Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Bài tập học kỳ môn LUẬT CẠNH TRANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.61 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
NỘI DUNG..........................................................................................................2
I.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH...2

II.

THỰC TRẠNG BÁN HÀNG ĐA CẤP Ở VIỆT NAM...................7

III.

NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN.........................................................................................10

KẾT LUẬN......................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................16

1


MỞ ĐẦU
Với mong muốn có được cái nhìn bao quát về các hành vi bán hành đa c ấp
bất chính, đồng thời, tổng kết, đánh giá những kinh nghiệm có đ ược t ừ
thực tiễn xử lí các vụ việc bán hàng đa cấp bất chính của cơ quan quản lí
cạnh tranh trong thời gian qua đề từ đó có những đề xuất thích hợp cho
việc hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này, tác giả mạnh dạn
lựa chọn đề bài số 23: “Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về
bán hàng đa cấp bất chính ” làm đề tài cho bài tập lớn của mình. Đây th ực
sự là một vấn đề có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn đồng thời


còn có tính thời sự cao.
NỘI DUNG
I.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH

Ở Việt Nam, bán hàng đa cấp là một khái niệm m ới và l ần đ ầu tiên đ ược
chính thức ghi nhận trong Luật Cạnh tranh 2004. Trước đó, kiểu kinh
doanh này thường được gọi dưới tên “truyền tiêu đa cấp”, “kinh doanh
theo mạng”, “tiếp thị đa tầng”. Trên thế giới, ph ương th ức này th ường
được sử dụng dưới tên gọi “kinh doanh đa cấp” (Multi Level Marketing).
Đây là phương thức tiêu thụ sản phẩm do nhà hóa học người Mỹ Karl
Ranborg (1887-1973) sáng tạo ra trong khoảng th ời gian từ năm 1927 đ ến
năm 1934.
Luật Cạnh tranh 2004 không định nghĩa trực tiếp bán hàng đa cấp là gì mà
thay vào đó là đưa ra các điều kiện để xác định ranh gi ới “chân chính” hay
“bất chính”, tức là xác định tính hợp pháp hay bất h ợp pháp c ủa ho ạt đ ộng
bán hàng này. Nếu hoạt động bán hàng đa cấp đáp ứng các đi ều ki ện quy
định tại khoản 11 Điều 3 Luật Cạnh tranh thì các th ương nhân đ ược phép
sử dụng để áp dụng vào chiến lược kinh doanh của mình và Nhà n ước sẽ
bảo hộ hoạt động đó.
1. Thế nào là kinh doanh theo phương thức đa c ấp?

Tại khoản 11 Điều 3 Luật Cạnh tranh và khoản 1 Điều 3 Ngh ị định
40/2018/NĐ-CP ngày 12/3/2018 của Chính phủ về quản lý hoạt đ ộng
kinh doanh theo phương thức đa cấp (Nghị định 40/2018/NĐ-CP), có hiệu
lực từ ngày 02/5/2018 quy định: Kinh doanh theo phương thức đa cấp là
hoạt động kinh doanh sử dụng mạng lưới người tham gia gồm nhiều cấp,
nhiều nhánh, trong đó, người tham gia được hưởng hoa h ồng, tiền th ưởng
và lợi ích kinh tế khác từ kết quả kinh doanh của mình và của nh ững

2


người khác trong mạng lưới. Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa
cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người
tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ th ường xuyên
của doanh nghiệp hoặc của người tham gia.
Nói cách khác, bán hàng đa cấp được hiểu là phương thức tiếp thị để bán
lẻ hàng hóa. Theo quy định tại Điều 4 Nghị định 40/2018/NĐ-CP, mọi hoạt
động kinh doanh theo phương thức đa cấp với đối t ượng không ph ải là
hàng hóa đều bị cấm, trừ trường hợp pháp luật có quy đ ịnh khác. T ại
khoản 2 Điều này quy định những hàng hóa sau không được kinh doanh
theo phương thức đa cấp:
- Hàng hóa là thuốc; trang thiết bị y tế; các loại thuốc thú y (bao g ồm c ả
thuốc thú y thủy sản); thuốc bảo vệ thực vật; hóa chất, chế phẩm di ệt côn
trùng, diệt khuẩn hạn chế sử dụng và cấm sử dụng trong lĩnh v ực gia
dụng và y tế và các loại hóa chất nguy hiểm;
- Sản phẩm nội dung thông tin số.
Như vậy, doanh nghiệp hoạt động kinh doanh theo phương th ức đa c ấp
phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới
người tham gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau;
- Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp th ị tr ực ti ếp cho
người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng ho ặc đ ịa đi ểm
khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp ho ặc
của người tham gia;
- Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền th ưởng
hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của
người tham gia bán hàng đa cấp cấp dưới do mình tổ ch ức và m ạng l ưới
đó được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận.

Nghiên cứu nội dung quy định trên, có thể thấy hành vi bán hàng đa c ấp có
những dấu hiệu đặc trưng sau:
Thứ nhất, bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa
Dấu hiệu này được thể hiện ở 2 khía cạnh:
Một là, nó là phương thức bán lẻ hàng hóa, nói cách khác, thông qua m ạng
lưới tiếp thị, doanh nghiệp tổ chức bán hàng đa cấp sẽ thiết l ập đ ược m ối
3


quan hệ mua bán sản phẩm trực tiếp với người tiêu dùng cuối cùng mà
không tốn phí các khoản đầu tư thành lập, duy trì mạng lưới phân ph ối
dưới dạng cửa hàng giới thiệu sản phẩm hoặc các đại lý phân ph ối theo
pháp luật thương mại. Đồng thời, người tiêu dùng có c ơ hội mua đ ược s ản
phẩm từ gốc sản xuất, tránh những rủi ro có thể phát sinh trong quá trình
phân phối như hàng giả, hàng kém chất lượng, giá cả không trung th ực...
Do đó, doanh nghiệp bán hàng đa cấp có thể là doanh nghiệp trực tiếp sản
xuất hàng hóa được tiếp thị và bán lẻ bằng phương thức đa cấp hoặc ch ỉ là
các doanh nghiệp phân phối hàng hóa do doanh nghiệp khác s ản xu ất.
Hai là, bán hàng đa cấp chỉ xảy ra trên thị trường hàng hóa. Quy đ ịnh t ại
điểm b, điểm c khoản 11 Điều 3 Luật Cạnh tranh; khoản 1 Điều 4 Ngh ị
định 40/2018/NĐ-CP đều xác định đối tượng áp dụng của hành vi này là
hàng hóa mà không đặt ra đối với thị trường dịch vụ. Có th ể do tính ch ất
vô hình của dịch vụ, nên hoạt động của khu vực thị tr ường này còn rất
nhiều vấn đề bỏ ngỏ, đang được các nhà hoạch đ ịnh chính sách, các nhà
lập pháp nghiên cứu. Bên cạnh đó, một khi bán hàng đa cấp đ ược hi ểu
như phương thức tiếp thị để tiêu thụ, thì đương nhiên, hoạt động tiếp thị
để cung ứng trong thị trường dịch vụ sẽ không thể là bán hàng đa cấp. Vì
thế, các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động của mạng lưới tiếp th ị bảo
hiểm đang rầm rộ trên thị trường hiện nay không là bán hàng đa c ấp và
cũng sẽ không thuộc đối tượng điều chỉnh của Điều 48[1] Luật Cạnh

tranh.
Thứ hai, doanh nghiệp bán hàng đa cấp tiếp thị hàng hóa thông qua những
người tham gia được tổ chức ở nhiều cấp khác nhau
Người tham gia bán hàng đa cấp được hiểu đơn giản là nh ững c ộng tác
viên trong việc tiếp thị, bán lẻ hàng hóa cho doanh nghiệp cho dù họ được
gọi với những tên gọi như đại lý, nhà phân phối độc lập,... Trong ho ạt đ ộng
của mình, người tham gia thực hiện việc giới thiệu và bán hàng hóa trực
tiếp cho người tiêu dùng mà không nhân danh doanh nghiệp. Nh ư vậy, khi
giới thiệu và bán lẻ sản phẩm, doanh nghiệp đã không phải là ng ười tr ực
tiếp thiết lập quan hệ với người tiêu dùng mà th ực hiện thông qua m ạng
lưới người tham gia, cho nên họ độc lập trong quan hệ với khách hàng.
Mặt khác, người tham gia bán hàng đa cấp không là nhân viên c ủa doanh
nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp không phải chịu trách nhiệm về hành vi của
người tham gia trước khách hàng tiêu thụ sản phẩm. Trách nhiệm c ủa
doanh nghiệp chỉ giới hạn trong phạm vi chất lượng sản ph ẩm và các
thông tin liên quan đến sản phẩm do họ cung cấp.
Mặt khác, khi tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, người tham gia không
phải là các đại lý phân phối theo quy định của Luật Th ương mại, không là
4


các cửa hàng tiêu thụ sản phẩm do doanh nghiệp thành lập. Luật Cạnh
tranh quy định người tham gia tiếp thị hàng hóa tại nơi ở, nơi làm việc của
người tiêu dùng mà không phải là địa điểm bán lẻ th ường xuyên của
doanh nghiệp hay của người tham gia (điểm b khoản 11 Điều 3). Theo đó,
người tham gia trực tiếp gặp gỡ người tiêu dùng đ ể gi ới thi ệu và bán l ẻ
sản phẩm, họ không phải đăng ký kinh doanh khi tham gia bán hàng đa
cấp.
Bên cạnh đó, người tham gia được tổ chức thành những cấp khác nhau
theo phương thức: mỗi người tham gia tổ chức một mạng lưới phân ph ối

mới, khi được doanh nghiệp chấp nhận. Mạng lưới m ới tạo ra c ấp phân
phối tiếp sau cấp phân phối của người đã tạo ra chúng. Vì th ế s ố ng ười
tham gia ở cấp sau luôn nhiều hơn so với cấp trước nó. Vì vậy, ph ương
thức kinh doanh này đã tạo ra một hệ thống phân phối theo hình tháp.
Trong quan hệ nội bộ, người tham gia ở cấp trên có vai trò tổ ch ức và điều
hành hoạt động của những người trong mạng lưới cấp dưới.
Thứ ba, người tham gia được hưởng tiền hoa hồng, tiền th ưởng, lợi ích
kinh tế khác từ kết quả bán hàng của mình và của người tham gia khác
trong mạng lưới do họ tổ chức ra.
Cách thức phân chia lợi ích như trên không chỉ kích thích ng ười tham gia
tích cực tiêu thụ hàng hóa mà còn kích thích h ọ tích c ực t ạo l ập h ệ th ống
phân phối cấp dưới. Bán hàng đa cấp có thể đem lại nhiều lợi ích thiết
thực cho người tiêu dùng như: mua được hàng tr ực tiếp t ừ nhà s ản xu ất
nên tránh được nạn hàng giả, hàng kém chất lượng. Đối với doanh nghiệp,
bán hàng đa cấp tiết kiệm được chi phí quảng cáo, cắt giảm được hàng
loạt các chi phí khác như chi phí thuê mặt bằng tr ưng bày, chi phí v ận
chuyển; mặt khác, do mạng lưới phân phối được tổ ch ức đ ể đ ưa hàng
hóa trực tiếp đến người tiêu dùng nên có nhiều thuận lợi trong việc quảng
bá hàng hóa một cách trực tiếp và hữu hiệu. Bên cạnh đó, bán hàng đa cấp
còn tạo ra nhiều việc làm cho xã hội vì cơ chế hoạt động của ph ương th ức
kinh doanh này không giới hạn số lượng người tham gia.
2. Bán hàng đa cấp “không lành mạnh”

Hoạt động bán hàng đa cấp chỉ bị coi là đối tượng c ủa pháp lu ật c ạnh
tranh khi có dấu hiệu không lành mạnh. Xoay quanh những tác hại xấu cho
xã hội của nhiều công ty bán hàng đa cấp gây ra trong th ời gian qua, đã n ổi
lên các quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất: Nhà nước cần phải cấm hình thức hoạt động bán
hàng đa cấp bởi nó có quá nhiều khiếm khuy ết và bằng ch ứng là nh ững
5



hậu quả về kinh tế, xã hội mà các vụ việc liên quan đã, đang x ảy ra trên th ị
trường[2].
Quan điểm thứ hai: Nhìn nhận vấn đề ở khía cạnh trách nhiệm quản lý
nhà nước của cơ quan chức năng đối với bán hàng đa cấp. Theo đó, bán
hàng đa cấp chỉ là cách thức được doanh nghiệp sử dụng để tiêu thụ hàng
hóa, nên pháp luật cần xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ và h ợp lý, bảo
đảm cho nó tồn tại, phát huy hiệu quả và h ạn chế các khi ếm khuy ết.
Nhưng khung pháp lý quản lý nó ra sao, vấn đề này cũng có ý ki ến khác
nhau. Có ý kiến cho rằng nên coi bán hàng đa cấp nh ư một hành vi th ương
mại, thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật thương mại.
Tuy nhiên, tham khảo kinh nghiệm xây dựng pháp luật của nhi ều n ước và
thực tiễn ở nước ta thời gian qua cho thấy, bán hàng đa cấp không là m ột
dạng hoạt động kinh doanh mà chỉ đơn giản là một ph ương th ức tổ ch ức
tiêu thụ sản phẩm. Do đó, không thể coi nó là hành vi th ương m ại gi ống
như các hành vi quảng cáo, khuyến mại, đại lý hay đại diện th ương mại. Ý
kiến khác, Nhà nước xây dựng một văn bản pháp luật riêng quy định v ề
hoạt động quản lý nhà nước đối với bán hàng đa cấp, khi có các bi ểu hi ện
không lành mạnh sẽ dùng pháp luật cạnh tranh để điều chỉnh. Nh ững
người ủng hộ loại ý kiến này lý giải rằng: Hệ thống truy ền tiêu đa cấp
được xem như cách thức đặc thù để xây dựng mạng l ưới tiếp th ị và tiêu
thụ sản phẩm. Nói cách khác, mục đích của doanh nghiệp khi lựa ch ọn
phương thức bán hàng đa cấp là tạo lập vị thế cạnh tranh c ủa mình trên
thương trường. Vì vậy, nó được lý thuyết cạnh tranh xem nh ư m ột th ủ
pháp cạnh tranh trong kinh doanh. Một khi hành vi thiết lập ho ặc v ận
hành hệ thống bán hàng đa cấp ẩn chứa trong mình nó nh ững toan tính
thiết lập một mạng lưới phân phối ảo, xâm phạm đến lợi ích của nh ững
người tham gia, người tiêu dùng và của các doanh nghiệp khác, thì pháp
luật cạnh tranh coi là không lành mạnh, cần phải cấm đoán và tr ừng ph ạt.

Khi đó, pháp luật cạnh tranh xuất hiện để bảo vệ trật tự và sự lành m ạnh
trong thị trường cạnh tranh. Trên thế giới có nhiều quốc gia quy định m ột
số hành vi kinh doanh đa cấp bị coi là bất chính và thu ộc đ ối t ượng đi ều
chỉnh của luật cạnh tranh, như: Luật Thương mại lành mạnh của Đài
Loan[3]; Luật Cạnh tranh của Canada.
Theo quy định tại Điều 48 Luật Cạnh tranh của Việt Nam, vi ệc bán hàng
đa cấp bị coi là bất chính khi thỏa mãn điều kiện cần và đ ủ sau:
Điều kiện cần: Thực hiện một trong các hành vi như: yêu cầu người tham
gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hóa ban đầu hoặc phải trả
một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho
6


người tham gia để bán lại; cho người tham gia nh ận tiền hoa h ồng, ti ền
thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia
mạng lưới bán hàng đa cấp; cung cấp thông tin gian dối về l ợi ích c ủa vi ệc
tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai l ệch v ề tính ch ất, công
dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia.
Điều kiện đủ: Nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người tham gia
mạng lưới.
3. Các đặc điểm của bán hàng đa cấp bất chính

Bán hàng đa cấp bất chính mang bản chất của sự chiếm dụng vốn
Theo đó, người muốn tham gia phải trả tiền hoặc phải đặt cọc một khoản
tiền để tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp. Những khoản tiền mà doanh
nghiệp bán hàng đa cấp có được từ nghĩa vụ vô lý đã áp đ ặt cho ng ười
muốn tham gia phải thực hiện là những khoản tài chính bất chính mà
doanh nghiệp bán hàng đa cấp đã chiếm dụng được. Chẳng hạn, tại các
buổi hội thảo của Công ty Everrichs Global, các nhân viên t ư vấn của Công

ty giới thiệu rằng khách hàng chỉ cần mua một bộ tài liệu nội bộ cùng sản
phẩm của Công ty để được trở thành nhà phân phối, có mã s ố, đ ược tính
điểm và hưởng các gói giải thưởng lên đến cả tỷ đồng. Cụ th ể, nh ững
người có nhu cầu trở thành nhà phân phối phải mua tập tài li ệu giá
160.000 đồng và gói hàng hóa có giá trị lên tới 7.900.000 đồng. Sau đó, đ ể
“leo” được lên các cấp cao hơn, các nhà phân phối ph ải ti ếp t ục mua các
gói sản phẩm có giá trị từ 23.700.000 đồng đến 79.000.000 đ ồng. Các s ản
phẩm mà Công ty Everrichs Global (Khát vọng Việt) kinh doanh là thực
phẩm chức năng được quảng bá đem lại sức khỏe, sắc đ ẹp và sinh lý cho
người dùng như tổ yến chưng Nrid’s Nest Plus, sản phẩm uống TheoMax
(ca cao, nhân sâm, linh chi), thực phẩm hỗ trợ tăng, giảm cân Pridi Gold và
một số loại khác.
Bán hàng đa cấp bất chính phản ánh chiến lược dồn hàng cho ng ười tham
gia
Theo Luật Cạnh tranh, việc dồn hàng cho người tham gia đ ược th ực hi ện
thông qua các hành vi: doanh nghiệp bán hàng đa cấp yêu c ầu ng ười mu ốn
tham gia phải mua một số lượng hàng hóa ban đầu để được quy ền tham
gia mạng lưới bán hàng đa cấp; hoặc không cam kết mua lại v ới m ức giá ít
nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia đ ể bán l ại.
Bán hàng đa cấp bất chính tập trung chủ yếu vào việc lôi kéo, dụ dỗ ng ười
tham gia
7


Theo hệ thống bán hàng đa cấp truyền thống, những người tham gia bán
hàng đa cấp được hưởng hoa hồng, tiền thưởng hoặc các lợi ích kinh tế
khác từ kết quả tiếp thị, bán lẻ hàng hóa của họ và từ kết quả tiếp thị, bán
hàng hóa của người tham gia bán hàng đa cấp cấp d ưới trong m ạng l ưới
do họ đã xây dựng và bảo trợ trong một phạm vi nhất đ ịnh. Đi ều này đã
giúp doanh nghiệp bán hàng đa cấp đồng thời đạt đ ược hai mục đích: i)

kích thích người tham gia nỗ lực tiếp thị và bán hàng hóa; ii) thúc đ ẩy
người tham gia xây dựng, tổ chức và vận hành mạng l ưới c ấp d ưới có năng
lực và hoạt động hiệu quả.
Bán hàng đa cấp bất chính mang tính lừa dối
Việc đưa ra các thông tin gian dối có thể nhằm mục đích sau đây:
- Dụ dỗ, lôi kéo người khác tham gia bằng cách tác đ ộng vào b ản tính hám
lợi của con người thông qua những thông tin về lợi ích của người tham gia
đang được hưởng hoặc sẽ được hưởng nếu tham gia;
- Thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm với những thông tin về tính ch ất công
dụng gây ra sự nhầm lẫn để những người tham gia tiếp th ị, bán hàng hóa
cho người tiêu dùng. Sự lừa dối này không ch ỉ làm gi ảm uy tín c ủa ng ười
tham gia trước người tiêu dùng mà còn đe dọa đ ến l ợi ích chính đáng c ủa
khách hàng, của xã hội, nhất là khi những sản ph ẩm đ ược tiêu th ụ là s ản
phẩm kém chất lượng.
II. THỰC TRẠNG BÁN HÀNG ĐA CẤP Ở VIỆT NAM
Bán hàng đa cấp là một trong những loại hình kinh doanh m ới tại Việt
Nam, cũng chính sự mới mẻ này và sự xuất hiện đồng thời của nh ững biến
tướng, trá hình trong thời gian qua đã tạo nên cách nhìn ch ưa toàn di ện,
đầy đủ, thậm chí đôi khi khá tiêu cực, mất lòng tin của c ộng đ ồng xã h ội và
đang bị xã hội lên án gay gắt. Thực tế ở Việt Nam đã có rất nhiều (ph ải có
đến hàng trăm) công ty kinh doanh theo hình th ức này, ch ẳng h ạn nh ư:
Công ty Sinh Lợi, Công ty Lô Hội, Công ty TNHH Thiên Ngọc Minh Uy, Công
ty cổ phần Liên kết sản xuất thương mại Việt Nam (Liên kết Vi ệt), Công
ty Everrichs Global, Công ty CP Đầu tư toàn cầu Đại D ương Xanh, Công ty
TNHH Thành Đạt Triệu Sơn,Công ty CP Tân Ích Mỹ, Công ty TNHH Sản xu ất
thương mại dịch vụ Thiên Thuận mới v.v.
Các chiêu thức của BHĐC đưa ra để lôi cuốn người tham gia rất phong phú
và đa dạng. Chẳng hạn, họ tuyên truyền đây là cách kiếm tiền vô cùng đ ơn
giản, mua một sản phẩm với “giá trên trời” mà không quan tâm đ ến s ản
phẩm đó tốt xấu thế nào, sau đó giới thiệu người khác mua, và ng ười m ới

8


được giới thiệu tiếp tục giới thiệu người tiếp theo...; họ tiến hành quay
phim, chụp ảnh, tổ chức sự kiện, mời những người có ch ức sắc đến d ự và
vinh danh những người đã thành công nhờ tham gia bán hàng đa c ấp; h ọ
chia người tham gia ra nhiều nhóm ở các cấp độ khác nhau (ví dụ: bạc,
vàng, kim cương, bạch kim…) nghe rất quy mô, bài bản và người tham gia
đến một lúc nào đó chỉ ngồi không hưởng lợi. Họ còn yêu c ầu ng ười tham
gia phải đặt cọc hoặc mua bộ sản phẩm theo giá của công ty đặt ra... m ặc
dù các vấn đề đó đã bị pháp luật nghiêm cấm.
Những quy định về hành vi bị cấm của doanh nghiệp trong Ngh ị đ ịnh s ố
42/2014/NĐ-CP rất cụ thể và rõ ràng, tuy nhiên để thuận tiện cho việc
phân tích, chúng tôi nhóm các hành vi lại thành 4 nhóm nh ư sau: Nhóm
hành vi thứ nhất: Yêu cầu người muốn tham gia ph ải đặt c ọc, ph ải mua
một số lượng hàng hóa ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền đ ể đ ược
quyền tham gia mạng lưới BHĐC; Nhóm hành vi th ứ hai: Không cam k ết
mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia
để bán lại; Nhóm hành vi thứ ba: Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng,
tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham
gia mạng lưới bán hàng đa cấp và Nhóm hành vi th ứ tư: Cung cấp thông tin
gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin
sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ ng ười khác tham
gia.
Đối với nhóm hành vi thứ nhất: “Yêu cầu người muốn tham gia ph ải đ ặt
cọc, phải mua một số lượng hàng hóaoá ban đầu hoặc phải tr ả m ột kho ản
tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp”. Đây là m ột yêu
cầu bất chính bởi lẽ đặt cọc, phải mua số lượng hàng hóa ban đ ầu ho ặc
phải trả một khoản tiền hay bất kỳ một hình th ức nào khác d ưới dạng các
khóa học, khóa đào tạo, hội thảo, hoạt động xã hội hay bất c ứ m ột hình

thức nào khác để được tham gia mạng lưới đa cấp lạai trái v ới quy đ ịnh
của pháp luật. Nhưng thực tế các công ty đa cấp đã biến ng ười tham gia
thành chính người tiêu dùng một cách bắt buộc (bất đ ắc dĩ), tuy ng ười
tham gia không muốn sử dụng các sản phẩm nh ưng cũng ph ải mua đ ể có
thể tham gia vào mạng lưới. Ví dụ: Công ty Liên k ết Việt đ ưa ra quy đ ịnh,
mỗi nhà phân phối tham gia vào hệ thống bán hàng nộp tối thiểu 8,6 tri ệu
đồng thì được một mã kinh doanh (mã hàng này đ ược quy ền mua 1 máy
Ozone và 4 loại thực phẩm chức năng). Nhưng đồng thời, Công ty Liên kết
Việt lại khuyến khích nhà phân phối nộp tiền vào mà không nhận hàng thì
sẽ được nhận tiền hoa hồng cao hơn. Quy định này là hoàn toàn trái v ới
Nghị định số 42 của Chính phủ (nghĩa là, các doanh nghiệp kinh doanh đa
cấp chỉ được bán hàng hóa, chứ không được phép thu tiền của các nhà đầu
tư). Biện minh cho hành vi của mình các doanh nghiệp cho r ằng, các nghĩa
9


vụ đặt cọc hay trả tiền của người tham gia là biện pháp đ ể bảo đ ảm an
toàn, uy tín, ràng buộc vật chất để bảo đảm người tham gia ph ải có trách
nhiệm với doanh nghiệp và của sản phẩm. Tuy nhiên, đây ch ỉ là nh ững l ời
lẽ ngụy biện, là cái cớ che giấu sự chiếm dụng bất hợp lý trong hành vi của
mình. Người tham gia trong mạng lưới đa cấp chỉ là những tiếp thị viên đ ể
bán lẻ sản phẩm giúp cho doanh nghiệp bằng phương thức tiến hành tiếp
thị sản phẩm đến tay người tiêu dùng, chứ không phải là ph ương th ức
mua đi, bán lại để hưởng phần chênh lệch. Đây là một hình th ức biến
tướng của bán hàng đa cấp. Vì vậy, nghĩa vụ đặt cọc hay tr ả ti ền cho việc
tham gia là không có cơ sở.
Nhóm hành vi thứ hai: “Không cam kết mua lại với mức giá ít nh ất là 90%
giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại”. Đây là m ột trong
những biểu hiện bất chính thể hiện chiến lược dồn hàng cho người tham
gia đã được phân tích trên. Trong quan hệ BHĐC, người tham gia đóng vai

trò như là những tiếp thị trung gian, bán lẻ sản phẩm đến tay ng ười tiêu
dùng, người tham gia chỉ là người giúp tiêu thụ sản phẩm cho doanh
nghiệp chứ không phải là đại lý bao tiêu hay người tiêu dùng sản ph ẩm
của doanh nghiệp. Bằng khả năng bán hàng cũng như khả năng tạo lập
mạng lưới phân phối của mình, xem xét khả năng tiêu th ụ hàng hóa và bán
lại cho người tiêu dùng để hưởng phần trăm hoa hồng. Tuy nhiên, trong
quá trình tìm kiếm khách hàng có thể gặp nhiều bất trắc, cũng nh ư nh ững
rủi ro không lường trước được nên có thể người tham gia sẽ không th ể
bán hết được số lượng sản phẩm mà mình đã mua. Vì nh ững rủi ro có th ể
xảy ra này, mà pháp luật không chấp nhận việc doanh nghi ệp d ồn h ết r ủi
ro cho người tham gia, mà thay vào đó phải mua l ại v ới m ức giá ít nh ất là
90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia nếu hàng hóa v ẫn đ ảm b ảo
về yêu cầu về mẫu mã, chất lượng. Và 10% mà người tham gia chịu m ất đi
là một điều hợp lý, đây có thể coi như là động lực để ng ười tham gia c ố
gắng thực hiện mục tiêu của mình. Nếu không mua lại hàng hóa v ới ít
nhất là 90% giá đã bán thì có khác nào doanh nghiệp d ồn hàng cho ng ười
tham gia và lại biến họ thành người tiêu dùng bất đắc dĩ. Chính vì v ậy,
nhóm hành vi này, bị xếp vào là hành vi bất chính.
Nhóm hành vi thứ ba: “Cho người tham gia nhận tiền hoa h ồng, ti ền
thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia
mạng lưới bán hàng đa cấp”. BHĐC là dựa vào mạng l ưới phân ph ối viên
rộng rãi từ phân phối viên tuyến trên và các tuyến dưới do mình xây d ựng
nên nhằm đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng, nhằm mục đích thu l ợi
nhuận một cách nhanh chóng, tiêu thụ được lượng l ớn hàng hóa thông qua
mạng lưới này. Và theo đó, phân phối viên sẽ đ ược h ưởng hoa h ồng d ựa
trên doanh số bán hàng của cá nhân và doanh số bán hàng c ủa tuy ến d ưới
10


do mình gây dựng nên. Điều này đã giúp cho doanh nghi ệp đ ồng th ời đ ạt

được hai mục đích: Một là, khích thích người tham gia n ỗ l ực ti ếp th ị và
bán hàng hóa; Hai là, thúc đẩy người tham gia xây dựng, tổ ch ức và v ận
hành mạng lưới cấp dưới có năng lực và hoạt động hiệu qu ả. Do đó, v ới
các doanh nghiệp cho người tham gia hưởng các lợi ích vào viêc d ụ d ỗ
người khác tham gia, chỉ chăm chăm vào việc tuy ển người, c ứ tuy ển đ ược
nhiều sẽ càng được hưởng nhiều lợi ích thay vì việc tập trung cho việc bán
hàng hóa thì doanh nghiệp đó đã bị biến t ướng và đánh m ất đi m ục tiêu
bán hàng đích thực. Theo quy định của pháp luật việc chi t ỷ lệ hoa h ồng
trả cho người BHĐC không được vượt quá 40%, nhưng nhiều công ty chi
vượt mức quy định này tới 20%. Ví dụ, Công ty Liên k ết Vi ệt đ ưa ra m ức
chi hoa hồng cho người bán hàng lên đến 65%. Việc dùng các l ợi ích để d ụ
dỗ người tham gia đi dụ dỗ người tham gia là trái v ới quy đ ịnh c ủa pháp
luật.
Nhóm hành vi thứ tư: “Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của vi ệc tham
gia mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính ch ất, công d ụng
của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia”. Nắm bắt đ ược tính hám l ợi
của người tham gia mà các doanh nghiệp vẽ ra b ức tranh “l ợi l ộc l ớn” đ ể
họ mặc sức mơ tưởng. Hành vi này tạo cho người tham gia ở b ất c ứ c ấp
nào đặt kỳ vọng lớn, do đó họ bất chấp kể cả biết rõ đang th ực hi ện hành
vi gian dối, không đúng sự thật với người tiêu dùng (đưa thông tin sai l ệch,
những đặc tính, công dụng thần kỳ của sản ph ẩm...) để thu hút ng ười
tham gia. Chính những thông tin gian dối, sai lệch này không ch ỉ làm gi ảm
uy tín của người tham gia trước người tiêu dùng, mà còn đe d ọa đ ến l ợi ích
chính đáng của khách hàng, của xã hội, nhất là khi nh ững s ản ph ẩm đ ược
tiêu thụ là sản phẩm kém chất lượng.
Thực tế, trong thời gian vừa qua rất nhiều doanh nghiệp bị xử phạt và thu
hồi giấy phép, cụ thể là: “Tính từ thời điểm giữa năm 2015 đến nay, Bộ
Công Thương đã kiểm tra và xử lý (xử phạt và thu hồi gi ấy phép) trên 50
công ty kinh doanh đa cấp”2. Qua đó cho thấy, pháp lu ật vẫn còn nhi ều b ất
cập, thiếu chặt chẽ, dẫn đến việc các doanh nghiệp bán hàng đa c ấp d ễ

dàng vận dụng “lách” để trốn tránh trách nhiệm.
III. NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
3.1. Một số tồn tại và hạn chế
Hiện nay, ở Việt Nam pháp luật về kinh doanh BHĐC đã và đang dần hoàn
thiện, nhiều quy định đã có phần rõ hơn so với trước đây. Tuy nhiên, trên
thực tế, các doanh nghiệp kinh doanh BHĐC vẫn thường xuyên vi phạm
pháp luật. Việc vi phạm pháp luật xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
11


nhau, chẳng hạn: do pháp luật chưa chặt chẽ; nhận th ức của người dân
còn nhiều hạn chế; công tác quản lý còn chồng chéo, ki ểm tra, ki ểm soát
thiếu đồng bộ; các chế tài xử phạt còn quá nhẹ..., dẫn đến còn t ồn t ại
nhiều hạn chế và bất cập.
- Sở dĩ, vẫn còn một số doanh nghiệp kinh doanh BHĐC th ực hiện các
“mánh lưới” lách luật để lừa người tiêu dùng, đồng th ời cũng làm ảnh
hưởng lớn đến những doanh nghiệp bán hàng chân chính là vì pháp lu ật
còn chưa chặt chẽ, rõ ràng. Chẳng hạn, theo khoản 10 Điều 3 Ngh ị đ ịnh s ố
42/2014/NĐ-CP: “Kinh doanh theo mô hình kim tự tháp là vi ệc ti ến hành
hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp, trong đó thu nh ập c ủa
người tham gia xuất phát chủ yếu từ: việc tuyển dụng người tham gia m ới;
việc gia hạn hợp đồng của người đã tham gia; phí, tiền đặt c ọc ho ặc
khoản đầu tư của người tham gia trong mạng lưới”. Đây là quy đ ịnh ch ưa
rõ ràng, gây ra sự hiểu nhầm nghiêm trọng. Bởi vì, th ứ nhất, nếu doanh
nghiệp thu phí và tiền đặt cọc của người tham gia là trái v ới quy đ ịnh c ủa
pháp luật; thứ hai, phí và tiền đặt cọc của người tham gia sau không ph ải
là khoản tiền lợi nhuận để làm nguồn thu nhập của người tham gia tr ước;
thứ ba, việc tuyển người, gia hạn hợp đồng của những người tham gia
cũng không làm phát sinh lợi nhuận, do đó không th ể là ngu ồn thu nh ập
của người tham gia trước. Thực tế từ trước đến nay, vì quy định này, người

tham gia trước bằng mọi cách dụ dỗ, lôi kéo để làm sao đó có đ ược nhi ều
người tham gia vào mạng lưới của mình để hưởng thu nhập. Theo Luật
Cạnh tranh, việc BHĐC bị coi là bất chính khi hành vi bán hàng t ổ ch ức
theo kiểu mạng lưới đa cấp nhưng nhằm mục đích thu lợi bất chính t ừ
việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới.
- Chế tài xử phạt chưa đồng bộ, đối với kinh doanh BHĐC chế tài x ử ph ạt
còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe, cho nên các đối t ượng sẵn sàng vì l ợi
nhuận mà chịu phạt để được tồn tại. Cụ thể, mức ph ạt cao nh ất đ ối v ới
hành vi vi phạm về BHĐC là 200 triệu đồng, theo Nghị định số
71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 của Chính phủ, quy định chi ti ết Lu ật
Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh v ực c ạnh tranh là còn
quá ít so với mức lợi nhuận thu về từ các hoạt đ ộng bất h ợp pháp. Trong
khi đó, khoản 1 Điều 23 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có quy
định mức phạt tiền đến 02 (hai) tỷ đồng đối v ới tổ ch ức. H ơn n ữa, theo
Nghị định số 71/2014/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính đối với lĩnh
vực kinh doanh BHĐC thì chỉ có mỗi Cục Quản lý Cạnh tranh (Bộ Công
thương) là có thẩm quyền. Vì vậy, dù phát hiện ra sai ph ạm, đ ơn v ị cũng
phải chờ quyết định xử phạt từ Cục Quản lý Cạnh tranh, thủ tục ph ức tạp
và tốn nhiều thời gian.

12


- Một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ lừa đảo của BHĐC hiện
nay phải kể đến thông tin thị trường thiếu hoặc sai lệch. Ph ần l ớn ng ười
tiêu dùng thiếu hiểu biết về BHĐC. Vì thế, nhiều công ty đã l ợi d ụng s ự
hạn chế này để lôi kéo người tham gia bằng hứa th ưởng cao và nh ững c ơ
hội làm giàu nhanh chóng, làm cho người dân tham gia một cách mù quáng.
Vì những khoản sinh lời ảo nên cho dù vô tình hay cố ý khi đã tham gia
những người tham gia không còn đường thoái vì đã trót n ộp tiền, tiếc c ủa

nên đã lôi kéo, dụ dỗ bằng được những người khác cùng làm đ ể mong g ỡ
gạc phần vốn của mình. Và cứ thế với cách làm này, nạn nhân m ắc bẫy
được tính theo cấp số nhân. Vì vậy, để loại hình kinh doanh này thu hút
được sự quan tâm của cộng đồng người dân và phát triển cùng v ới nó, thì
chúng ta cần phải một mặt hoàn thiện các chính sách và pháp luật cho lo ại
hình kinh doanh này, mặt khác cần phải tuyên truyền, phổ biến th ường
xuyên, sâu rộng cho mọi tầng lớp người dân.
- Một vấn đề nữa đó là, do mẫu thông báo tiếp nhận doanh nghiệp bán
hàng đa cấp được thống nhất từ Trung ương, trong đó không có quy đ ịnh
rõ doanh nghiệp phải ghi địa chỉ hoạt động cụ th ể, th ế nên nhi ều doanh
nghiệp “cố tình” bỏ trống mục này, thậm chí phần ghi “ng ười liên h ệ t ại
địa phương” cũng bị để trống. Đây chính là một trong nh ững kẽ h ở dẫn
đến tình trạng lừa đảo trong kinh doanh BHĐC mà nhiều đ ịa ph ương
không thể kiểm soát được.
- Công tác quản lý còn rất lỏng lẻo. Thực tế hiện nay, có nhiều ho ạt đ ộng
của BHĐC đang bị buông lỏng quản lý, chẳng hạn: tổ ch ức hội ngh ị, s ự
kiện, quảng cáo, khuyến mại... đều không báo cáo c ơ quan qu ản lý, cho
đến khi sự việc bị vỡ lở thì cơ quan quản lý mới biết. Theo báo cáo của Bộ
Công Thương, “các lỗi phổ biến của các DN kinh doanh BHĐC là không
xuất trình được bằng chứng chứng minh đã thực hiện nghĩa v ụ thông báo
khi sửa đổi, bổ sung Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp
cho các đại lý tại các tỉnh, thành phố. Công ty th ực hiện đào t ạo ki ến th ức
cơ bản cho nhà phân phối thông qua hệ thống đào tạo tr ực tuy ến, nh ưng
chưa có biện pháp chặt chẽ để đảm bảo nhà phân ph ối theo dõi và n ắm
bắt toàn bộ nội dung đào tạo cơ bản; Vận hành các website th ương m ại
điện tử bán hàng, đồng thời cho phép nhà phân phối đặt hàng và thanh
toán trực tuyến qua website nhưng tại thời điểm kiểm tra, Công ty vẫn
đang tiến hành thủ tục bổ sung hồ sơ để Cục Thương mại điện tử phê
duyệt”3.
Việc Bộ Công Thương giao cho các địa phương tiếp nh ận thông báo BHĐC

của các doanh nghiệp trên địa bàn mà không cần đăng ký đ ịa đi ểm ho ạt
động là một việc làm gây thêm khó khăn cho việc quản lý ở c ơ s ở. Chính s ự
13


lỏng lẻo trong các quy định về BHĐC đã khiến cho các doanh nghi ệp l ợi
dụng khe hở trục lợi bất chính, đồng thời gây khó khăn cho công tác qu ản
lý ở các địa phương.
- Tính chất của BHĐC rất phức tạp, khó kiểm soát, nguy c ơ tr ục l ợi rất l ớn,
hành vi vi phạm của doanh nghiệp ngày càng nhiều và r ất tinh vi, n ếu
không có khung chính sách quản lý chặt chẽ sẽ gây h ậu quả khó l ường cho
xã hội. Do vậy, Nhà nước sớm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp lu ật
theo hướng siết chặt, hạn chế cấp phép mới BHĐC. Hiện nay, còn một s ố
các hành vi chưa cụ thể, ví dụ: Nnhư thế nào là “yếu tố bất chính và thu l ợi
bất chính” chưa được luật quy định, hoặc là thu nh ập c ủa ng ười tham gia...,
do đó, thực tiễn rất khó xử lý.
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Về bản chất, BHĐC không xấu, mà ngược lại đã mang lại lợi ích cho doanh
nghiệp, cho người tiêu dùng, đồng thời tạo được nhiều việc làm cho xã
hội. Nhưng hiện nnay BHĐC đang bị biến tướng và có hiện t ượng l ừa đ ảo
người tiêu dùng, gây bất ổn cho xã hội. Thực tế, BHĐC đang ngày càng lan
rộng, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, đây không ch ỉ khó khăn
trong công tác quản lý mà ngay cả nhận th ức của người dân cũng còn h ạn
chế.
Do đó, Nhà nước cần sớm xem xét sửa đổi, bổ sung quy định pháp lu ật
hiện hành trong lĩnh vực này theo hướng nâng mức xử ph ạt vi phạm hành
chính để bảo đảm tính phòng ngừa, răn đe; bảo vệ quy ền l ợi c ủa mình,
tránh việc bị lôi kéo, lợi dụng để thu lợi bất chính của m ột số đ ối t ượng,
doanh nghiệp BHĐC biến tướng trong thời gian qua, đòi h ỏi nh ững ng ười
muốn tham gia BHĐC phải tự bảo vệ mình trước. T ừ th ực tế nêu trên,

chúng tôi có một số kiến nghị sau:
- Để bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng, các chế tài hình sự, hành chính
đối với các hành vi sai phạm cần triệt để, đồng bộ h ơn. Bộ Công Th ương
sớm sửa đổi Thông tư số 24/2014/TT-BCT ngày 30/7/2014 cho phù h ợp
với Điều 33 của Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính
phủ về đăng ký doanh nghiệp và Điều 6 của Thông tư số 20/2015/TTBKHĐT ngày 01/12/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hướng dẫn về đăng
ký doanh nghiệp có quy định về “Địa điểm kinh doanh” của doanh nghi ệp
và cấp “Giấy chứng nhận đăng ký địa điểm kinh doanh” của doanh nghi ệp.
Các hành vi vi phạm của các công ty BHĐC th ời gian qua ch ủ yếu là không
thông báo với các cơ quan quản lý khi sửa đổi giấy ch ứng nh ận BHĐC;
không thông báo với cơ quan quản lý Nhà nước khi th ực hi ện hoạt đ ộng
khuyến mại; không cung cấp đầy đủ thông tin cho người tham gia m ạng
14


lưới; tổ chức hội nghị, hội thảo không đúng n ội dung thông báo;... Do v ậy,
đề nghị sửa đổi khoản 1 Điều 5 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP về mức tiền
phạt tối đa đối với hành vivi phạm pháp luật v ề c ạnh tranh khác, theo
hướng quy định mức tối đa phù hợp với khoản 1 Điều 23 Luật X ử lý vi
phạm hành chính năm 2012 (phạt tiền đến 02 tỷ đ ồng đối v ới t ổ ch ức).
Nhanh chóng sửa khoản 10 Điều 3 Nghị định số 42/2014/NĐ-CP theo
hướng thu nhập của người tham gia phải từ lợi nhuận bán hàng, ch ứ
không phải là lấy từ các nguồn đóng góp của người sau tr ả cho ng ười
trước.
- Đổi mới hình thức và thủ tục cấp chứng chỉ cho người tham gia mạng
lưới BHĐC theo hướng bắt buộc người muốn tham gia BHĐC tr ước h ết
cần phải nắm rõ quy định của pháp luật về BHĐC để biết và bảo vệ quy ền
lợi chính đáng cho người tiêu dùng. Thay vào đó là c ơ quan ch ức năng đào
tạo và cấp chứng chỉ mà không phải là doanh nghiệp như hiện nay.
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật liên quan

đến các hoạt động kinh doanh BHĐC để mọi tầng lớp nhân dân. Đ ặc bi ệt
đối với những địa phương là vùng sâu, vùng xa, nhằm giúp m ọi ng ười dân
có thể phân biệt được thế nào là các hình thức kinh doanh BHĐC.
- Tăng cường hoạt động giám sát, quản lý nhà n ước đối v ới các doanh
nghiệp BHĐC, đẩy mạnh các hoạt động thanh kiểm tra. Bên c ạnh vai trò
của cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương trong kiểm tra giám sát
thường xuyên hơn, Hiệp hội Bảo vệ người tiêu dùng cần ch ủ động ph ối
hợp xử lý thông tin khi tiếp nhận phản ánh kịp thời h ơn, thì Hiệp h ội bán
hàng đa cấp BHĐC cũng phải chủ động phổ biến đưa các khuy ến cáo sâu
rộng đến hội viên.
- Cần có biện pháp kiểm soát chặt chẽ chất l ượng và giá bán các lo ại hàng
hóa trong “Danh mục sản phẩm kinh doanh” theo ph ương th ức đa c ấp kèm
theo Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động BHĐC.
- Cần kịp thời bổ sung quy định tạo cơ chế để cơ quan quản lý, cơ quan tư
pháp liên quan có thể hỗ trợ thu hồi được khoản tiền mà những người
tham gia vào hệ thống kinh doanh BHĐC trái phép đã mất.
- Khi phát hiện các doanh nghiệp có dấu hiệu vi ph ạm, ảnh h ưởng nghiêm
trọng đến quyền lợi của người tiêu dùng và người tham gia bán hàng đa
cấp thì phải kịp thời xử lý bằng các biện pháp nghiêm khắc nhất, th ậm chí
là đình chỉ, rút giấy phép hoạt động, tích c ực ph ối h ợp v ới c ơ quan Công an
khẩn trương điều tra các doanh nghiệp có dấu hiệu lừa đảo.
15


- Đồng thời, nhanh chóng thông tin cho người dân về các doanh nghi ệp có
hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, cần có biện pháp hỗ tr ợ, h ướng dẫn đ ối v ới
các nạn nhân để bảo vệ quyền lợi của mình.
- Tăng cường hơn nữa hoạt động giám sát, ph ản ánh tiêu c ực c ủa các c ơ
quan báo chí, kịp thời phán ánh, tố giác các hành vi lừa đảo, vi ph ạm pháp
luật của các doanh nghiệp hoạt động BHĐC. Qua đó, giúp cho ng ười dân có

cái nhìn tương đối toàn diện về hoạt động BHĐC hiện nay ở n ước ta.
- Đối với doanh nghiệp BHĐC, tính minh bạch c ủa doanh nghi ệp và vi ệc
công khai phương thức bán hàng đa cấp của mình c ần là tiêu chí thi ết y ếu
hàng đầu. Nếu doanh nghiệp không minh bạch, vi phạm về công b ố, công
khai thông tin doanh nghiệp, sản phẩm, vi phạm các chế đ ộ phúc l ợi,
quyền lợi người tiêu dùng, phương thức kinh doanh của mình... thì đó
chính là những cơ sở để rút phép hoạt động của doanh nghiệp tr ước khi
họ kịp gây ra hậu quả cho hội viên và người tiêu dùng.
- Yêu cầu bắt buộc các doanh nghiệp phải xây dựng bộ quy chuẩn đ ạo đ ức
kinh doanh khi thành lập công ty BHĐC, đối với các công ty đã thành l ập và
hoạt động thì cần phải bổ sung bộ quy chuẩn đạo đ ức kinh doanh. Theo
quy định hiện hành, các doanh nghiệp kinh doanh bán hàng đa cấp ph ải có
“quy tắc hoạt động”4, quy định như vậy chưa phù hợp mà cần phải sửa
đổi bổ sung thêm là “Quy tắc đạo đức nghề nghiệp”, trên c ơ sở đó bắt bu ộc
kinh doanh BHTĐ phải đúng với bản chất, đúng v ới quy định của pháp
luật, hay nói cách khác toàn bộ quy trình kinh doanh ph ải công khai, minh
bạch, trung thực, chịu sự giám sát của cơ quan quản lý và ng ười tiêu dùng.
KẾT LUẬN
Bán hàng đa cấp là một loại hình kinh doanh được hình thành và phát
triển từ lâu trên thế giới, được thâm nhập vào Việt Nam vào nh ững năm
đầu của thế kỷ XXI. Thời gian đầu, bán hàng đa c ấp phát tri ển nhanh và
rất hiệu quả, tuy nhiên trong những năm gần đây hoạt động này có nhiều
vi phạm pháp luật nghiêm trọng do pháp luật pháp ch ưa chặt chẽ và nh ận
thức của người dân còn hạn chế... Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn
thiện hành lang pháp lý, nâng cao nhận thức của người dân, giúp cho hoạt
động kinh doanh này ngày càng phát triển và góp ph ần làm lành m ạnh hóa
môi trường tự do kinh doanh ở Việt Nam hiện nay là rất cần thi ết.

16



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Cạnh tranh năm 2004.
2. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010.
3. Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính ph ủ v ề qu ản
lý hoạt động bán hàng đa cấp.
4. Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về qu ản
lý hoạt động bán hàng đa cấp.
5. Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2017 của chính ph ủ, quy đ ịnh
chi tiết Luật Cạnh tranh.
6. Thông tư số 24/2014/TT-BTC ngày 30/7/2014 của Bộ Tài chính quy
định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày
14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa c ấp.
7. Thông tư số 19/2005/TT-BTM ngày 08/11/2005, h ướng d ẫn m ột s ố
nội dung quy định tại Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/ 8/2005 c ủa
Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.
8. Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương: Báo cáo Tổng k ết công tác
quản lý nhà nước về bán hàng đa cấp năm 2016.
17


9. Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương: T ổng kết công tác quản lý
bán hàng đa cấp năm 2011.
10. Cập nhật ngày 24/02/2016.
11. Cập nhật ngày 07/10/2015.
12. Cập nhật, ngày
15/ tháng 4/ năm 2016.

18




×