Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tâm linh tại thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 76 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ
----------

PHẠM THỊ THỦY

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU
LỊCH TÂM LINH TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ......................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 3
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 3
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 4
6. Đóng góp của đề tài .................................................................................................... 4
7. Cấu trúc của đề tài ..................................................................................................... 5

NỘI DUNG ............................................................................................................ 6
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG .................................................................... 6
1.1. Một số khái niệm về du lịch .................................................................................... 6
1.1.1. Du lịch .................................................................................................................... 6
1.1.2. Khách du lịch ......................................................................................................... 6
1.2. Du lịch tâm linh ....................................................................................................... 7


1.2.1. Khái niệm du lịch tâm linh ................................................................................... 7
1.2.2. Đặc điểm của du lịch tâm linh ............................................................................. 7
1.2.3. Vai trò và ý nghĩa của du lịch tâm linh ................................................................ 8
1.2.3.4. Tài nguyên du lịch tâm linh ............................................................................... 10
CHƯƠNG II: TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TÂM LINH TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...................................................................... 10
2.1. Khái quát về thành phố Đà Nẵng........................................................................... 10
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................................. 10
2.1.1.1. Vị trí địa lý ........................................................................................................... 10
2.1.1.2. Địa hình ............................................................................................................... 11
2.1.1.3. Khí hậu ................................................................................................................ 11
2.1.1.4. Thủy văn .............................................................................................................. 12
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ...................................................................................... 12
2.1.3. Lịch sử hình thành ................................................................................................ 14
2.1.4. Đặc điểm cư dân, văn hoá ..................................................................................... 18

2


2.1.4.1. Đặc điểm cư dân .................................................................................................. 18
2.1.4.2. Đặc điểm văn hóa ................................................................................................ 18
2.2. Tiềm năng phát triển du lịch tâm linh tại thành phố Đà Nẵng ........................... 20
2.2.1. Khái quát tình hình hoạt động du lịch tâm linh trong trên thế giới và Việt
Nam ........................................................................................................................................ 20
2.2.2. Chủ trương, quan điểm của chính quyền địa phương về tôn giáo, tín
ngưỡng
.......................................................................................................................................... 22
2.2.3. Hệ thống các công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng tại Đà Nẵng ............... 24
2.2.3.1. Chùa chiền ........................................................................................................... 24
2.2.3.2. Nhà thờ, lăng mộ .................................................................................................. 29

2.2.3.3. Đình làng ............................................................................................................. 31
2.2.4. Hệ thống các di tích lịch sử cách mạng ............................................................... 34
2.2.5.Các lễ hội tôn giáo và lễ hội dân gian ở Đà Nẵng ................................................ 36
2.2.6. Các sản phẩm phi vật chất khác ........................................................................... 41
2.3. Thực trạng phát triển du lịch tâm linh tại thành phố Đà Nẵng.......................... 44
2.3.1. Việc tổ chức tuyến điểm du lịch tâm linh ............................................................. 44
2.3.2. Lượng khách ......................................................................................................... 45
2.3.3. Doanh thu .............................................................................................................. 47
2.3.4. Thời gian lưu trú ................................................................................................... 48
2.3.5. Cơ sở vật chất du lịch ............................................................................................ 49
2.3.6. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch .......................................................................... 50
2.3.7. Tình hình đầu tư, xúc tiến, quảng bá ................................................................... 52
CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TÂM LINH TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...................................................................... 53
3.1. Định hướng phát triển du lịch tâm linh tại thành phố Đà Nẵng ........................ 53
3.2. Giải pháp phát triển du lịch tâm linh tại thành phố Đà Nẵng ............................ 55
3.2.1. Tăng cường công tác quản lý, quy hoạch phát triển du lịch tâm linh ................ 55
3.2.2. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ................................................. 56
3.2.3. Đẩy mạnh xúc tiến thị trường, quảng bá hình ảnh ............................................ 57

3


3.2.4. Đầu tư cơ sở vật chất phục vụ du lịch tâm linh .................................................. 59
3.2.5. Giải pháp về phát triển các sản phẩm du lịch tâm linh ....................................... 59
3.2.6. Giải pháp về hợp tác, liên kết ................................................................................ 60

KẾT LUẬN............................................................................................................ 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 63


4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế phát triển toàn cầu, du lịch là một nhu cầu không thể thiếu và ngày
càng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Trải qua nhiều gia đoạn lịch sử, khách
du lịch cũng lựa chọn nhiều “mốt” du lịch hay xu hướng du lịch như du lịch văn hóa –
lịch sử, du lịch sinh thái, du lịch Mice...Hiện nay, trào lưu du lịch tâm linh là loại hình
mới nổi lên, đang hình thành và dần trở thành xu hướng lựa chọn du lịch của du khách.
Khi mà cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ, chạy theo cuộc sống xô bồ, bon chen và
náo nhiệt. Con người trở nên căng thẳng, mệt mỏi, áp lực thì điều họ muốn là tìm đến
một nơi thanh tịnh, muốn được giải tỏa, thanh thản, tạm quên những phiền toái đời
thường để tận hưởng cái đẹp của cuộc sống. Chính vì lẽ đó, con người càng hướng tới
đức tin, tạo niềm tin và tìm nơi nương tựa. Những vấn đề này sẽ được giải quyết khi du
khách tham gia vào tour du lịch tâm linh.
Đối với một quốc gia có nền văn hóa đa dạng như Việt Nam thì có đủ tiềm năng để
phát triển loại hình du lịch này. Hàng năm, tại các trung tâm Phật giáo, các khu tâm
linh, các lễ hội tôn giáo – tín ngưỡng trên cả nước đã thu hút rất đông đảo khách du
lịch đến tham quan và cầu nguyện.
Nằm ở phía Nam miền Trung Việt Nam, Đà Nẵng không chỉ là trung tâm kinh tế,
chính trị, mà còn là điểm đến hấp dẫn bởi những thắng cảnh, di tích lịch sử - văn hóa,
những bãi biển đẹp cùng với nụ cười thân thiện của con người nơi đây. Đặc biệt với hệ
thống các công trình kiến trúc tôn giáo – tín ngưỡng được đặt trên những ngọn núi kỳ
vĩ để thỏa sức thưởng ngoạn, đắm mình vào thế giới tâm linh sẽ luôn mang đến cho
khách du lịch những khoảnh khắc an lành và thư thái. Các lễ hội được tổ chức thường
niên với nhiều hoạt động văn hóa lôi cuốn mang đậm bản sắc, những tour du lịch tìm
sự bình an và thanh thản, trở về với chính mình được tổ chức … là những thuận lợi để
phát triển loại hình du lịch mới là du lịch tâm linh.
Mặc dù có rất nhiều thuận lợi như vậy, nhưng những năm qua, du lịch tâm linh Đà

Nẵng vẫn chưa thực sự phát triển đúng tiềm năng. Vì vậy, việc làm rõ, nghiên cứu thực

5


trạng và gợi ý một số giải pháp nhằm phát triển du lịch tâm linh của thành phố Đà
Nẵng là vấn đề cần thiết và cấp bách hiện nay. Nó giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ và
chính xác về loại hình du lịch này. Điều này có ý nghĩa cả về phương diện lý luận lẫn
thực tiễn. Nó giúp cho du lịch tâm linh TP. Đà Nẵng đạt được những thành tựu mới,
khắc phục những hạn chế, nhanh chóng đưa loại hình du lịch này phát triển đúng với
tiềm năng và trở thành thế mạnh du lịch của địa phương, góp phần vào sự phát triển
chung của toàn ngành.
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và thực tế nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài “ Thực
trạng và giải pháp phát triển du lịch tâm linh tại thành phố Đà Nẵng” làm khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trên thế giới, du lịch tâm linh đã phát triển trong khi ở Việt Nam chỉ mới khai thác
trong những năm gần đây. Nên vấn đề nghiên cứu khảo sát về nó còn mang tính sơ
lược, chưa được quan tâm đúng mức. Hiện nay, vấn đề này đang được đưa vào quy
hoạch du lịch ở một số địa phương có những tiềm năng và giá trị để phát triển.
Trong lịch sử, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về du lịch Đà Nẵng được thể hiện qua
những cuốn sách như:
Những cuốn sách “Quảng Nam Đà Nẵng” của Dương Văn Tâm; “Địa lý du lịch”
của Nguyễn Thị Minh Tuệ; “Non nước Việt Nam”, “Việt Nam 63 tỉnh thành và các địa
danh du lịch”…đã giới thiệu khái quát các điểm như Ngũ Hành Sơn, Bà Nà, Sơn Trà
dưới cái nhìn về địa danh du lịch thành phố Đà Nẵng.
Cuốn “Đà Nẵng bước vào thế kỷ 21”, “Lần giở lịch sử - văn hóa miền Thuận Quảng” cũng như đề tài khóa luận “Bước đầu tìm hiểu một số lễ hội dân gian ở Đà
Nẵng” có đề cập đến lễ hội Quán Thế Âm ở chùa Linh Ứng (Ngũ Hành Sơn) và các lễ
hội dân gian, truyền thống ở địa phương.
Đặc biệt, trong “Tuyển tập những công trình nghiên cứu khoa học khoa lịch sử” của

Đại học sư phạm Đà Nẵng có bài viết “Ngũ Hành Sơn – một danh thắng tâm linh” do
Tiến sĩ Lưu Trang thực hiện đã có cái nhìn khá sâu sắc về giá trị và tiềm năng của điểm
du lịch này.

6


Thời gian gần đây đã có một loạt những bài viết, những công trình nói về du lịch
tâm linh và tiềm năng của địa phương như “Du lịch tâm linh ở Ngũ Hành Sơn – Đà
Nẵng”, “Hấp dẫn du lịch tâm linh Đà Nẵng” nhưng vẫn dừng lại ở việc khai thác tản
mạn, không đầy đủ và có hệ thống.
Ngoài ra, các các chuyên viên du lịch của công ty du lịch Viet Da travel và công ty
cổ phần thương mại và dịch vụ Đà Nẵng Xanh tại thành phố Đà Nẵng khảo sát, nghiên
cứu thị trường và tài nguyên du lịch đã đưa vào hoạt động những tuor du lịch tâm linh
đầu tiên đến các địa điểm nổi tiếng: chùa Linh Ứng – Núi Ngũ Hành Sơn, chùa Linh
Ứng – bán đảo Sơn Trà, chùa Linh Ứng – Bà Nà, ăn chay, ngồi thiền...
Bên cạnh đó phát triển du lịch tâm linh cũng được các nhà hoạch định, quản lý du
lịch nghiên cứu và đưa vào dự án phát triển thành một loại hình du lịch triển vọng của
thành phố.
Nhìn chung lại thì những công trình nghiên cứu trên chưa làm nổi bật được những
giá trị và triển khai thành một hệ thống các tài nguyên du lịch tâm linh một cách hoàn
chỉnh để tạo tiền đề cho sự phát triển. Tuy nhiên, những công trình trên là cơ sở ban
đầu và làm tài liệu tham khảo để tôi tìm hiểu và nghiên cứu một cách tốt nhất và có
hiệu quả nhất.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề phát triển du lịch
tâm linh ở thành phố Đà Nẵng
Phạm vi nghiên cứu:Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi thành phố Đà Nẵng
trong giai đoạn 2011 – 2015.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu: Từ việc tìm hiểu, phân tích, đánh giá tiềm năng và thực trạng
phát triển du lịch tâm linh ở Đà Nẵng để đưa ra những giải pháp phù hợp, tương xứng
nhằm góp phần vào sự phát triển loại hình du lịch tâm linh cả nước nói chung và của
địa phương nói riêng.

7


Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu về hệ thống tri thức lý luận về du lịch và du lịch tâm linh, từ cơ sở lý
luận chung đó để đi đến tìm hiểu thực tiễn phát triển du lịch tâm linh Đà Nẵng nói
riêng và du lịch tâm linh cả nước nói chung.
- Khai thác các tiềm năng và đánh giá hiện trạng phát triển du lich tâm linh Đà
Nẵng
- Từ thực tế đó định hướng và đưa ra những giải pháp phát triển lọa hình này nhằm
hoàn thiện hơn trong thời gian sắp tới cũng như tương lai
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Đề tài của tôi được hoàn thành nhờ việc sử dụng rất nhiều nguồn tài liệu khác nhau.
Cụ thể là:
Tài liệu thành văn: như sách chuyên ngành và tài liệu liên quan; các bài khóa luận
tốt nghiệp; các bài viết trên sách báo, tạp chí, văn bản và những giáo trình…
Tài liệu thực địa: như hỏi ý kiến của khách tại các điểm du lịch, thu thập ý kiến và
thông tin từ người dân địa phương cũng như chính quyền sở tại, các nhà quản lý các
điểm du lịch trên địa bàn thành phố.
Tài liệu điện tử: các bài viết, các bài đánh giá trên các trang thông tin điện tử về vấn
đề liên quan đến du lịch Đà Nẵng; các trang web của các công ty du lịch.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành khóa luận một cách có hiệu quả nhất, các phương pháp mà tôi sử
dụng chủ yếu là:

-

Phương pháp thu thập và sử lý số liệu

-

Phương pháp thực địa

-

Phương pháp chuyên gia

-

Phương pháp thống kê

-

Phương pháp phân tích tổng hợp

6. Đóng góp của đề tài
Nhận thấy, du lịch tâm linh đang là một trào lưu mới, một loại hình du lịch mới
đang nổi lên trong vấn đề phát triển du lịch ở nước ta. Đà Nẵng là một vùng đất có

8


những tiềm năng rất lớn để phát triển loại hình du lịch này. Trong khi đó, việc khai
thác và phát triển nó ở địa phương chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Vì vậy,
nghiên cứu đề tài này là góp phần vào việc hệ thống một cách đầy đủ những giá trị và

tiềm năng để khai thác một cách có hiệu quả nhất. Từ đó có thể nhìn nhận du lịch tâm
linh là một loại hình đặc trưng, ưu thế trong việc phát triển ngành du lịch Đà Nẵng.
Thông qua đây, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về du lịch tâm linh, kết quả của đề tài
góp phần giới thiệu, quảng bá hình ảnh loại hình du lịch này Đà Nẵng.
Đề tài có thể là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm, nghiên cứu trong học
tập cũng như trong kinh doanh du lịch, tổ chức thiết kế tour.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và đề xuất, mục lục và tài liệu tham khảo thì
phần nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận chung
Chương II: Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch tâm linh tại TP.Đà Nẵng
Chương III: Định hướng và giải pháp phát triển du lịch tâm linh tại TP.Đà Nẵng

9


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Một số khái niệm về du lịch
1.1.1. Du lịch
Thuật ngữ du lịch: bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Tonus” nghĩa là đi một vòng. Thuật
ngữ này được Latinh hóa thành Turnur và sau đó thành Tour (tiếng Pháp) nghĩa là đi
vòng quanh, cuộc dạo chơi, còn Touriste là người đi dạo chơi. Theo Robert Languar
(1980) từ Tourism (du lịch) lần đầu tiên xuất hiện trong tiếng Anh vào khoảng năm
1800 và được quốc tế hóa nên nhiều nước sử dụng trực tiếp mà không dịch nghĩa.
Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến ở các nước phát triển cũng như
đang phát triển, trong đó có Việt nam.
Theo điều 10, Pháp lệnh du lịch Việt Nam: “Du lịch là hoạt động của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí,
nghỉ dưỡng trong khoảng thời gian nhất định".

1.1.2. Khách du lịch
Ngành du lịch muốn hoạt động và phát triển thì đối tượng “khách du lịch” là nhân
tố quyết định. Nếu không có “khách du lịch” thì các nhà kinh doanh du lịch không thể
kinh doanh được, không có “khách du lịch” thì hoạt động của các nhà kinh doanh du
lịch trở nên vô nghĩa.
Trong Pháp lệnh du lịch của Việt Nam ban hành năm 1999 có nói: “Khách du lịch
là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành
nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”.
Tại điều 20, chương IV: “Khách du lịch bao gồm khách du lịch nội địa và khách du
lịch quốc tế”.
“Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt
Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”.
“Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam ở nước ngoài cư trú ở Việt Nam ra nước
ngoài du lịch”. [7; 26-27].

10


1.2. Du lịch tâm linh
1.2.1. Khái niệm du lịch tâm linh
Du lịch tâm linh:
Du lịch tâm linh là sự kết hợp giữa yếu tố du lịch và yếu tố tâm linh. Hiện nay,
chưa có một định nghĩa cụ thể và rõ ràng nhất cho du lịch tâm linh. Nó được hiểu một
cách khái quát, chung chung dưới cái nhìn của những người đi du lịch và những người
tổ chức tour du lịch.
Theo ông Nguyễn Trung Toàn, Giám đốc Công ty Du lịch & Dịch vụ Hoa Thiền
(Zenflower) thì du lịch tâm linh (du lịch hành hương) là sự kết hợp giữa hành hương
và du lịch nhằm thực hiện những hành trình đến những địa điểm thiêng liêng, có ý
nghĩa tôn giáo và tín ngưỡng.

Còn bà Huỳnh Long Ngọc Diệp, Giám đốc Công ty Ngọc Việt Travel phát biểu: Du
lịch hành hương tâm linh là những hành trình đến những địa điểm thiêng liêng, nơi ấy
người hành hương không chỉ đạt được sự gia tăng về niềm tin và chất lượng cho cuộc
sống tâm linh của mình mà còn tăng cường sợi dây gắn bó, kết nối mối quan hệ cá
nhân với những người đồng đạo.
Cựu Tổng thống Ấn-độ, tiến sĩ APJ Abdul Kalam đã có phân biệt rạch ròi giữa du
lịch thông thường với du lịch tâm linh:“Du lịch tâm linh hoàn toàn khác với việc tham
quan các địa danh và ngắm nhìn các chiều kích vật lý. Du lịch tâm linh có nghĩa là
thăm viếng trái tim và tâm trí của những bậc hiền triết tại nhiều địa điểm khác nhau và
nhất là những nơi có môi trường văn minh phong phú”.
Hiện nay, du lịch tâm linh đã thực sự là một loại hình du lịch đặc thù. Nó thỏa mãn
các nhu cầu: thưởng ngoạn, thư giãn và tâm linh. Nó giải tỏa mọi căng thẳng, chuyển
hóa mọi phiền não trong thân tâm thông qua chuyến đi thiêng liêng đến những địa
điểm thiêng liêng mà người hành hương mong muốn.
1.2.2. Đặc điểm của du lịch tâm linh
Với mỗi loại hình phát triển đều có những đặc điểm, đặc trung riêng của nó. Với
loại hình du lịch tâm linh vốn xuất phát từ những hoạt động của sinh hoạt đời sống tâm

11


linh kết hợp với du lịch để đạt được những giá trị cao nhất. Đời sống tâm linh ấy chính
là niềm tin tôn giáo, thờ cúng tổ tiên và các vị anh hùng dân tộc.... Đó cũng chính là
một đặc điểm dễ nhận thấy của loại hình này. Du lịch tâm linh là đến những di tích,
thắng tích, Phật tự - nơi các vị Đức Phật, các anh hùng, những vị cứu thế thượng tọa;
những lễ hội mang yếu tố tâm linh tín ngưỡng để hòa mình vào cuộc sống tịnh tâm,
thanh nhàn, giải thoát...
Thêm nữa, Du lịch tâm linh luôn gắn với đức tin. Những người khi đến các điểm,
thắng tích đều thể hiện lòng thành kín, tôn trọng, họ đặt vào đó những lời nguyện ước,
cầu mong cho cuộc sống yên ổn, thanh bình, gặp nhiều may mắn. Và họ tin rằng, có

một thế giới hiển linh luôn lắng nghe và biến những lời thỉnh cầu chân thành kia thành
sự thật.
Du lịch tâm linh là hướng thiện. Tham gia du lịch tâm linh là để có cơ hội thực
hành và sống trong môi trường của cầu nguyện và chiêm bái, thực tập việc tu tập và
thư giãn, chăm sóc thân và tâm, tạo niềm tin và tìm nơi nương tựa, hành trì các lễ nghi
và nạp năng lượng cho chính mình cho chuyến hành trình dài trong cả cuộc đời này.
Những chuyến đi nhiều khi mang lại những kết quả kỳ diệu cho khách hành hương mà
không ai tin được.
Hướng về cội nguồn cũng là một đặc điểm của du lịch tâm linh. Những người tham
gia du lịch tâm linh là quay trở về với chính mình, với cội nguồn, thoát khỏi cuộc sống
thế tục. Tâm và thân luôn trong trạng thái an bình, hạnh phúc của một thế giới tâm linh.
1.2.3. Vai trò và ý nghĩa của du lịch tâm linh
Du lịch tâm linh là loại hình du lịch mới với những tác dụng và ý nghĩa trong đời
sống tinh thần của khách du lịch nói chung. Ngoài những tác dụng vui chơi, giải trí,
tham quan nghỉ dưỡng thì du lịch tâm linh còn mang lại những giá trị về tâm hồn, thân
tâm, về cách sống, đồng thời giải quyết nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng của tín đồ. Với
những đặc trưng riêng, du lịch tâm linh có vai trò và ý nghĩa không chỉ đối với khách
du lịch mà còn cả với những tổ chức du lịch và ngành du lịch nói chung.

12


Đối với khách du lịch :
Tham gia những chương trình du lịch tâm linh, khách hành hương được quay về với
cội nguồn tâm linh của mình, được khám phá những thánh tích hay không gian tâm
linh quý giá mà khách chưa một lần, hay chưa có dịp tham quan, chiêm ngưỡng.
Du lịch tâm linh đến các Phật tích sẽ giúp tháo gỡ được các cảm xúc khổ đau, vun
bồi tâm trí và tinh thần minh triết. Du lịch tâm linh rất cần thiết cho tâm trí con người.
Trên thực tế cuộc sống, những chuyến du lịch tâm linh làm cho các thành viên thắt
chặt tình đoàn kết, gắn bó, yêu thương nhau bởi mọi thành viên đang trở về cội nguồn,

giống như những người con của đức Phật. Họ giúp nhau tu tập, giúp đỡ lẫn nhau trong
cuộc sống, cả vật chất lẫn tinh thần sau khi trở về đời thường.
Sau mỗi chuyến đi các thành viên thường sống tốt hơn, thâm tâm được thanh lọc
hơn. Cuộc sống của khách hành hương sau đó trở nên an lạc và có ý nghĩa hơn.
Việc du lịch hành hương tâm linh đến những ngôi chùa vừa góp phần bảo vệ văn
hóa truyền thống vừa góp phần hoằng pháp thông qua du lịch hành hương.
Du lịch tâm linh mang ý nghĩa giáo dục khá sâu sắc, bằng những triết lý tôn giáo,
những khóa tu ngồi thiền, tụng kinh, pháp đàm, pháp thoại…khiến cho tâm hồn con
người đạt trạng thái giải thoát, tịnh tâm, thoát khỏi trần tục, loại bỏ cái ác, hướng tới
cái thiện.
Du lịch tâm linh đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi lớn sự hiểu biết truyền
thống tâm linh của tôn giáo khác và thiết lập sự hoà hợp liên tôn.
Ngoài ra, du lịch tâm linh có thể ở một chừng mực nào đó giúp cho con người thoát
khỏi bệnh tật, tạo khát vọng sống, vươn lên cuộc sống đói nghèo.
Đối với ngành du lịch và các tổ chức kinh doanh du lịch :
Loại hình du lịch tâm linh được khai thác giúp ngành du lịch, các công ty lữ hành,
các cơ sở lưu trú và các hãng vận chuyển thu được hiệu quả kinh tế cao; phát triển đội
ngũ nhân lực; nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các sản phẩm du lịch; xây dựng
được danh tiếng và thương hiệu. Ngoài ra, loại hình du lịch tâm linh còn giúp ngành du
lịch thu hút được nhiều dự án đầu tư, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, tăng số lượt
khách du lịch nội địa cũng như khách quốc tế. Đồng thời tạo thêm nhiều công ăn việc
làm cho người dân.

13


Bên cạnh đó, du lịch tâm linh còn mang ý nghĩa trong việc trao đổi quan điểm và
kinh nghiệm, thiết lập tình hữu nghị, hoà hợp, đoàn kết giữa các pháp lữ trên khắp thế
giới. . .
1.2.3.4. Tài nguyên du lịch tâm linh

Tài nguyên du lịch tâm linh bao gồm hai dạng: vật thể và phi vật thể
* Tài nguyên du lịch tâm linh ở dạng vật thể:
Là những loại tài nguyên ở dạng vật chất, có giá trị về mặt tâm linh do con người
sáng tạo nên được khai thác vào mục đích phục vụ du lịch. Tài nguyên du lịch tâm linh
ở dạng vật chất bao gồm hệ thống các cơ sở tôn giáo, cơ sở tín ngưỡng, các di tích lịch
sử cách mạng
* Tài nguyên du lịch tâm linh ở dạng phi vật thể:
Là những loại tài nguyên ở dạng tinh thần, có giá trị về mặt văn hóa, tâm linh, do
con người tạo ra trong qua trình sống có thể sử dụng vào mục đích phục vụ du lịch
như: Niềm tin tôn giáo tín ngưỡng, lòng tự hào dân tộc và các anh hùng có công với
cách mạng, phong tục tập quán, lễ hội…
Việt Nam là một đất nước có sự đa dạng về tài nguyên du lịch tâm linh, cả về vật
thể lẫn phi vật thể. Do vậy, đây là yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho một du lịch tâm
linh ở Việt Nam phát triển trong tương lai.
CHƯƠNG II: TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TÂM LINH TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Khái quát về thành phố Đà Nẵng
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý:
Thành phố Đà Nẵng nằm trong khoảng từ 15°55’ đến 16°14’ Bắc, 107°18’ đến
108°20’ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Tây và Nam giáp tỉnh Quảng
Nam và phía Đông giáp biển Đông.
Thành phố tọa lạc tại trung độ của đất nước, trên trục giao thông Bắc Nam về
đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không. Trung tâm thành phố cách thủ
đô Hà Nội 764km về phía Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 964km về phía Nam và
cách thành phố Huế - từng là thủ đô cận đại của Việt Nam 108km về hướng Tây Bắc.

14



Đặc biệt, Đà Nẵng còn là trung điểm của bốn di sản thế giới miền Trung: Động Phong
Nha – Kẻ Bàng (Quảng Bình), cố đô Huế (Thừa Thiên Huế), phố cổ Hội An và khu
đền tháp Mỹ Sơn (Quảng Nam).
Đối với khu vực và quốc tế, thành phố Đà Nẵng là một trong những cửa ngõ quan
trọng hướng ra Thái Bình Dương của Việt Nam (miền Trung và Tây Nguyên) và các
nước Lào, Thái Lan, Myanma thông qua hành lang kinh tế Đông Tây với điểm kết thúc
là cảng biển Tiên Sa.
2.1.1.2. Địa hình:
Địa hình thành phố Đà Nẵng vừa có đồng bằng duyên hải, vừa có đồi núi. Địa hình
đồi núi chiếm diện tích lớn, độ cao khoảng từ 700 - 1.500 m, độ dốc lớn (>400), là nơi
tập trung nhiều rừng đầu nguồn và có ý nghĩa bảo vệ môi trường sinh thái của thành
phố. Đồng bằng ven biển là vùng đất thấp chịu ảnh hưởng của biển bị nhiễm mặn, là
vùng tập trung nhiều cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, quân sự, đất ở và các
khu chức năng của thành phố.
2.1.1.3. Khí hậu
Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, nhiệt độ cao và ít
biến động. Khí hậu Đà Nẵng là nơi chuyển tiếp đan xen giữa khí hậu miền Bắc và miền
Nam, với tính trội là khí hậu nhiệt đới điển hình ở phía Nam. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt:
mùa mưa kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12 và mùa khô từ tháng 1 đến tháng 7, thỉnh
thoảng có những đợt rét mùa đông do ảnh hưởng của gió mùa đông bắc nhưng không
đậm và không kéo dài. Tuy nhiên, điều kiện khí hậu của thành phố Đà Nẵng hoàn toàn
được ưu đãi với nắng ấm quanh năm, điều kiện thiên nhiên tốt, khí hậu dễ chịu.
Nhìn chung, khí hâụ ở Đà Nẵng khá thích nghi với hoạt động du lịch và phát triển
các loại hình du lịch. Tuy nhiên, cũng phải nói, Đà Nẵng là nơi thường xảy ra thiên tai,
gió mùa đông bắc…gây khó khăn cho việc tổ chức các hoạt động du lịch, phá hủy các
công trình xây dựng.

15



2.1.1.4. Thủy văn
Vùng biển Đà Nẵng có ngư trường rộng trên 15.000 km2, có các động vật biển
phong phú trên 266 giống loài, trong đó hải sản có giá trị kinh tế cao gồm 16 loài... với
tổng trữ lượng là 1.136.000 tấn hải sản các loại.
Sông ngòi của thành phố Đà Nẵng đều bắt nguồn từ phía Tây, Tây Bắc thành phố
và tỉnh Quảng Nam. Hầu hết các sông ở Đà Nẵng đều ngắn và dốc. Có 2 sông chính là
Sông Hàn (dài khoảng 204 km)và sông Cu Đê (dài khoảng 38 km). Ngoài ra, trên địa
bàn thành phố còn có các sông: Sông Yên, sông Chu Bái, sông Vĩnh Điện, sông Túy
Loan, sông Phú Lộc...
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Nằm ở trung độ của đất nước, thành phố Đà Nẵng có vị trí trọng yếu cả về chính trị,
kinh tế - xã hội và an ninh – quốc phòng, đầu mối quan trọng về dường bộ, đường sắt,
đường thủy và đường hàng không, là cửa ngõ phía Đông của hành lang kinh tế Đông –
Tây, cửa ngõ chính ra biển Đông của các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và các nước
tiểu vùng. Đây là lợi thế quan trọng cho phép Đà Nẵng mở rộng giao lưu kinh tế với
các nước và các tỉnh, thành phố trong cả nước, tạo lực để trở thành trung tâm của vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung.
Đà Nẵng được xác định là một trong những trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học và
công nghệ của miền Trung và cả nước với mức tăng trưởng kinh tế liên tục và khá ổn
định gắn liền với các mặt tiến bộ trong đời sống xã hội, cơ sở hạ tầng phát triển, đô thị
được chỉnh trang… Tốc độ tăng GDP bình quân trong giai đoạn 2001-2006 đạt
12.47%, năm 2008 tăng 11,04%. Cơ cấu kinh tế của thành phố chuyển dịch theo hướng
tích cực: ngành công nghiệp – xây dựng chiếm tỉ trọng 47,59%; ngành dịch vụ 49,4%;
ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản 3,01%.
Hiện nay có hơn 10.000 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đang hoạt động
tại thành phố và 4 làng nghề truyền thống gồm: làng điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước,
nước mắm Nam Ô, đan lát Yến Nê và dệt chiếu Cẩm Nê.
Hoạt động thương mại - xuất nhập khẩu của thành phố trong những năm gần đây đã
có những chuyển biến tích cực. Với phương châm chủ động mở rộng thị trường theo


16


hướng đa phương hoá quan hệ kinh tế, tích cực thâm nhập các thị trường truyền thống
và phát triển thị trường mới, đến nay các sản phẩm của Đà Nẵng đã có mặt ở hơn chín
mươi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Mạng lưới kết cấu hạ tầng ở Đà Nẵng đa dạng với hệ thống sân bay quốc tế, cảng
biển nước sâu, các tuyến đường bộ, đường sắt Bắc Nam đã phát triển hoàn chỉnh và
thuận lợi, góp phần quan trọng đối với mức tăng trưởng kinh tế của địa phương, cải
thiện đời sống xã hội.
Sân bay Đà Nẵng là một trong ba sân bay ở Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế, các
loại máy bay hiện đại như : B747, B767, A320...đều có khả năng cất và hạ cánh. Sân
bay quốc tế Đà Nẵng hiện đang được nâng cấp, mở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu vận
chuyển khách và hàng hóa ngày càng tăng.
Hệ thống đường bộ ở thành phố phát triển nhất miền Trung và ngày càng được đầu
tư mở rộng để hoàn chỉnh hơn, trong đó có nhiều công trình quan trọng đã hoàn thành
như cầu Sông Hàn, cầu Cẩm Lệ, đường Nguyễn Tất Thành, Trần Hưng Đạo, Phạm
Văn Đồng…
Đường sắt: Tuyến đường sắt Bắc-Nam chạy ngang qua thành phố; ga Đà Nẵng
được trang bị khá hiện đại, là một trong những ga chính của miền Trung và cả nước.
Đường thủy: Với vị trí cửa sông, cửa biển, nơi có những con sông đổ ra biển, có
vịnh kín gió và hàng chục kilômét bờ biển nên giao thông đường thủy rất thuận lợi.
Đặc biệt, Cảng Đà Nẵng là cảng thương mại lớn thứ ba ở Việt Nam sau cảng Sài Gòn
và cảng Hải Phòng, có thể tiếp nhận các loại tàu hàng có trọng tải lớn. Từ cảng Đà
Nẵng hiện có các tuyến tàu biển quốc tế đi Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản, Đài Loan
và Hàn Quốc.
Hệ thống đường giao thông trong và ngoài thành phố không ngừng được mở rộng
và xây mới, không chỉ tạo điều kiện thuận lợi về giao thông và phát triển du lịch mà
còn tạo cảnh quan, làm thay đổi cơ bản diện mạo của một đô thị lớn miền Trung Việt
Nam.

Hệ thống bưu chính viễn thông: Đà Nẵng là một trong ba trung tâm bưu chính viễn
thông lớn của đất nước cùng với Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, có trạm cáp quang
biển quốc tế SE-ME-WE 3, đường truyền quốc tế tốc độ 355Mbps với chất lượng tốt

17


hàng đầu các nước Đông Nam Á. Bưu điện Đà Nẵng hiện đang cung cấp các dịch vụ
viễn thông đa dạng và hiện đại, đủ khả năng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng.
Hệ thống điện, nước: Nguồn điện dùng cho sinh hoạt và sản xuất của thành phố Đà
Nẵng được đảm bảo cung cấp từ lưới điện quốc gia thông qua đường dây 500 KV Bắc
- Nam. Nhà máy cấp nước Đà Nẵng hiện có công suất hơn 80.000m3/ngày đêm. Thành
phố đang đầu tư xây dựng một nhà máy mới với công suất 120.000m3/ngày đêm nhằm
nâng tổng công suất cấp nước lên 210.000m3/ngày đêm trong thời gian đến. Được
sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, mạng lưới cung cấp điện, nước của thành phố đã
được đầu tư hoàn chỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của thành phố.
Các dịch vụ hỗ trợ đầu tư: tài chính, ngân hàng, bảo hiểm… Hầu hết các ngân hàng
và các công ty tài chính lớn của Việt Nam đều có chi nhánh tại Đà Nẵng. Một số chi
nhánh ngân hàng nước ngoài và công ty bảo hiểm quốc tế cũng đang hoạt động có hiệu
quả tại thành phố. Các dịch vụ này ngày càng hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu của nhà đầu
tư. Hiện nay tại Đà Nẵng có khoảng 47 chi nhánh ngân hàng cấp I, 09 công ty bảo
hiểm và 04 công ty kiểm toán đang hoạt động.
Với những điều kiện như vậy cho phép Đà Nẵng phát triển một nền kinh tế mở, thu
hút những dự án có quy mô lớn, mở rộng vốn đầu tư từ các tổ chức cá nhân trong và
ngoài nước. Từ đó phát triển một thành phố năng động không những là một trung tâm
kinh tế lớn của đất nước mà còn mang tầm cỡ khu vực.
2.1.3. Lịch sử hình thành
Cũng giống như bao mảnh đất khác trên đất nước Việt Nam, mảnh đất Đà Nẵng đã
trải qua bao thăng trầm trên con đường phát triển của mình. Những di tích còn lại luôn
là minh chứng cho một quá khứ hào hùng đó.

Theo ngôn ngữ Chăm thì Đà Nẵng có nghĩa là “sông lớn” hay cửa sông cái. Năm
1306 là mốc lịch sử đánh dấu vùng đất Đà Nẵng , bắt đầu sáp nhập vào lãnh thổ quốc
gia Đại Việt bằng sự kiện “Theo thể ước của phụ hoàng Trần Nhân Tông trong chuyến
viễn du thăm Chiêm quốc trước đó, vua Trần Anh Tông bèn gả em gái mình là công
chúa Trần Huyền Trân cho Chiêm vương Chế Mân, để đổi lấy hai châu Ô – Lý (vua
Trần đổi là Châu Thuận và Châu Hóa), [1;163]. Như vậy, Đà Nẵng được ghi trên các

18


bản đồ vẽ từ thế kỷ XVII trở đi với địa phận thuộc đạo Hóa Châu( gần Thừa Thiên Huế
và vùng đất từ đèo Hải Vân đến bờ Bắc sông Thu Bồn).
Cuối thế kỷ XVI, khi Hội An (Quảng Nam) đang phát triển rực rỡ như một cảng thị
buôn bán với nước ngoài quan trọng nhất, một trung tâm sầm uất ở phía Nam Việt
Nam thì Đà Nẵng được xem là một “tiền cảng” hay “cảng tạm dừng của các nhà hàng
hải và thương nhân. Với họ, Hội An là cửa ngõ của Đà Nẵng còn Đà Nẵng là cái sân
sau của Hội An.
Đầu thế kỷ XVIII, khi Hội An bắt đầu bắt đầu sa sút thì vị trí tiền cảng của Đà
Nẵng dần dần trở thành thương cảng thay thế cho Hội An, nhất là khi kỹ thuật đóng tàu
ở Châu Âu phát triển với những loại tàu thuyền lớn, đáy sâu, ra vào vịnh Đà Nẵng dễ
dàng. Năm 1793, xứ đoàn của Anh do Macartney dẫn đầu trên đường qua Trung Hoa
đã cập bến Đà Nẵng và một nhân viên trong đoàn đã ghi lại nhận xét của mình khi đặt
chân đến cửa biển này: “Người ta cho thuyền chạy khắp bờ biển mà không gặp tai nạn.
Đáy biển sâu từ 17 – 20 sải. Vịnh Đà Nẵng xứng đáng mang danh hải cảng hơn vịnh,
đó là một trong những cảng lớn và vững chắc nhất được thấy trong khu vực mà xứ
đoàn đã đi qua. Nó rất sâu khi cần thiết phải di chuyển, các tàu bè vẫn yên ổn dù gió to
bão lớn. Đáy biển bùn dày nên neo rất bám” [10; 28].
Từ đó, các tàu thuyền của Nhật Bản, Trung Hoa và Châu Âu chọn Đà Nẵng là nơi
giao dịch hàng hóa chủ yếu và Đà Nẵng trở thành một hải cảng quan trọng bậc nhất ở
miền Trung Việt Nam lúc bấy giờ.

Không chỉ nổi lên như một thủ phủ về vận tải – kinh tế, Đà Nẵng còn được giới
thực dân phương Tây (đặc biệt là thực dân Pháp) để ý từ rất sớm bởi vị trí chiến lược
quân sự của mảnh đất này.
Năm 1858, cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam khởi đầu bằng cuộc tấn công vào
Đà Nẵng. Đến năm 1889, số phận của mảnh đất này nằm trong vận mệnh chung của
dân tộc khi dải đất hình chữ S trở thành thuộc địa của Pháp. Sau khi xâm chiếm toàn bộ
Việt Nam, Pháp đã tách Đà Nẵng khỏi Quảng Nam. Và từ đây, Đà Nẵng trở thành

19


“nhượng địa” của Pháp với tên gọi mới là Tourane, chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn
quyền Đông Dương. Cái tên gọi Tourane bắt nguồn từ việc phát âm trại từ "Cửa Hàn"
của người Pháp.
Đầu thế kỷ 20, Tourane được Pháp xây dựng trở thành một đô thị theo kiểu Tây
phương và trở thành một trong năm thành phố hiện đại đầu tiên ở Việt Nam. Cơ sở hạ
tầng xã hội, kỹ thuật sản xuất được đầu tư. Các ngành nghề sản xuất và kinh doanh
được hình thành và phát triển: sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến
hàng xuất khẩu (chè, lương thực, thực phẩm, nước ngọt, nước đá, rượu, nước mắm, cá
khô, sửa chữa tàu thuyền, kinh doanh dịch vụ. Cùng với Hải Phòng và Sài Gòn,
Tourane trở thành trung tâm thương mại quan trọng của cả nước.
Cương quyết không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ, nhân dân Đà Nẵng đã
đứng lên đấu tranh bằng nhiều hình thức khác nhau, tham gia các phong trào đấu tranh
do những văn phu dưới ngọn cờ Cần Vương hay những sĩ phu có tư tưởng Duy Tân
lãnh đạo. Mặc dù vậy, những phong trào này lần lượt thất bại trước sự thống trị của
thực dân Pháp và triều đình phong kiến tay sai.
Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930) và Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh
Quảng Nam (28/0/1930) ra đời đã đánh mốc son quan trọng, mở ra thời kỳ đấu tranh
của nhân dân Đà Nẵng theo ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngày 26-81945, khi tiếng còi của thành phố vừa vang lên cũng là lúc lực lượng tự vệ và nhân dân
đồng loạt nổi dậy giành chính quyền. Cách mạng thành công, từ đây, mảnh đất

“nhượng địa” của thực dân hoàn toàn trở về với Tổ quốc. Nhân dân địa phương nắm
chính quyền và ra sức củng cố, xây dựng quê hương, bảo vệ chính quyền non trè,
chống thù trong, giặt ngoài.
Thất bại sau 80 năm cai trị, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ âm mưu xâm lược Việt
Nam. Sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946, cuộc kháng chiến chống thục dân pháp của
nhân dân Đà Nẵng thực sự bùng nổ. Trong thời gian từ 1946 – 1954, quân và dân Đà
Nẵng đã cùng với nhân dân cả nước tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, kết
hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, phối hợp với chiến trường Điện Biên

20


Phủ làm nên chiến thắng “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Pháp phải ký
hiệp định Giơnevơ (7/1954) đồng thời trao trả Đà Nẵng cho chính quyền Bảo Đại.
Thất bại của Pháp chính là cơ hội can thiệp của Đế quốc Mỹ mà từ lâu đã muốn
dòm ngó mảnh đất này. Chính vì thế, nhân dân Đà Nẵng đã sẵn sàng cho cuộc đương
đầu với kẻ thù hung bạo và tàn ác hơn này. Tháng 3 năm 1965 các đơn vị thủy quân lục
chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp lớn. Năm
1967, Đà Nẵng được chính quyền Việt Nam Cộng hòa ấn định là thành phố trực thuộc
trung ương và xác định mục tiêu xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm chính trị, quân sự,
văn hóa cho vùng I và II chiến thuật. Mỹ cho xây dựng ở Đà Nẵng các căn cứ quân sự
và kết cấu hạ tầng: sân bay, cảng, kho bãi, đường sá, công trình công cộng, cơ sở thông
tin liên lạc, lập tín dụng ngân hàng. Khu kỹ nghệ Hòa Khánh sản xuất ôxy, acêtylen,
bột giặt, xay xát, dệt... Ở thời kỳ này công nghiệp được phát triển ở mức độ cao hơn:
các khu kỹ nghệ thay thế cho công trường thủ công. Tuy nhiên, chiến tranh đã để lại
hậu quả nặng nề, hàng trăm nghìn dân quê phải chạy vào các trại tỵ nạn, các khu ổ
chuột đô thị; tệ nạn xã hội tăng nhanh, sản xuất không phát triển.
Năm 1975, hòa bình lập lại, Đà Nẵng (là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà
Nẵng) bắt tay vào khôi phục những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh. Mặc dù còn
lắm khó khăn nhưng công cuộc phục hồi và phát triển thành phố đã đạt nhiều thành

quả, nhất là thời kỳ đổi mới, sau 1986.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua nghị
quyết cho phép tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà
Nẵng trực thuộc trung ương. Về địa giới hành chính, thành phố Đà Nẵng mới bao gồm
thành phố Đà Nẵng trước đây, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa. Trên thực tế
huyện đảo Hoàng Sa đang bị Trung Quốc chiếm đóng, và ủy ban nhân dân huyện đảo
Hoàng Sa đang tạm đặt tại khu vực quận Sơn Trà.
Ngày 1 tháng 1 năm 1997, Đà Nẵng chính thức trở thành thành phố trực thuộc trung
ương. Ngày 15 tháng 7 năm 2003, Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại 1.

21


2.1.4. Đặc điểm cư dân, văn hoá
Lịch sử phát triển cho thấy, Đà Nẵng là một vùng đất của xứ Quảng, con người –
văn hóa Đà Nẵng là một bộ phận hữu cơ của cộng đồng cư dân và văn hóa Quảng
Nam. Vì vậy, khi nói đến mảnh đất này, người ta thường gắn với cách gọi chung “Văn
hóa Quảng Nam – Đà Nẵng”.
2.1.4.1. Đặc điểm cư dân
Đà Nẵng là đơn vị hành chính trực thuộc Trung Ương, bao gồm 6 quận nội thành, 1
huyện ngoại thành và 1 huyện đảo, với số dân là 887.070 người sinh sống trên tổng
diện tích 1.255,53 km2(2009).
Trải qua diễn trình lịch sử, Đà Nẵng là nơi quần cư của cư dân nhiều địa phương
khác đến. Cư dân Đà Nẵng hầu hết từ miền Bắc vào trên đường nam tiến của dân tộc.
Đông nhất là dân gốc Thanh – Nghệ - Tĩnh và một số dân Bắc bộ, định cư khai khẩn
vùng đất mới và hòa đồng chung sống với thiểu số dân tộc Chăm.
Bên cạnh đó, những con người thuộc vùng dân tộc sống trên mảnh đất này từ thuở
khai hoang, dựng nghiệp cho đến nay đã đồng tâm hiệp lực tạo nên diện mạo đặc trưng
của vùng đất này. Đó chính là người Cà Tu (Cờ Tu) sinh sống tại vùng trung du và
vùng núi cao cũng góp phần tạo nên sự đa dạng về nguồn gốc cư dân vùng đất Đà

Nẵng.
Với người Đà Nẵng, dẫu chưa hình thành nét đặc trưng rõ rệt như một số nơi nhưng
con người nơi đây vẫn có tính cách riêng và ngày càng được hun đúc cùng tiến trình
phát triển đô thị. Được tôn vinh là mảnh đất "Ngũ phụng tề phi" con người Đà Nẵng
luôn có truyền thống hiếu học và say mê sáng tạo. Người Đà Nẵng có bản tính chất
phác, ngay thẳng, sống đơn giản, thân thiện, yêu sự chân thật và kiên quyết trong hành
động chống lại những điều ác, điều xấu.
Ngày nay, người Đà Nẵng đang có mặt trên các vùng miền của đất nước và cả nước
ngoài. Quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế trong quá khứ cũng như hiện tại chắc chắn
sẽ tạo nên cơ hội để người Đà Nẵng thêm tự tin hướng tới tương lai.
2.1.4.2. Đặc điểm văn hóa
Đà Nẵng là nơi giao lưu và hội tụ những nét văn hóa của nhiều vùng miền trong cả
nước. Trải qua nhiều thời đại, cư dân gốc Bắc chung sống cùng dân bản xứ gốc Chăm

22


cùng với tộc người Cà Tu cộng cư tạo nên một bản sắc khá phong phú. Điều này được
thể hiện qua những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của vùng đất Đà Nẵng vẫn
mang “đậm nguồn gốc bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc Việt, được kết tinh nhuần
nhuyễn thoang thoảng đôi nét văn hóa dân tộc Chăm về tế lễ, lễ hội cùng những sắc
thái riêng của dân tộc Ca Tu” [1; 499]. Nằm trong tổng thể văn hóa Việt Nam, văn hóa
vùng đất Đà Nẵng đa dạng và phong phú, thể hiện qua cấu trúc đình, chùa, lăng, miếu,
nhà thờ tộc (từ đường), thánh đường, thánh thất… phong phú về các thể loại thơ ca, hò
vè như: ca dao, đồng dao, phong giao, hò khoan, hát bài chòi, hát bá trạo, hát bội, kịch,
chuyện, giai thoại…
Văn hóa Đà Nẵng được đặc trưng bởi văn hóa cư trú người Kinh vùng đồng bằng
và tộc người Cơtu ở vùng cao, thể hiện qua các di tích lịch sử - văn hóa như danh thắng
Ngũ Hành Sơn, Bà Nà, Sơn Trà, qua truyền thuyết Tiên Sa, Non Nước. Văn hóa ẩm
thực cũng là một yếu tố tạo nên đặc trưng văn hóa vùng, đó là mì quảng, bánh tráng

đập dập, bánh ít lá gai, bánh tráng cuốn thịt heo…với những hương vị rất riêng không
lẫn với những sản vật của nơi khác.
Văn hóa vùng đất này còn thể hiện ở kinh nghiệm, tri thức được tích lũy trong quá
trình lao động. Hàng trăm sản phẩm độc đáo của làng nghề truyền thống, như đồ mỹ
nghệ Non Nước, nước mắm Nam Ô, thuốc lá Cẩm Lệ, bánh tráng Túy Loan…Tất cả đã
nói lên tài hoa và sự khéo léo, tinh xảo của người xứ Quảng.
Một trong những sản phẩm văn hóa của làng quê Việt Nam nói chung và của Đà
Nẵng nói riêng là đình làng. Nó được hình thành bởi con tim khối óc và bàn tay kỳ
diệu của con người. Với những mái ngói cổ kính, rêu phong, hàng chục ngôi đình chùa
ở Đà Nẵng được bảo vệ di tích là niềm tự hào của người dân Đà Nẵng. Đó là đình làng
Túy Loan, đình làng Bồ Bản, Đình làng Nại Nam…
Bên cạnh những giá trị văn hóa vật chất thì giá trị văn hóa tinh thần ở Đà Nẵng
cũng hết sức phong phú đa dạng, mang đậm bản sắc truyền thống.

23


Lễ hội cũng là nét đặc trưng của văn hóa Đà Nẵng, bao gồm nhiều yếu tố dân tộc,
lịch sử, phong tục, tâm lý, tín ngưỡng tôn giáo…mặc dù so với những vùng đất khác
thì không gian lễ hội hẹp hơn, thời gian ngắn hơn, song cũng khá đa dạng và phong
phú. Có lễ hội dân gian truyền thống như lễ hội đình làng, lễ hội Cầu Ngư, lễ hội Quán
Thế Âm, lễ hội văn hóa như Lễ hội thi bắn pháo hoa quốc tế…
Văn hóa vùng đất này còn là các làn điệu dân ca, hát hò khoan, bài chòi, lý hò vè
độc đáo, chân chất đồng hành cùng các câu hát đồng dao, hát bả trạo, hát sắc bùa, các
trò diễn dân gian như múa lân, các vũ đạo có đường nét kinh điển của nghệ thuật
Tuồng truyền thống mà người xưa gọi là hát Bội.
Truyền thống yêu nước nồng nàn, ở tinh thần tranh đấu kiên cường trong kháng
chiến cũng là một trong những nét đẹp văn hóa được hình thành trong lịch sử hào hùng
của vùng đất. Để đến nay, trên mảnh đất này vẫn còn in dấu của những di tích lịch sử
cách mạng mà các thế hệ đời đời nhớ ơn.

Có thể nói giá trị đặc trưng của văn hóa xứ Quảng nói chung, của Đà Nẵng nói
riêng là những nét đặc thù của một vùng văn hóa nằm trong tổng thể của nền văn hóa
Việt Nam. Vô hình chung những đặc điểm văn hoá là yếu tố thuận lợi cho sự phát triển
du lịch mà trong đó có cả du lịch tâm linh.
2.2. Tiềm năng phát triển du lịch tâm linh tại thành phố Đà Nẵng
2.2.1. Khái quát về tình hình hoạt động du lịch tâm linh trên thế giới và Việt
Nam
Thế giới:
Từ lâu, trên thế giới, du lịch tâm linh đã là một loại hình được quan tâm và đầu tư
phát triển ở nhiều quốc gia như Ý, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan,
Myanma…
Với lợi thế là nơi khởi nguồn của Phật giáo, Ấn Độ là nước đã khai thác tốt những
tiềm năng đó để phát triển loại hình du lịch tâm linh Phật giáo đặc trưng và thu hút
lượng khách. Đến với du lịch Ấn Độ là đến với quê hương của các di tích Phật giáo.
Tất cả những di tích nằm rải rác khắp đất nước như đền Taj Mahal, pháo đài Agra,

24


Sikandra, Rambagh và phế tích vương triều ở thành Mughal tại Fatehpur Sikri…đã thu
hút một lượng khách khá lớn hàng năm. Vì vậy, quốc gia này thực sự đã trở thành địa
điểm linh thiêng nhất đối với các du khách và phật tử trong các tour du lịch tâm linh ở
trong nước và thế giới
Người ta thường nói: “Mọi con đường đều dẫn đến thành Rôma”. Nước Ý là nơi
khách du lịch đến đông đến mức có thể so sánh khách du lịch đến nước Ý hàng năm
nhiều hơn số dân nước này và hơn một nửa thu nhập quốc dân là từ du lịch. Nước Ý là
nơi có nhiều điểm du lịch tâm linh hấp dẫn bậc nhất thế giới. Rất nhiều điểm du lịch
tâm linh ở Roma lúc nào cũng đông nghịt khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới đổ về.
Tại Hàn Quốc, khi đến một ngôi chùa thiêng nào đó, ai đến đó cũng bỏ ra 5 đô la để
viết họ tên và lời ước nguyện những điều tốt lành cho gia đình mình lên một viên ngói,

viên ngói đó sẽ được lợp lên mái chùa. Ngói chùa luôn được thay mới, ngôi chùa luôn
được mở rộng.
Du lịch Trung Quốc được biết nhiều chuyện tâm linh ở những khu du lịch nổi tiếng
“ khóa tình yêu trên Vạn lý Trường thành”. Hàng triệu đôi nam nữ yêu nhau mang theo
chiếc khóa, bằng sắt, bằng đồng, hay bằng bất cứ nguyên liệu nào, họ thầm nói lời thề
tình yêu trên bức trường thành có một không hai này , ngoắc khóa vào bo sắt ven
trường thành rồi ném chìa khóa xuống thung sâu để tình yêu được chung thủy suốt
đời! Ở khu thành cổ gần quảng trường Thiên An Môn, khách du lịch đến thắp hương
và thành kính sờ lên con Tỳ Hưu nổi tiếng linh thiêng đã có gần 600 năm nay để cầu
cho sự yên lành, bình an cho cả gia đình. Hàng năm, hàng triệu du trên khắp thế giới
đến tham quan Bắc Kinh đều đến đây thành kính sờ lên đầu con vật linh thiêng này.…
Tại Việt Nam:
Hơn một thập kỷ nay, du lịch tâm linh đang trở thành một ngành kinh tế có chiều
hướng phát triển mạnh ở Việt Nam. Doanh nhân Dũng đã đầu tư hàng ngàn tỷ đồng
xây dựng khu Đại Nam Quốc Tự nổi tiếng ở Bình Dương. Doanh nhân Nguyễn Văn
Trường từ năm 2004 đã đầu tư cả ngàn tỷ vào khu du lịch tâm linh bậc nhất Việt Nam,
khu Tràng An - Bái Đính ở cố đô Hoa Lư (Ninh Bình).
Chúng ta thường nói đến những khu đền linh thiêng thờ bốn vị được coi là “tứ bất
tử”, cũng là tôn thờ những vị thần chống lại các thế lực làm hại con người, tôn thờ

25


×