã tập trung nghiên cứu toàn diện các vấn
đề lý luận cơ bản của thuật ngữ học và thuật ngữ tiếng Việt để làm cơ sở tiến hành khảo sát
và đánh giá tình hình thuật ngữ tiếng Việt hiện nay trên các lĩnh vực khoa học tự nhiên (vật

lý), khoa học xã hội (ngôn ngữ), khoa học công nghệ (xây dựng), kinh tế học (thương mại)
nhằm cung cấp những luận cứ khoa học và thực tiễn trong việc xây dựng Luật ngôn ngữ ở
Việt Nam.
Cũng trong năm 2012, trên cơ sở chương trình khoa học cấp Bộ Một số vấn đề cơ bản
về cơ sở lý luận và phương pháp luận biên soạn các loại gồm từ điển và bách khoa thư Việt
16
16


Nam (do PGS.TS Phạm Hùng Việt – Viện từ điển học và bách khoa thư Việt Nam làm chủ
nhiệm đề tài). Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ này được phân thành bảy nhánh đề tài,
trong đó có một nhánh nghiên cứu những vấn đề lí luận và phương pháp luận biên soạn từ
điển chuyên ngành và thuật ngữ do PGS.TS Hà Quang Năng làm chủ nhiệm. Kết quả
nghiên cứu đã được nghiệm thu của nhánh đề tài này được xuất bản với tên gọi Thuật ngữ
học – những vấn đề lý luận và thực tiễn do Hà Quang Năng chủ biên [62]. Đây là những
công trình nghiên cứu có tính chất tổng kết một số vấn đề cơ bản về thuật ngữ học, đồng
thời có cập nhật những vấn đề lý luận và thực tiễn của từ điển học thuật ngữ ở nước ta và
nước ngoài. Cuốn sách tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau: (1) Tổng kết những thành tựu
nghiên cứu lí luận và nghiên cứu ứng dụng về thuật ngữ học ở Liên Xô, Liên bang Nga và
Cộng hòa Liên bang Đức; (2) Đánh giá những thành quả của thuật ngữ học ở Việt Nam
trong nửa thế kỷ qua; (3) Những con đường, những phương thức hình thành thuật ngữ và
đặc điểm thuật ngữ tiếng Việt.
Sang thế kỷ XXI, các công trình nghiên cứu về thuật ngữ ở Việt Nam tiếp tục theo
hướng chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt và đặc điểm của từng hệ thuật ngữ trong các ngành
khoa học hoặc lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Sau Vũ Quang Hào, người được coi là đầu tiên
có công trình nghiên cứu chuyên sâu về một hệ thuật ngữ chuyên ngành trong luận án Phó
tiến sĩ: “Hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt: đặc điểm và cấu tạo thuật ngữ” (1991), đã có
thêm nhiều luận án nghiên cứu chuyên sâu về thuật ngữ, tập trung vào những lĩnh vực
chuyên ngành. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu là luận án tiến sỹ như “So sánh
thuật ngữ cấu tạo thuật ngữ kinh tế thương mại trong tiếng Nhật và tiếng Việt hiện đại”

(Nguyễn Thị Bích Hà, 2000); “Khảo sát thuật ngữ tin học viễn thông tiếng Việt” (Nguyễn
Thị Kim Thanh, 2005); “Khảo sát thuật ngữ y học tiếng Anh và cách phiên chuyển sang
tiếng Việt” (Vương Thị Thu Minh, 2006); “So sánh đặc điểm cấu tạo hình thức và ngữ
nghĩa của thuật ngữ tài chính – kế toán – ngân hàng trong tiếng Anh và tiếng Việt”
(Nguyễn Thị Tuyết, 2011); “Đặc điểm ngữ nghĩa và cấu tạo của thuật ngữ sở hữu trí tuệ
tiếng Việt” (Mai Thị Loan, 2012); “Thuật ngữ khoa học kỹ thuật xây dựng trong tiếng Việt”
(Vũ Thị Thu Huyền, 2013); “Nghiên cứu các phương thức cấu tạo hệ thuật ngữ khoa học
tự nhiên tiếng Việt (trên tư liệu thuật ngữ Toán – Cơ – Tin học – Vật lý) (Ngô Phi Hùng,
2014)”; “Đối chiếu thuật ngữ du lịch Việt - Anh” (Lê Thanh Hà, 2014); “Đặc điểm cấu tạo
và ngữ nghĩa hệ thuật ngữ khoa học hình sự tiếng Việt” (Nguyễn Quang Hùng, 2016); “Đối
chiếu thuật ngữ cơ khí trong tiếng Anh – tiếng Việt” (Trần Ngọc Đức, 2018), “Đối chiếu
thuật ngữ báo chí Anh – Việt và chuyển dịch thuật ngữ báo chí tiếng Anh sang tiếng Việt”
(Nguyễn Đức Đạo, 2018); “Đặc điểm thuật ngữ hành chính tiếng Việt” (Phạm Thị Hồng
Thắm, 2018), v.v....
Các công trình luận án về thuật ngữ trong thời gian này tập trung vào nghiên cứu
những nội dung sau: a. Hệ thống hóa các quan điểm lý luận trong việc nghiên cứu thuật ngữ
trên thế giới và ở Việt Nam; b. Phân tích đặc điểm cấu tạo của một hệ thuật ngữ chuyên
ngành cụ thể, mô hình hóa các kiểu cấu tạo của hệ thuật ngữ chuyên ngành đó; c. Phân tích
17
17


đặc điểm ngữ nghĩa của thuật ngữ, các công trình chú trọng tới phân nhóm theo trường
nghĩa; d. Với những đề tài đối chiếu, các nghiên cứu thường xác lập danh sách các thuật tố
cấu tạo nên thuật ngữ trong lĩnh vực cụ thể mà tác giả chọn nghiên cứu ở tiếng Việt và danh
sách tương ứng ở ngôn ngữ được đối chiếu, sau đó so sánh các chỉ số thống kê và xác định
hệ số tương quan giữa hai danh sách. Từ sự phân tích, đánh giá như vậy, các mô hình cấu
tạo thuật ngữ cũng được thiết lập; e. Trong một số công trình gần đây, lý thuyết điển mẫu
được áp dụng để xác lập ranh giới chuẩn hóa, giúp xác định số lượng thuật ngữ đạt chuẩn
cũng như công bố danh sách những thuật ngữ chưa đạt chuẩn ở lĩnh vực được lựa chọn

nghiên cứu.
Có thể thấy, việc chuẩn hóa, thống nhất hệ thống thuật ngữ của từng chuyên ngành cụ
thể có vai trò quan trọng để tiến tới chuẩn hóa và thống nhất cho cả hệ thống thuật ngữ tiếng
Việt nói chung. Việc nghiên cứu thuật ngữ trong thời kỳ mới đặt ra yêu cầu hết sức cấp bách
và cần thiết là phải giải quyết cụ thể, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội Việt Nam.
Tóm lại, trải qua hơn nửa thế kỷ, thuật ngữ tiếng Việt đã phát triển nhanh chóng và
mạnh mẽ, có sự thay đổi không những về số lượng, mà cả về chất lượng, không chỉ về
hình thức mà cả về nội dung. Tùy từng giai đoạn lịch sử, tùy hoàn cảnh xã hội mà thuật
ngữ của từng ngành có sự phát triển khác nhau. Về cơ bản, thuật ngữ Việt Nam đã có định
hướng phát triển đúng, dần dần đã đi vào con đường khoa học, dân tộc, đại chúng, góp
phần cho từ vựng tiếng Việt thêm phong phú.
1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ Đông y
Đông y là tổng thể các kiến thức và thực hành y học dựa trên kinh nghiệm sống và
quan sát lâm sàng, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng dạy nghề trực tiếp,
truyền khẩu hoặc văn tự, giải thích được hoặc không giải thích được để chẩn đoán, dự
phòng hoặc loại trừ sự mất cân bằng trong cơ thể con người, giữa con người và thiên nhiên,
giữa con người và xã hội, nhằm chữa bệnh và giữ gìn sức khoẻ. Nói chung, mỗi dân tộc đều
có y học cổ truyền riêng, như Trung y của Trung Quốc, Singapo; Hàn y của Hàn Quốc;
Đông y của Việt Nam, Triều Tiên; Hán phương y học của Nhật Bản; Thái y của Thái Lan;
Ấn y của Ấn Độ… Do sự ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ của Trung y tới nền y học cổ
truyền của các nước trong khu vực, luận án của chúng tôi giới hạn, tập trung đánh giá tình
hình nghiên cứu thuật ngữ Trung y ở Trung Quốc và thuật ngữ Đông y ở Việt Nam.
1.2.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ Trung y ở Trung Quốc
Trung y học có lịch sử lâu đời. Từ đời Tần, đời Hán, các tác phẩm Trung y kinh điển
như “Hoàng đế nội kinh”, “Thần Nông bản thảo kinh”, “Thương hàn tạp luận bệnh
luận”… đã tạo nên hệ thống khái niệm Trung y học về sinh lý cơ thể người, nguyên nhân
bệnh, cơ chế bệnh, chẩn đoán, cách chữa bệnh, phương dược và dưỡng sinh…, đồng thời
cũng đã xây dựng một hệ thống thuật ngữ Trung y, đặt nền móng cho hệ thống lý luận
Trung y học.
Từ sau năm 1949, Đảng và Chính phủ Trung Quốc rất chú trọng công tác Trung y

dược, đặc biệt là sau khi Chủ tịch nước Mao Trạch Đông có nhận định sáng suốt về “y
18
18


dược học Trung Quốc là một kho báu vĩ đại, phải cố gắng phát huy, tăng cường đề cao”,
sự nghiệp Trung y dược phát triển mạnh mẽ, công tác chuẩn hoá thuật ngữ danh từ Trung
y dược cũng không ngừng phát triển. Công tác chuẩn hoá thuật ngữ danh từ Trung y dược
từ sau năm 1949 chủ yếu được triển khai trên 3 phương diện: Một là tổ chức biên soạn
giáo trình Trung y giảng dạy trong các trường đại học cả nước, sau hơn 40 năm đã biên
soạn và xuất bản 06 bộ giáo trình về các chuyên ngành Trung y dược; Hai là biên soạn và
xuất bản các loại sách công cụ như: Trung y danh từ thuật ngữ tuyển thích,Giản minh
Trung y từ điển, Trung y đại từ điển, Trung dược đại từ điển, Châm cứu đại từ điển, các
quyển về Trung y trong Trung Quốc y học bách khoa toàn thư, Trung Quốc đại bách khoa
toàn thư – Trung Quốc y học truyền thống, Trung y dược học chủ đề từ biểu, Hán – Anh
Trung y đại từ điển v.v…; Ba là tiến hành nghiên cứu chuẩn hoá thuật ngữ danh từ Trung
y dược, xây dựng tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn quốc gia về thuật ngữ Trung y, như: Dược
điển Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Trung y bệnh chứng chẩn đoán liệu hiệu tiêu chuẩn,
Kinh huyệt bộ vị, Nhĩ huyệt tên gọi và bộ vị, Trung y bệnh chứng phân loại và mã số,
Trung y lâm sàng chẩn liệu thuật ngữ v.v…Những thành tựu này đã đặt nền móng khá
vững chắc trong công tác thẩm định thuật ngữ danh từ Trung y dược hiện tại.
Bước sang thế kỷ XXI, Trung y dược với lịch sử lâu đời cũng cần phải tự mình phát
triển hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, điều này yêu cầu Trung
y hiện đại hoá. Gần 20 năm qua, trên thế giới liên tục xuất hiện “cơn sốt châm cứu”, “cơn
sốt Trung dược”, “cơn sốt Trung y”, Trung y dược đang vươn tới thế giới. Trung Quốc đã
gia nhập WTO, điều này đem đến một cơ hội tốt cho Trung y dược và sản phẩm Trung y
dược “tiến quân” vào thị trường thế giới, trong bối cảnh đó yêu cầu Trung y dược nhanh
chóng đẩy mạnh tiến trình quốc tế hoá.
Trung y hiện đại về phương diện nào đó mà nói thì chính là dùng ngôn ngữ hiện đại
để trần thuật Trung y. Ngôn ngữ hiện đại bao gồm ngôn ngữ khoa học tự nhiên, khoa học

xã hội hiện đại và triết học đương đại, dùng lời nói hiện đại để biểu đạt, để có thể đối
thoại với khoa học chủ lưu đương đại, thể hiện trình độ khoa học hiện đại, phục vụ tốt
hơn nữa công tác khám - chữa bệnh cho con người. Quá trình hiện đại hoá Trung y cần có
sự tham gia của nhiều ngành khoa học, cần có sự góp phần của công nghệ kỹ thuật hiện
đại, trong đó thuật ngữ trung y với những khái niệm rõ ràng, chuẩn hoá, thống nhất có vị
trí quan trọng hàng đầu.
Hơn chục năm lại đây, những nghiên cứu về thuật ngữ Trung y ở Trung Quốc tương
đối nhiều, thường tập trung vào các vấn đề sau:
(a) Coi trọng nghiên cứu dịch thuật
Do sự khác nhau về cấu tạo từ và sử dụng từ giữa hệ thống thuật ngữ Trung y với
thuật ngữ y học phương Tây, dẫn đến những khó khăn trong công tác dịch thuật ngữ
Trung y. Tác giả Mã Bang Tân cho rằng: “mức độ khó trong dịch thuật Trung y rất lớn.
Ngoài việc nắm vững các kiến thức biên dịch ngoại ngữ còn phải có vốn kiến thức Trung
y nhất định, nắm chắc đặc điểm ngôn ngữ Trung y thường dùng, hiểu một cách chuẩn xác
19
19


nội hàm thuật ngữ đó chứa đựng, thì mới có thể dịch chính xác, trôi chảy thuật ngữ Trung
y sang tiếng Anh” [128, tr.95-97]. Lý Vĩnh An chỉ ra rằng: “Hiện nay dịch thuật ngữ
Trung y quả thực còn tồn tại rất nhiều vấn đề, cần thiết giải quyết một cách rõ ràng hơn.
Ví dụ như: “mạch chẩn” là phương pháp chẩn đoán bệnh quan trọng và mang tính đặc thù
của trung y học. Nó có vị trí vô cùng quan trọng trong chẩn đoán lâm sàng Trung y, nhưng
hiện nay hình thức dịch sang tiếng Anh tên gọi mạch tượng trong Trung y vẫn còn khá lộn
xộn” [124, tr.1130-1131]. Khi nghiên cứu “kết cấu bốn chữ” trong Trung y, Hộ Lý Quyên
[121, tr.105-108] đưa ra sự lý giải về những khác biệt chính giữa hai ngôn ngữ tiếng Trung
và tiếng Anh, việc nắm vững chính xác kết cấu tầng bậc ngôn ngữ nguồn, những lý giải sâu
sắc về kết cấu ngôn ngữ đích với nhân tố văn hóa, và những kỹ xảo dịch “kết cấu bốn chữ”
là không thể hoặc còn nhiều khiếm khuyết. Trương Thanh Dung [149, tr.53-54] đã bàn về
vấn đề qui phạm dịch tên thuật ngữ Trung y, Lý Kinh Ôn và Lý Vĩnh An [122, tr.35] cũng

đưa ra quan điểm của mình về việc chuẩn hóa thuật ngữ Trung y dịch sang tiếng Anh. Thẩm
Nghệ [132, tr.5-6] bắt tay vào nghiên cứu biên dịch thuật ngữ tạng tượng.
(b) Coi trọng xây dựng kho dữ liệu thông tin
Trung y dược truyền thống đã có lịch sửphát triển mấy nghìn năm, hình thành nên hệ
thống tri thức đồ sộ. Nhưng nguồn thông tin dữ liệu số hóa của Trung y dược thiếu những
biểu đạt tầng bậc tri thức, cũng không có tiêu chuẩn định nghĩa thuật ngữ thống nhất, do
đó đã gây ra những khó khăn về việc sử dụng và cùng hưởng lợi từ các dữ liệu thông tin.
Chính vì điều này, rất nhiều học giả đang nỗ lực trong việc số hóa thuật ngữ Trung y. Ngô
Triều Quân [140, tr.18] cho rằng: “Hệ thống thuật ngữ y học hiện nay thiếu những công
trình tri thức, do vậy bản thể luận là những thuyết minh về khái niệm, sử dụng hệ thống
khung để tiến hành miêu tả các khái niệm và quan hệ tồn tại khách quan, biểu đạt đúng
mối liên quan giữa các khái niệm phức tạp, tìm ra phương thức biểu đạt kiến thức y học
có hiệu quả”. Về vấn đề mà hệ thống thuật ngữ y học phải đối diện, ông đã đưa ra
phương án xây dựng hệ thống ngôn ngữ nhất thể hóa dựa trên cơ sở bản thể luận, mục
đích là để sử dụng có hiệu quả nguồn dữ liệu số hóa hiện có, đem đến cho người dùng sự
tiện lợi và đơn giản.
(c) Coi trọng mở rộng và phát triển ngữ nghĩa
Trần Di Đình [118, tr.41-43] cho rằng: “Trong quá trình lịch sử lâu dài, Hán ngữ đã
tạo ra hàng loạt những cụm từ bốn chữ liên quan tới Trung y dược, gọi là “thiệp y thục
ngữ” (cụm từ bốn chữ Trung y), ví dụ như “tiêu bản kiêm trị”, “thị dược tam phân độc”
v.v… là những cụm từ cố định liên quan trực tiếp đến lý luận và thực tiễn Trung y, và
những cách nói như “huyền hồ tế thế” (lương y cứu người), “bệnh nhập cao hoang” (bệnh
rất nguy kịch, không thể cứu chữa) v.v… là những cách biểu đạt liên quan tới câu chuyện
lịch sử, điển cố và truyền thuyết về y dược.”
(d) Coi trọng công tác giảng dạy Hán ngữ Trung y
Thành quả nghiên cứu giảng dạy Hán ngữ Trung y được thể hiện ở các vấn đề sau:
(i). Biên soạn giáo trình
20
20



Trong các trường Đại học Trung y, việc xuất hiện nhiều lưu học sinh từ các nước
trên thế giới đến học tập đã khiến cho nhà trường tăng cường biên soạn giáo trình giảng
dạy Hán ngữ Trung y phù hợp. Năm 1985, Vương Nghiên Nông, Diêm Đức Thảo chủ
biên cuốn Hán ngữ Trung y (Nxb Đại học Ngôn ngữ Văn hóa Bắc Kinh), gồm 2 quyển,
90 bài; năm 1986, Học viện Trung y Thượng Hải biên soạn cuốn Hán ngữ - Medical
Chinese (Nxb Cổ tịch Trung y); năm 1997, Khương Mẫn Kiệt, Tông Mai Quyên chủ biên
cuốn Hán ngữ hiện đại Trung y (Nxb Giáo dục Cát Lâm); năm 2010, Nxb Nghiên cứu và
giảng dạy ngoại ngữ cho ra mắt bộ sách Hán ngữ Trung y thực dụng gồm ba cuốn: đọc
hiểu, nghe và nói, do Vương Dục Lâm, La Căn Hải và Bạc Đồng là tổng chủ biên. Những
bộ giáo trình này đều có ưu điểm của mình như tập hợp được nhiều thuật ngữ Trung y,
giúp người học hiểu được truyền thống văn hóa, phương thức tư duy về Trung y dược, các
thuật ngữ được giải thích một cách đơn giản, dễ hiểu. Mặc dù vậy, các giáo trình sử dụng
thuật ngữ Trung y chưa có tính hệ thống, chưa phân thành được các chuyên đề, còn dàn
trải, người học khó nắm bắt để thực hành trong thực tế.
(ii). Nghiên cứu giảng dạy
Nhìn từ góc độ bản thể Hán ngữ, Dương Thanh Hiên [141, tr.87-94] khi đó thuộc
Học viện Ngôn ngữ Bắc Kinh đã nghiên cứu về cách cấu tạo từ y học Hán ngữ. Ông cho
rằng: phương thức cấu tạo từ của từ y học Hán ngữ rất đa dạng, ngoài việc tuân thủ theo
cách cấu tạo từ tiếng Hán thông thường, còn cần có qui tắc độc đáo cho bản thân mình.
Còn Vu Bằng [146, tr.45-47] đã thảo luận về phân loại và chuẩn hóa thuật ngữ đau nhức
((((((trong Trung y.
Về giảng dạy yếu tố ngôn ngữ, Vu Bằng [145, tr.30-31] đã tiến hành nghiên cứu dạy
đọc hiểu Hán ngữ cho lưu học sinh ở các trường chuyên ngành Trung y. Vu Bằng, Từ Gia
Ninh [144, tr.35-36], nghiên cứu, tìm kiếm phương pháp dạy viết Hán ngữ Trung y cho
lưu học sinh. Trong báo cáo điều tra, Trương Nghi Ngang [150, tr.41-43] đã đề cập tới
giảng dạy từ ngữ, ngữ pháp dành cho các đối tượng lưu học sinh học dự bị trước khi vào
học chuyên ngành Trung y.
Về phương pháp giảng dạy, Từ Phượng Lan [138, tr.42-45] đã có những nghiên cứu
sơ bộ về phương pháp giảng dạy Hán ngữ Trung y cho lưu học sinh, đề cập tới việc vận

dụng phương pháp giao tiếp trong giảng dạy; Vu Bằng [145, tr.26-27] sử dụng lý luận tri
nhận trong giảng dạy; Bạc Đồng [116, tr.41-42] bàn về ứng dụng lý luận ngôn ngữ trung
gian trong giảng dạy Hán ngữ đối ngoại ở các trường chuyên ngành Trung y. Vu Bằng,
Quách Hồng [142, tr.25-26], Vu Bằng, Tiêu Dục Mai [147, tr.21-22], Trương Nghi Ngang
[150, tr.41-43] đã trăn trở về các trở ngại ngôn ngữ của lưu học sinh chuyên ngành Trung
y sau khi vào học chuyên ngành, đồng thời đưa ra các biện pháp cải tiến cần thiết. Tôn
Văn Chung [133, tr.7-8], Lưu Điệp, Chương Mai [125, tr.74-75] thì lại trăn trở về nghiên
cứu phương pháp giảng dạy y cổ văn và tiếng Anh Trung y cho lưu học sinh. Hành Ngọc Hoa
[137, tr.109-110] là một giảng viên trực tiếp giảng dạy Hán ngữ cho sinh viên nước ngoài
(Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc, Thái Lan và Việt Nam) của Đại học Trung y dược Thiên Tân,
21
21


đã bàn luận về phương pháp dạy học từ vựng Hán ngữ đối ngoại chuyên ngành Trung y.
Qua thực tế giảng dạy, tác giả đã tổng kết, phát hiện và tìm ra phương pháp dạy học từ
ngữ mang màu sắc Trung y, đó là dựa vào phân tích tâm lý học tri nhận trong dạy học từ
vựng, cần đặc biệt chú trọng tới giảng giải về ngữ nghĩa, từ đồng nghĩa, từ cận nghĩa, từ
trái nghĩa. Mặt khác, nhìn từ góc độ chuyên ngành, từ vựng Hán ngữ Trung được phân
thành hai loại lớn: từ vựng Trung y sơ cấp và từ vựng Trung y chuyên ngành. Từ đó, tác
giả xác định sách lược giảng dạy từ vựng Hán ngữ Trung y ở các loại hình bài giảng khác
nhau theo các kỹ năng nghe, nói, đọc và viết.
Về thiết kế tổng thể, xây dựng chương trình Hán ngữ Trung y, Trần Việp, Sai Khả Phu
[117, tr.78-79], Phàn Húc [119, tr.132-133], Tôn Nghệ Quân [134, tr.81-82], Trương Lệ, Bạch
Địch Địch [115, tr.212-213], Đài Đông Hải [135, tr.509] đưa ra những suy nghĩ mang tính
khai thác, tìm kiếm mô hình dạy học, cơ chế giảng dạy và xây dựng chương trình Hán ngữ
đối ngoại dành cho lưu học sinh các trường chuyên ngành Trung y. Các nhà nghiên cứu đều
nhận ra sự khác biệt rất lớn trong giảng dạy Hán ngữ đối ngoại thông thường ở các trường
nói chung và giảng dạy Hán ngữ Trung y; đồng thời các trường chuyên ngành Trung y đều
mong muốn xây dựng mô hình giảng dạy Hán ngữ Trung y phù hợp.

(e) Coi trọng nghiên cứu văn hóa
Rất nhiều học giả ngày càng chú trọng liên hệ giữa nghiên cứu y học và văn học, đã
hình thành sự độc đáo về “thiệp y văn học” (văn học Trung y dược). Học giả Trần Di
Đình [118, tr.41-43] nói rằng “thiệp y văn học” là những tác phẩm văn học đề cập tới
Trung y dược cả về nội dung lẫn hình thức, trong đó bao gồm các bài thơ, phú tên thuốc
với từ ngữ là những thuật ngữ danh từ Trung y dược. Vương Hồng Lợi [139, tr. 510] khảo
sát ở mức độ sâu hơn, cho rằng: phương thức tư duy đằng sau thuật ngữ Trung y là
phương pháp loại suy của triết học truyền thống Trung Quốc, điều này lại khá trừu tượng
đối với tài liệu cảm tính, vượt quá tầng bậc phán đoán và suy diễn, do vậy bắt đầu vận
dụng so sánh, đối chiếu, phân loại và khả năng thao tác tư duy phức tạp, cao cấp một cách
hệ thống hóa và cụ thể hóa. Cũng có học giả đã vận dụng phương pháp nhân loại học để
nghiên cứu văn hóa Trung y, đồng thời đã đạt được những thành quả nhất định, như Mã
Bá Anh [129, tr. 57-61]. Không dừng ở đó, Tất Phương Vân [130, tr.54-56] đã khẳng định
tầm quan trọng của việc tìm hiểu văn hóa ngôn ngữ chứa đựng trong Trung y dược học.
Màu sắc văn hóa được thể hiện qua chữ Hán với nội hàm phong phú, những thành ngữ,
điển cố có ý nghĩa thâm sâu, những tên thuốc, câu đối sinh động, những truyền thuyết
thần thoại mang đậm tính trí tuệ.
(g) Coi trọng công tác chuẩn hóa thuật ngữ Trung y dược
Xác định được tầm quan trọng của thuật ngữ Trung y, Chính phủ Trung Quốc càng
coi trọng công tác chuẩn hoá thuật ngữ Trung y dược, chú trọng triển khai hai phương
diện. Một là chuẩn hoá danh từ Trung y dược, tháng 6 năm 2000 Chính phủ Trung Quốc
đã thành lập Ban thẩm định danh từ Trung y dược thuộc Uỷ ban thẩm định danh từ khoa
học kỹ thuật toàn quốc, phụ trách chuẩn hoá và thẩm định thuật ngữ danh từ khoa học
22
22


Trung y dược. Năm 2001, Phòng khoa học kỹ thuật của Viện nghiên cứu Trung y Trung
Quốc đã triển khai Nghiên cứu chuẩn hoá thuật ngữ danh từ cơ bản Trung y dược. Đến
năm 2003, Trung Quốc đã hoàn thành chuẩn hóa 5.284 thuật ngữ danh từ cơ bản Trung y

dược, cuối năm 2004 đã được thẩm định và xuất bản. Cũng trong năm 2004, Viện nghiên
cứu Trung y Trung Quốc cũng đã triển khai nghiên cứu chuyên đề Chuẩn hoá và thẩm
định thuật ngữ danh từ nội, phụ, nhi khoa Trung y. Tháng 3 năm 2008, Hội Trung y dược
Thế giới với hơn 200 chuyên gia y học cổ truyền của 68 nước đã ban hành Tiêu chuẩn
Quốc tế đối chiếu Trung – Anh về thuật ngữ danh từ cơ bản Trung y với 6.526 thuật ngữ
cơ bản của 21 chuyên khoa như lý luận cơ sở Trung y, chẩn đoán Trung y, điều trị, Trung
dược, phương tễ, châm cứu, lâm sàng….; Đến tháng 4 năm 2008, Tổ chức y tế Thế giới
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, lần đầu tiên ban hành Tiêu chuẩn Quốc tế thuật ngữ
danh từ y học cổ truyền với 3.543 thuật ngữ của 7 chuyên khoa, bao gồm lý luận cơ bản,
chẩn đoán học, các chuyên khoa lâm sàng, v.v….
(h) Chú trọng phương pháp nghiên cứu thuật ngữ Trung y
Trải qua một quá trình lâu dài về công tác khám chữa bệnh và nghiên cứu khoa học,
Trung y dược đã hình thành một lượng lớn thuật ngữ chuyên môn. Những thuật ngữ này
đã biểu đạt các khái niệm trong lĩnh vực Trung y dược, đồng thời tạo lập một hệ thống
thuật ngữ về các khái niệm liên quan tới kinh mạch. Sự phát triển và sản sinh thuật ngữ
Trung y dược đã có một tiến trình kéo dài qua các thời đại, chịu sự ảnh hưởng lớn về giao
thoa ngôn ngữ trong và ngoài nước, danh từ Trung y học được phân bố trong các cuốn từ
điển, báo chí, thư tịch, trong các văn bản về chuẩn hóa và kỹ thuật số với một số lượng
khổng lồ và có nội dung phong phú. Tuy nhiên, thuật ngữ Trung y dược đã tồn tại những
vấn đề như một từ nhiều nghĩa, nhiều từ đồng nghĩa, v.v…, hiện tượng này đã khiến cho
những người sử dụng thuật ngữ gặp nhiều chướng ngại về ngôn ngữ và công nghệ. Năm
2009, Lý Đức Tân đã có bài viết về Tư duy và phương pháp nghiên cứu cơ bản về lý luận
Trung y trên tạp chí Trung y dược thế giới. Tiếp đó, năm 2011, cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của Trung y dược, ông viết bài trên tạp chí Trung y Liêu Ninh và cho rằng: tăng
cường nghiên cứu thuật ngữ Trung y sẽ thúc đẩy sự phát triển thuật ngữ Trung y. Kế tiếp
nghiên cứu của Lý Đức Tân, năm 2016, Lý Tư Kỳ cùng với các đồng nghiệp của mình
[123, tr.1184-1185] đã bàn luận về phương pháp nghiên cứu thuật ngữ học Trung y một
cách cụ thể và rõ ràng hơn. Đó là sử dụng phương pháp nghiên cứu cơ bản như phương
pháp triết học – biện chứng duy vật, phương pháp lô-gic học, phương pháp thông tin học
(bao gồm ngôn ngữ học thống kê, ngôn ngữ học tri nhận), phương pháp thư tịch học,

phương pháp ngôn ngữ học (bao gồm định danh, văn tự, ngữ âm, ngữ pháp…). Ngoài ra,
nhóm nghiên cứu giới thiệu sơ lược về phương pháp xây dựng hệ thống khái niệm thuật
ngữ, phương pháp xác định định nghĩa khái niệm thuật ngữ, phương pháp xây dựng kho
dữ liệu và kho kiến thức của thuật ngữ Trung y.

23

23


1.2.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ Đông y ở Việt Nam
Y học cổ truyền đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử. Khi chưa có chữ viết, các kinh
nghiệm được đúc rút, phương thức chữa bệnh được lưu truyền qua nhiều thế hệ khác
nhau, nâng dần lên thành tập quán, kinh nghiệm, truyền miệng từ đời này qua đời khác.
Với sức sống trường tồn, nền y học cổ truyền Việt Nam đã là một bộ phận hợp thành của
tổng thể di sản văn hoá phi vật thể Việt Nam.
Thời Lý (1010-1224) có nhiều thầy thuốc chuyên nghiệp lo việc chữa bệnh cho nhân
dân, phát triển việc tổ chức trồng cây thuốc... Thời kỳ này có Nguyễn Bá Tĩnh (Tuệ Tĩnh)
với Nam dược thần hiệu, Hồng nghĩa giác tư y thư , Chu Văn An với Y học yếu giản tập
chú di biên. Nhà Hồ (1400-1406): Danh y là Nguyễn Đại Năng với Châm cứu tiệp hiệu
diễn ca.
Thời Hậu Lê (1428-1788), Bộ Luật Hồng Đức có đặt quy chế về nghề y: trừng phạt
thầy thuốc đức kém, quy chế pháp y khám án mạng tử thi, cấm phá thai, phổ biến phương
pháp vệ sinh phòng dịch, luyện tập giữ gìn sức khỏe... Các tác phẩm y thuật cổ truyền ra
đời: Bảo sinh diên thọ toát yếu của Đào Công Chính, Y học nhập môn diễn ca, Nhân thân
phú... Nguyễn Trực với Bảo Anh lương phương, Lê Hữu Trác với Hải Thượng y tông tâm
lĩnh , Hoàng Đôn Hòa với Hoạt nhân toát yếu.
Thời Tây Sơn (1788-1802), Tổ chức được Cục Nam dược nghiên cứu thuốc trị bệnh
cho quân đội và nhân dân, với nhiều tác phẩm như: Liệu dịch phương pháp toàn tập, Hộ
nhi phương pháp của Nguyễn Gia Phan, La Khê phương dược, Kim Ngọc quyển của

Nguyễn Quang Tuấn.
Thời Nguyễn (1802-1883), Triều đình có Thái y viện, các tỉnh có Ty lương y. Tác
phẩm y có Nam dược tập nghiệm quốc âm của Nguyễn Quang Lương, Nam Thiên Đức
bảo toàn của Lê Đức Huệ...
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
ra đời. Nhờ sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đông y được coi
trọng với những tiềm năng vốn có của mình.
Được sự giúp đỡ của Chính phủ Trung Quốc, nhiều bác sĩ y học cổ truyền đã được
nhận sang học tập và đào tạo. Sau khi trở về nước, những bác sĩ này đều trở thành những
giáo sư đầu ngành về y học cổ truyền ở Việt Nam, nền y học cổ truyền từng bước được
phát triển. Đặc biệt từ những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20 đến nay, nền y học cổ
truyền đã phát triển mạnh mẽ do có sự hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Những kiến thức và thông tin về y học cổ truyền ngày càng trở nên phong phú và đa
dạng, được cập nhật hàng ngày. Một hệ thống thuật ngữ y học cổ truyền, phản ánh và đáp
24

24


ứng được nhu cầu phát triển của ngành y, luôn luôn là một nhu cầu cấp thiết, là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu.
Tài liệu giảng dạy đầu tiên là Giáo trình Đông y do bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, dược
sĩ Đỗ Tất Lợi biên soạn, Đông y toàn tập do GS. Trần Thuý, GS. Hoàng Bảo Châu và
PGS. Phạm Duy Nhạc biên soạn.
Đặc biệt GS. Trần Thuý đã có công lao to lớn trong tổ chức, biên soạn và in ấn 40
đầu sách giáo trình, giáo khoa, chuyên khảo như: Nội kinh, Thương hàn luận, Kinh dịch;
các sách thuộc các chuyên khoa y học cổ truyền khác nhau như: Nội, Ngoại, Sản, Nhi...
và các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc..., các sách lý luận Nội khoa, Ngoại
khoa, Châm cứu, Dược y học cổ truyền. Một số sách dùng giảng dạy và tham khảo cho
các đối tượng khác nhau thuộc chuyên khoa hoặc đa khoa như: Giản yếu y học cổ truyền,

Giản yếu châm cứu, Bài giảng dành cho bác sĩ y học cổ truyền. Phối hợp với Viện y học
cổ truyền biên soạn Bào chế đông dược; hợp tác quốc tế cho ra 2 đầu sách chuyên đề
bằng tiếng Anh và tiếng Pháp.
Ngoài ra, các thuật ngữ Đông y còn xuất hiện trong các từ điển như:
- Đỗ Tất Lợi (1969), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (1965), Thuốc Nam
thường dùng;
- Võ Văn Chi (1998), Từ điển cây thuốc Việt Nam;
- Nguyễn Thiên Quyến, Nguyễn Mông Hưng (1990), Từ điển Đông y học cổ truyền
của Lương y, với 3.500 thuật ngữ;
- Lê Quý Ngưu, Lương Tú Vân (1999), Từ điển Đông y Hán - Việt, với 36.000
đơn tự và thuật ngữ Đông y;
- Nguyễn Thanh Giản, Đinh Văn Mộng, Lê Đức Long (1990), Danh từ Đông y ;
- Trần Thuý, Vũ Nam (2003), Sách chuyên khảo danh pháp y học cổ truyền với
4.500 thuật ngữ;
- Hội đồng dược điển Việt Nam (biên soạn), Dược điển Việt Nam. Đây là tập hợp tất
cả các tiêu chuẩn cho dược phẩm của Việt Nam. Dược điển Việt Nam bắt đầu biên soạn từ
năm 1970 đến năm 2002 với 6 tập;
- Lê Quý Ngưu (2012), Từ điển huyệt vị châm cứu với 1851 thuật ngữ châm cứu và
huyệt vị;
- Hoàng Duy Tân, Hoàng Anh Tuấn (2009), Phương tễ học với 769 bài thuốc;
- Nguyễn Đức Đoàn (2004), Nam y nghiệm phương, giới thiệu gần 3000 bài thuốc
sử dụng gần 900 vị thuốc (chủ yếu là các bài thuốc nam, thuốc dân tộc và một số ít cổ
phương của Đông y đã được Việt Nam hóa);
- Hoàng Bảo Châu, Nguyễn Đức Đoàn (2007), Danh từ thuật ngữ y – dược cổ
truyền với 1873 thuật ngữ phần y học cổ truyền và 2234 thuật ngữ danh từ về dược…
25

25



×