Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH võ thị sáu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.72 KB, 19 trang )

Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mục tiêu giáo dục hiện nay là đào tạo con người phát triển toàn diện về đạo
đức, trí thức, sức khỏe, thẩm mỹ và hình thành, bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất năng
lực của công dân đáp ứng yêu cầu đổi mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là rất cần thiết
phù hợp với mục tiêu giáo dục, nhằm góp phần đào tạo con người mới với đầy đủ các
mặt “đức, trí, thể, mỹ” để học sinh được phát triển toàn diện. Cũng như Bác Hồ từng
nói: “Có tài mà không có đức là vô dụng - Có đức mà không có tài làm việc gì cũng
khó”. Chúng ta không chỉ phải dạy kiến thức cho học sinh mà quan trọng hơn hết là
dạy người, dạy cách làm người, những con người đáp ứng đầy đủ những tố chất hiện
đại, năng động, hoạt bát, thích nghi tốt, ứng phó nhanh trong mọi tình huống nhưng
không đánh mất đi phẩm chất, đạo đức, giá trị nhân văn tốt đẹp, bản sắc văn hóa của
con người Việt Nam.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học nhằm đạt mục tiêu trang bị những
kiến thức, giá trị, thái độ, kĩ năng phù hợp; tạo cơ hội thuận lợi cho trẻ sử dụng quyền,
bổn phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức.
Một trong những tiêu chí được nêu trong Chỉ thị số 40/2008/CT BGDĐT, ngày
22 tháng 7 năm 2008 về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
thiện học sinh tích cực” là rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Đây là một chủ
trương cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đạt
hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố. Đặc biệt đối với học sinh lớp Một là lớp học đầu tiên
của bậc Tiểu học. Các em vừa bước qua ngưỡng cửa của trường Mầm Non, vừa
chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Môi trường thay đổi, hoạt động
thay đổi và kéo theo nhiều sự thay đổi lớn trong các em. Phần lớn các em chưa biết
ứng xử với mọi người xung quanh, chưa biết tự tin trước đám đông, lúng túng khi gặp
tình huống nguy hiểm. Bởi vậy việc giáo dục cho trẻ các kĩ năng tự phục vụ, tự quản,
giao tiếp, hợp tác, tự học là rất cần thiết. Các kĩ năng đó ta gọi tắt là kỹ năng sống.
Thực tế cho thấy toàn khối lớp Một trường Tiểu học Võ Thị Sáu có trên 96% là


học sinh dân tộc thiểu số. Được Nhà nước, Đảng ủy, chính quyền địa phương, Phòng
Giáo dục - Đào tạo và nhà trường quan tâm tạo điều kiện thuận lợi trong việc huy động
các em đến trường để học tập. Đa số các em đã được học qua Mầm non, song do
phong tục tập quán, trình độ nhận thức của người dân chưa cao, ít quan tâm đến việc
giáo dục kỹ năng sống cho con em dẫn đến học sinh thiếu hụt hiểu biết về môi trường
xung quanh, ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Các em đến trường rụt rè, không biết
giao tiếp, chưa biết tự bảo vệ mình. Một số giáo viên chưa coi trọng việc giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh. Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh còn qua loa đại khái
mang tính chung chung. Với mong muốn làm rõ vị trí vai trò của giáo viên trong công
tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, thực trạng kỹ năng sống của học sinh lớp Một.
Trên cơ sở đó đề ra một vài giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh lớp Một dân tộc thiểu số ở Trường Tiểu học Võ Thị Sáu từ năm học 2016 –
2017, năm học 2017 – 2018. Đó là lí do tôi chọn đề tài “ Một vài giải pháp giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số ở trường Tiểu học Võ Thị
Sáu”.

GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

1


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đánh giá đúng thực trạng chất lượng kỹ năng sống của học sinh lớp
Một dân tộc thiểu số trường Tiểu học Võ Thị Sáu thời gian qua; rút ra ưu điểm, hạn
chế, nguyên nhân và nêu lên giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh trong thời gian tới. Giúp giáo viên nhận thức được vai trò và tầm
quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống, đưa ra giải pháp thực hiện nâng cao chất
lượng kỹ năng sống cho học sinh.

Giúp học sinh có khả năng ứng xử trước các tình huống xảy ra trong cuộc sống
như tự tin, tự phục vụ, mạnh giao tiếp và hợp tác, trung thực, có khả năng tự giải quyết
vấn đề, hiểu biết và chấp hành pháp luật,....
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
1. Các định nghĩa, khái niệm về kỹ năng sống
Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc
nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay công việc nào đó
phát sinh trong cuộc sống.
Kỹ năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả nhất, giúp giải quyết hoặc đáp
ứng các nhu cầu cụ thể trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của con người như khả
năng ứng xử phù hợp với người khác, xã hội, khả năng úng phó tích cực trước các tình
huống của cuộc sống. Kỹ năng sống bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể và tư duy
trong não bộ của con người như biến kiến thức thành thái độ, hành vi, thói quen tích
cực. Kỹ năng sống có thể hình thành một cách tự nhiên, thông qua giáo dục hoặc rèn
luyện của con người.
2. Quan niệm về kỹ năng sống
Cho đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Mỗi quan
niệm được diễn tả theo cách khác nhau:
Theo Tổ chức Văn hóa, Khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc(UNESCO),
kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào
cuộc sống hằng ngày.
Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), kỹ năng sống là những kĩ năng thiết thực mà
con người cần để có cuộc sống an toàn, khỏe mạnh. Đó là những kĩ năng mang tính
tâm lí xã hội và kĩ năng về giao tiếp được vận dụng trong những tình huống hằng ngày
để tương tác một cách hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn
đề, những tình huống của cuộc sống hằng ngày.
Tuy diễn đạt về kỹ năng sống khác nhau nhưng giống nhau ở nội dung cơ bản
đó là những cách thức ứng xử, xử lý các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống một cách
linh hoạt, mềm dẻo, có hiệu quả. Từ đó giúp con người xác lập được mối quan hệ tốt

đẹp với mọi người xung quanh, hoàn thiện nhân cách của mình.
Một cách khác, có thể tiếp cận khái niệm kỹ năng sống qua 4 trụ cột của giáo
dục: Học để biết, học để khẳng định bản thân; Học để chung sống, học để làm việc.
Kỹ năng sống có thể hiểu là kĩ năng làm việc, kĩ năng làm chủ bản thân, kĩ năng thích
ứng và hòa nhập với cuộc sống.
Như chúng ta đã biết: "Tiểu học là nền thì lớp Một là móng". Móng và nền có
GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

2


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

vững chắc thì công trình xây dựng (giáo dục) mới bền vững. Việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh được chú trọng hơn từ khi Chỉ thị số 40/2008/CT BGDĐT, ngày 22
tháng 7 năm 2008 về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
thiện học sinh tích cực” ra đời. Kế hoạch số 801/KH-BGDĐT ngày 04 tháng 11 năm
2016 về việc triển khai thực hiện phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em giai đoạn
2016 – 2020 của ngành giáo dục. Hơn nữa ngay từ đầu các năm học Phòng giáo dụcĐào tạo có hướng dẫn kế hoạch cụ thể về nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh. Kỹ năng sống là một bài học quan trọng, giúp học sinh tự tin bước vào cuộc sống
tương lai. Đặc biệt đối với trẻ tiểu học, khi bắt đầu đi học cũng là lúc trẻ bắt đầu tiếp
xúc với xã hội, rất cần hoàn thiện và phát triển các kỹ năng sống cho riêng mình.
Chính những kỹ năng sống các em tiếp nhận được những năm đầu tiên đi học sẽ theo
các em suốt cả cuộc sống sau này vì khi tham gia vào bất kỳ hoạt động nghề nghiệp
nào phục vụ cho cuộc sống đều đòi hỏi ta phải thỏa mãn những kĩ năng tương ứng.
Nếu ngay từ lớp Một, các em có được những kĩ năng tốt, cuộc sống sau này sẽ rộng
mở với các em hơn. Giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ biết làm chủ bản thân, có ý thức
kỷ luật, ứng xử thân thiện, hợp tác, tự phục vụ, tự bảo vệ bản thân, kĩ năng hoạt động
xã hội, phòng ngừa tai nạn giao thông, tai nạn thương tích, đuối nước, các tệ nạn xã
hội và biết cách ứng phó trước những tình huống khó khăn trong cuộc sống hàng ngày.

Rèn cách sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, đảm bảo mục tiêu giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh trong cộng đồng, mở ra cơ hội, hướng suy nghĩ tích cực, tự tin,
tự quyết định và lựa chọn những hành vi đúng đắn. Đây là việc làm hết sức quan trọng
ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số lại càng cần
thiết bởi hầu hết các em chưa có khả năng: Tự phục vụ, tự quản; Giao tiếp, hợp tác; Tự
học và giải quyết vấn đề; Chăm học, chăm làm, tích cực tham gia hoạt động xã hội; Tự
tin, tự chịu trách nhiệm; Trung thực, kỷ luật, đoàn kết; Yêu gia đình, bạn bè và những
người khác. Bên cạnh đó cần trang bị cho học sịnh các kĩ năng cần thiết cho cuộc sống
hiện nay như đề phòng hỏa hoạn, đuối nước, tự bảo vệ bản thân, phòng tránh bị xâm
hại, tai nạn giao thông, tai nạn thương tích,...
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1. Thuận lợi
Đảng ủy, chính quyền địa phương thuộc xã Ea Bông và Phòng Giáo dục- Đào
tạo là đơn vị thường xuyên thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến công tác giáo dục trong
nhà trường. Các cơ quan ban ngành đoàn thể tại địa phương cũng đã thể hiện sự quan
tâm đến chất lượng giáo dục và đặc biệt là việc huy động học sinh đúng 6 tuổi ra lớp.
Các em học sinh có cùng một độ tuổi, ham hiểu biết, ham học hỏi, tò mò và thích sáng
tạo, thích tự khẳng định mình. Đa số phụ huynh học sinh đều sử dụng điện thoại di
động nên giáo viên chủ nhiệm có thể liên lạc trao đổi bất cứ lúc nào.
2. Khó khăn
Trường tiểu học Võ Thị Sáu là một trường thuộc vùng khó khăn có ba phân
hiệu cách xa nhau từ 2 km đến 5 km. Số học sinh dân tộc thiểu số chiếm trên 97%.
Trình độ dân trí còn thấp, cuộc sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ
giáo viên trong tổ chưa đồng đều, số giáo viên người dân tộc thiểu số chiếm 33,3%,
kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế. Chất lượng giáo dục hàng năm còn thấp, tỉ lệ học
sinh có kỹ năng sống chưa cao.
GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

3



Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

Năm học 2016 – 2017, khối lớp 1 có 137 em chia thành 5 lớp, trong đó học sinh
dân tộc thiểu số chiếm 95,6%, năm học 2017 – 2018 cũng có 5 lớp với tổng số 110
em, số học sinh dân tộc thiểu số chiếm 96,4%. Toàn khối có 02 em mẹ là công chức,
còn lại là con nhà nông. Bố mẹ không có nghề ổn định, mải lo việc mưu sinh ít quan
tâm đến việc giáo dục con em. Phần lớn trẻ chưa được gia đình bồi dưỡng vốn kinh
nghiệm giao tiếp nên các em rất nhút nhát. Mặc dù đã được học qua lớp Mầm non 5
tuổi song trong thực tế các em còn gặp rất nhiều khó khăn trong giao tiếp, thiếu tự tin,
chưa có kĩ năng tự quản, tự bảo vệ bản thân, vẫn còn xảy ra tình trạng đuối nước vì lí
do một số em hay nghỉ học đến ngày nghiệm thu bàn giao lớp mới đến trường. Các em
lại không có cơ hội giao tiếp bằng tiếng phổ thông, không được thực hành trong suốt
thời gian nghỉ hè. Số học sinh không chịu vào lớp khi mẹ đưa đến lớp còn nhiều. Cô
hỏi chỉ gật và lắc đầu hoặc “ơ”, “hở”. Nhiều em còn chưa biết nói lời thưa gửi thể hiện
lễ phép. Gọi lên bảng không chịu lên, không dám giơ tay phát biểu xây dựng bài. Cuộc
sống của làng xóm và gia đình còn ảnh hưởng nhiều đến việc hình thành kĩ năng của
trẻ. Khả năng ghi nhớ còn hạn chế, các em chưa biết cách ứng xử đơn giản nhất với cô
giáo và bạn. Nhiều em chưa nói được cụ thể họ tên mình, họ tên bố mẹ, chưa phân biệt
được anh em trong nhà với anh em họ. Do không được quan tâm chu đáo và giáo dục
tận tình nên trong con mắt ngây thơ của các em đâu đâu cũng yên bình, trong khi cuộc
sống hiện đại xô bồ với vô vàn nguy hiểm luôn rình rập các em ở mọi lúc, mọi nơi.
Trong chương trình, lượng kiến thức mà các em phải học tập và hoàn thành trên
lớp khá nhiều nên không còn nhiều thời gian cho giáo dục kỹ năng sống. Các em chưa
có nhiều điều kiện để giao tiếp với mọi người nên chưa thật sự tự tin, mạnh dạn bộc lộ
bản thân trước đám đông, trước bạn bè và thầy cô giáo cũng như ngoài xã hội. Cũng
chính từ đó, các em chưa đủ khả năng vượt qua các tình huống rủi ro trong cuộc sống.
Thực tế trong giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi thấy việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh còn khá nhiều bỡ ngỡ về nội dung giáo dục, phạm vi giáo dục mà

chỉ hiểu đến đâu làm đến đấy, kế hoạch chưa cụ thể, rõ ràng nên chưa có được sự phối
hợp nhiệt tình của cha mẹ học sinh. Công tác kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế
hoạch còn mang tính chất chung chung, biện pháp động viên, khen thưởng chưa kịp
thời. 95% học sinh khi vào lớp Một rất rụt rè, chưa biết giao tiếp, ứng xử, chưa có các
kĩ năng thích nghi, hợp tác, chưa biết ứng phó, tự bảo vệ mình khi có tình huống xảy
ra. Nguyên nhân trực tiếp khiến học sinh gặp khó khăn trong xử lí với tình huống thực
của cuộc sống là do sự giáo dục của gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội
hiện nay. Giáo viên và người lớn chưa thật coi trọng việc giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ. Việc rèn kỹ năng sống qua các môn học, tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui
chơi còn chưa được chú trọng. Công tác tuyên truyền cho các bậc cha mẹ thực hiện
giáo dục kỹ năng sống cho các em chưa nhiều. Trước những khó khăn và tính cấp thiết
đó tôi luôn trăn trở làm thế nào giúp các em có được các kĩ năng cơ bản để vận dụng
trong cuộc sống. Kết quả khảo sát đầu các năm học như sau:.
Năm học

TS HS

Kĩ năng Kĩ năng giao tiếp, tự nhận thức, bảo vệ bản thân
Biết nói năng lễ Bạo dạn trong giao Ngại giao tiếp, trầm Tự nhận thức, bảo vệ
phép
tiếp
lặng, nhút nhát
bản thân
SL

%

SL

%


SL

%

SL

%

2016 - 2017

137

79

59,8

52

37,9

85

62,0

62

42,3

2017 - 2018


110

70

63,6

40

36,4

70

63,6

65

59,1

GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

4


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

Năm học

TSHS


Kĩ năng hợp tác, tự quản, tự học
kĩ năng tốt

có kĩ năng

chưa có kĩ năng

SL

%

SL

%

SL

%

2016 - 2017

137

5

3,6

53

38,7


79

57,7

2017 - 2018

110

4

3,6

38

34,6

68

61,8

Kĩ năng tham gia giao thông, phòng chống tai nạn thương tích
Năm học

TSHS

kĩ năng tốt

có kĩ năng


chưa có kĩ năng

SL

%

SL

%

SL

%

2016 - 2017

137

6

4,3

76

55,5

55

40,2


2017 - 2018

110

5

4,5

59

53,7

46

41,8

Từ tình hình thực tế trên cho thấy tỉ lệ học sinh phát triển toàn diện là rất ít. Đa
số các em còn thiếu các kĩ năng cơ bản trong cuộc sống hằng ngày như kĩ năng tự
nhận thức, rụt rè khi giao tiếp, ứng xử chưa có văn hóa. Tôi thiết nghĩ nếu trẻ có khả
năng giao tiếp tốt sẽ tạo điều kiện cho các em học tốt môn học cũng như tham gia các
hoạt động do trường, đội tổ chức. Chính vì thế tôi đã đưa ra các giải pháp cụ thể như
xác định nội dung và phạm vi giáo dục kĩ năng sống. Tìm hiểu tình hình thực tế. Qua
đó xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học. Rèn kĩ năng.
Phối hợp giữa nhà trường- gia đinh và xã hội. Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá
thi đua khen thưởng.
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Thứ nhất: Xác định nội dung và phạm vi giáo dục kĩ năng sống
Để nâng dần kỹ năng sống cho học sinh, ngoài việc phải cần sự hết sức nỗ lực
của thầy và trò, còn rất cần có sự lãnh đạo của Ban giám hiệu nhà trường và chính
quyền địa phương, chủ trương xã hội hoá giáo dục trong việc xây dựng và phát triển là

yếu tố vô cùng quan trọng. Nó vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt vừa mang tính chiến
lược lâu dài trong sự phát triển bền vững. Điều 12 luật Giáo dục năm 2005 đã qui định
rõ về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục: “.... Mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách
nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo
dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn”. Xuất phát từ các nguyên
nhân trên, hàng năm, trong quá trình giảng dạy, việc đầu tiên mà tôi làm đó là xác định
rõ những nội dung kỹ năng sống (những bài học) cần giáo dục cho học sinh và phạm
vi giáo dục, cụ thể như sau: Rèn thói quen tốt trong học tập chú ý nghe giảng, sắp xếp
sách vở gọn gàng, giáo dục ở tất cả các môn học. Biết chuẩn bị đồ dùng học tập, kiểm
tra, nhắc nhở khi bắt đầu mỗi tiết học, mỗi môn học. Biết cách sắp xếp, có thói quen
giữ gìn sách vở, dụng cụ học tập và bàn ghế ngăn nắp, gọn gàng hướng dẫn ngay từ
những buổi học đầu tiên vào lớp 1 và thường xuyên nhắc nhở. Có tư thế ngồi học đúng
cho học sinh đọc đồng thanh tư thế ngồi viết trước khi viết bài và uốn nắn thường
xuyên. Rèn thói quen vệ sinh hằng ngày, biết được các thói quen tốt, không tốt để giữ
vệ sinh hằng ngày giáo dục vào các tiết lao động vệ sinh đầu buổi học, kiểm tra, nhắc
nhở vào các tiết sinh hoạt tập thể cuối tuần. Rèn thói quen tự tin, mạnh dạn, hợp tác
khi giao tiếp rèn luyện trong các tiết học như Đạo đức, Tự nhiên xã hội. Tự tin khi nói
chuyện với thầy cô giáo, bạn bè và người thân rèn luyện khi đến trường, trong các tiết
học Tiếng Việt và khi gặp gỡ mọi người. Biết cách tự bày tỏ mong muốn của của mình
GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

5


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

cho người khác hiểu rèn ngay từ những ngày đầu vào lớp 1. Có ý thức tập trung để học
tốt như biết tự rèn và thực hành kĩ năng tập trung học tập tốt rèn trong tất cả các tiết
học. Hiểu được sự cần thiết và biết cách đặt câu hỏi rèn trong tất cả các tiết học.Hiểu
được sự cần thiết và có thói quen đi học chuyên cần giáo dục ngay từ những ngày đầu

vào lớp 1 và thường xuyên nhắc nhở vào tiết sinh hoạt tập thể. Tự tin, hòa nhập với
môi trường mới, với bạn bè, thầy cô hướng dẫn động viên ngay từ những buổi tựu
trường đầu tiên. Hiểu được hiệu quả và rèn luyện thói quen phát biểu xây dựng bài
động viên, khuyến khích trong tất cả các tiết học. Hiểu được ý nghĩa và tự giác trả lại
của rơi cho người đánh rơi rèn luyện thường xuyên, hằng ngày trong lớp học và đặc
biệt là trong giờ chơi. Hiểu được ích lợi và có thói quen đi học đúng giờ thông báo giờ
vào học, tan trường ngay từ những buổi tựu trường đầu tiên, thường xuyên nhắc nhở,
giúp đỡ trong suốt năm học. Hiểu được ích lợi của người bạn tốt và biết ứng xử tốt với
bạn bè, chia nhóm học tập trong tất cả các môn học. Giáo dục lòng yêu trường lớp, kể
được những điều em thích ở trường lớp như trang trí lớp học đẹp mắt, thân thiện, có
tên trường và những nội dung liên quan đến trường, thể hiện hành động yêu quý
trường lớp hướng dẫn và nhắc nhở trong suốt năm học.
Ngoài các nội dung đã nêu ở trên, hằng năm, tùy vào tình hình thực tế ở địa
phương, tôi còn lồng ghép một số kĩ năng phòng đuối nước, hỏa hoạn, biết tự bảo vệ
mình và thực hiện an toàn giao thông cho học sinh ở mọi lúc, mọi nơi. Bởi vì theo tôi,
học sinh lớp Một còn quá nhỏ dại và phụ thuộc nhiều vào bố mẹ, thầy cô như đến
trường hay tan học các em cần có người đưa đón. Nhưng bên cạnh đó đa số phụ huynh
đều làm nông nghiệp, điều kiện kinh tế còn khó khăn, thiếu thốn nên có những hôm
không thể đưa đón con. Ngoài ra còn phải kể đến một số ít phụ huynh có điều kiện đã
trang bị cho con những vật dụng, trang sức đắt tiền thu hút sự chú ý của kẻ xấu. Chưa
kể đến an toàn giao thông hay các tệ nạn xã hội khác luôn rình rập, đe dọa các em mỗi
ngày. Những nội dung này có thể nói là tôi luôn nhắc nhở hằng ngày, hằng giờ.
Thứ hai: Tìm hiểu tình hình thực tế
Sau khi nhận lớp, việc đầu tiên cần làm của giáo viên là ổn định lớp, tìm hiểu
tâm lí học sinh ở lứa tuổi vào lớp Một. Đây là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi trường
học tập thay đổi một cách cơ bản: trẻ phải tập trung chú ý trong thời gian liên tục từ 30
– 35 phút. Nhu cầu nhận thức chuyển từ hiếu kì, tò mò sang tính hiểu biết, hứng thú
khám phá. Trẻ bắt đầu kiềm chế dần tính hiếu động, bột phát để chuyển thành tính kỷ
luật, nề nếp, chấp hành nội quy học tập. Tính nhạy và sức bền vững, tính khéo léo các
thao tác của đôi bàn tay để tập viết được phát triển nhanh. Tất cả những điều đó đều là

thử thách đối với trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt những thử thách đó thì giáo viên phải
tạo sự gần gũi với học sinh ngay từ buổi đầu nhận lớp. Giáo viên động viên khuyến
khích các em chia sẻ, hòa đồng với nhau thì ngay chính giáo viên phải coi các em như
những người bạn, thường xuyên tiếp xúc, chủ động trò chuyện để các em có thể cởi
mở, bớt nhút nhát, dễ nói chuyện với cô. Khi thấy các em xưng hô “mày – tao”, giáo
viên phải nhắc nhở chỉnh sửa cách xưng hô cho phù hợp bằng “mình – bạn”, giải quyết
công bằng những mâu thuẫn xảy ra giữa các em học sinh trong lớp. Thường xuyên
nhắc nhở các em giơ tay khi phát biểu, không chen ngang khi giáo viên nói, khi nói
phải “thưa cô”, không đùa giỡn trong lớp, không tự ý ra khỏi chỗ, không quay ngang
quay dọc. Giáo viên đưa ra những kí hiệu chung cho cả lớp thực hiện thay vì lời nói để
tạo thói quen cho các em:
+ Học sinh lấy bảng con “Gõ vào góc bảng 1 cái”
GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

6


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

+ Ngồi khoanh tay“ gõ vào chữ o”
+ Lớp ồn ghi dấu “ –” ở góc bảng
+ Lớp học tốt ghi dấu “+” ở góc bảng
Gia đình là nơi các em sinh sống hằng ngày. Vì vậy, thông qua cha mẹ học sinh
giáo viên tìm hiểu để nắm bắt xem ở nhà các em thường có thói quen gì, cách ứng xử
như thế nào, đã biết tự bảo vệ bản thân hay chưa, đã khi nào các em có hành vi chưa
tốt không. Qua đó, giáo viên nắm bắt và phân loại từng nhóm đối tượng học sinh.
Thứ ba. Giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học
Việc hình thành kỹ năng sống cho học sinh không phải ngày một ngày hai, cũng
không phải tự nhiên sinh ra là có mà phải trải qua thời gian rèn dũa. Khi vào lớp Một,
chúng ta không chỉ dạy cho các em học chữ mà còn dạy các kĩ năng cơ bản trong cuộc

sống như tự tin, tự chịu trách nhiệm, tự ra quyết định, phòng chống tai nạn thương
tích,... Thực hiện Công văn số 159/ PGDĐT – GDTH V/v Hướng dẫn thực hiện kế
hoạch giáo dục kỹ năng sống cho HS tiểu học. Ngay từ đầu năm học, chúng tôi họp tổ
xây dựng kế hoạch dạy lồng ghép giáo dục kỹ năng sống trong mỗi môn học. Làm sao
giáo viên phải giúp các em hiểu thế nào là kỹ năng, kỹ năng sống và tại sao phải giáo
dục kỹ năng sống, tác hại của việc chưa có kỹ năng sống. Từ đó các em nhận biết vai
trò của việc học tập kỹ năng sống.
Chúng ta đều biết, ngôn ngữ là công cụ của tư duy và giao tiếp. Việc giáo dục;
lời nói giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng:
“ Học ăn, học nói, học gói, học mở ”
“ Lời nói không mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”
Để đánh giá một con người chúng ta cần phải có sự thử thách qua giao tiếp
hàng ngày với họ: “Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”. Mặt khác việc giao
tiếp, ứng xử khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều lĩnh vực; “Khéo bán,
khéo mua cũng thua người khéo nói”. Với trẻ em, lứa tuổi đang hình thành nhân cách,
ngay từ khi các em còn rất nhỏ, chúng ta đã rất chú trọng: “Trẻ lên ba, cả nhà học nói”.
Bởi vậy ngành giáo dục đào tạo nói chung và ngành giáo dục tiểu học nói riêng đã
được xã hội trao cho trọng trách đáng tự hào là giáo dục trẻ em ngay từ những ngày
đầu bước chân tới trường. Từ bao đời nay, việc giáo dục ở nhà trường đã áp dụng
phương châm “Tiên học lễ, hậu học văn”. Dạy tiếng Việt không có nghĩa là chỉ dạy các
em kỹ năng đọc, viết, nghe, nói mà dạy các em biết sử dụng những lời nói biểu cảm
trong giao tiếp là một mảng vô cùng quan trọng. Một người đọc thông, viết thạo tất cả
các loại văn bản, song khi giao tiếp lại để lại ấn tượng xấu, không gây được mối thiện
cảm đối với mỗi người thì con người đó có khả năng sống và làm việc có hiệu quả
không. Ở môn Tiếng Việt, tất cả các bài tập đọc đều có phần luyện nói theo chủ đề
như: Bé và bạn bè; Mai sau khôn lớn; Vâng lời cha mẹ; Giúp đỡ cha mẹ; Nghề nghiệp
của cha mẹ; Những người bạn tốt; Sức khỏe là vốn quý nhất. Các tình huống giao tiếp
cụ thể được lồng ghép trong quá trình dạy học, tôi chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói
một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Tôi thường xuyên tổ chức cho trẻ

luyện nói theo nhóm nhằm mục đích giúp tất cả các em có thể giao tiếp trực tiếp với
nhau. Khuyến khích các em còn nhút nhát nói nhiều hơn, bước đầu là nói một, hai câu

GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

7


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

ngắn sau đó dần dần các em nói nhiều câu hơn. Sau thời gian quen dần, tôi định hướng
cho các em cách hỏi lẫn nhau để kiểm tra thông tin cũng như khích lệ bạn.
Ví dụ: Khi dạy luyện nói chủ đề: Bé tự giới thiệu bài 41: iêu, yêu, sách giáo
khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 1 trang 85, tôi đưa ra nội dung: Em hãy làm quen với bạn
bằng cách tự giới thiệu. Mở đầu cô giáo tự giới thiệu mình với lớp, sau đó tổ chức cho
các em đứng thành vòng tròn tự giới thiệu về tên và sở thích của mình. Lúc đầu các em
rất ái ngại không tự tin khi nói về mình nhưng tôi nhắc nhở những điều cần chú ý
trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi trường hòa đồng, thân thiện các em đã thực
hiện rất tốt, không còn những cái nhìn ái ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin
cùng câu nói ngắn gọn “Mình tên là .., mình học ở…, mình thích và không thích điều
gì, mình rất vui khi được làm quen với bạn”. Trong bài 48: in, un trang 99, các em biết
đi học muộn làm ảnh hưởng đến các bạn, cô giáo và chính bản thân mình, từ đó nhận
lỗi và nói lời xin lỗi. Với chủ đề luyện nói Giúp đỡ cha mẹ bài 88: ip, up trang 13. Các
em thực hành hỏi đáp về những việc mình đã giúp đỡ cha mẹ. Qua chủ đề luyện nói
không những tạo cơ hội cho các em mạnh dạn giao tiếp trước tập thể mà còn yêu lao
động, tự giác, chăm làm với những câu nói rõ ràng như: Tôi giúp mẹ quét nhà. Tôi
thấy vui vì đã làm cho mẹ đỡ vất vả. Từ đó có thói quen tham gia lao động không lười
nhác. Hay chủ đề luyện nói Nghề nghiệp của cha mẹ bài 89: iêp, ươp. Các em hiểu
được giá trị của nghề nghiệp, trân trọng nghề mà cha mẹ mình đang làm, nói lên việc
cần làm để ước mơ của mình trở thành sự thật.

Trong khi dạy Tập đọc hoạt động nói câu có tiếng chứa vần đã học cũng có tác
dụng rất lớn. Dù đó không phải là giao tiếp trong tình huống cụ thể và mỗi em chỉ nói
một câu nhưng nó giữ vai trò rèn luyện cho học sinh nói đủ câu, diễn đạt tường minh
và dẫn đến nói câu hay. Khi đó, chúng ta có thể kịp thời điều chỉnh ngay những lỗi đặt
câu của các em. Rõ ràng qua các hình thức tổ chức như trên các em thường tỏ ra rất
hào hứng được nói cho bạn mình nghe và nói to, rõ ràng, mạch lạc.
Dạy đạo đức là dạy học sinh những hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn mực
đạo đức xã hội và quyền trẻ em trong các tình huống đơn giản cụ thể của cuộc sống
hằng ngày. Nội dung của môn học đạo đức kết hợp giữa giáo dục quyền với giáo dục
trách nhiệm bổn phận của học sinh. Hơn nữa môn đạo đức không chỉ giáo dục bổn
phận, trách nhiệm của học sinh đối với gia đình, nhà trường, xã hội và môi trường tự
nhiên, mà còn giáo dục trách nhiệm của các em đối với chính bản thân mình. Việc bồi
dưỡng hình thành cho các em những phẩm chất đạo đức không phải là một bài mẫu có
sẵn, áp đặt, khuôn mẫu để học sinh thực hiện theo. Mà nhiệm vụ của môn học đạo đức
lớp Một là giúp các em nắm được những điều sơ đẳng của phép ứng xử, chuẩn mực
hành vi đạo đức trong cuộc sống hằng ngày. Qua mỗi bài dạy các em nắm được nội
dung và ý nghĩa của chuẩn mực hành vi đạo đức trong các hoạt động. Dạy học đạo đức
phải là quá trình giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động, phát huy vốn kinh
nghiệm, thói quen đạo đức, tự khám phá và xác định các kỹ năng sống cần rèn luyện.
Ví dụ bài 1. Em là học sinh lớp Một, vở bài tập đạo đức lớp 1 trang 2, học sinh
biết quyền được đi học của mình, rèn kĩ năng tự giới thiệu họ tên, kĩ năng giao tiếp
trong cuộc sống. Cụ thể khi tổ chức trò chơi: Vòng tròn giới thiệu, giáo viên chia mỗi
nhóm 5 em, phổ biến cách chơi, cho học sinh thực hiện. Với trò chơi này các em đã tự
tin mạnh dạn trước tập thể, biết lắng nghe, có ý thức kỉ luật và nói mạch lạc như: Mình
tên là Y Ra Him Niê, nhà mình ở buôn Dham, năm nay mình 6 tuổi. Còn mình tên là
H’ Trăm Niê, mình cùng tuổi với các bạn, nhà mình ở buôn Dham, mình rất vui khi
được làm quen với các bạn. Bài 2. Gọn gàng sạch sẽ, rèn kĩ năng biết ăn mặc gọn
GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

8



Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

gàng sạch sẽ, biết giữ vệ sinh cá nhân đầu tóc quần áo gọn gàng trong mọi lúc mọi nơi.
Giáo viên quy định cách xếp đồ dùng sách vở trong ngăn bàn, chỗ treo cặp rõ ràng, cụ
thể, vị trí treo mũ. Giáo viên phân công các tổ trưởng theo dõi kiểm tra, cuối mỗi giờ
học nhận xét tuyên dương những em đã thực hiện tốt. Giáo viên giúp đỡ động viên
những em còn lúng túng chưa thật gọn gàng. Dần dần hành vi trở thành thói quen gọn
gàng đối với các em. Khi dạy bài Gia đình em, thông qua tiểu phẩm Chuyện của bạn
Long, học sinh biết nhận xét về việc làm của bạn Long, dự đoán việc sẽ xảy ra với bạn
Long để từ đó liên hệ với bản thân và ra quyết định cho việc làm của mình. Đến hoạt
động 2, các em nói lên được sự quan tâm của bố mẹ với mình, từ đó phải làm gì để đáp
lại tình cảm của cha mẹ, qua đây rèn kĩ năng ứng xử. Bài 11. Đi bộ đúng quy định, sau
khi quan sát tranh, trao đổi thảo luận các em nêu được quy định đối với người đi bộ ở
đường nông thôn, đường phố và hậu quả của việc đi bộ không đúng quy định. Từ đó
phân biệt được những hành vi đi bộ đúng quy định và sai quy định. Liên hệ bản thân
và nhắc nhở bạn mình đi bộ đúng quy định phù hợp với điều kiện giao thông địa
phương. Ở bài này rèn kĩ năng an toàn khi đi bộ, kĩ năng phê phán đánh giá hành vi đi
bộ không đúng quy định. Khi dạy bài Chào hỏi và tạm biệt tuần 28, 29, rèn kĩ năng
giao tiếp, ứng xử với mọi người, biết chào hỏi khi gặp gỡ và tạm biệt khi chia tay. Cụ
thể biết chào cô khi đến lớp, khi ra về biết chào tạm biệt. Qua các giờ học giáo viên
chú ý nhắc nhở các em thực hành hành vi đã học. Ví dụ trong các giờ học, học sinh
chưa có cử chỉ thể hiện đúng hành vi đạo đức như: Đưa sách vở cho cô đưa bằng một
tay không biết nói lời ''thưa'', ''gửi''. Giáo viên sửa lại hành vi đúng cho các em thể hiện
lễ phép với thầy cô giáo và người lớn: Em đưa lại bằng hai tay và nói thưa cô em nộp
bài ạ.
Bên cạnh các môn học Toán, Tiếng Việt, Đạo đức, môn Tự nhiên và Xã hội
cung cấp cho trẻ những kiến thức cơ bản ban đầu về các sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và các mối quan hệ của con người xảy ra xung quanh, trang bị cho các

em những kiến thức cơ bản của bậc học góp phần bồi dưỡng nhân cách toàn diện cho
trẻ. Vậy làm thế nào để trẻ có các kĩ năng cơ bản vận dụng trong cuộc sống hằng ngày.
Đây chính là kết quả của quá trình giáo dục. Chính vì thế trong các bài học, giáo viên
lựa chọn tổ chức cho các em thực hành ngay, thông qua việc thực hành giúp các em
bước đầu có kĩ năng. Ví dụ với bài 5: Vệ sinh thân thể, sách giáo khoa Tự nhiên và Xã
hội lớp 1 trang 14, giáo viên cho các em quan sát tranh trao đổi với nhau về nội dung
trong tranh để nắm được các việc nên và không nên làm để giữ vệ sinh thân thể. Biết
vì sao phải tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ và không nên tắm chung với trâu bò, những
việc cần làm để giữ chân, tay sạch sẽ như cắt móng tay, rửa chân, rửa tay bằng nước
sạch. Sau đó cho các em liên hệ việc đã làm để giữ vệ sinh thân thể rồi thực hành. Qua
bài học rèn kĩ năng tự phục vụ bản thân. Hay khi dạy bài 8: Ăn uống hằng ngày, trang
18, giáo viên cho học sinh quan sát tranh thảo luận nêu lên các loại thức ăn cần thiết
cho các bữa ăn trong ngày, vì sao phải ăn đủ các loại thức ăn đó, sau đó kể về bữa ăn
của gia đình mình. Cuối cùng tổ chức trò chơi “đi chợ”. Mỗi đội cử một bạn đi chợ,
nhiệm vụ của bạn là mua đầy đủ các loại thức ăn đảm bảo các chất đạm, chất béo, vi ta
min, khoáng,… theo quy định. Sau khi đi chợ, các em phải nói được vì sao trong một
bữa ăn cần đảm bảo các chất dinh dưỡng. Từ đó các em biết được vì sao cần ăn uống
đầy đủ hằng ngày để mau lớn, khỏe mạnh, biết ăn nhiều loại thức ăn và uống đủ nước.
Ở bài này rèn kĩ năng làm chủ bản thân, phát triển kĩ năng tư duy. Đối với bài 9: Hoạt
động và nghỉ ngơi, các em nắm được tác dụng của một số hoạt động nghỉ ngơi đúng
cách có lợi cho sức khỏe từ đó biết sắp xếp thời gian biểu để học tập và vui chơi cho
phù hợp. Ở hoạt động 1, giáo viên cho học sinh kể về hoạt động mà mình đã làm hoặc
GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

9


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

chơi cùng với bạn, thông qua đó giáo dục kĩ năng tìm kiếm và xử lí. Sang hoạt động 3,

các em được đóng vai về các hoạt động làm việc, nghỉ ngơi, đứng ngồi đúng tư thế.
Thông qua trò chơi đóng vai giáo dục kĩ năng quan sát phân tích, kĩ năng tự nhận thức,
phát triển kĩ năng giao tiếp cho các em. Ở bài 10: Ôn tập con người và sức khỏe, để
khắc sâu kiến thức cơ bản về các bộ phận bên ngoài và các giác quan của cơ thể, giáo
viên chia lớp thành ba đội, phổ biến luật chơi, quy đinh thời gian, tiến hành cho các em
chơi trò chơi “Ai gọi tên các bộ phận bên ngoài cơ thể nhanh nhất?”, hết thời gian, đội
nào nói được đầy đủ tên các bộ phận bên ngoài của cơ thể trước thì đội đó thắng cuộc.
Thông qua trò chơi rèn cho các em kĩ năng hợp tác, mạnh dạn trước tập thể. Từ đó có
ý thức tự giác thực hiện nếp sống hợp vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho sức
khỏe và nêu được việc thường làm vào các buổi trong ngày để giữ vệ sinh thân thể
hằng ngày. Việc giúp các em có kĩ năng xử lí những tình huống khi có tai nạn thương
tích cũng rất quan trọng. Bởi khi ở nhà có những lúc các em sử dụng dao để gọt quả
hoặc đến gần bếp lửa không may bị đứt tay, bị bỏng. Qua bài 14: An toàn khi ở nhà,
trong hoạt động 1, tôi cho các em thảo luận nhóm giúp các em có kĩ năng ra quyết định
nên hay không nên làm gì để phòng tránh đứt tay chân, bỏng, điện giật, kĩ năng tự bảo
vệ, ứng phó với các tình huống khi ở nhà, phát triển kĩ năng giao tiếp thông qua tham
gia các hoạt động học tập. Hoạt động 2, các em được đóng vai xử lí tình huống khi có
tai nạn như: Cầm dao nhọn cắt quả bị chảy máu, trông em giúp mẹ nhưng em đến gần
bếp lửa. Các nhóm sẽ thảo luận sau đó lên thể hiện, những em còn lại quan sát và có
nhận xét đối với những tình huống mà các bạn mình vừa xử lí để rút ra kĩ năng cấp
cứu khi có những trường hợp xấu xảy ra.
Nói tóm lại ngoài việc rèn luyện đạo đức, học tập tốt thì rèn luyện sức khỏe tốt
cho học sinh là điều phải được chú ý, giáo dục kĩ năng sống chỉ thành công khi các em
có ý thức, thái độ với mọi người trong gia đình; hòa đồng với bạn bè; tự tin khi nói
chuyện, nhạy bén khi xử lí tình huống, dám đương đầu với thử thách vượt qua khó
khăn để đạt được mục tiêu và chịu trách nhiệm về việc làm của bản thân. Hiệu quả của
việc giáo dục kỹ năng sống không thể nhìn thấy ngay lập tức và quá trình giáo dục rèn
kỹ năng sống là một quá trình suốt đời. Mức độ nhận thức của học sinh lớp 1 vốn rất
đơn giản, chưa bền vững và rất dễ thay đổi. Bởi vậy nên ta hãy bắt đầu từ cái nhìn
thấy, nghe thấy, từ ví dụ cụ thể, gần gũi với cuộc sống, sau đó nâng lên tầm “lý thuyết

chung” để “khái quát” và “kết luận”.
Thứ tư: Rèn kĩ năng
Trong giờ học, cần rèn cho các em những kĩ năng như có tư thế ngồi học đúng,
chú ý nghe giảng, vệ sinh hằng ngày ngay từ những việc làm nhỏ nhất, trong phạm vi
nhỏ nhất như gia đình, lớp học. Sau mỗi bài học, môn học, giáo viên cho các em liên
hệ thực tế bằng những câu hỏi Em đã làm gì? Sẽ làm gì? và đưa ra các tình huống cụ
thể để học sinh mình trải nghiệm. Các em thích tham gia vào một số hoạt động xã hội
mang tính tập thể (đôi khi tham gia tích cực hơn cả trong gia đình). Đặc biệt là các em
muốn thừa nhận mình là người lớn, muốn được nhiều người biết đến mình. Hãy cho
các em cơ hội làm người lớn, được đóng vai “thầy giáo”, “cha mẹ”. Hãy cho các em
những trọng trách lớn: làm lớp trưởng, tổ trưởng, nhóm trưởng, đội trưởng để các em
được khẳng định bản thân. Kỹ năng sống sẽ hình thành một cách tự nhiên và hiệu quả
trong những môi trường hoạt động cụ thể chứ không từ những bài giảng trên lớp. Chỉ
từ những bài giảng, các em không thể tự hình thành kỹ năng sống cho mình mà chỉ có
thể hình dung chung về nó. Vì vậy, khi cho các em được sắm vai để trải nghiệm đó là
GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

10


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

cách giáo dục tốt nhất. Từ làm đến hiểu, hãy cho học sinh được chơi, được tham gia,
rồi các em sẽ hiểu. Cái hiểu như thế sâu sắc và nhớ lâu hơn.
Ví dụ: Mỗi lần thảo luận nhóm, tôi lại cho các em bầu nhóm trưởng, các em
thay nhau tập điều khiển nhóm mình hoạt động, có như vậy mới tạo cơ hội để các em
mạnh dạn tự tin.
Vào giờ chơi, tôi tổ chức cho các em đọc những mẩu truyện tranh về giáo dục
kỹ năng sống. Lúc đó thấy các em rất hào hứng. Khi các em xếp hàng ra về, không bao
giờ tôi quên dặn các em đi đúng phần đường của mình hoặc nhớ đội mũ bảo hiểm khi

ngồi trên xe máy, và nhớ kể cô nghe những hoạt động con làm ở nhà vào sáng hôm
sau. Học sinh lớp một mà, các em sẽ kể hết những gì xảy ra ở gia đình và chúng ta
phải biết rằng khi trẻ kể mọi chuyện với mình là chúng đã đặt niềm tin tuyệt đối vào
ta. Khi đó công tác giáo dục sẽ thuận lợi hơn nhiều.
Với học sinh lớp Một, chẳng gì bằng những thứ mà hằng ngày các em nhìn
thấy, nghe thấy sẽ có hiệu quả hơn là những lời nói xáo rỗng. Bằng hình ảnh, các em
sẽ dễ dàng hình dung ra những việc mình nên làm và không nên làm. Bởi vì thế, ngay
những buổi tựu trường đầu năm học, hay những tiết sinh hoạt lớp các em lại cùng cô
giáo trang trí lớp học của mình. Đặc biệt học sinh lớp Một có một điểm chung là ưa
hoạt động, thích làm việc nhưng lại mau chán. Tôi luôn cùng các em quét lớp, nhặt
rác, nhổ cỏ, rửa tay, chỉ các em cách đi vệ sinh và giữ gìn vệ sinh. Khi có giáo viên
cùng làm, các em làm việc nghiêm túc hơn, tự giác hơn và rất có hiệu quả. Bởi thế
trước mắt các em, tôi luôn là người chị, người mẹ hơn là một cô giáo. Tôi luôn lắng
nghe những tâm tư tình cảm của các em để từ đó có hướng giáo dục tốt nhất. Người ta
thường nói: “Gieo suy nghĩ gặt hành động. Gieo hành động gặt thói quen. Gieo thói
quen gặt tính cách. Gieo tính cách gặt số phận”. Vào những tiết sinh hoạt tập thể,
ngoài việc nhận xét, nhắc nhở các hoạt động học tập trong tuần, tôi luôn dành phần lớn
thời gian để các em sinh hoạt tập thể như: ca hát, đóng kịch, các trò chơi hay các cuộc
triển lãm nho nhỏ, kiểm tra vệ sinh cá nhân hay đồ dùng học tập. Qua đó rèn cho học
sinh các kĩ năng như vệ sinh cá nhân, kĩ năng giao tiếp,…
Có thể nói tất cả những cử chỉ, hành động của chúng ta trong con mắt trẻ thơ
luôn là khuôn mẫu. Vì thế người giáo viên phải luôn mẫu mực trong mọi cử chỉ, hành
động, lời nói, phải nghiêm minh, công bằng khách quan trong đánh giá học sinh. Giáo
viên cần gương mẫu về mọi mặt như: về trang phục và thời gian làm việc; về chào hỏi,
xưng hô, xã giao, khi tiếp đón khách, tiếp dân, ứng xử trong sử dụng điện thoại, ứng
xử trong liên hoan, ứng xử đối với những bất đồng, mâu thuẫn, ứng xử trong công bố,
tiếp nhận thông tin.
Ví dụ: Khi chuẩn bị bước vào hội thi “Viết chữ đẹp cho giáo viên Tiểu học cấp
huyện”, trường tôi có tổ chức thi lựa chọn những giáo viên xuất sắc để tham gia. Hằng
ngày trên lớp, vào giờ ra chơi tôi thường luyện viết bảng. Khi luyện viết, tôi thường

gọt phấn để viết chữ có nét thanh nét đậm. Thế rồi, bẵng đi một thời gian, vào các buổi
dạy tôi thường thấy ở lớp có nhiều bụi phấn. Ban đầu tôi rất ngạc nhiên, nhưng sau
một hồi hỏi han, tôi phát hiện học trò đã dùng kéo gọt phấn để luyện viết bảng con.
Lúc đó, tôi đã hiểu, có những thứ tôi không cần dạy mà học trò vẫn học được từ tôi.
Như chúng ta đã biết ở học sinh lớp 1, các em tham gia các hoạt động học tập
dưới hình thức: "Chơi mà học, học mà chơi". Không có cách giáo dục nào hiệu quả
hơn là tổ chức các trò chơi học tập. Khi tham gia trò chơi, các em sẽ cảm thấy hứng
thú, thoải mái, phát huy tính độc lập, khả năng tư duy sáng tạo, sự nhanh trí và cả tinh
GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

11


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

thần tập thể. Có rất nhiều trò chơi có thể sử dụng để giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh lớp Một như Ai nhanh ai đúng. Ở trò chơi này giáo viên đưa ra một số câu hỏi
hoặc tình huống về bài học, về trường lớp, gia đình cho học sinh chọn đáp án đúng, sai
hoặc câu trả lời phù hợp. Trò chơi sẽ rèn kĩ năng phát biểu xây dựng bài, yêu trường
lớp. Trò chơi Đi theo tín hiệu giao thông thường tổ chức vào các tiết sinh hoạt tập thể
hoặc ngoài giờ lên lớp, ở ngoài sân trường, giáo viên có thể cho các em đứng thành
hàng, hai tay của em đứng sau đưa lên hai vai em đứng trước làm thành một đoàn tàu
và quy ước: tay đưa ngang đèn xanh được quyền đi nhanh, tay đưa cao lên đầu đèn đỏ
phải dừng lại, tay đưa chéo đèn vàng đi chậm lại. Qua đây sẽ rèn cho các em kĩ năng
an toàn giao thông. Với các bài học, các tình huống trong cuộc sống như bạn bè rủ
nhau đi chơi xa, đi tắm suối, hoặc người lạ dụ dỗ, giáo viên có thể tổ chức trò chơi
“đóng vai”. Lúc này, các em tha hồ sáng tạo về lời thoại, cách xử lý tình huống, thái
độ, hành vi, qua đó sẽ giáo dục các em một cách hiệu quả về kĩ năng phòng chống
đuối nước, tự bảo vệ bản thân. Hoặc với bất kỳ một nội dung bài học nào ta cũng có
thể tổ chức trò chơi “đối đáp” với nhau dưới hình thức thi đua theo nhóm. Cụ thể khi

dạy học bài “Âm b” (Tiếng Việt lớp 1, tập 1), giáo viên chia lớp thanh hai đội chơi,
một đội mang tên bà ba, đội kia mang tên bà bảy. Hai bên sẽ nói câu có chữ đầu là chữ
“ B” và cuối câu là tên của đội kia. Đội này nói trước thì đội kia đáp và người lại. Đội
nào bí không nói được là đội đó thua. Thí dụ: Đội 1 nói Bà ba buồn bà bảy, đội 2 đối
lại Bà bảy bán bà ba. Hay Bà ba bu bà bảy - Bà bảy bạn bà ba. Trò chơi sẽ luyện cho
các em kĩ năng mạnh dạn, hợp tác trong giao tiếp, tự tin, hòa nhập với môi trường mới,
với bạn bè, thầy cô.
Hàng tháng, vào tiết hoạt động tập thể cuối cùng, tôi thường tổ chức cho các em
thi đua theo chủ đề “Em là hướng dẫn viên du lịch” hoặc thi ca hát, diễn kịch để các
em có nhiều cơ hội được biết về bạn bè trong lớp cũng như hoạt động của địa phương,
làng xóm. Các em có cơ hội được thể hiện mình trước tập thể. Qua đó rèn cho các em
kĩ năng mạnh dạn, tự tin.
Ngoài các hoạt động nêu trên, vào cuối mỗi đợt thi đua hay cuối mỗi kỳ học,
nếu có điều kiện là giáo viên lại cho các em tham gia các chiến dịch như vệ sinh môi
trường, với hoạt động này ta có thể tổ chức cho các em cùng dọn vệ sinh khu nhà vệ
sinh hay sau lớp học để các em có điều kiện tham gia, trải nghiệm và nâng dần các kỹ
năng sống cần thiết cho bản thân.
Thứ năm. Phối hợp giữa nhà trường - gia đinh và xã hội. Tăng cường công
tác kiểm tra đánh giá thi đua khen thưởng
Việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất và năng lực nhằm giúp trẻ
phát triển nhân cách một cách toàn diện là một quá trình lâu dài liên tục, diễn ra ở
nhiều môi trường khác nhau, liên quan rất nhiều đến các mối quan hệ xã hội phức tạp.
Vì thế, việc giáo dục kỹ năng sống luôn luôn đòi hỏi sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ của
nhiều lực lượng xã hội nhất là đòi hỏi sự quan tâm đúng cách của nhà trường, gia đình
và mọi người trong xã hội. Mỗi môi trường đều mang vai trò riêng nhất định; gia đình
là tế bào của xã hội, là nền tảng của mỗi quốc gia và là chỗ dựa vững chắc về mặt tinh
thần, đồng thời cũng là kim chỉ nam để tránh những nhận thức lệch lạc từ phía học
sinh. Nhà trường là môi trường giáo dục không chỉ phát triển về kiến thức mà còn phải
truyền tải cho học sinh những giá trị chuẩn mực của xã hội, những kĩ năng cơ bản để
các em trở thành những con người trí thức thực sự có đời sống tinh thần phong phú

bên cạnh cuộc sống gia đình. Còn xã hội là môi trường thực tế, giúp trẻ hoàn thiện một
số kỹ năng sống, chi phối một phần rất lớn trong suy nghĩ và hành động của các em.
GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

12


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

Giống như chiếc kiềng ba chân, đơn giản, vững chắc và không thể thiếu bất kì chân
nào.
Ngay từ đầu năm học, giáo viên xây dựng kế hoạch rèn luyện cho các em lớp
mình phụ trách và triển khai ngay trong buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm học.
Tại buổi họp, giáo viên và cha mẹ học sinh trao đổi biện pháp phối hợp trong việc giáo
dục kỹ năng sống cho các em. Đồng thời khen thưởng kịp thời động viên các em có
động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện. Hằng ngày giáo viên theo dõi em nào có biểu
hiện tốt, em nào còn chưa thực hiện tốt ghi vào sổ tay. Cuối mỗi buổi học dành thời
gian để động viên, nhắc nhở các em kịp thời. Trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các em
bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được thưởng một bông hoa. Cứ như vậy, các em
thi đua nhau “nói lời hay, làm việc tốt” và cuối tuần nào cũng có rất nhiều em được
bông hoa niềm vui.
Gia đình có vai trò và tác động vô cùng quan trọng, là trọng tâm của hoạt động
kết hợp. Gia đình là nơi trẻ được sinh ra, lớn lên và hình thành nhân cách của mình.
Ảnh hưởng giáo dục của gia đình đến với trẻ là đầu tiên và sớm nhất. Giáo dục con cái
trong gia đình không phải chỉ là việc riêng tư của bố mẹ, mà còn là trách nhiệm đạo
đức và nghĩa vụ công dân của những người làm cha mẹ. Nó được xác định trong nhiều
văn bản pháp luật ở nước ta hiện nay như trong Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình,
Luật Bảo vệ chăm sóc trẻ em, gắn với quan hệ máu mủ ruột thịt và tình yêu thương sâu
sắc của ông bà, cha mẹ với con cái nên giáo dục gia đình mang tính xúc cảm mạnh mẽ,
có khả năng cảm hóa lớn nhất. Đây là một trong các yếu tố không thể thiếu trong ba

yếu tố để thực hiện công tác giáo dục học sinh. Thực tế nhiều cha mẹ vì quá yêu
thương, bao bọc làm hết tất cả mọi việc cho con em mà không biết rằng điều đó vô
tình dẫn đến việc trẻ thiếu hụt kỹ năng sống, không biết cách tự phục vụ bản thân, đôi
khi việc giáo dục kỹ năng sống cũng chưa được phụ huynh học sinh quan tâm đúng
mức điều này khiến các em gặp phải khó khăn khi trưởng thành. Vì vậy trong các buổi
họp phụ huynh học sinh lớp, họp phụ huynh học sinh trường cùng với việc triển khai
các nội dung khác thì nhà trường đặc biệt chú ý đến vấn đề phối hợp để giáo dục kỹ
năng sống cho các em. Có thể nói rằng gia đình là cái nôi giáo dục tối quan trọng để
hình thành kỹ năng sống cho các em. Một số nội dung nhà trường trao đổi, phối hợp để
phụ huynh thực hiện như: Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích các em nói lên quan
điểm của mình, nói chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và
về những lựa chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà
lựa chọn cố gắng không chỉ trích các quyết định của các em. Việc này sẽ hình thành kĩ
năng tự kiểm soát bản thân, rèn tính tự tin cho các em khi tham gia các hoạt động và
các buổi thảo luận tại trường sau này. Cô giáo, cha mẹ giúp các em phát triển sở thích,
yêu thích của mình và đảm bảo rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để
các em thực hiện ý thích đó. Ví dụ: Mỗi em có một sở thích khác nhau, em thì thích
học Toán, em thì thích học Tiếng Việt, ngoài ra các em còn thích học vẽ, học hát.
Ngoài giờ học, chúng ta có thể tạo điều kiện cho các em được tham gia các hội thi như
Hội diễn văn nghệ, thi vẽ tranh. Vì vậy, phụ huynh cần trang bị thêm bút màu, giấy vẽ,
còn cô giáo tổ chức cho các em múa hát, dã ngoại ở địa phương. Hướng dẫn cho các
em cách lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ hoặc triển lãm
tranh ở góc nhỏ trong nhà, trong lớp. Từ đó giúp các em có đủ tự tin biểu diễn trên sân
khấu hay tham gia vào buổi triển lãm tranh do Liên đội tổ chức. Chính vì vậy mà trong
buổi biểu diễn văn nghệ chào mừng ngày 20/11 do nhà trường tổ chức, các em đã
mạnh dạn tự tin biểu diễn thành công hai tiết mục múa, hát song ca trên sân khấu đạt
GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

13



Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

01 giải nhì, 01 giải ba. Khi ở nhà, cha mẹ cần dạy các em những nghi thức văn hóa
trong ăn uống, biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống. Cụ thể như cho các em được
làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống).
Dạy nếp sống sạch sẽ, gọn gàng đây là một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp,
ngay ngắn những đồ dùng, vật dụng, thái độ ăn uống từ tốn không vội vã, không khí
cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu, tất cả những
yếu tố trên sẽ giúp các em có thói quen tốt để hình thành kĩ năng tự phục vụ và ý nghĩa
hơn là kỹ năng sống tự lập sau này. Bằng những câu hỏi: Con đã chào mẹ chưa? Hãy
kể cho mẹ nghe, hôm nay con đã làm được việc gì tốt?, không những rèn cho các em
ứng xử lễ phép mà còn rèn tính trung thực, kỉ luật. Bên cạnh đó cần phối hợp với địa
phương tổ chức cho học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động văn hóa xã hội như :
đền ơn đáp nghĩa, xây dựng gia đình văn hóa mới nhằm góp phần cải tạo môi trường
gia đình và xã hội.
Ví dụ: Em Y Thinh Mlô thường xuyên đi học muộn, sách vở dụng cụ học tập
không đầy đủ, ăn mặc luôm thuộm, hôi hám. Thấy vậy, tôi đã đến trực tiếp gia đình
gặp mẹ của em trao đổi tác hại của việc giữ vệ sinh thân thể, đi học muộn và thiếu đồ
dùng học tập. Thứ nhất, em không thể tiếp thu được bài khi các bạn đã học được một
lượng kiến thức em mới tới lớp, bên cạnh đó còn ảnh hưởng đến cả lớp. Thứ hai, em
thiếu kĩ năng tự phục vụ bản thân không gọn gàng sạch sẽ, ảnh hưởng đến sức khỏe.
Vì vậy, cha mẹ hãy cùng giáo viên nhắc nhở em cần sắp xếp ngăn nắp góc học tập, đi
học đúng giờ không la cà dọc đường, soạn sách vở đồ dùng học tập, vệ sinh thân thể
ăn mặc gọn gàng trước khi đến lớp. Một thời gian sau, em đến lớp đúng giờ, có đủ đồ
dùng học tập và vệ sinh thân thể gọn gàng, sạch sẽ hơn. Còn em Y Kian Bkrông, một
học sinh khó khăn đặc biệt. Em chưa biết nói tiếng phổ thông, khi cô giáo hỏi em chỉ
“ơ”, “hở” rồi nhìn cô không nói gì. Cô cho gì cũng chỉ nhận bằng một tay, không nói
lời xin hoặc cảm ơn. Với trường hợp này, giáo viên phải dùng những kí hiệu để hướng
dẫn như gật đầu, lắc đầu, rồi nói “ dạ, vâng” và đưa hai tay nhận khi được cho quà sau

đó nói lời “xin, cảm ơn”. Cứ như vậy dần dần em cũng đã biết trả lời khi cô hỏi, khi cô
phát vở đã biết dùng hai tay để nhận. Khi được cho bánh kẹo, đã nói được “em xin cô,
cảm ơn cô”.
Tóm lại, sự phối hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục là sự thống nhất trong
nhận thức cũng như trong hoạt động giáo dục cùng một hướng, một mục đích, đồng
tâm tạo sức mạnh kích thích, thúc đẩy quá trình phát triển nhân cách của trẻ. Nó là một
nguyên tắc cơ bản.
IV. TÍNH MỚI CỦA GIẢI PHÁP
Đánh giá được một số mặt trong hoàn cảnh sống tác động tới kỹ năng sống và
thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số.
Giúp người giáo viên hiểu tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh. Từ đó xác định nội dung và phạm vi giáo dục kỹ năng sống: dạy các em
những kĩ năng gì? ….dạy như thế nào? Dạy trong phạm vi nào?.......
Tìm ra một số biện pháp tích cực, tối ưu góp phần nâng cao sự hình thành, giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh lớp Một, để từ đó các em ý thức được giá trị của bản
thân trong mối quan hệ xã hội, hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình, có
hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật… và có đủ khả
năng tự chủ, độc lập, tự tin trong giao tiếp và khi giải quyết công việc. Trang bị cho
các em vốn tự tin ban đầu, những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời. Góp
GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

14


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh nói riêng và nâng cao chất
lượng cuộc sống nói chung.
V. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN
Với các giải pháp trên, tôi thấy học sinh có sự chuyển biến rõ rệt về kỹ năng

sống. Các em luôn tự tin trước tập thể, chuẩn bị và tham gia các hoạt động giáo dục do
nhà trường đề ra một cách tốt nhất. Và đặc biệt hơn nữa, khi ra đường, khi về gia đình
và địa phương chúng đều tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp, tính trung thực đoàn kết cao
hơn, bình tĩnh vượt qua những khó khăn trở ngại trong cuộc sống như khi ra về không
có người đưa đón các em vẫn thực hiện đúng luật giao thông và về nhà an toàn, không
để người lạ dụ dỗ, nhớ số điện thoại của cô giáo và bố mẹ.
Kết quả cụ thể vào cuối các năm học như sau:
Tỉ lệ học sinh đọc thông viết thạo và nắm được các phép tính cộng, trừ không
nhớ trong phạm vi 100, các kiến thức về môi trường xung quanh như cơ thể con người,
gia đình, nhà ở, lớp học và cuộc sống xung quanh tăng dần. Năm học 2016 – 2017,
hoàn thành chương trình lớp học131/137 em đạt tỉ lệ 95,6%. Năm học 2017 – 2018 có
106/110 em hoàn thành chương trình lớp học đạt tỉ lệ 96,4%
Tỉ lệ học sinh có các kỹ năng tự phục vụ, tự quản, giao tiếp, hợp tác, tự học,
biết chấp hành an toàn giao thông tăng dần.
Năm học

TS HS

Kĩ năng giao tiếp, tự nhận thức, bảo vệ bản thân
Biết nói năng lễ Bạo dạn trong giao Ngại giao tiếp, trầm Tự nhận thức, bảo vệ
phép
tiếp
lặng, nhút nhát
bản thân:
SL

%

SL


%

SL

%

SL

%

2016 - 2017

137

127

92,7

125

91,2

12

8,8

126

92,0


2017 - 2018

110

13

11,8

103

93,6

7

6,4

104

94,5

Kĩ năng hợp tác, tự quản, tự học
Năm học

TSHS

kĩ năng tốt

có kĩ năng

chưa có kĩ năng


SL

%

SL

%

SL

%

2016 - 2017

137

12

8,7

114

83,2

11

10,0

2017 - 2018


110

10

9,1

92

83,6

8

7,3

Kĩ năng tham gia giao thông, phòng chống tai nạn thương tích
Năm học

TSHS

kĩ năng tốt

có kĩ năng

chưa có kĩ năng

SL

%


SL

%

SL

%

2016 - 2017

137

13

9,4

111

81,1

13

9,5

2017 - 2018

110

11


10,0

90

81,8

9

8,2

GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

15


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

Thành tích đạt được trong các hội thi như sau:
Năm học 2016 – 2017

Năm học 2017- 2018

- Thi chữ viết đẹp cấp trường đạt 15 em - Thi chữ viết đẹp cấp trường đạt 20 em
trong đó 01 giải nhất, 01 giải nhỉ, 01 giải tham gia trong đó 01giải nhất, 01 giải nhì,
ba, 01 giải khuyến khích.
02 giải ba, 03 giải khuyến khích.
- Thi chữ viết đẹp cấp huyện được công - 01 giải nhì, 03 giải khuyến khích Hội thi
nhận 4/4 em dự thi.
trang trí lớp học thân thiện.
- Giải nhì Hội thi kéo co.


- 01 giải nhất, 01 giải ba Hội thi trò chơi
dân gian.
- Giải nhất Hội thi “Đố vui hoc tập”

Đề tài tiếp tục thực hiện có hiệu quả trong năm học 2018 – 2019.
Phần thứ ba: KẾT LUẬN
I. KẾT LUẬN
Trẻ em là tương lai của đất nước, là hạnh phúc của mỗi gia đình. Chúng ta hãy
trang bị cho các em một hệ thống tri thức cơ bản, vững chắc để các em tự tin bước vào
thời đại mới - thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Và ở thời đại của các
em thì vấn đề kỹ năng sống là vô cùng quan trọng và cấp thiết.
Trong giáo dục Tiểu học, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là điều hết
sức cần thiết, nó góp phần hình thành đạo đức, nhân cách của các em sau này.
Đối với giáo viên, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lại càng có ý nghĩa
quan trọng hơn bởi khi cùng các em tham gia các hoạt động như nhặt rác, trồng cây,
chúng ta đã hòa vào cùng tuổi thơ của các em, tạo được môi trường gần gũi, thân thiện
giữa thầy và trò. Từ đó, kết quả giáo dục toàn diện sẽ được nâng lên cao hơn nhất mức
có thể. Đó cũng chính là một trong những nhiệm vụ của các năm học.
Với mục tiêu nâng cao kỹ năng sống cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số ở
trường tiểu học Võ Thị Sáu nhằm khắc phục những khó khăn trong việc giáo dục, từng
bước nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh. Sau khi nghiên cứu và thực hiện các
giải pháp trên cho thấy kỹ năng sống của các em được nâng lên rõ rệt. Học sinh có khả
năng tự bảo vệ bản thân, mạnh dạn trong giao tiếp, biết ứng xử và giải quyết tình
huống trong cuộc sống, giảm tỉ lệ học sinh hư hỏng. Phát huy tích cực, tự tin, chủ
động, trách nhiệm, đoàn kết hứng thú học tập và giao tiếp. Biết sử dụng kỹ năng sống
vào cuộc sống hàng ngày. Phát huy được tính năng động sáng tạo của giáo viên. Rõ
ràng qua cách làm này, tôi thấy kết quả giáo dục của học sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt.
Tạo điều kiện để học sinh phát huy tối đa những khả năng vốn có của mình trong học
tập, trong cuộc sống.

II. KIẾN NGHỊ
- Về phía nhà trường
Thường xuyên tổ chức các cuộc thi theo chủ đề “Em là hướng dẫn viên du
lịch”, “Phát thanh măng non” cho học sinh và các buổi sinh hoạt chuyên đề về giáo
dục kỹ năng sống để bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho giáo viên.
GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

16


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

- Về giáo viên
Có lòng yêu nghề, mến trẻ, tận tâm với nghề nghiệp và hết lòng nhiệt tình với
học sinh. Sự hiểu biết tâm sinh lý học sinh, hoàn cảnh sống của mỗi học sinh cộng với
sự vận dụng khéo léo các phương pháp giáo dục.
Nắm được đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh khối lớp mình quản lý.
Xác định được nhiệm vụ năm học và mục tiêu giáo dục học sinh ngay từ đầu
năm học.
Luôn tạo sự thân thiện, gần gũi giữa thầy và trò để học sinh mạnh dạn thể hiện
khả năng của bản thân. Tạo cho các em cảm giác tự tin ở mọi lúc, mọi nơi.
Phối hợp với cha mẹ học sinh, thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng sống cho các
em thông qua trải nghiệm thực tế nhằm giúp các em hiểu thêm, hiểu sâu sắc hơn về thế
giới xung quanh để các em luôn có những kĩ năng tốt để thể hiện mình là những chủ
nhân tương lai của đất nước.
- Về phía phụ huynh học sinh
Tự học tập, nghiên cứu để nâng cao hiểu biết về kỹ năng sống của học sinh Tiểu
học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng.
Quan tâm hơn đến việc giáo dục con em mình.
Phối hợp chặt chẽ với giáo viên để kết quả giáo dục ngày một tốt hơn.

Ea Bông, ngày 25 /03/ 2019
Người viết

Trần Thị Minh

GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

17


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CẤP TRƯỜNG
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
(Ký tên, đóng dấu)

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP HUYỆN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
(Ký tên, đóng dấu)

GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

18


Một vài giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu

TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT

Tên tài liệu

Tác giả

1

Chỉ thị số 40/2008/CT BGDĐT về việc phát động
phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện
học sinh tích cực”.

BGDĐT


2

Kế hoạch số 801/KH-BGDĐT ngày 04 tháng 11 năm
2016 về việc triển khai thực hiện phòng chống tai
nạn, thương tích trẻ em giai đoạn 2016 – 2020 của
ngành giáo dục.

BGDĐT

3

Công văn số 159/ PGDĐT – GDTH V/v Hướng dẫn
thực hiện kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho HS
tiểu học.

PGDĐT – GDTH

4

Điều 12 Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 ngày
14/6/2005 của Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI về ban hành Luật Giáo dục
luật

QH11

5

Số 61/BC-PGDĐT ngày 03 tháng 10 năm 2016 về
báo cáo tổng kết năm học 2015 – 2016, triển khai

nhiệm vụ năm học 2016 – 2017 cấp tiểu học. [1.2,

tr.11],
Công văn số: 24/HD-PGDĐT /PGDĐT – GDTH
ngày 18 tháng 9 năm 2017 về việc hướng dẫn thực
hiện nhiệm vụ năm học 2017 – 2018,
Số: 25/HD-PGDĐT ngày 24 tháng 9 năm 2018
năm học 2018 - 2019 của Phòng Giáo dục và Đào
tạo.

GV: Trần Thị Minh - Trường TH Võ Thị Sáu

19

Phòng Giáo dục và
Đào tạo Krông Ana



×