Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

CHUYÊN ĐỀ BỆNH TRĨ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (858.42 KB, 34 trang )

1
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

CHUYÊN ĐỀ TRĨ
Bệnh trĩ hay còn gọi là bệnh lòi romlà bệnh thường gặp nhất trong các
bệnh hậu môn trực tràng, được tạo thành do dãn quá mức các đám rối tĩnh mạch
trực tràng, tỷ lệ bệnh nhân ước khoảng 25 - 40% dân số, gặp nhiều cả nam và
nữ, hay gặp ở độ tuổi trên 50.
Do vậy, những kiến thức cơ bản về trĩ là vô cùng cần thiết.
I.
1.

2.
+
+

-

GIẢI PHẪU
Đại cương
Cấu tạo giải phẫu hậu môn và đáy chậu khá phức tạp và có sự khác nhau
giữa nam và nữ.Trong khi đó thì tính chất cấu tạo của chúng lại quyết định hình
thái thương tổn của bệnh,đặc biệt là trong các bệnh apxe hậu môn và rò hậu
môn.Trực tràng là đoạn thấp nhất của ống tiêu hóa,trực tràng dài 12-15cm chia
làm hai đoạn:đoạn trên phình to dài 10-12cm gọi là bóng trực tràng nằm trong
tiểu khung,đoạn dưới nhỏ là ống hậu môn dài 2-3cm nằm trong đáy chậu,ống
hậu môn là phần thấp nhất của trực tràng. Đoạn trên của bóng trực tràng có phúc
mạc che phủ,đoạn dưới không có phúc mạc che phủ.Phúc mạc đi từ trên xuống
phủ mặt trước trực tràng quặt lên phủ mặt sau bàng quang ở nam giới,phủ sau tử
cung ở nữ giới,ở chỗ quặt này hai lá phúc mạc trước sau dính với nhau tạo nên
túi cùng Douglas.


Có sự nhận định khác nhau giữa các nhà giải phẫu học và các nhà phẫu
thuật.Theo các nhà giải phẫu học,ống hậu môn được giới hạn ở phía ngoài lỗ
hậu môn và ở phía trong là đường lược,ống hậu môn theo các nhà giải phẫu chỉ
dài 1,5cm;còn theo các nhà phẫu thuật,ống hậu môn được giới hạn phía ngoài
cũng là lỗ hậu môn,phía trong là vòng hậu môn trực tràng cao hơn đường lược
1,5cm,ống hậu môn của các nhà phấu thuật cũng dài 3 cm.
Trực Tràng
Là phần ruột thẳng của đại tràng, là đoạn thấp nhất của ống tiêu hóa, tiếp theo
đại tràng xích ma nối với hậu môn. Trực tràng dài 12 – 15cm chia làm hai đoạn:
Đoạn trên phình to hơn, dài 10– 12cm, gọi là bóng trực tràng nằm trong tiểu
khung,có phúc mạc che phủ phần trực
tràng trong phúc mạc.
Đoạn dưới hẹp gọi là ống hậu
môn dài 2 – 3cm nằm trong đáy
chậu, ra tới lỗ hậu môn, nằm ngoài
phúc mạc.
Ở tiêu khung, phúc mạc che phủ
mặt trước và hai bên trực tràng
rồi quặt lên phủ bàng quang ở


2
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

+
+
3.
+
+
+

+
-

-

-

nam giới, hay tử cung ở nữ giới và hai bên phủ thành chậu hông. Phúc mạc ở
đáy tạo nên các túi cùng:
Ở giữa là túi cùng Douglas.
Hai bên là túi cùng bên
Ống hậu môn
Bề mặt ống hậu môn gồm 3 phần từ ngoài vào trong:
Phần da: Biểu mô lát tầng không sừng hóa.
Phần chuyển tiếp: Ở hai bên đường lược, giữa phần da và phần niêm, là nơi có
các lỗ đỗ vào của ống tuyến hậu môn.
Phần niêm: Lớp tế bào biểu mô trụ chế tiết nhầy.
Chỉ có phần da mới có các đầu tận thần kinh cảm giác.
Ống hậu môn hợp với trực tràng một góc gần 90 độ chạy xuống dưới và ra sau,
chọc qua đáy chậu để tận hết ở lỗ hậu môn, xung quanh có cơ bao bọc, phía trên
là cơ nâng hậu môn, phía dưới là cơ thắt vân ngoài.
Ống hậu môn dài 3 – 4cm, nằm ở vị trí giữa đáy chậu sau, dưới sàn chậu cấu tạo
bởi cơ nâng hậu môn và giữa hai hố ngồi trực tràng. Ống hậu môn tiếp theo trực
tràng và đổ ra da ở lỗ hậu môn.
Ống hậu môn có cấu tạo gồm 3 lớp: trong cùng là lớp niêm mạc, tiếp theo là cơ
trơn (cơ thắt trong), ngoài cùng là cơ vân (cơ thắt ngoài), ngoài ra còn có cơ
nâng hậu môn và bó mu trực tràng cũng có vai trò như cơ thắt hậu môn.


3

Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

4. Cấu trúc liên quan
- Các cột hậu môn: là những nếp dọc nằm ngay phía trên đường lược, chân cột ở
phía ngoài, đỉnh cột ở phía trong. Có 10 – 12 cột xếp đều vòng tròn quanh ống
hậu môn, mỗi cột cao 10mm, rộng 3 – 6mm, rộng nhất nơi chân cột, hẹp nhất
nơi đỉnh cột.
+
Các van hậu môn: Là những nếp niêm mạc nối chân hai cột hậu môn nằm
sát nhau, van có hình bán nguyệt hay tổ chim nên có tên là van bán nguyệt hay
van tổ chim. Van hậu môn nằm ở chân xoang hậu môn.
+
Các xoang hậu môn: Là những rãnh nằm dọc giữa các cột hậu môn có từ
10 – 12 xoang. Xoang hậu môn xuống thấp hơn van hậu môn nên tạo thành một
túi bịt có khi sâu đến 1cm. Các xoang hậu môn nằm thông với các hốc nằm
trong cơ thắt trong và liên quan tới các hạch bạch huyết hậu môn nằm giữa các
cơ thắt.
+
Hệ cơ hậu môn trực tràng: Ống hậu môn có hai cơ vòng là cơ thắt trong
và cơ thắt ngoài, một cơ dọc là cơ dọc kết hợp:


4
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

+
+






+

+
+
+
+
+

5.

Cơ thắt trong: Cơ thắt trong thuộc hệ cơ trơn. Nó chính là cơ vòng của
thành ruột, đi liên tục từ trên xuống, đến hậu môn thì dầy lên, to ra để tạo nên cơ
thắt trong .
Cơ thắt ngoài: cơ thắt ngoài thuộc hệ cơ vân, có 3 phần:
Phần dưới da: phần dưới da ở nông nhất, ngay ở lỗ hậu môn. Xuyên qua phần
này có các sợi xơ-cơ của cơ dọc trực tràng chạy từ ngoài vào từ trên xuống, bám
vào da tạo nên cơ nhíu da hay cơ nhăn da làm cho da có các nếp nhăn. Các nếp
nhăn này xếp theo hình nan quạt mà tâm là lỗ hậu môn.
Phần nông: phần nông ở sâu hơn và ở phía ngoài hơn so với phần dưới da. Phần
nông là phần to nhất và mạnh nhất của cơ thắt ngoài. Phần này xuất phát từ sau
chạy ra trước, vòng quanh hai bên hậu môn có một số sợi bám vào trung tâm cân
đáy chậu.
Phần sâu: phần sâu nằm trên phần nông. Các thớ cơ của phần này hòa lẫn với
các thớ cơ của cơ nâng hậu môn .
Cơ dọc kết hợp: Cơ dọc của thành ruột đi từ trên xuống, đến đây hòa lẫn với các
sợi của cơ nâng hậu môn và các mô sợi đàn hồi tạo nên cơ dọc kết hợp. Cơ dọc
kết hợp chạy từ trên xuống, nằm giữa cơ thắt trong và cơ thắt ngoài. Khi tới phía
dưới nó phát sinh các sợi xơ cơ . Các sợi xơ cơ xuyên qua cơ thắt trong rồi hòa

lẫn vào lá cơ niêm. Một số sợi tiếp tục đi xuống bám vào lớp biểu mô vùng lược
làm cho lá cơ niêm dính chặt vào lớp biểu mô. Các sợi xơ cơ này mang tên dây
chằng Parks. Các sợi xơ cơ hình nan quạt xuyên qua phần dưới da của cơ thắt
ngoài rồi bám vào da tạo nên cơ nhíu da. Các sợi xơ cơ phân cách phần dưới da
và phần nông cơ thắt ngoài, tiếp tục đi ra phía ngoài để tạo nên vách ngang của
khoang ụ ngồi trực tràng.
Các đường giới hạn giải phẫu hậu môn trực tràng: Từ lỗ hậu môn vào trong lòng
hậu môn có bốn đường chạy vòng quanh khắp chu vi lòng hậu môn:
Đường hậu môn da: là ranh giới giữa da quanh hậu môn ( có tuyến bã, tuyến mồ
hôi, nâng lông) và biểu mô lát tầng không sừng hóa của ống hậu môn.
Đường liên cơ thắt: Là ranh giới giữa phần dưới da cơ thắt ngoài và bờ dưới cơ
thắt trong, đường này còn có tên gọi là đường Hilton.
Đường lược: Là đường tạo nên bởi các van hậu môn và xen giữa là chân các cột
hậu môn. Còn có tên là đường van vì được tạo bởi các van.
Đường hậu môn – trực tràng: Là giới hạn trên của ống hậu môn của các nhà
phẫu thuật. Đường này được tạo bởi cơ mu trực tràng là giới hạn giữa ống hậu
môn và bóng trực tràng, tương ứng chỗ gấp khúc của trực tràng.
Vùng Lược: Vùng lược nằm giữa đường liên cơ thắt và đường lược, cao khoảng
10mm, niêm mạc của vùng này có màu xanh xám và trơn trắng. Ở vùng này có
các sợi xơ cơ từ cơ dọc kết hợp của trực tràng xuyên qua cơ thắt trong rồi bám
chặt vào lớp biểu mô của niêm mạc ống hậu môn. Các sợi xơ cơ này được gọi là
dây chằng parks, phân cách vùng lỏng lẻo dưới da hậu môn làm cho đám rối tĩnh
mạch trong thông nối với đám rối tĩnh mạch trĩ ngoài.
Các khoang quanh hậu môn trực tràng:


5
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

- Khoang dưới niêm mạc: khoang này nằm giữa niêm mạc của phần trên ống hậu

môn và cơ thắt trong. Đó chính là vùng lỏng lẻo dưới niêm mạc nằm trên đường
lược. Giới hạn dưới là đường lược. Giới hạn trên không rõ rệt vì liên tiếp với lớp
dưới niêm mạc trực tràng .
- Khoang quanh hậu môn: khoang này nằm ở nông, bao quanh ống hậu môn. Ở
phía ngoài nó liên tục với lớp mỡ dưới da của mông.
- Khoang hố ngồi trực tràng: khoang này có đỉnh là cơ nâng hậu môn và đáy là da
tầng sinh môn. Giới hạn trước là các cơ ngang nông và sâu của đáy chậu. Giới
hạn sau là xương cùng và bờ dưới cơ mông to.
- Khoang liên cơ thắt: khoang này nằm giữa cơ thắt trong và cơ thắt ngoài, ngang
mức và ở phía trong khoang ụ ngồi - trực tràng.
- Khoang trên cơ nâng: khoang này nằm ở mỗi bên trực tràng. Thành trên là phúc
mạc, thành dưới là cơ nâng hậu môn, thành ngoài là vách chậu, thành trong là
trực tràng.
- Khoang sau hậu môn nông: khoang này nằm phía sau hậu môn, dưới dải hậu
môn - cụt, tiếp nối khoang ụ ngồi - trực tràng phải và trái
- Khoang sau hậu môn sâu: cũng giống như khoang sau hậu môn nông nhưng nó
ở sâu hơn, nằm phía trên dải hậu môn - cụt .
- Khoang sau trực tràng: khoang này nằm ở giữa 2/3 trên trực tràng và xương
cùng.Giới hạn phía trước là cân riêng bao phủ trực tràng, phía sau là cân trước
xương cùng, hai bên là dây chằng bên của trực tràng. Ở trên tiếp nối với các
khoang sau phúc mạc, ở dưới là cân trực tràng – cùng


6
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

6. Động mạch

- Động mạch trực tràng trên: là nhánh tận của động mạch mạc treo tràng dưới, đi
từ trên xuống tới đầu trên của trực tràng thì chia hai nhánh nằm hai bên trực

tràng và tận cùng ngay trên đường lược. Trên đường đi nó cho các nhánh xuyên
qua cơ đến lớp niêm mạc của vùng trên đường lược.
- Động mạch trực tràng giữa: xuất phát từ động mạch chậu trong, là một trong
những nhánh trong chậu hông của động mạch chậu trong. Động mạch đi từ trên
xuống khi tới thành trước bên của phần giữa trực tràng thì cho các nhánh nối với
động mạch trực tràng trên và động mạch trực tràng dưới.
- Động mạch trực tràng dưới: xuất phát từ động mạch thẹn trong, động mạch thẹn
trong là một trong những nhánh ngoài chậu hông của động mạch chậu trong.
Động mạch trực tràng dưới cho những nhánh nuôi cơ thắt ngoài và cơ thắt trong.
- Động mạch cùng giữa: xuất phát từ mặt sau của động mạch chủ bụng trên chỗ
chia nhánh đôi thành hai động mạch chậu gốc dài 1,5cm, động mạch đi trước
các đốt sống thắt lưng 4, 5 xương cùng, xương cụt và đi sau tĩnh mạch chậu gốc
trái, thần kinh trước cùng và các mạch máu trực tràng trên.
7. Tĩnh mạch
Máu của vùng hậu môn khi trở về đổ về hai nơi:
- Lớp dưới niêm mạc và dưới da: lớp niêm mạc và da của vùng hậu môn không
nối với nhau mà được phân cách làm hai bởi vùng lược vì ở vùng này niêm mạc
dính chặt vào cơ thắt trong.
+ Vùng trên: các tĩnh mạch ở vùng trên nằm dưới niêm mạc, có đám rồi tĩnh mạch
trong nằm phía trên đường lược, máu từ đám rối tĩnh mạch trĩ trong được dẫn về
tĩnh mạch tràng trên, khi đám rối tĩnh mạch giãn tạo thành trĩ nội.
+ Vùng dưới: các tĩnh mạch dưới nằm dưới da, có đám rối tĩnh mạch ngoài, máu
từ đám rối tĩnh mạch trĩ ngoài đổ vào tĩnh mạch trực tràng dưới, khi đám rối tĩnh


7
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

mạch này giãn tạo thành trĩ ngoại. Hai đám rồi này được phân cách nhau bởi dây
chằng parkt, khi dây chằng này thoái hóa mất độ bền chắc sẽ chùng ra, hai đám

rối sát liền nhau trĩ nội liên kết trĩ nội tạo nên trĩ hỗn hợp khi trĩ liên kết với
nhau từng búi riêng lẻ tạo thành vòng trĩ.

II.

-

-

SINH LÝ BỆNH
Hiện nay, cơ chế bệnh sinh của bệnh trĩ chưa được làm sáng tỏ. Đa số các
tác giả cho rằng bệnh trĩ xuất hiện trên những cơ địa đặc biệt và nêu ra một số
yếu tố khởi bệnh như :
Suy yếu tổ chức nâng đỡ : thời gian hoàn thành đi vệ sinh dài.
Rối loạn lưu thông tiêu hóa : tiêu chảy hoặc táo bón mãn tính.
Yếu tố nội tiết : béo phì, mang thai.
Yếu tố gia đình.
Chế độ ăn, bệnh ở một số nghề nghiệp.
Tuy nhiên, có 2 thuyết được nhiều người chấp nhận:
Thuyết cơ học: do tăng áp lực khi rặn( táo bón, khó tiêu..) làm các bộ phận nâng
đỡ tổ chức trĩ bị giãn dần và lỏng lẻo. Các búi trĩ bị sa xuống và dần dần nằm
ngoài hậu môn. Luồng máu tĩnh mạch về bị cản trở trong khi luồng máu động
mạch vẫn tới do áp lực cao. Quá trình đó cứ luẩn quẩn, tiếp diễn lâu dài làm
mức độ sa trĩ nặng dần.
Thuyết mạch máu: nêu lên vai trò của các shunt động- tĩnh mạch. Khi các yếu
tố khởi bệnh tác động làm các shunt mở rộng. Máu chảy ồ ạt làm các đám rối


8
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình


+
+
+

+
+
+

tĩnh mạch bị giãn ra, lại thêm các yếu tô làm cản trở máu trở về( rặn mạnh khi bị
táo bón.......) các mạch máu lại nhận thêm máu quá mức chịu đựng, giãn ra
( xung huyết), thậm chí gây chảy máu. Máu chảy là máu đỏ tươi (trực tiếp từ
động mạch sang tĩnh mạch).
Bệnh trĩ ban đầu không gây nguy hiểm cho bệnh nhân, nhưng khi đã xảy
ra biến chứng thì sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của bệnh
nhân.
Chảy máu : rất hay gặp, đây vừa là triệu chứng vừa là biến chứng. Máu có thể
chảy mỗi khi đi đại tiện và tự cầm sau khi đại tiện xong, có khi máu chảy dữ dội
dẫn đến thiếu máu cấp, cần cấp cứu .
Thiếu máu: dù chảy máu nhiều hay ít, cấp tính hay mãn tính đều gây ra hiện
tượng thiếu máu, tùy vào mức độ thiếu máu mà biểu hiện các mức độ : da xanh,
niêm mạc nhợt nhạt, mạch nhanh nhỏ.
Chức nâng hậu môn rối loạn : hậu môn là cơ quan bài xuất phân, nếu bị trĩ lâu
ngày sẽ ảnh hưởng tới chức năng này của hậu môn. Hậu môn có thể bị co lại
khiến việc đi lại khó khăn hoặc các cơ hậu môn bị xâm lấn làm cho bệnh nhân
mất tự chủ trong việc đi đại tiện.
Trĩ sa nghẹt : do trĩ nội sa ra ngoài và bị bóp chặt bởi cơ thắt không co lên được
gây đau đớn, thậm chí hoại tử búi trĩ
Bội nhiễm : vì hậu môn là cơ quan bài tiết phân, có nhiều vi khuẩn gây bệnh, chỉ
cần những tổn thương nhỏ cũng dễ gây nhiễm trùng.

Tắc mạch trĩ: các búi trĩ xung huyết tạo thành các bọc máu theo thời gian chúng
đông lại dính chặt vào vùng da phụ, khó bóc tách. Khi thăm khám thấy rìa hậu
môn có khối sưng màu phớt xanh, kích thước khoảng hạt đậu, sờ hơi căng, bệnh
nhân đau. Cục máu đông có thể gây hoại tử trên da dẫn đến rỉ máu,nhiễm trùng.
Nhiều cục máu đông vùng hậu môn làm cản trở lưu thông bình thường của máu
động, tĩnh mạch hậu môn, gây hiện tượng búi trĩ ngày càng sưng to, để lâu theo
thời gian gây áp xe, nhiễm khuẩn.

+ Nhiễm trùng hậu môn: viêm khe, viêm nhú nằm trên đường lược gây cảm giác
ngứa ngáy, nóng rát.khi thăm khám trực tràng, bệnh nhân đau. Khi soi hậu môn
thấy phù nề sưng to mù trắng, các khe nằm giữa búi trĩ loét nông màu đỏ, để lâu
gây nhiễm trùng ngược dòng, nhiễm trùng toàn thân như nhiễm trùng máu,
nhiễm trùng hạch mạch..... ảnh hưởng đến tính mạng bệnh nhân.
+ Bệnh về da: khi búi trĩ bị lòi ra ngoài hậu môn, hậu môn tiết ra những dịch nhầy
ra ngoài khiễn vùng da xung quanh bị khích thích và dẫn đến các bệnh về da.
+ Rối loạn thần kinh: bệnh nhân có thể bị đau vùng lưng dưới, đau nhức xương
hay rối loạn phản xạ tiết niệu.
+ Với riêng nữ giới: khoảng cách giữa hậu môn và bộ phận sinh dục rất gần nên có
thể gây ra bệnh viêm nhiễm phụ khoa, đặc biệt là phụ nữa đang mang thai.
III.

YẾU TỐ NGUY CƠ


9
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

- Không vệ sinh vùng hậu môn thường xuyên
Vùng hậu môn là chỗ ẩn nấp tốt nhất cho vi khuẩn. Nếu không vệ sinh bộ
phận hậu môn thường xuyên, vi khuẩn sẽ xâm nhập gây viêm nhiễm.

- Bị táo bón thường xuyên
Nguyên nhân gây bệnh trĩ cao là do chứng táo bón thường xuyên. Khi bị
táo bón thường rất khó đại tiện, nếu tình trạng này diễn ra thường xuyên gây ra
bệnh nứt kẽ hậu môn, giãn tĩnh mạch và gây nên trĩ.
- Chế độ ăn uống không phù hợp
Chế độ ăn uống không phù hợp cũng dễ dẫn tới táo bón do thiếu chất xơ.
Chúng ta cần bổ sung chất xơ cho cơ thể bằng cách ăn các loại trái cây, rau
xanh, ngũ cốc nguyên cám, các loại đỗ … tốt nhất là nên có trong thực đơn của
bữa ăn hang ngày, vừa tốt cho sức khỏe vừa ngăn ngừa bệnh trĩ.
- Mất nước
Nếu cơ thể không đủ lượng nước và ít nhất là 2 lít nước mỗi ngày thì sẽ có
nguy cơ mắc nhiều bệnh trong đó có cả bệnh trĩ do thiếu nước cung cấp vào
thành phần của các chất bôi trơn trên thành ruột, hậu môn và cũng làm cho phân
cứng.
- Phụ nữ mang thai, sinh con
Khi phụ nữ mang thai sẽ gây áp lực lên ổ bụng, làm tăng sức nặng lên các
thành tĩnh mạch hậu nên nên gây nên trĩ.
Hoặc cũng do trong lúc sinh con gặp nhiều áp lựa, làm các tĩnh mạch tang
lên gấp đôi cũng gây nên bệnh trĩ.
Nhưng hầu hết đều tự khỏi sau khi sinh con.
- Ít vận động hoặc làm việc quá nặng
Vận động ít, ngồi một chỗ nhiều (đặc biệt là lúc đi vệ sinh), đứng một chỗ
khiến bạn dễ gây áp lực lên trực tràng dễ gây hình thành trĩ. Ngoài ra những
người mang vác nặng nhiều cũng dễ gây trĩ.
- Yếu tố tâm lý
Tâm lý quá căng thẳng, mệt mỏi dễ dẫn tới tinh thần làm tăng huyết áp,
tăng áp lực vùng hậu môn trựa tràng gây trĩ. Vì vậy nên hãy sắp xếp giữa nghỉ
ngơi và làm việc một các hợp lí và hiệu quả.



10
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

IV.
-

PHÂN LOẠI TRĨ

trĩ nội: Búi trĩ do các tĩnh mạch trực tràng trên giãn hết mức tạo thành những

nếp gấp nhăn nheo. Chúng nằm ở vị trí trên đường lược, dưới lớp niêm mạc của
thành hậu môn.
- trĩ ngoại: Búi trĩ do các tĩnh mạch trực tràng dưới giãn. Người bệnh sẽ nhận
thấy dưới cửa vùng hậu môn xuất hiện một lớp da thừa, có hình dạng ngoằn
ngoèo gấp khúc..


11
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

- Chẩn đoán giai đoạn của trĩ nội:

- Trĩ nội độ I: Các tĩnh mạch giãn nhẹ, đội niêm mạc phồng lên lồi vào trong lòng
trực tràng.
- Trĩ nội độ II: Các tĩnh mạch trĩ đã giãn nhiều hơn, tạo thành các búi rõ rệt, khi
gắng sức trĩ sa ra ngoài, nhưng tự co lên được.
- Trĩ nội độ III: Như độ II, nhưng khi trĩ đã sa ra ngoài thì phải dùng tay ấn nhẹ
hay phải nằm nghỉ một lúc thì búi trĩ mới tụt vào trong.
- Trĩ nội độ IV: Các búi trĩ khá to, thường liên kết với nhau thành trĩ vòng, trĩ sa ra
ngoài liên tục và không thể đẩy lên được.

V.
ĐIỀU TRỊ TRĨ
1. Đại cương
- Các phương pháp điều trị hiện nay:
+ Y học cổ truyền, bài thuốc dân gian, nhiều người dân tìm đến phương pháp này.
+ Nội khoa với các nhóm thuốc làm nhuận tràng, chống phù nề, tăng cường đề
kháng của tĩnh mạch, mao mạch nhỏ: Lactoluse, Daflon, Ginko Fort,
Proctolog…Không áp dụng điều trị với trĩ độ III, IV và có biến chứng.


12
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

+ Thủ thuật thắt búi trĩ bằng vòng cao su áp dụng cho trĩ độ II, ít búi. (hình a )
+ Tiêm xơ búi trĩ là phương pháp tốt sau khi tìm ra chế phẩm ALTA ( hình b )
+ Phẫu thuật hiện có nhiều phương pháp khác nhau được chia thành 2 nhóm chính
là: dưới đường lược và trên đường lược.Tùythuộc vào mức độ, tính chất và các
yếu tố liên quan, bác sĩ sẽ lựa chọn 1 hay nhiều phương pháp cho từng người
bệnh.

Hình a : pp thắt vòng búi trĩ.

Hình b : tiêm xơ búi trĩ bằng ALTA
1.1.

Điều trị Nội Khoa
Chỉ điều trị khi trĩ gây những rối loạn ảnh hưởng đến sinh hoạt và năng
suất lao động của người bệnh.



13
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

- Ngăn chặn các yếu tố thuận lợi phát sinh bệnh trĩ
+ Tập thói quen đi ngoài đều đặn hàng ngày.
+ Điều chỉnh thói quen ăn uống: Tránh các chất kích thích như cà phê, rượu, trà.
Tránh các thức ăn nhiều gia vị như ớt, tiêu. Uống nước đầy đủ. Ăn nhiều chất
xơ.
+ Vận động thể lực: nên tập thể dục và chơi các môn thể thao nhẹ như bơi lội, đi
bộ…
+ Điều trị các bệnh mạn tính hiện có như viêm phế quản, giãn phế quản…
- Điều trị nội khoa
+ Vệ sinh tại chỗ tốt bằng phương pháp ngâm nước ấm 2 – 3 lần/ngày, mỗi lần 15
phút.
+ Thuốc uống: gồm các thuốc có tác nhân trợ tĩnh mạch, dẫn xuất từ flavonoid. Cơ
chế tác động của các thuốc này là làm gia tăng trương lực tĩnh mạch, bảo vệ vi
tuần hoàn, giảm phù nề nhờ tác động kháng viêm tại chỗ, chống nhiễm trùng và
chống tắc mạch.
+ Thuốc tại chỗ: gồm các loại thuốc mỡ và đạn bao gồm các tác nhân kháng viêm,
vô cảm tại chỗ và dẫn xuất trợ tĩnh mạch.
- Phòng bệnh trĩ
+ Tăng cường ăn thức ăn giàu chất xơ, uống đủ nước, vận động ... để tránh táo
bón.
+ Tránh mang vác nặng.
+ Hạn chế rượu, bia, thức ăn cay...
2. Điều trị Ngoại khoa :
2.1. Các thủ thuật
Hiện nay có 3 phương pháp điều trị thủ thuật chính mang lại kết
quả cao đó là tiêm thuốc gây xơ búi trĩ, thắt búi trĩ bằng vòng
cao su và quang đông bằng tia hồng ngoại.

3 phương pháp thủ thuật đều dựa trên nguyên lý chung đó là tạo
mô sẹo xơ dính vào lớp cơ dưới niêm mạc nhằm mục đích cầm
máu và giảm lưu lượng máu đến búi trĩ làm cho búi trĩ teo dần
dần.
Các phương pháp thủ thuật không được áp dụng điều trị cho trĩ nội và trĩ
ngoại tắc mạch, nứt hậu môn kèm theo, viêm mủ hậu môn, người bệnh suy giảm
miễn dịch.
- Phương pháp thắt búi trĩ bằng vòng cao su
Thắt trĩ bằng dây thun là thủ thuật thắt đáy búi trĩ bằng một sợi dây thun, ngăn
chặn hoàn toàn dòng máu đến búi trĩ. Để thực hiện thủ thuật này, thầy thuốc sẽ


14
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

đút một ống nội soi (anoscope hoặc proctoscope) được làm ấm và bôi trơn vào
hậu môn của bệnh nhân. Búi trĩ sẽ được giữ chặt bằng kẹp, một dụng cụ sẽ siết
dây thun vào đáy của búi trĩ. Trĩ sẽ teo lại, hoại tử, và rụng trong vòng một tuần.

Sẹo hình thành ở vị trí búi trĩ, giữ cho các tĩnh mạch kề cận không phình vào
ống hậu môn. Thầy thuốc sẽ hỏi bệnh nhân xem có cảm thấy vòng cao su quá
chặt? Nếu đau nhiều, bác sĩ sẽ tiêm thuốc gây tê tại vị trí đã thắt trĩ. Tuy nhiên,
nếu đau nhói nhiều sau khi thắt trĩ, có thể đã thắt nhầm vào vùng mô dưới đường
lược (dentate line) hoặc thắt quá nhiều phần mô và da nhạy cảm. Cần phải cắt bỏ
dây thun và thắt lại.
Sau phẫu thuật cắt trĩ, bệnh nhân có thể cảm thấy đau và đầy ở vùng bụng dưới,
hoặc có cảm giác mót đi tiêu.
Thường thì chỉ thắt mỗi lần từ 1 đến 2 búi trĩ. Nếu bệnh nhân được vô cảm toàn
thân, có thể xử lý cùng một lúc nhiều búi trĩ hơn. Các búi còn lại sẽ được thắt
sau thời gian từ 4 đến 6 tuần.

+ Kết quả
Bệnh nhân phản ứng không giống nhau sau khi thắt trĩ. Một số có thể trở về với
công việc bình thường ngay, số khác cần phải nghỉ tại giường từ 2 đến 3 ngày.


15
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

Bệnh nhân thường cảm thấy đau trong thời gian từ 24 đến 48 giờ sau thắt trĩ. Có
thể dùng thuốc hoặc ngồi trong chậu nước ấm pha thuốc tím ngày 2-3 lần, mỗi
lần 15 phút để giảm đau.
Để giảm nguy cơ chảy máu, nên tránh dùng các thuốc kháng viêm không steroid
(NSAIDs), các thuốc aspirin, coumadin, warfarin v.v…trong thời gian từ 4 đến 5
ngày trước và sau khi thắt trĩ.
Có thể xuất huyết trong khoảng từ 7 đến 10 ngày sau khi thắt, lúc trĩ rụng. Xuất
huyết thường nhẹ và tự cầm.
Bệnh nhân nên ăn nhiều chất xơ để làm mềm phân và uống thêm nước để dễ đi
tiêu. Rặn nhiều khi đi tiêu có thể khiến trĩ tái phát.
+ Chỉ định thắt trĩ
Thắt trĩ bằng dây thun là thủ thuật được dùng rộng rãi để điều trị trĩ nội. Nếu các
triệu chứng vẫn tồn tại sau 3 đến 4 lần thắt trĩ, cần đặt vấn đề điều trị phẫu thuật.
Không được dùng phương pháp thắt trĩ nếu không đủ mô để kéo vào lòng dụng
cụ thắt trĩ.
Thủ thuật thắt trĩ không được áp dụng để điều trị trĩ độ 4.
+ Kết quả sau phẫu thuật
Khoảng 80% bệnh nhân cho biết có cải thiện triệu chứng sau khi thắt trĩ.Thắt trĩ
bằng dây thun cải thiện triệu chứng nhanh chóng và kéo dài hơn so với phương
pháp chích xơ hoặc quang đông bằng tia hồng ngoại
Hiếm khi phải điều trị lại do triệu chứng tái phát.
Thủ thuật này hiệu quả nhất đối với các búi trĩ nội có kích thước từ nhỏ đến

trung bình.
Thủ thuật này ít thành công khi thực hiện trên các búi trĩ lớn.
+ Nguy Cơ
Tác dụng phụ rất hiếm gặp, có thể bao gồm:
Đau nhiều không đáp ứng với các biện pháp giảm đau thường dùng sau khi thắt
trĩ. Có thể do thắt búi trĩ quá sát với vùng chứa nhiều thụ thể cảm nhận đau trong
ống hậu môn
Chảy máu hậu môn.
Bí tiểu.


16
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

Nhiễm trùng ở vùng hậu môn, vùng chậu, tuy hiếm gặp nhưng có thể diễn biến
nhanh và nặng dẫn đến nhiễm trùng huyết. Cần khẩn trương điều trị bằng kháng
sinh.
Tuột dây thun do kẹp được quá ít mô trĩ, cần phải thắt lại
Cục máu đông xảy ra ở 5% bệnh nhân, cần phẫu thuật cắt bỏ
Nứt hậu môn: xảy ra ở 1% trường hợp do nứt búi trĩ. Điều trị bằng kháng sinh,
giảm đau hoặc phẫu thuật.
-> Thận trọng hơn với: Biến chứng sau phẫu thuật cắt trĩ
* Tổng kết lại:
Thắt trĩ bằng dây thun là một trong những phương pháp điều trị ít tốn kém và
khá hiệu quả.
Phẫu thuật cắt trĩ (hemorrhoidectomy) có thể đem lại kết quả tốt và lâu dài hơn
thắt trĩ. Tuy nhiên, phẫu thuật thường tốn kém hơn, có thời gian phục hồi lâu
hơn và nguy cơ biến chứng cũng cao hơn.
Về lâu dài, thắt trĩ bằng dây thun được đánh giá là phương pháp điều trị khôngphẫu thuật hiệu quả nhất đối với trĩ nội.
Thắt trĩ bằng dây thun là phương pháp tốt cho trĩ độ I và trĩ độ II. Phương pháp

này không được áp dụng cho trĩ ngoại.
Các thông tin về phương pháp thắt trĩ bằng dây thun mà mọi người nên tham
khảo. Nếu muốn biết chi tiết hơn thì nên tới bệnh viện nhờ bác sĩ tư vấn thêm.
– Là phương pháp điều trị tốt đối với trĩ nội dạng búi với thao tác nhanh, không
đau.
– Chi phí điều trị thấp
– Hạn chế ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, lao động của người bệnh.
– Các biến chứng sau thắt như gây đau dữ dội do thắt không đúng vị trí, nứt hậu
môn và nhiễm trùng vùng chậu có thể đưa đến hậu quả là nhiễm trùng máu.
Cách khắc phục là phải tháo vòng ra ngay khi xuất hiện đau, giữ vệ sinh vùng
hậu môn sạch sẽ.
- Phương pháp quang đông hồng ngoại
Điều trị bệnh trĩ bằng quang đông hồng ngoại là một trong những phương
thức sử dụng nhiệt điều trị trĩ đã được thực hiện hàng trăm năm nay. Rất nhiều


17
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

bệnh nhân đã sử dụng phương pháp này và có nhiều hiệu quả trong việc trị bệnh
trĩ. Phương pháp này tuy có từ rất lâu nhưng nó vẫn xem là phương pháp điều trị
bệnh trĩ tiên tiến hiện nay.

Mục tiêu của phương pháp làm đông là làm cho mô bị đông lại bởi tác
động của sức nóng, tạo nên sẹo xơ làm giảm lưu lượng máu đến búi trĩ và cố
định trĩ vào ống hậu môn. Với tia Laser, dòng điện cao tần cũng có tác động làm
đông như tia hồng ngoại, nhưng sự chính xác về độ sâu xuyên thấu của tác động
làm đông của 2 phương pháp này không chính xác bằng tia hồng ngoại với máy
quang đông. Sự xuyên thấu mô của tia hồng ngoại được định trước bằng cách
điều chỉnh tốc độ của tia và độ hội tụ chính xác trên lớp mô này.

Máy quang đông hồng ngoại có lợi là không gây nhiễu các dụng cụ
điện tử gắn trên người bệnh như máy điều hòa nhịp tim.
Quang đông hồng ngoại được chỉ định với trĩ nội độ 1 và độ 2. Phương pháp này
có ưu điểm là không đau, an toàn, cầm máu rất hiệu quả nhưng có nhược điểm là
máy khá đắt và thường phải làm thủ thuật nhiều lần.
Có nhiều phương pháp điều trị bệnh trĩ và mỗi phương pháp lại có
những ưu nhược điểm riêng. Theo đó, phương pháp quang đông hồng ngoại trị
trĩ cũng có những ưu nhược điểm như:
* Ưu điểm:


18
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

Sử dụng quang động hồng ngoại nên không gây nhiễu từ những dụng cụ điện tử
gắn trên người bệnh nhân.
Không gây ảnh hưởng gì tới các bộ phận khác
Ít đau đớn, ít chảy máu và khá an toàn.
* Nhược điểm:
Những mặt tiện lợi song vẫn còn khá nhiều mặt hạn chế đó là:
Chỉ áp dụng hiệu quả đối với trĩ nhẹ cấp độ 1, độ 2
Chi phí của phương pháp đông hồng ngoại khá đắt, cần phải thực hiện thủ thuật
nhiều lần
Có khả năng tái phát trĩ lại khá cao
- Phương pháp tiêm gây xơ búi trĩ
Kỹ thuật chích xơ hóa búi trĩ chữa bệnh trĩ là thủ thuật điều trị bệnh trĩ đơn giản,
ít đau và ít gây biến chứng, không cần nằm viện. Song phương pháp này đòi hỏi
bác sĩ thực hiện là người có trình độ chuyên môn cao và dày dặn kinh nghiệm,
hơn nữa không phải bệnh nhân mắc bệnh trĩ nào cũng có thể áp dụng phương
pháp chữa bệnh trĩ này.

Kỹ thuật chích xơ hóa bệnh trĩ là gì?


19
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

Chích xơ búi trĩ (hay tiêm xơ búi trĩ) do Terrell mô tả và thực hiện trên 128 bệnh
nhân trĩ trong vòng 3 năm, bắt đầu từ năm 1916. Thủ thuật tiêm xơ búi trĩ là
phương pháp dùng một lượng thuốc là chất hóa học tiêm vào búi trĩ, tạo xơ ở đó

khiến máu không đến được để nuôi búi trĩ, búi trĩ sẽ tự teo đi.
Chỉ định:
Thủ thuật chích xơ búi trĩ thường được áp dụng cho bệnh nhân bị trĩ độ II và trĩ
độ III xuất huyết.
Chống chỉ định cho một số trường hợp như:
Người bệnh mắc các chứng căn bệnh liên quan đến hệ thống đường máu như:
bệnh tiểu đường, bệnh máu khó đông.
Bệnh nhân bị viêm đại – trực tràng đang diễn tiến, khi có thuyên tắc và ung thư
máu cấp.
Trĩ nội sa ra ngoài trong thời gian dài làm cho niêm mạc đã bị xơ hóa, da che
phủ bởi việc sử dụng thuốc để tiêm có thể làm búi trĩ bị sưng lớn, phù nề, cơ
hoành vùng hậu môn bị co giật, làm tắc động mạch và đau rát.
Phụ nữ mang thai vì có thể gây sẩy thai,…
Tìm hiểu về phương pháp chích xơ hóa búi trĩ
1 – Chuẩn bị:


20
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình


Ống và kim tiêm dùng 1 lần. Trước đây thường sử dụng ống và kim tiêm Gabriel
có ưu điểm: Chỉ chích sâu 1 – 2 cm nên tránh được tai biến, không gây ảnh
hưởng ruột già.
5ml thuốc.

– Với bệnh nhân:
Có thể được đề nghị đặt tọa dược giúp nhuận trường trước khi chích xơ búi trĩ.
Kiểm tra trực tràng có ít phân.
Nằm nghiêng bên trái, chổng mông hoặc nằm trên bàn ” đặc biệt”.
3 – Quy trình thực hiện kỹ thuật chích xơ hóa búi trĩ:
+ Đặt ống soi cứng vào hậu môn sau đó nòng được rút ra.
+ Nếu rút ống soi ra một phần niêm mạc đang màu hồng bị biến thành màu tím
thẫm tức là cuống trĩ là nơi chúng ta tác động để điều trị. Cần quan sát rõ đường
lược để chắc chắn là chích vào cuống của búi trĩ nội.


21
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

Quy trình thực hiện kỹ thuật chích xơ hóa búi trĩ
+ Bác sĩ tay cầm ống chích, tay cầm ống nội soi để xác định vị trí cuống trĩ rồi
chích kim nằm nghiêng sâu vào 1 cm và bơm thuốc 1 lượng nhỏ. Chích đúng là
chích dưới niêm mạc và bờ trên của cuống trĩ, bệnh nhân sẽ không cảm thấy đau
đớn. Nếu không sẽ thấy:
Bệnh nhân đau nhói bụng trên, nhói ngực, trong miệng có vị lạ thì có thể là do
bác sĩ chích thuốc đi thẳng vào tĩnh mạch của búi trĩ.
Bệnh nhân thấy lạ có nghĩa là bác sĩ đã chích sát rìa hậu môn quá hay chích sâu
quá. Khi chích gần đường lược quá cần rút kim ra và chích lại ở vị trí cao hơn.
Khi chích bơm thấy nặng tay và nhất là niêm trắng ra là chích quá nông quá dễ
gây loét niêm và chảy máu. Lúc này phải chích lại đi sâu hơn.

+ Sau khi rút kim ra nếu bị chảy máu thì phải dùng gạc hoặc bông gòn ép vào
trong vài phút. Trường hợp không cầm máu được thì phải thắt bằng dây thun
ngay chỗ bị chảy máu.
Sau chích xơ búi trĩ, bệnh nhân không cần kiêng khem gì đặc biệt. Thông
thường sau khi thực hiện thủ thuật, bệnh nhân có thể nghỉ ngơi khoảng 15 – 30
phút là có thể sinh hoạt bình thường. Bên cạnh đó, người bệnh cũng được
khuyến cáo nên ngưng đi cầu 1 ngày sau lúc chích xơ vì rặn đi cầu ngay dễ bị
chảy máu. Sau đó, thực hiện theo đúng dặn dò của bác sĩ điều trị.
2.2.

Phẫu thuật trĩ
Khi nào cần phẫu thuật trĩ ?
- Trước tiên phải hiểu : trĩ có thể là bệnh, có thể là triệu chứng của một bệnh khác.
Chỉ được phẫu thuật khi là trĩ bệnh . Một sai lầm thường mắc phải là cắt trĩ cho
một bệnh nhân bị ung thư trực tràng. Có thể trĩ là triệu chứng của ung thư trực
tràng, có thể là ung thư trực tràng xuất hiện trên một bệnh nhân có trĩ đã lâu. Vì
vậy, trước khi phẫu thuật phải khẳng định không có các thương tổn thực thể
khác ở vùng hậu môn trực tràng.
- Trĩ có thể điều trị khỏi bằng nội khoa hay các phương pháp vật lý. Vì vậy, phẫu
thuật chỉ nên được xem là phương sách cuối cùng khi các phương pháp kể trên
không hiệu quả, bởi vì phẫu thuật can thiệp vào giải phẫu học và sinh lý học
bình thường và có thể kèm theo các di chứng nặng nề khó sửa chữa.
- Chỉ định phẫu thuật thường chỉ áp dụng cho trĩ nội độ 3, độ 4, trĩ có huyết khối,
trĩ vòng sa và trĩ xuất huyết trầm trọng


22
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

- Cơ sở phân loại các phương pháp điều trị trĩ : Lấy đường lược làm mốc.

+


+


+


+


Phía trên đường lược:
Có ít Receptor cảm nhận cảm giác đau.
Là vị trí xuất phát của trĩ nội.
Phía dưới đường lược:
Có nhiều Receptor cảm nhận cảm giác đau.
Là vị trí xuất phát của trĩ ngoại.
Các phương pháp được chia làm 2 nhóm:
Các phẫu thuật can thiệp dưới đường lược
Kỹ thuật mở – Open: Điển hình là phương pháp Milligan Morgan.
Kỹ thuật kín – Closed: Điển hình là phương pháp Ferguson.
Các phẫu thuật can thiệp trên đường lược.
Phương pháp Khâu triệt mạch trĩ dưới hướng dẫn của siêu âm Doppler
(Transanal Haemorrhoidal Dearterialisation – THD).
∗ Phương pháp Longo

STT
1


Tên
phương
pháp
Cắt
Khoan
h Niêm
Mạc

Cách
Ưu
Nhược
Ghi chu
thức tiến điểm
điểm
hành
cắt
biến
Vì nhiều biến chứng nên ít được sử dụng.
khoanh
chứng
trước đây là pp phổ biến.
niêm mạc
- Rò hậu
cùng với
môn.
lớp dưới
- Đại
niêm mạc
tiện mất
của các

tự chủ.
búi trĩ.
- Hẹp
Tiếp theo
hậu
là sẽ kéo
môn.
niêm mạc
từ trên
xuống rồi
khâu với
da của
vùng hậu
môn


23
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

2

3

4

Cắt
Từng
Bui Trĩ

Cắt riêng

từng búi
trĩ một,
để lại ở
giữa các
búi trĩ
các mảnh
da – niêm
mạc (cầu
da niêm
mạc).
Nhóm
phẫu
thuật này
gồm 2
nhóm
chính là:
– Cắt trĩ
mở: PT
Milligan
Morgan ,
PT
Nguyễn
Đình Hối
– Cắt trĩ
kín: PT
Ferguson.

Longo ( PPH

khâu

treo

- ít
tái
phát,
hiệu
quả
cao.

- Người
bệnh sẽ
đau
nhiều
sau khi
mổ.
- Thời
gian hồi
phục ch
o
phương
pháp
này khá
lâu.
Thường
ít hiệu
quả đối
với
người
bệnh trĩ
vòng.


Milligan morgan :
/>
Ferguson :
/>
Là phương
- Không gây
pháp phẫu
đau đớn.
thuật sử dụng - Thời gian
máy cắt nối tự điều trị ngắn.
động niêm
- Khả năng
mạc trực tràng, phục hồi chức
nhằm treo các năng, sức khỏe
búi trĩ vào lại
nhanh.
ống hậu
môn, đảm bảo
chức năng sinh
lý của các búi
trĩ.
Phương pháp này
Tương tự
được nghiên cứu,
Longo, giá thành

-giá thành cao
- tỷ lệ tái phát
cao hơn

phương pháp
MilliganMorgan


utube.com/wat
ch?
v=Xv2y8XtG
CCY&t=2s


24
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

trĩ
bằng
tay

5

6

7

thực hiện dựa trên
phương pháp
Longo, cũng cùng
mục đích làm giảm
lượng máu lưu
thông đến búi trĩ.
triệt

-Là phương pháp
mạch sử dụng một máy

có đầu siêu âm
khâu
Doppler gắn liền
treo trĩ trong một ống soi
dưới
hậu môn để dò
hướng động mạch ở vị trí
dẫn
trên đường lược.
siêu
Sau đó thực hiện
âm
khâu cột động
dopple mạch trĩ.
r
-chỉ áp dụng cho
(THD) trĩ nội độ 2 và 3
HCPT HCPT là phương
pháp dựa vào
nguyên tắc “nhiệt
nội sinh” để làm
đông các mạch
máu (thành tĩnh
mạch), tạo thành
các mô sẹo nhờ
sóng điện từ cao
tần. Tiếp đó, các

bác sĩ sẽ sử dụng
dao điện để tiến
hành loại bỏ búi
trĩ.
cắt trĩ
bằng
laser

VI.

rẻ hơn.

ít xâm hại hơn
cả:
-rất ít đau, ít tái
phát.
-bảo tồn đệm
hậu môn.
-ít biến chứng
nhất, -hồi phục
nhanh sau phẫu
thuật.

https://ww
w.youtube.
com/watch
?
v=VUDoO
b4SWvs


- không gây đau giá thành cao
đớn trong và sau
khi phẫu thuật.
- An toàn cho
bệnh nhân,
không có các
biến chứng
nguy hiểm.
- phục hồi sau
phẫu thuật
nhanh, thậm chí
không cần nằm
viện.

https://ww
w.youtube.
com/watch
?v=ZB_xcNT3BQ

-Tương đối triệt
để, ít tái phát
-thời gian thực
hiện ngắn
-ít biến chứng.

https://ww
w.youtube.
com/watch
?
v=xkMVljv

HIsA

BIẾN CHỨNG SAU PHẪU THUẬT

-chi phí lớn
- chỉ áp dụng cho độ 2, độ 3,
điều trị trĩ độ 4 hay tái phát.
- đau nhiều sau phẫu thuật.


25
Nhóm ngoại khoa trường ĐH Y Dược Thái Bình

1.
1.1.
+
+
+
+
+


+





+




+



+



Trong chuyên mục này chúng ta sẽ không bàn đến những bc do gây tê gây
mê..như những phẫu thuật ngoại khoa khác mà bàn đến những biến chứng liên
quan đến phẫu thuật trĩ. Tùy từng phương pháp phẫu thuật mà tỉ lệ mắc biến
chứng sẽ khác nhau. Sau đây là một số biến chứng hay gặp :
Biến chứng gần
Chảy máu
Nguyên nhân.
Chảy máu trong vòng 24 giờ đầu sau mổ: Do trong phẫu thuật cầm máu không
kỹ, tuột chỉ khâu cầm máu …
Chảy máu muộn (Ngày thứ 7-10 sau mổ, thậm chí 2 tuần sau mổ): Do hoại tử
gốc trĩ.
Yếu tố thuận lợi.
Bệnh nhân có chức năng đông máu kém.
Bệnh nhân bị tăng huyết áp.
Biểu hiện:
Tùy theo mức độ mất máu mà có biểu hiện khác nhau từ nhẹ tới nặng.
Dấu hiệu cơ năng:
Bệnh nhân đi ngoài ra máu nhiều sau mổ: Ộc ra máu tươi, lẫn máu cục.
Tùy theo mức độ mất máu mà bệnh nhân có cảm giác khác nhau: bình thường
hoặc hoa mắt, chóng mặt …

Dấu hiệu toàn thân: biểu hiện tùy mức độ nặng nhẹ
Niêm mạc bình thường hoặc nhợt nhẹ.
Huyết động ổn định: Huyết áp bình thường, Mạch có thể nhanh.
Người lạnh, da nhớp nháp mồ hôi.
Da xanh, niêm mạc nhợt.
Mạch nhanh nhỏ khó bắt, Huyết áp tụt.
Dấu hiệu tại chỗ:
Băng hậu môn thấm máu.
Có thể nhìn thấy máu tươi đang chảy ra từ hậu môn, hoặc thấy mạch máu đang
chảy từ vết mổ trong trường hợp máu chảy vết mổ ngay bên ngoài.
Thăm hậu môn trực tràng: Có máu tươi theo găng, có thể thấy máu cục.
Xử trí
Điều trị nội khoa: Đối với trường hợp nhẹ.
Truyền dịch.
Dùng thuốc cầm máu.
Chèn mèche, băng hậu môn.
Phẫu thuật cầm máu: Đối với trường hợp nặng, tiên lượng không cầm được máu
nếu điều trị nội khoa.
Làm sạch máu trong lòng trực tràng.
Kiểm tra tìm điểm chảy máu.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×