Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUỸ TIỀN LƯƠNG VÀ TIỀN THƯỞNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.13 KB, 21 trang )

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUỸ TIỀN LƯƠNG VÀ TIỀN
THƯỞNG
I. BẢN CHẤT VÀ Ý NGHĨA CỦA QUỸ LƯƠNG
- Bản chất của quỹ tiền lương
Quỹ tiền lương là tổng số tiền mà Công ty dùng để trả cho người lao động
phù hợp với số lượng và chất lượng lao động trong phạm vi Công ty mình phụ
trách.
+ Quỹ tiền lương được chia thành 2 bộ phận là bộ phận cơ bản và bộ
phận biến đổi.
Bộ phận cơ bản gồm tiền lương cấp bậc có nghĩa là mức tiền lương do
các thang bảng lương của từng ngành, từng xí nghiệp quy định hệ thống thang
bảng lương này do Nhà nước quy định ban hành hoặc do xí nghiệp, các hợp tác
xã tự tính trên cơ sở tham khảo thang bảng lương của Nhà nước quy định.
Bộ phận biến đổi bao gồm các loại phụ cấp, các loại tiền thưởng nằm
cạnh tiền lương cơ bản.
Quan hệ giữa hai bộ phận này từ 70-75% tiền lương cơ bản và từ 25 -
30% là bộ phận tiền lương biến đổi.
+ Tiền lương thời kỳ báo cáo và tiền lương thời kỳ kế hoạch: tiền lương
thời kỳ báo cáo là những số liệu về tiền lương thực tế trong thời kỳ báo cáo;
tiền lương kỳ kế hoạch là những số liệu tính toán dự trữ để đảm bảo kế hoạch
sản xuất, đảm bảo quỹ tiền lương để trả cho kỳ sắp tới. Những con số ở đây
đều là những con số dự kiến trước. Cho nên giữa kế hoạch và thực tế thực hiện
sẽ có nhưng sai lệch. Tuy nhiên những con số, tính toán nó dựa vào mẫu căn cứ
sau:
1- Nhiệm vụ sản xuất kì kế hoạch (giá trị tổng sản lương, chủng loại sản
phẩm phải sản xuất).
2- Năng suất lao động của từng loại công nhân.
3- Tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất, kế hoạch năng xuất lao động, số
người làm việc ở thời kì đã qua (tham khảo để tính toán kì kế hoạch).
+ Kết cấu chi tiết về các khoản mục thuộc thành phần quỹ tiền lương. Kết
cấu này có thể thay đổi một số khoản mục tuỳ theo từng nước, từng ngành,


từng Công ty không bắt buộc phải giống nhau.
* ý nghĩa của quỹ tiền lương:
Tiền lương có ý nghĩa rất lớn đối với công ty và người lao động.
+ Đối với công ty: tiền lương là một khoản chi phí bắt buộc, do đó muốn
nâng cao lợi nhuận, hạ giá thành sản phẩm, các công ty phải biết quản lý và
tiết kiệm chi phí tiền lương. Tiền lương cao là một phương tiện rất hiệu quả để
thu hút lao động có tay nghề cao và tạo ra lòng trung thành của người nhân
viên đối với công ty.
Tiền lương là một phương tiện kích thích và động viên người lao động rất
hiệu quả nhờ chức năng đòn bẩy kinh tế tạo nên sự thành công công ty trên thị
trường.
+ Đối với người lao động: tiền lương là phận thu nhập chủ yếu của người
lao động, là phương tiện để duy trì sự tồn tại và phát triển của người lao động
cũng như gia đình họ. Tiền lương là một bằng chứng cụ thể, thể hiện giá trị
của người lao động, thể hiện uy tín, địa vị của mình trong xã hội. Tiền lương
còn một phương tiện để đánh giá là mức độ đối xử của chủ công ty đối với
người lao động đã bỏ sức lao động cho công ty.
II. TIỀN LƯƠNG LÀ BỘ PHẬN CHÍNH CỦA QUĨ LƯƠNG:
1. Khái niệm về tiền lương
Tiền lương hay tiền công là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh mối quan
hệ về kinh tế trong việc trả lương, trả công cho người lao động. Tiền lương
phụ thuộc vào kết quả của lao động , những mối quan hệ sản xuất mà trước
hết là quan hệ về tư liệu sản xuất quyết định. tiền lương là vấn đề quan trọng
trong các hoạt động kinh tế. Nó quan hệ chặt chẽ và ảnh hưởng đến quá quá
trình tái sản xuất xã hội, đặc biệt là tái sản xuất.
Trong xã hội tư bản thì tiền công hay tiền lương chính là sự thể hiện sức
lao động là giá cả của sức lao động, nhưng thực chất thì nhà tư bản trả cho
người công nhân tiền công nhỏ hơn giá trị sức lao động anh ta bỏ ra và nhà tư
bàn cướp không giá trị thặng dư đó. Tiền lương dưới CNXH là một phần của
thu nhập quốc dân, điều đó có nghĩa là ở tầm vĩ mô chỉ được phép phân phối

cho tiêu dùng trong phạm vi thu nhập quốc dân sản xuất. Tốc độ tăng tiền
lương bình quân không được cao hơn tốc độ tăng năng xuất lao động bình
quân. Trong một giai đoạn đặc biệt ngắn, nguyên tắc này có thể bị vi phạm,
nhưng trong một thời gian ngắn nguyên tắc này có thể bị vi phạm, nhưng
trong một thời gian dài đó là quy luật thép cho cả tầm vĩ mô và vi mô. tiền
lương là bộ phận của thu nhập quốc dân, được nhà nước phân phối cho người
lao động, vì thế nó chịu ảnh hưởng của hàng loạt các nhân tố: Trình độ phát
triển sản xuất, quan hệ tích luỹ và tiêu dùng trong từng thời và chính sách của
nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế chính trị trong thời kỳ đó. Trên
đây ta thấy vai trò của nhà nước đối với vấn đề tiền lương cho người lao động
đã thay thế vai trò của thị trường và nhà nước dưới Chủ nghĩa Tư bản. Vì từ
trước đến nay ta quan niệm rằng dưới CNXH ở nước ta sức lao động không
còn là hàng hoá. Nhà nước đã căn cứ vào điều kiện kinh tế của đất nước trong
từng thời kỳ và các yêu cầu về tái sản xuất sức lao động cho người lao động
(độ phức tạp của lao động và sức tiêu hao lao động) cũng như các chính sách
mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, chiến
lược về cơ cấu ngành nghề, để tính chính sách tiền lương chung toàn bộ nền
kinh tế từ các đơn vị hành chính sự nghiệp đến các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Trong điều kiện kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay, sức lao động
trở thành hàng hoá vì tồn tại các điêu kiện mang tính chất tiền đề để sức lao
động trở thành hàng hoá đó là sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử
dụng tư liệu sản xuất, người lao động có quyền tự do làm chủ sức lao động của
mình. Trong các thành phần kinh tế tư nhân cũng như nhà nước giám đốc,
công nhân, người làm thuê đều là người bán sức lao động và được trả công.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của nước ta hiện
nay thực chất của tiền lương được nhìn nhận từ nhiều khâu của quá trình tái
sản xuất.
Sức lao động là yếu tố quyết định trong các yếu tố cơ bản của quá trình
tái sản xuất nên tiền công là giá cả của sức lao động và là phạm trù của sản
xuất yêu cầu phải tính đúng, tính đủ trước khi thực hiện quá trình lao động và

sản xuất:
Sức lao động là hàng hoá, nên tiền lương là phạm trù của trao đổi, nó đòi
hỏi phải ngang giá với các tư liệu sinh hoạt cần thiết nhằm tái sản xuất lao
động.
Sức lao động là một yếu tố của một quá trình tái sản xuất cần phải bù đắp
sau khi đã hao phí nên tiền công phải được thực hiện thông qua quá trình
phân phối lại thu nhập quốc dân dựa trên hao phí lao động, hiệu quả lao động
của người lao động, do đó tiền công là phạm trù của phân phối.
Sức lao động cần phải được tái sản xuất thông qua việc sử dụng các tư
liệu sinh hoạt, thông qua quỹ tiêu dùng cá nhân và do đó tiền công là một
phạm trù của tiêu dùng.
Như vậy tiền công hay tiền lương là một phạm trù kinh tế tổng hợp và
bao gồm chức năng sau:
2. Các chức năng tiền lương của các công ty
Tiền lương có các chức năng cơ bản sau:
+ Tiền lương phải đảm bảo được tái sản xuất sức lao động (bao gồm cả
tái sản xuất đơn tức tức khôi phục lại sức lao động và tái sản xuất mở rộng sức
lao động). Điều này có nghĩa là: Với tiền lương, người lao động không chỉ đủ
sống mà còn dư để nâng cao trình độ về mọi mặt cho bản thân con cái họ, thậm
chí có một phần nhỏ để tích luỹ.
+ Chức năng kích thích người lao động: tiền lương đảm bảo và góp phần
tác động để tào ra cơ cấu lao động hợp lý trong toàn bộ nền kinh tế , khuyến
khích phát triển kinh tế ngành và lãnh thổ. Tiền lương là đòn bẩy kinh tế, thu
hút người lao động hăng say làm việc, là động lực thúc đẩy tăng năng xuất,
khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ gắn trách nhiệm cá
nhân với tập thể và công việc.
+ Chức năng thanh toán của tiền lương: Dùng tiền lương để thanh toán
các khoản chi tiêu phát sinh trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, giúp cho
người lao động có quyền tính toán các khoản sẽ hết bao nhiêu và họ sẽ tự điều
chỉnh cân đối chi tiêu cho hợp lý với số tiền họ nhận được khi kết thúc một quá

trình lao động.
+ Tiền lương là thước đo mức độ cống hiến của người lao động, Chức
năng này là sự biểu hiện của quy luật phân phối theo lao động.
3. Các nguyên tắc trả lương
Để phát huy tốt tác dung tiền lương trong hoạt động sản xuất kinh doanh
và đảm bảo hiệu quả của các Công ty, khi tổ chức tiền lương cho người lao
động cần đạt được các yêu cầu cơ bản sau:
+ Bảo đảm tái xuất sức lao động và không ngừng nâng cao đời sống vật
chất tinh thần cho người lao động
+ Làm cho năng xuẩt lao động không ngừng nâng cao.
+ Đảm bảo tính đơn giản, dễ tính, dễ hiểu.
Xuất phát từ các yêu cầu trên, công tác tổ chức tiền lương phải đảm bảo
được các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động và gắn với
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nguyên tắc này được đề ra dựa trên cơ sở quy luật phân phối theo lao
động.
Nội dung của nguyên tắc này là trong cùng một điều kiện làm việc, cùng
loại công việc của quá trình sản xuất, những công việc hao phí lao động sản
xuất như nhau, lao động ngang nhau thể hiện khi so sánh thời gian lao động,
cường độ lao động, trình độ thành thạo của người lao động. Sự so sánh đó là
cơ sở phân biệt đóng góp mức lao động. Nội dung được thể hiện cụ thể là trong
khi trả lương cho người lao động không phân biệt là nam hay nữ, già trẻ,
không phân biệt dân tộc hay tôn giáo.
Đây là nguyên tắc quan trọng của tổ chức tiền lương với nguyên tắc này
tiền lương mới thực hiện được yêu cầu của quy luật phân phối theo lao động.
Mặt khác, thực hiện nguyên tắc này có tác dụng kích thích người lao động
hăng hái sản xuất, góp phần nâng cao sản xuất lao động và hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
Nguyên tắc 2 : Tổ chức tiền lương phải đảm bảo được tốc độ tăng năng

suất lao động lớn hơn tốc độ tăng của tiền lương bình quân.
Nguyên tắc này xuất phát từ hai cơ sở sau :
+ Do nhân tố tác động tới năng suất lao động và tiền lương là khác nhau
tác động tới năng suất lao động chủ yếu là các nhân tố khách quan như thay
đổi kết cầu nguồn lao động, nguồn nhân lực, thay đổi quy trình công nghệ, các
nhân tố tác động đến tiền lương bình quân chủ yếu là do các nhân tố chủ quan
như người lao động tích luỹ được kinh nghiệm sản xuất, nâng cao trình độ
lành nghề, các nhân tố khách quan thì tác động ít, không thường xuyên. Ví dụ
như cải cách chế độ tiền lương, thay đổi các khoản trợ cấp...
+ Do yêu cầu tái sản xuất mở rộng, cho nên tốc độ tăng tổng sản phẩm
của khu vực I (khu vực sản xuất các tư liệu sản xuất) phải lớn hơn tốc độ tăng
tổng sản phẩm của khu vực II (khu vực sản xuất các tư liệu tiêu dùng) và do đó
sự phát triển của cả kết quả của sản xuất của hai khu vực (I + II) phải nhanh
hơn khu vực II. Trong đó kết quả sản xuất của hai khu vực là cơ sở để tính
năng suất lao động. Khu vực II một phần tích luỹ tái sản xuất mở rộng, phần
còn lại trả công cho người lao động dưới hình thức tiền lương. Như vậy tốc độ
tăng của sản xuất lao động cao hơn tốc độ tăng của tiền lương là một đòi hỏi
tất yếu.
Nguyên tắc 3 : Đảm bảo mối quan hệ về tiền lương giữa các ngành kinh tế
quốc dân.
Cơ sở của nguyên tắc: căn cứ vào chức năng của tiền lương là tái sản xuất
sức lao động, khuyến khích người lao động, do vậy phải đảm bảo hợp lý mối
quan hệ giữa các ngành thông qua chỉ tiêu bình quân giữa các ngành. Tiền
lương bình quân giữa các ngành được qui định bởi các nhân tố :
+ Nhân tố trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở mỗi ngành,
nếu cao thì tiền lương sẽ cao và ngược lại, nếu trình độ lành nghề thấp thì tiền
lương sẽ thấp.
+ Nhân tố điều kiện lao động : sự khác nhau về điều kiện lao động giữa
các ngành sẽ dẫn đến tới tiền lương khác nhau. Người làm việc trong điều kiện
độc hại thì tiền lương sẽ cao hơn người làm việc trong điều kiện thuận lợi tốt

hơn.
+ Nhân tố Nhà nước : Do ý nghĩa kinh tế của mỗi ngành phụ thuộc vào
điều kiện cụ thể từng thời kỳ mà Nhà nước thứ tự ưu tiên nhất định.
+ Nhân tố phân khu vực sản xuất mỗi ngành khác nhau nên tiền lương
khác nhau. Chẳng hạn các ngành phân bố ở khu vực mà bình quân đời sống
khó khăn, khí hậu xấu, giá cả đắt đỏ thì tiền lương phải cao lên.
Nguyên tắc 4 : Đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động sao cho sức
lao động là năng lao động của con người là toàn bộ thể lực, tinh thần, trạng
thái tâm sinh lý, thể hiện trình độ nhận thức, kỹ năng lao động, phương pháp
lao động là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất và là yếu tố quan trọng
nhất.
Mọi sản xuất xã hội chỉ có thể được duy trì và mở rộng với điều kiện
không ngừng tài sản xuất sức lao động, có tái sản xuất giản đơn và mở rộng.
Theo quan niệm hiện nay, tiền lương là giá cả sức lao động, phải đảm bảo
tái sản xuất lương.
Các nguyên tắc trên dù thực hiện tốt mà không đảm bảo điều sau đây thì
không có ý nghĩa. Việc trả lương phải :
+ Không thấp hơn mức lương tối thiểu nhà nước tuyên bố, cụ thể ở từng
vùng, từng khu vực. Người lao động đi làm đêm, thêm giờ, thì phải trả thêm
lương.
+ Đơn vị trả lương và các khoản phụ cấp cho người lao động trực tiếp,
đầy đủ, đúng hẹn tại nơi làm việc và bằng tiền mặt.
+ Khi đơn vị bố trí người lao động tạm thời chuyển sang nơi làm việc hoặc
công việc khác thì phải trả lương cho người lao động không thấp hơn công
việc trước.
+ Khi đơn vị phá sản, giải thể, thanh lý thì tiền lương phải được ưu tiên
thanh toán cho người lao động.
4. Các hình thức trả lương của các công ty
Hiện nay trong các xí nghiệp công ty do sự khác nhau về điều kiện sản
xuất kinh doanh nên các hình thức, chế độ trả lương được áp dụng không

giống nhau, có hai hình thức áp dụng là :
* Hình thức trả lương theo thời gian :
Tiền lương trả theo thời gian được áp dụng cho những công việc không
tính được cụ thể hao phí lao động, nó thể hiện theo các thang bậc lương do
Nhà nước qui định và được trả theo thời gian làm việc thực tế. Phạm vi áp
dụng của hình thức này chủ yếu gồm khu vực hành chính sự nghiệp, những
người công tác nghiên cứu, quản lý, sửa chữa máy móc thiết bị và bộ phận
phục vụ sản xuất, những người sản xuất trong dây truyền công nghệ nhưng tại
đó không tính được định mức. Trả lương theo thời gian bao gồm 2 loại sau:
+ Hình thức tiền lương trả theo thời gian đơn giản : là hình thức trả
lương cho người lao động chỉ căn cứ bậc lương và thời gian thực tế làm việc
không xét đến thái độ và kết quả của công việc.

×