Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tiểu luận về quy luật lượng và chất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Quy luật chuyển đổi giữa lượng và chất và chất là quy luật cơ bản, phổ biến của
phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Khi lượng thay đổi tất yếu sẽ làm thay đổi chất của sự vật, hiện tượng và ngược lại, khi
chất thay đổi sẽ tạo nên những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng. Đây là quy
luật tất yếu, khách quan, phổ biến của sự vật, hiện tượng trong mọi lĩnh vực của tự nhiên,
xã hội và tư duy.
1. Lý do chọn đề tài:
Mơ ước của mỗi học sinh khi còn cắp sách đến trường là có thể đậu vào trường đại
học mình mong muốn hay chí ít là được bước vào môi trường đại học để được nghiên cứu,
học tập, được đào tào để có kĩ năng cho công việc sau này. Thế nhưng đậu đại học là một
chuyện, học đại học lại là chuyện khác. Đối với nhiều bạn học sinh sau khi trở thành sinh
viên thì cảm thấy bỡ ngỡ, cảm thấy ngợp và không còn giữ được phong độ như xưa nữa
do môi trường đại học quá khác so với môi trường phổ thông. Nếu cứ tiếp tục học tập
bằng phương pháp truyền thống thì sinh viên không thể tồn tại trong môi trường đại học
khắc nghiệt được. Do đó, chúng em chọn đề tài này với mong muốn có thể giúp đỡ một
phần nào cho các bạn sinh viên nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mac-Lenin nói chung và quy luật lượng - chất nói riêng, từ đó có thể giúp cho chúng ta
hình dung được phương thức học tập mới phù hợp với bản thân và rút ra nhiều kinh
nghiệm cho mình trong việc học tập.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đưa môn một phần môn triết học Mac- Lenin ứng dụng vào trong thực tiễn đời sống.
Giúp cho chúng ta hứng thú hơn trong việc học tập bộ môn này.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Tóm gọn trong việc phân tích sự chuyển hóa giữa chất - lượng và áp dụng cho các
sinh viên.

1


NỘI DUNG


I.NHỮNG KHÁI NIỆM LIÊN QUAN.
1.Khái niệm chất.
Là “tổng thể các thuộc tính cho biết đối tượng đó là gì?”
Chất dùng để chỉ tính quy đinh khách quan vốn có của sự vậy, hiện tượng, đó là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng, nói
lên sự vật,hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với các sự vật,hiện tượng khác. Mỗi sự vật,
hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ đó chúng
mới khác với các sự vật , hiện tượng khác.
Chất có tính khách quan, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, do những thuộc tính,
những yếu tố cấu thành quy định. Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng
thái, những yếu tố cấu thành sự vật. Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được
sinh ra hoặc hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Tuy nhiên những thuộc
tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại với
các sự vật, hiện tượng khác.
VD: chất của con người khác các động vật khác ở những thuộc tính ; có ngôn ngữ, có tư
duy, biết chế tạo và sử dụng công cụ lao động.
Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính trong đó mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất
của sự vật .Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ,
không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự vật không có chất
và không thể có chất nằm ngoài sự vật. Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc
tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biều hiện chất của sự vật.
Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.
Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật. Chính chúng
quy định sự tồn tại, sự vận động và phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay
mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi. Những thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các
mối liên hệ cụ thể với các sự vật khác. Sư phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và
thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính chất tương đối, tùy theo từng mối quan hệ.
Chất của sự vật không những quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà còn bởi

2



phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sư vât. Trong hiện
thực các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác
nhau.
Mỗi sự vật có vô vàn chất: vì sự phân biệt giữa chất và thuộc tính chỉ có ý nghĩa
tương đối, song sự vật có vô vàn thuộc tính nên có vô vàn chất. Chất và sự vật không tách
rời nhau: chất là chất của sự vật, còn sự vật tồn tại với tính quy định về chất của nó. Chất
biểu hiện trạng thái tương đối ổn định của sự vật, là sự kết hợp tương đối trọn vẹn, hoàn
chỉnh, bền vững các thuộc tính của sự vật, làm cho sự vật này không hòa lẫn với sự vật
khác mà tách biệt cái này với cái khác. Chất luôn gắn liền với lượng của sự vật.
2.Khái niệm về lượng.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính
của sự vật, biểu hiện bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. Lượng là cái
khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượng của sự vật không phụ thuộc
vào ý chí, ý thức của con người. Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số
lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm…
“Những lượng không tồn tại mà những sự vật có lượng hơn nữa những sự vật có vô
vàn lượng mới tồn tại ”(1)
Trong thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lượng cụ
thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây hay một phân tử nước bao gồm
hai nguyên tử hydrô liên kết với một nguyên tử oxy,… bên cạnh đó có những lượng chỉ có
thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ nhận thức tri của một người ý
thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,... trong những trường hợp đó chúng ta chỉ
có thể nhận thức được lượng của sự vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hoá.
(1)

Ph.Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật,


Hà Nội, năm 1971, trang 360
Có những lượng biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp

3


thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) có những lượng
vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật).
Bản thân lượng không nói lên sự vật đó là gì, các thông số về lượng không ổn định mà
thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật, đó là mặt không ổn định
của sự vật.
II.NHỮNG LÝ LUẬN HIỂU RÕ SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ THAY
ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều tồn tại mối quan hệ giữa lượng và chất trong một chỉnh
thể. Chúng tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng sẽ có thể
dẫn tới sự thay đổi về chất song không phải lúc nào lượng thay đổi thì chất sẽ thay đổi.
Nếu lượng được cung cấp chưa đủ để vượt qua giới hạn nhất định thì chất vẫn chưa thể
thay đổi. Khoảng giới hạn đó được gọi là độ.
- Khái niệm độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện
tượng. Như vậy muốn chất thay đổi ta phải cung cấp một lượng sao cho nó đạt đến một
điểm nhất định. Điểm đó gọi là nút.
- Điểm nút chính là ranh giới giữa lượng và chất mà tại đó khi sự thay đổi về lượng đạt
đến thì sự thay đổi về chất bắt đầu được hình thành. Độ mới và điểm nút mới của sự vật,
hiện tượng cũng được hình thành.
Ví dụ : Nước bình thường khi đun lên đến hơn 100oC thì bốc hơi. Vậy từ 0oC đến 100oC
là độ của nước, 1000C chính là điểm nút của nó.
Thời điểm mà lượng chuyển sang chất được gọi là bước nhảy.
- Bước nhảy là một phạm trù triết học để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay
đổi về lượng trước đó gây nên.

* Đặc điểm của bước nhảy:
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của
một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển
liên tục của sự vật.
* Các hình thức cơ bản của bước nhảy :
4


Với bản chất của mỗi sự vật, hiện tượng và mối quan hệ của nó với các sự vật, hiện tượng
khác, để đủ lượng tác động làm thay đổi chất thì ta cần thực hiện một lượng bước nhảy
xác định, từ đó tạo nên sự phong phú và đa dạng của bước nhảy.
Dựa trên nhịp điệu bước nhảy ta chia thành Bước nhảy đột biến và bước nhảy dần
dần.
+ Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian ngắn làm thay đổi
cơ bản toàn bộ kết cấu của sự vật, hiện tượng.
VD: Uranium 235 được tăng tới hạn (1kg) thì ngay lập sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử
+ Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ thông qua việc tích lũy chất mới
và loại bỏ chất cũ.
VD: Quá trình chuyển biến từ vượn người thành người; thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt nam...
Tuy nhiên bước nhảy dần dần khác với thay đổi dần dần. Bước nhảy dần dần là sự
chuyển hóa dần dần từ chất này sang chất khác còn thay đổi dần dần là sự tích lũy dần về
lượng để vượt qua điểm nút tạo nên sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng đó.
Căn cứ vào quy mô ta phân chia làm bước nhảy cục bộ và bước nhảy toàn bộ.
+ Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt ,những yếu tố riêng rẻ
của sự vật, hiện tượng.
VD: Những bước nhảy cục bộ trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng.
VD: Những kỳ thi học phần
+ Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi toàn bộ chất của sự vật, hiện tượng.
VD: Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa theo nghĩa rộng

Trên thực tế, muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ ta phải thực hiện bước nhảy cục bộ.
- Như vậy, mọi sự vật, hiện tượng đều có sự thống nhất về chất; với sự tích lũy về lượng
khi vượt qua giới hạn nào đó gọi là điểm nút thì bước nhảy được hình thành và chất của
sự vật, hiện tượng bắt đầu được thay đổi. Khi chất được hình thành thì sẽ có tác động trở
lại tới lượng của sự vật, hiện tượng, quy định nên điểm nút và độ mới. Qúa trình đó diễn
ra liên tục làm cho sự vật không ngừng vận động, phát triển.

5


Friedrich Engels (Phriđrich Ăngghen 1820 - 1895) đã giải thích Quy luật lượng-chất một
cách ngắn gọn như sau: “Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định,
sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất”.
Một cách giải thích khác về quy luật này là: “Sự biến đổi về lượng thì từ từ, sự biến đổi về
chất thì nhảy vọt”.

Sự biến đổi về lượng thì từ từ, sự biến đổi về chất thì nhảy vọt (Ảnh sưu tầm, chưa rõ tên tác
giả)
Theo quy luật này, nếu không có sự biến đổi về lượng thì sẽ không có sự biến đổi về chất,
chỉ khi nào sự biến đổi về lượng đạt đến một mức độ nhất định thì sự chuyển hóa về chất
mới diễn ra, một khi đã diễn ra chuyển hóa về chất thì quá trình này sẽ rất nhanh chóng.
Quy luật lượng-chất vừa đúng cho sự phát triển xã hội, cũng đúng cho các hiện tượng tự

6


nhiên.
Chẳng hạn buồng chuối từ lúc đâm hoa đến lúc “chín bói” phải mất mấy tháng.
Khi còn xanh thành phần chủ yếu trong quả chuối là tinh bột (70-80%), chuối già chỉ cần
3-5 ngày giấm là thay đổi hoàn toàn về chất, vỏ biến thành màu vàng, thành phần chính

lúc này không phải là tinh bột mà là đường sucrose, fructose và glucose, hàm lượng của
các loại đường có thể đạt hơn 16% trọng lượng quả tươi.
Sự thay đổi về chất có thể theo xu hướng tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào lượng
“chất” tích lũy được và thời gian chuyển hóa.
VD: Quá trình đổi mới được nhấn mạnh tại Đại hội Đảng 12 có thể xem là quá trình tạo
sự thay đổi về chất xã hội Việt Nam hiện đại.
Từ các Nghị quyết Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết 4 khóa 11, Đảng đã nhận diện các
mặt tích cực, tiến bộ cũng như tiêu cực, yếu kém của thể chế chính trị, kinh tế, xã hội hiện
tại.
Đời sống người dân được cải thiện một phần, hạ tầng cơ sở, đặc biệt là giao thông
có tiến bộ, GDP tăng liên tục, đất nước trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, hệ
thống luật và văn bản quy phạm pháp luật tương đối đồng bộ… là những thay đổi theo
hướng tích cực mà thế giới thừa nhận.
Tuy nhiên tập thể lãnh đạo - thể hiện trong các văn kiện chính thức cũng không ngại
đề cập đến hiện trạng đạo đức, văn hóa xuống cấp; niềm tin của nhân dân với Đảng suy
giảm; tham nhũng tràn lan chưa được đẩy lùi; năng lực cán bộ, đặc biệt là đội ngũ tham
gia hoạch định đường lối chưa theo kịp nhu cầu; lợi ích nhóm, đặc biệt là các “nhóm thân
hữu” có lúc, có nơi lấn át lợi ích quốc gia, dân tộc…
Theo quy luật, muốn có sự thay đổi về chất xã hội Việt Nam, tức là muốn xây dựng
đất nước thành một quốc gia “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” thì sự
thay đổi về “lượng” phải đạt đến một ngưỡng nhất định và “lượng” đó phải bao gồm các
“chất” có thể chuyển hóa thành “công bằng, dân chủ, văn minh”.Chẳng hạn tinh bột có
7


thể chuyển hóa thành đường nhưng mảnh sành thì không thể. Khái niệm “lượng” ở đây
bao gồm cả hữu hình và vô hình (phi vật thể).
Tìm hiểu những “lượng” và “chất” của “lượng” mà xã hội Việt Nam tích lũy được từ sau
khi thống nhất là vấn đề rộng, trong khuôn khổ bài viết chỉ có thể đề cập một vài khía
cạnh.

Số lượng Đảng viên cuối năm 2015 vào khoảng 4,5 triệu người. Năm 1976, sau khi thống
nhất, vào dịp Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 4 (từ 14 - 20/12/1976), Đảng có 1.550.000
đảng viên.
Trong 40 năm, số lượng đảng viên tăng gần gấp 3 lần, trong khi chất lượng đội ngũ cán bộ,
đảng viên theo nhận định của Ban chấp hành Trung ương:
“Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo,
quản lý, kể cả cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những
biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực
dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô
nguyên tắc...; làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng”.
Bộ phận không nhỏ ấy, không biết chiếm bao nhiêu phần trăm nhưng chắc chắn là
“không nhỏ”, khi số lượng đảng viên tăng lên nhanh chóng mà lại chưa (hoặc không) kiểm
soát được chất lượng thì tỷ lệ “không nhỏ” đương nhiên sẽ tăng, ít nhất là tỷ lệ thuận theo số
lượng.Từ nhận định của Trung ương có thể thấy một nghịch lý: “lượng” đảng viên tăng lên
khá nhanh trong khi “chất” của “bộ phận không nhỏ đảng viên” lại theo chiều ngược lại.
Vậy sự thay đổi về lượng đảng viên đã “đủ độ” để xuất hiện sự thay đổi về chất chưa?
Nếu sự chuyển hóa về chất diễn ra tại thời điểm này thì xu hướng sẽ như thế nào?
Với lực lượng nắm quyền dẫn dắt xã hội, nhưng lại có một “bộ phận không nhỏ suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”, kèm theo đó là một bộ phận “cũng không hề nhỏ” yếu
kém về năng lực quản lý, điều hành… nếu sự “biến đổi về chất” xảy ra vào thời điểm này sẽ
không phải chuyện đơn giản.

8


Để làm chậm bước “nhảy vọt” về chất theo hướng tiêu cực thì điều cần là phải kìm
hãm sự tăng quá nhanh về “lượng”, nói cách khác, cần ngay lập tức cho ra khỏi Đảng những
phần tử thoái hóa, cơ hội, tham vọng quyền lực chứ không phải chỉ là kêu gọi không đưa
vào Trung ương các đối tượng này. Sự giảm số lượng phải bắt đầu từ các chi bộ cơ sở.
Thực tế cho thấy, tại các vùng nông thôn, kể cả ngoại thành Hà Nội, chuyện đảng viên

nắm vai trò chủ chốt (Bí thư – Chủ tịch) đối phó với chính sách cán bộ bằng cách mua bằng,
mượn bằng, sử dụng bằng rởm, thuê người thi hộ… đã diễn ra và cho đến nay vẫn chưa có
dấu hiệu thuyên giảm hoặc dừng lại.
Bằng chứng là mới đây, Chủ tịch một xã ở Hà Nội nhờ người thi hộ 25 môn trong
chương trình cử nhân tại Viện Đại học Mở hay Trưởng ban Tổ chức thành ủy Vị Thanh tỉnh
Hậu Giang “mượn” bằng phổ thông của người khác để hợp thức hóa hồ sơ…
Những phát biểu nêu trên phần nào cho thấy “chất” của “lượng” bên trong các cơ quan
dân cử. Sự chuyển hóa những “chất” đó thành luật hoặc văn bản quy phạm pháp luật
khiến cho không ít trường hợp luật, nghị quyết, nghị định ban hành không phù hợp với
thực tiễn.
Đã có khá nhiều ý kiến đề cập đến lực lượng hùng hậu của các tổ chức chính trị xã hội mà
ngân sách phải đài thọ như Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ, Cựu chiến
binh… Các tổ chức này đều không sản xuất ra của cải vật chất nhưng sử dụng một khoản
ngân quỹ không hề nhỏ.
Sự thay đổi về “lượng vô hình” dễ nhận diện nhất trong xã hội ngày nay là sự vô cảm.
Người nông dân sẵn sàng sử dụng chất cấm, chất độc trong trồng trọt, chăn nuôi; người
kinh doanh sẵn sàng buôn hàng lậu chứa đầy chất có hại cho sức khỏe, doanh nghiệp thủy
điện sẵn sàng chặn nước bức tử cả dòng sông… miễn là thu được lợi nhuận cao nhất.
Hiểu về Quy luật lượng – chất nghĩa là phải hiểu rằng, không phải bất kỳ sự biến đổi về
chất nào cũng mang lại cho con người quả ngọt nếu bên trong “quả” không có chất có thể
chuyển hóa thành đường.
Muốn điều chỉnh quá trình biến đổi “chất” thì cần phải tác động sao cho sự biến đổi về
“lượng” không kèm theo sự tích lũy những chất có hại, một khi sự tích lũy các “tiền chất”
9


có thể chuyển hóa thành tham nhũng có xu hướng tăng mạnh thì cần kìm hãm không để
sự tích lũy đó đạt đến ngưỡng không thể điều chỉnh.
Sợ chết mà thoát chết thì mới nên sợ, cuộc sống nơi cõi trần của mỗi con người
chẳng qua chỉ là một thoáng so với sự tồn vong của quốc gia, dân tộc, vì thế không thể

không chung tay góp sức để khẩu hiệu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh” sớm trở thành hiện thực.Để thế hệ người Việt hôm nay không phải phải từ biệt thế
gian này trong tự hào và nuối tiếc.
 Tác động ngược:
Sự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng.Lượng thay đổi luôn luôn
trong mối quan hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Song sự tác động của chất đối với
lượng rõ nét nhất khi xảy ra bước nhảy về chất, chất mới thay thế chất cũ, nó quy định
quy mô và tốc độ phát triển của lượng mới trong một độ mới.Khi chất mới ra đời, nó
không tồn tại một cách thụ động,mà có sự tác động trở lại đối tượng lượng, được biểu
hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa
chất và lượng. Sự quy định này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp độ và mức độ phát
triển mới của lượng.
 Ý nghĩa phương pháp luận:
- Với bất kì sự vật, hiện tượng nào đều có 2 phần chất và lượng. Chúng quy định, tác động,
chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong nhận thức và thực tiễn phải coi trọng cả 2 loại lượng và
chất.
- Vì lượng và chất có khả năng tác động lẫn nhau nên trên thực tế, ta phải dựa vào mối
quan hệ của sự vật, hiện tượng đó với bên ngoài để thực hiện sự thay đổi dần về lượng
hoặc phát huy tác dụng của chất mới làm thay đổi lượng của sự vật, hiện tượng.
- Chất chỉ được biến đổi khi lượng đạt tới một mức độ nhất định, tức phải vượt qua
khoảng độ của nó, khoảng độ này tùy vào sự vật, hiện tượng mà dài hay ngắn do vậy
trong thực tiễn cần tránh tư tưởng nôn nóng tả khuynh. Khi vượt qua điểm nút thì ta có

10


thể tác động được đến chất của sự vật, hiện tượng nên cũng cần khắc phục tư tưởng bảo
thủ hữu huynh
- Cần vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với tình hoàn cảnh cụ
thể. Đặc biệt trong xã hội quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách

quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó cần phải nâng cao
tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất
một cách hiệu quả nhất.
III.Ý nghĩa của việc nắm rõ quy luật này trong hoạt động thực tiễn:
1. Vận dụng vào quá trình học tập của sinh viên Việt Nam:
1.1.Sự khác nhau giữa môi trường học tập phổ thông và đại học.
Khi bạn đã vào đại học thì bạn đã trưởng thành hơn. Do đó, thầy cô cũng không còn
những “ưa ái” như ngày xưa nữa. Cụ thể :
- Thầy cô không còn đọc cho ta chép: Mỗi tiết học thầy cô đều giảng bài một cách
liền mạch và không có chuyện dừng lại đọc từng chữ một nữa nên chúng ta cần học cách
ghi chép hiệu quả.
- Không kiểm tra thường xuyên : Ở phổ thông, bằng việc hay bị kiểm tra miệng, kiểm
tra 15p hay 1 tiết ,ta mới bắt tay vào học bài cũ, soạn bài mới. Nhưng khi lên đại học,
chuyện này không còn xảy ra nữa. Sinh viên chỉ có kiểm tra giữa kì và cuối kì. Thậm chí
không chép bài cũng không sao cả nên từ đó có thể khiến ta trì hoãn việc học.
- Tự học là chính : Ngày xưa, nếu muốn giỏi rất dễ, chỉ cần bỏ tiền đi học thêm là
được, tự học đóng góp phần nhỏ thôi nhưng bước chân vào cánh cổng đại học rồi thì phải
tự thân lo lấy. Đối với những sinh viên xa nhà thì nay cũng phải tự nhắc nhở mình học tập
chứ gia đình không còn kè kè ở bên nữa.
- Lớp học đông hơn : Một giảng đường là cả hằng trăm học sinh, thầy cô do đó cũng
khó có thể quan sát, quan tâm đến nhiều sinh viên như các thầy cô ở phổ thông được.
- Chương trình học nặng hơn : Tiếp nối kiến thức phổ thông là kiến thức sâu rộng hơn
dành cho sinh viên đại học. Nghiên cứu, tu duy nhiều hơn, đòi hỏi phải siêng năng hơn.
-Tự chọn lịch học : Với mô hình đào tạo theo tín chỉ, sinh viên sẽ phải tự đang kí lịch
học với thời gian của mình, điều này khiến nhiều bạn năm nhất bỡ ngỡ.

11


-Tự do hơn, trách nhiệm cao hơn : Đã là sinh viên thì ít khi các bậc phụ huynh xen

vào đời sống và học tập của ta, nhất là các bạn xa nhà thì càng tự do. Nhưng điều đó đồng
nghĩa với việc ta cần phải tự giác cao hơn. Một phút ăn chơi, sa ngã là đi luôn đời sinh
viên.
1.2. Hình thành động cơ học tập.
Việc xác định động cơ học tập cho bản thân là vô cùng quan trọng. Trong môi trường
đòi hỏi phải tự giác học tập thì động cơ chính là mồi lửa châm ngòi cho sức mạnh, niềm
đam mê học tập cho mỗi chúng ta. Động cơ là kim chỉ nam xác định hành động và quy
định thái độ của con người đối với hành động ấy.
Ngồi trên ghế nhà trường, sinh viên cần xác định mình “học làm gì ?” “ học cho ai?”
“học vì cái gì?”. Biết được mục tiêu giáo dục của Bộ và quán triệt quan điểm giáo dục của
Đảng và nhà nước.
Việc hình thành động cơ học tập cần phải đi sâu vào tâm tư, tình cảm của con người
và tùy thuộc vào hoàn cảnh, bộ môn học tập của mỗi sinh viên.
Có thể nói, hình thành động cơ học tập đúng đắn là tính chất quyết định nội dung,
hình thức, phương hướng học tập tốt.
1.3. Phương pháp học tập tối ưu.
Sau khi hình thành động cơ học tập thành công thì bước tiếp theo là xác định phương
pháp học đúng đắn. Nếu phương thức học tập chính xác thì với động cơ có sẵn từ trước sẽ
giúp ta phóng như bay về địch,luôn luôn hứng thú, hăng say học tập,cháy hết mình sự
nghiệp, sứ mệnh làm sinh viên.
1.4. Tích luỹ tri thức dần dần và kiên trì học hỏi.
Với lượng kiến thức vô cùng lớn ở đại học thì ta phải học từ từ từng bài một. Học từ
dễ đến khó để có thể hiểu thấu được bài học. Giống như việc bạn ăn một con voi vậy. Vì
nó quá to nên ta cần phải ăn từ từ, ăn từng miếng một mới xong được, và đương nhiên là
cần thời gian để làm điều đó. Nếu ta cố ăn một lúc thì chắc hẳn sẽ bội thực mà chết. Việc
học ở đây cũng vậy. Với lượng kiến thức đồ sộ, ta cần có thời gian để hấp thu. Do kiến
thức khó nên ta sẽ lâu thấy sự tiến bộ. Đơn giản vì ta chưa cung cấp đủ lượng kiến thức
cần thiết để có thể thấu hiểu được tri thức ấy. Có nghĩa là ta đang trong khoảng giới hạn

12



( độ ) của tri thức ấy. Vậy nên ta cần kiên trì học hỏi, không được chán nản để có thể cung
cấp đủ lượng làm chuyển hóa chất.
1.5 Siêng năng, nổ lực không ngừng, xậy dựng kế hoạch học tập tốt.
Học là quá trình hợp tác giữa người nói và người nghe cho nên mỗi chúng ta cần phải
chuẩn bị tâm thế cho việc tiếp nhận tri thức. Để có thể tiếp thu bài một cách tốt nhất ta
nên chuẩn bị bài trước ở nhà bằng cách đọc qua tài liệu, giáo trình, nghiên cứu thêm các
nguồn tài liệu. Cái gì không hiểu thì để đó, trong quá trình nghe giảng trên lớp thể nào
cũng có thể giải đáp cho bạn những thắc mắc ấy, không thì chí ít ta có thể hỏi bạn bè, thầy
cô. Nắm bắt rõ những phần khó trong bài học sẽ giúp ta thuận lợi hơn cho việc ôn tập sau
này. Còn những gì mà ta cho là đã hiểu ở nhà thì sau khi nghe giảng bạn sẽ thấu hiểu hơn
hoặc là nhận ra mình đã hiểu sai và từ đó nhớ lâu hơn.
Với bộn bề công việc hằng ngày với đống bài tập về nhà thì bạn nên có một kế hoạch
học tập cụ thể cho mình để giải quyết vấn đề dễ dàng và toàn diện hơn. Lập kế hoạch cụ
thể cho từng công việc trong một ngày một cách rõ ràng. Xây dựng kế hoạch học tập cần
phải dựa trên thời gian mình có và khả năng thực hiện được. Đừng quá ảo tưởng sức
mạnh mà xây dựng một kế hoạch học tập quá sức để từ đó bỏ cuộc và cho rằng mình dốt.
Hãy lên một kế hoạch lý tưởng với ước mơ lý tưởng để có được một tương lai lý tưởng.
1.6 Nghiêm túc thực hiện kế hoạch học tập và trung thực trong thi cử.
Ai ai cũng có thể lên được một kế hoạch hoàn hảo, nhưng có mấy ai thực hiện được
kế hoạch đó. Người có ý chí kiên định thực hiện nó hằng hằng, hằng tháng, hằng năm là
người chiến thắng. Hãy chính chắn và bước đi vững vàng theo con đường mình đã vạch ra
dù có bất cứ chông gai gì. Bước nhảy trên con đường tiến tới khám phá tri thức toàn nhân
loại có thực hiện được hay không là do ta có nghiêm túc thực hiện kế hoạch học tập được
hay không.
Khi ta đã có được cách học tốt thì tức ta đã có thể tiếp thu tri thức được, hiểu được
thầy cô giáo giảng bài. Từ đó tránh tình trạng quay cóp trong thi cử. Nếu bị bắt thì ta sẽ
phải học lại môn đó, từ đó gây chán nản, càng ngày càng chìm vào hố sâu. Tức là chất
trong ta đã thay đổi, mà chất thay đổi dẫn đến lượng mới cũng hình thành, nhưng lại theo

chiều hướng xấu. Ta đâm đầu vào làm các việc vô bổ khác thay vì học tập, lượng tri thức

13


cạn dần và rồi sẽ đẩy ta ra khỏi cánh cổng đại học. Trung thực trong thi cử vừa giúp ta
tránh gặp phải tình trạng trên vừa giúp ta rèn luyện đạo đức, giữ vững đức tính tốt đép của
mình. Nếu chất là đạo đức mà thay đổi thì thật là nguy hiểm cho bản thân, gia đình và cả
xã hội.
1.7 Nâng cao kĩ năng mềm.
Quy luật lượng đổi-chất đổi giúp nhận thức được rằng, sự thay đổi về chất còn phụ
thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng. Do đó, trong
hoạt động của mình, phải biết tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành
sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo thành sự vật đó. Cụ thể, sự
thành công của một sinh viên thì còn phụ thuộc vào các kĩ năng mềm trong cuộc sống mà
nhà trường không dạy chẳng hạn như nghệ thuật giao tiếp, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng
ứng phó với trộm,....hay quan trọng cả là kĩ năng làm việc nhóm, mang hành trang tích
cực vào đời , biến tri thức lĩnh hội thành sản phẩm trí tuệ đích thực. Như thế mới giúp ta
phát triển toàn diện được. Giúp ta tích tụ lượng kiến thức mới để biến thành người mới.
1.8. Giải trí, sinh hoạt điều độ.Tham gia hoạt động ngoại khóa
Giải trí và sinh hoạt hằng ngày cũng góp phần quan trọng không kém so với học chính.
Vui chơi đúng lúc sẽ giúp tâm lý ta thoải mái, nâng cao tình thần, đầu óc tỉnh táo từ đó
tiếp thu tốt hơn. Các hoạt động do đoàn thanh niên tổ chức, nhà trường phạt động, sinh
viên cần hưởng ứng tích cực. Tham gia các hoạt động thể thao, tham gia các câu lạc bộ,
các hội thảo để thêm phần chủ động trong quá trình tiếp nhận tri thức. Bên cạnh đó, sinh
hoạt, ăn ngủ điều độ giúp ta nâng cao sức khỏe, đủ cơ sở để tham gia học tập, nghiên cứu.
1.9 . Có ý thức cộng đồng tốt.
Sống trải lòng với cộng đồng và xã hội. Không tự kỉ, mọt sách và cần tích cực hòa
nhập với cộng đồng để nâng cao trình độ bản thân. Cộng đồng tốt hay xấu là do từng cá
nhân và cá nhân tốt hay xấu cũng một phần do cộng đồng. Khi ta cảm thấy vui thì động

lực mới bắt đầu được nhen nhóm. Mọi sinh hoạt cộng đồng tích cực đều giúp ích cho
công cuộc học tập của ta.
2.Vận dụng vào thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam:
2.1Tính tất yếu khách quan của kinh tế thị trường định hướng CNXH ở nước ta

14


Kinh tế thị trường định hướng XHCNthực chất là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN nhưng được diến đạt gọn hơn, nói rõ được mô hình hinh tế tổng quát của
nước ta trong thời kỳ quá độ.
Nói nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta
không phải là kinh tế hiện vật, tự cấp, tự túc, quản lý theo kiểu

tập trung, quan liêu, bao

cấp. Nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách nói của tư bản,
tức là không phải nền kinh tế thị trường TBCN, và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị
trường XHCN, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có lại vừa chưa
có đầy đủ các yếu tố CNXH.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một tất yếu khách
quan. Bởi vì.
- Kinh tế thị trường định hướng XHCN là kết quả của sự nhận thức và vận dụng
quy luật vè sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Cùng với CNH, HĐH đất nước, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là con
đường kinh tế cơ bản đưa nước ta quá độ lên CNXH.
- Nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, là thời kỳ đang thực hiện hoá dần dần
CNXH, thời kỳ xuất hiện nhiều hình thức kinh tế quá độ, vừa có CNXH vừa còn CNTB.
Chủ trương xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN là phù hợp với bản chất của

thời kỳ lịch sử đặc biệt này.
- Chúng ta đã biết thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, trong đó kết cấu
kinh tế - xã hội vừa bao hàm những yếu tố của xã hội cũ đang suy thoái dần, vừa bao hàm
những yếu tố của xã hội mới ra đời đang lớn lên từng bước nhưng chưa dành toàn thắng.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà xã hội đang chuyển từ chế độ này sang chế độ khác,
ở đó chưa có phương thức sản xuất nào giữ vị trí thống trị tuyệt đối, trong đó mỗi
phương thức chỉ là một “mảnh” một “bộ phận” của kết cấu kinh tế xã hội, vừa độc lập
tương đối, vừa hợp tác và đấu tranh với nhau. Mỗi “mảnh”, mỗi “bộ phận” ấy là một
thành phần kinh tế.
Thành phần kinh tế khác phương thức sản xuất ở chỗ khi nó chưa vươn lên đóng

15


vai trò thống trị, nhưng cũng không ở vào vị trí chi phối, nó tồn tại như một bộ phận
tương đối độc lập, đan xen với các bộ phận khác của kết cấu kinh tế-xã hội. Do vậy, nền
kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng riêng có của thời kỳ quá độ lên CNXH.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, qua đó tiềm năng của các
thành phần kinh tế được khai thác để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo xây dựng thành công
CNXH.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu khách
quan, là sự nhận thức đúng đắn quy luật từ những thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay
đổi về chất và ngược lại. Điều đó có nghĩa là khi chúng cha chưa tích luỹ được đầy đủ
những điều kiện vật chất cho CNXH thì chúng ta chưa thể nóng vội xây dựng quan hệ sản
xuất

XHCN ngay như trước năm 1986 chúng ta đã làm, mà chúng ta phải tiến hành dần


dần, hay nói cách khác, chúng ta phải có một thời kỳ quá độ.
2.2.Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được sau 15 năm đổi mới.
Sau năm 1975 khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên CNXH, chúng ta đã
nóng vội và nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất một thành phần

dựa trên cơ sở công

hữu XHCN về tư liệu sản xuất, mọi thành phần kinh tế khác bị coi là

bộ phận đối lập

với kinh tế XHCN, vì vậy nằm trong diện phải cải tạo, xoá bỏ, làm như vậy là chúng ta đã
đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo ra
mâu thuẫn giữa một bên là lực lượng sản xuất thấp kém với một bên là quan hệ sản xuất
được xã hội hoá giả tạo, dẫn đến kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, hay nói
cách khác khi lực lượng sản xuất của chúng ta còn quá thấp kém chưa tích luỹ đủ

về

lượng (tính chất và trình độ) đã vội vã thay đổi chất (quan hệ sản xuất XHCN) làm cho
đất nước lâm vào tình trang khủng hoảng kinh tế – xã hội.
Từ đại hội VI của đảng cộng sản Việt nam đến nay, khắc phục sai lầm trên chúng ta
thực hiện xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xuất phát từ tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất nước ta là đa dạng, không đồng đều và chưa cao.
Thực tiễn sau 15 năm đổi mới đã khẳng định chủ trương xây dựng kinh tế nhiều

16


thành phần là phù


họp với phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta. Nó đã thực sự giải

phóng , phát triển và khơi dậy các tiềm năng của sản xuất. Khơi dậy năng lực sáng tạo chủ
động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất đưa nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh
tế- xã hội.

KẾT LUẬN
Từ việc nghiên cứu về quy luật của sự chuyển đổi về lượng dẫn đến chuyển đổi về
chất và ngược có thể rút ra một số kết luận về việc rèn luyện, học tập cho sinh viên như
sau :
Muốn tốt nghiệp đại học ( chất ) thì ta cần phải tích lũy lượng - tri thức dần dần trong
một thời gian dài ( 5 năm,..). Luôn nổ lực không ngừng để có thể vượt qua độ, để thực
hiện bước nhảy đó. Trong mỗi môn học, ta phải tích lũy đủ số tín chỉ. Mỗi năm học phải
làm đủ các bài kiểm tra để có đủ điều kiện tiếp tục học tập cao hơn. Bên cạnh đó phải
tham gia các hoạt động xã hội, học giao tiếp, hình thanh quan hệ. Những người thành
công trở thành tỷ phú luôn học được nhiều từ đời sống hơn là từ nhà trường. Những việc
làm vĩ đại đều xuất phát từ những việc làm nhỏ bé. Bởi vậy xây dựng mô hình học tập
thật tốt và cố gắng thực hiện để biến đổi “chất” trong mỗi con người chúng ta là việc làm
cần thiết, cấp bách của thời sinh viên.

17


MỤC LỤC
Mở đầu…...........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................................
2. Mục đích nghiên cứu........................................................................................................
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài...........................................................................................
4. Kết cấu đề tài.....................................................................................................................


Nội dung..............................................................................................................................2
I. NHỮNG KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1 Khái niệm chất..................................................................................................................2
2 Khái niệm lượng...............................................................................................................3
II. NHỮNG LÝ LUẬN HIỂU RÕ SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ THAY
ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI…………………………………………………........4
III. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NẮM RÕ QUY LUẬT NÀY TRONG HOẠT ĐỘNG
THỰC TIỄN…………………………………………………………….........................11
1. Vận dụng vào quá trình học tập của sinh viên Việt Nam...............................................11
1.1 Sự khác nhau giữa môi trường học tập phổ thông và đại học ..................................
1.2 Hình thành động cơ học tập......................................................................................
1.3. Phương pháp học tập tối ưu.....................................................................................
1.4 Tích luỹ tri thức dần dần và kiên trì học hỏi............................................................
1.5 Nghiêm túc thực hiện kế hoạch học tập và trung thực trong thi cử.........................
1.6 Cố gắng trau dồi tri thức một cách tích cực.............................................................
1.7 Nâng cao kĩ năng mềm.............................................................................................
1.8 Giải trí, sinh hoạt điều độ.Tham gia hoạt động ngoại khóa.....................................

18


1.9 Có ý thức cộng đồng tốt...........................................................................................
2. Vận dụng vào thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt
Nam....................................................................................................................................14
2.1Tính tất yếu khách quan của kinh tế thị trường định hướng CNXH ở nước ta.........
2.2.Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được sau 15 năm đổi mới..............................

Kết luận.............................................................................................................................17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin”- Bộ GD và ĐT.
-Tailieu.vn
-Giáo trình triết học Mác – Lênin
-Nghị quyết đại hội Đảng lần 8 – 9
-Vận dụng nghị quyết 9.
-Tạp chí cộng sản.
-

19


MSSV

Họ và tên

Công việc

Đánh giá

1712980

Phạm Ngọc Sơn

Phân công công việc

100%

1711617


Trần Thanh Hùng

-Mở đầu
-Phần I Những khái
niệm liên quan

75%

1710064

Võ Thanh Đạt

75%

1710030

Lê Công

1713637

Lê Minh Trí

-Phần II. Những lý luận
hiểu rõ sự thay đổi về
lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất và ngược lại
-Vận dụng vào quá trình
học tập của sinh viên
Việt Nam
-Vận dụng vào thực tiễn

phát triển kinh tế thị
trường định hướng
XHCN Việt Nam

20

75%

75%

Xác nhận



×