Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM một số KINH NGHIỆM và GIẢI PHÁP GIÁO dục kĩ NĂNG SỐNG CHO học SINH lớp 5 (năm học 2014 2015)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.24 KB, 33 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH LỚP 5

1. Phần mở đầu:
1.1. Lý do chọn sáng kiến.
Giáo dục là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân. Đảng và Nhà
nước ta coi: “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Bậc Tiểu học được coi là bậc học
“ nền tảng” của hệ thống giáo dục quốc dân. Đó là tiền đề vững chắc cho việc đào
tạo nguồn nhân lực, nhân tài đáp ứng nhu cầu cao của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Vì vậy, mục tiêu của giáo dục Tiểu học là nhằm giúp học sinh hình thành những
cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ ,thể chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở.
Ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu
hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang
được đổi mới mạnh mã theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là
cách tiếp cận kĩ năng sống, đó là : Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng định
mình.
Từ năm học 2010-2011, Bộ GD-ĐT đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng
ghép vào các môn học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn.
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã hội, các
em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những kĩ năng
sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích cực, vui vẻ để
trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để bước vào đời tự tin hơn.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang hội nhập với các nước trên thế giới từng
bước phát triển vươn lên, những mặt tốt của xã hội được phát triển mạnh song những
vấn đề mặt trái của xã hội cũng xuất hiện nhiều ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển
của mỗi tập thể, cá nhân trong đó có một bộ phận là trẻ em. Theo guồng quay của xã



hội, một số gia đình bố mẹ chỉ quan tâm, mải lo đến việc làm kinh tế mà quên mất
gia đình là chiếc nôi của trẻ, quên đi việc cần tạo một môi trường gia đình đầm ấm,
người lớn gương mẫu, quan tâm dạy dỗ trẻ; Không những thế còn có những gia đình
cha mẹ nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè,...ảnh hưởng vô cùng lớn tới tâm hồn trẻ, tới
sự phát triển nhân cách của trẻ. Một số gia đình hoàn toàn phó mặc việc dạy dỗ trẻ
cho nhà trường. Cũng có những gia đình có điều kiện kinh tế, quá chiều chuộng con
dẫn đến trẻ thiếu sự sáng tạo, luôn ỷ lại, phụ thuộc vào người lớn; mỗi khi gặp các
tình huống trong thực tế lúng túng không biết xử lý thế nào, hạn chế trong việc tự
bảo vệ bản thân mình; hoặc có trẻ được chiều chỉ làm theo ý của mình chứ không
làm theo ý người khác. Bên cạnh việc học các môn văn hoá nếu trẻ được chú ý giáo
dục đạo đức, được rèn kĩ năng sống biết phân biệt cái tốt, cái xấu, biết từ chối cám
dỗ, biết ứng xử, biết tự quyết định đúng trong một số tình huống thì chính trẻ sẽ là
người tác động tốt đến gia đình, xã hội.Những năm gần đây, nhiều trẻ em rất thiếu kĩ
năng làm việc nhà, kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp với ông bà, cha mẹ. Nhiều
em không tự dọn dẹp phòng ở của chính mình, không giúp đỡ bố mẹ bất kì việc gì
ngoài việc học. Phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em
trong các hoạt động cần thiết, làm cho các em rất rụt rè thiếu tự tin khi giao tiếp họăc
tham gia các hoạt động bởi các em bị cuốn hút theo các trò chơi điện tử và hệ thống
ảo trên hệ thống Internet. Đây là những trò chơi làm cho các em xa lánh với môi
trường sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người, kĩ năng xã
hội của học sinh ngày càng kém. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ,
không quan tâm đến cộng đồng. Câu hỏi mà chúng ta thường đặt ra cho học sinh tiểu
học là ngoài những kiến thức phổ thông về Toán, Khoa học và Nhân văn, học sinh
cần học điều gì để giúp các em hội nhập với xã hội, trở thành công dân có ích cho
cộng đồng. Vì thế đây cũng là nỗi lo lắng, đặt ra cho giáo viên đứng lớp những suy
nghĩ, trăn trở.
Mục tiêu giáo dục là nhằm giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát
triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản,
góp phần hình thành nhân cách đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ



Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một
nội dung được đông đảo phụ huynh và dư luận quan tâm, bởi đây là một chương
trình giáo dục hết sức cần thiết đối với học sinh và phù hợp với mục tiêu giáo dục
hiện nay, nhằm đào tạo con người với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mỹ” để đáp ứng
yêu cầu của xã hội.Ở bậc tiểu học là bậc tạo nền tảng cho học sinh phát triển, vì vậy
ngoài việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức cơ bản trong học tập, lao động còn
phải giáo dục học sinh có kỹ năng sống, kỹ năng làm người để học sinh có thêm kinh
nghiệm thích ứng với môi trường, xã hội mới.
Năm học 2014-2015 là năm học tiếp tục thực hiện phong trào thi đua “Xây dưng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là
một trong những nội dung của phong trào. Chí vì vậy nên các nhà trường cần chú
trọng hơn đến nội dung “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh”.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh giúp học sinh tự giải quyết được một số vấn
đề thiết thực trong cuộc sống hằng ngày như: tự chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi
trường và phòng chống các tệ nạn xã hội,… để các em chủ động, tự tin không phụ
thuộc hoàn toàn vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng cho học sinh, tôi đã
chọn sáng kiến về “Một số kinh nghiệm và giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh lớp 5”
1.2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Ở trường trung học cơ sở nói chung và trường tiểu học nói riêng giáo dục kĩ năng
sống có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục nhân cách học sinh. Để giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh cần hiểu vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mình,
từ đó đưa ra những biện pháp cụ thể để xây dựng tập thể lớp vững mạnh toàn diện.
Hiện nay việc giáo dục sống cho học sinh vẫn chưa được thật sự chú trọng và đầu
tư đúng mức mà giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phải bắt đầu từ nhỏ và phải
thường xuyên được bổ sung, củng cố trong quá trình học tập và đến khi trưởng
thành. Gia đình là nơi đầu tiên trẻ được trang bị, giáo dục các kĩ năng sống cơ bản



nhất vì vậy khi giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cần phố hợp với tất cả các lực
lượng giáo dục nhất là gia đình các em.
Trong quá trình giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tôi đã dựa vào những nội dung
chủ yếu sau:
- Công tác với tập thể học sinh.
- Giáo dục những phẩm chất đạo đức cho học sinh.
- Giáo dục kĩ năng sông thông qua các môn học.
- Chỉ đạo việc học tập của học sinh.
- Giáo dục lao động hướng nghiệp
- Tổ chức các hoạt động vui chơi, rèn luyện thể lực bảo vệ sức khoẻ.
- Công tác Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Sao nhi đồng.
- Công tác phối hợp với cha mẹ học sinh.
- Đánh giá được một số mặt trong hoàn cảnh sống tác động tới kĩ năng sống và thực
trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học.
- Đề xuất được cách tiếp cận mang ý tưởng mới trong giáo dục kĩ năng sống theo
hướng khai thác nội dung môn học để giáo dục kĩ năng sống riêng mang tính đặc thù
của học sinh Tiểu học và sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học tích cực
để giáo dục kĩ năng sống chung.
- Tìm một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học.
- Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; giúp học
sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử
có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật…
- Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc
lập, tự tin trong cuộc sống khi giải quyết công việc và chủ động đối phó với hoàn
cảnh khó khăn trong cuộc sống, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị
cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.
1.3. Phạm vi áp dụng
Sáng kiến này được áp dụng từ đầu năm học đến nay để “Giáo dục kỹ năng sống

cho học sinh khối 5 ” và học sinh toàn trường.


2. Phần nội dung
2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu.
Học tập là một nhu cầu thường trực của con người trong mọi thời đại. Học tập
không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa học thuần túy mà còn được hiểu là mọi tri
thức về thế giới trong đó có cả những mối quan hệ, cách thức ứng xử với môi trường
xung quanh. Kĩ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi cá nhân
trong quá trình tồn tại và phát triển. Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại
khóa, giáo dục kĩ năng sống đã được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương
pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả
lồng ghép còn chưa cao.
Qua thực tế giảng dạy ở lớp 5 trường tiểu học, bản thân tôi thấy kĩ năng sống
của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt, các em
còn có nhận thức còn phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa
có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh thể hiện kĩ năng còn
đại khái, chưa mạnh dạn tự nhìn nhận và tự đánh giá về bản thân, kĩ năng xác định
còn hạn chế. Kĩ năng tư duy và sáng tạo chưa cao. Các em còn ngại nói, ngại viết,
khả năng tự học, tự tìm tòi, khả năng đảm nhận trách nhiệm còn hạn chế.
Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã được
đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp với
tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao.
a.Thực trạng chung của nhà trường.
* Thuận lợi:
Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền của địa phương, của phụ huynh
học sinh.
-Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao việc dạy
học của giáo viên và việc học của học sinh.
- Giáo viên trong nhà trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến trẻ.

- Bản thân luôn nhiệt tình trong công tác giảng dạy v à công t ác chủ nhiệm.
- Về học sinh : Nhìn chung các em chăm ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập.


- Bên cạnh những thuận lợi trên nhà trường còn có những khó khăn sau:
* Khó khăn:
- Là một xã dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, kinh tế còn nhiều khó khăn, nhiều
gia đình thuộc diện hộ nghèo, một số em mồ côi cha hoặc mẹ có em mồ côi cả cha
lẫn mẹ. Chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập cũng như chất
lượng học của học sinh.
- Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nêu việc học tập của các em
cần có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì hiệu quả học của các em mới đạt cao.
- Về đội ngủ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy song
còn nhiều khó khăn do có một số giáo viên trẻ chưa có nhiều kinh nghiện trong
giảng dạy.
- Về phía các bậc phụ huynh: Cha mẹ các em luôn nóng vội trong việc dạy con; họ
chỉ chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết
làm toán thì lo lắng một cách thái quá! Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng con
cái khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ, chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến
con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong
ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ
dùng đó để làm gì? Đối với giáo viên Phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực” tập trung nhiều nội dung chung cho các bậc học. Tuy chưa nắm
hết về nội dung phải dạy trẻ theo từng khối lớp, những kĩ năng sống cơ bản nào,
chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kĩ năng sống
cho học sinh. Mặc dù có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp giảng
dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn
lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn.
b. Thực trạng của lớp 5A:
Năm học 2014- 2015 tôi được phân công giảng dạy trường Tiểu học

Lớp 5A do tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 35 học sinh. Trong đó:
- Con cán bộ công chức: 14 em
- Con gia đình nông nghiệp 21 em.


- Nam 15 em; nữ: 20 em.
- Các em ở rải rác khắp các thôn trong xã, có nhiều em xa trường nên việc đi lại của
các em gặp rất nhiều khó khăn điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập
của các em. Một số em thuộc diện hộ ngheo gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Một
số em con mồ côi, có em mồ côi cả cha lẫn mẹ sông với cô, bác.
c. Những thuận lợi, khó khăn khi rèn kĩ năng sống cho học sinh
Trong quá trình rèn kĩ năng sống cho trẻ bản thân đã gặp những thuận lợi và
khó khăn sau:
c.1.. Thuận lợi
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân
thiện - học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến địa
phương, Phòng Giáo dục và Đào tạo cũng đã có kế hoạch từng năm học với những
biện pháp cụ thể để rèn kĩ năng sống cho học sinh một cách chung nhất cho các bậc
học, đây chính là những định hướng giúp giáo viên thực hiện như: Rèn luyện kĩ năng
tư duy phê phán, kĩ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói
quen và kĩ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ
sức khỏe, kĩ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương
tích khác; rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo
lực và các tệ nạn xã hội, kĩ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc. Trường học nơi
bản thân công tác là ngôi trường đã đạt chuẩn quốc gia nên thuận lợi trong việc thực
hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục sạch đẹp, an toàn cho trẻ. Bên cạnh đó,
bản thân nhận được một tập thể học sinh khá ngoan và biết vâng lời, các em gần gũi
với cô giáo. Ngoài ra Ban lãnh đạo nhà trường luôn theo sát, quan tâm, hỗ trợ cho
giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như giáo dục. Chính vì thế bản luôn cố gắng
làm sao rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các em có một niềm tin, phát triển một

cách toàn diện để trở thành con người năng động, sáng tạo phù hợp với một xã hội
hiện đại đang phát triển.
c.2. Khó khăn
* Đối với giáo viên


Trong thực tế hiện nay, việc nhận thức tầm quan trọng, cần thiết rèn kĩ năng
sống cho học sinh ở một số giáo viên còn hạn chế. Qua dùng phiếu thăm dò, khảo sát
thực tế cho thấy một số giáo viên lúng túng cả về nội dung, biện pháp rèn kĩ năng
sống cho học sinh. Nhận thức của nhiều giáo viên còn mơ hồ, chưa rõ, chưa đầy đủ
rèn kĩ năng sống cho học sinh là rèn những kĩ năng gì; vì nhận thức chưa đủ, chưa rõ
nên không thể tìm ra được biện pháp, hình thức tổ chức hữu hiệu để rèn kĩ năng sống
cho học sinh.
Giáo dục tập trung nhiều nội dung chung cho các bậc học, giáo viên chưa hiểu
nhiều về nội dung phải dạy trẻ theo từng khối lớp những kĩ năng sống cơ bản nào,
chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kĩ năng sống
cho HS. Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương
pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý
thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn; giáo
viên trẻ tuổi ít hơn, năng động, sáng tạo nhưng lại khó trong công tác bồi dưỡng do
nhận thức về nghề chưa sâu sắc nên giáo viên mới thường không an tâm công tác.
*Đối với học sinh
Trong các nhà trường, trong lớp ít nhiều vẫn còn có hiện tượng học sinh cãi
nhau, đánh nhau, chưa lễ phép, gây mất đoàn kết trong tập thể lớp, ...Các em học
sinh vừa từ lớp một, hai, ba lên làm quen với môi trường lớp 4,5các em khá rụt rè
chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em nói
không rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu và ít nói lời cảm ơn, xin lỗi với cô,
bạn bè. Nhiều em đến trường tỏ ra nói nhiều vì ở nhà các em không có người trò
chuyện, chia sẻ ...
* Đối với phụ huynh học sinh

Về phía các bậc cha mẹ các em luôn nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ chú
trọng đến việc con mình về nhà mà chưa đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm Toán thì
lo lắng một cách thái quá! Ngoài ra, một trở ngại nữa là phụ huynh trong lớp có một
số bố mẹ thì quá nuông chiều, Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng con cái khiến


trẻ không có kĩ năng tự phục vụ bản thân. Ngược lại, một số phụ huynh vì bận nhiều
công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết…
Từ các nguyên nhân, tình hình thực tiễn cũng như các thuận lợi và khó khăn nêu
trên, bản thân đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
thông qua các tiết dạy của một số môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm đem
lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục.
Qua tiến hành khảo sát ( lần 1) lớp 5A đầu năm học với chủ đề “ Kĩ năng của
em”; kết quả như sau:
Tổng số học Kĩ năng tốt
Có hình thành kĩ năng Kĩ năng chưa tốt
SL
%
SL
%
SL
%
sinh
35
10
28,6
10
28,6
15
42,8

Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra khỏi
Tổng số
tác
nhóm
học sinh
SL
%
SL
%
35
15
42,9
20
57,1
Kĩ năng giải quyết vấn đề
Biết cách tự giải quyết vấn Tự giải quyết vấn đề chưa tốt
Tổng số
đề
học sinh
SL
%
SL
%
35
17
48,6
18
51,4


Tổng

số

học sinh
31

Tổng

số

học sinh
35

Kĩ năng tự nhận thức, tự trọng và tự tin của bản thân
Biết tự nhận thức, tự trọng Chưa biết tự nhận thức, tự trọng và tự tin
và tự tin của bản thân
SL
%
17
48,6

của bản thân
SL
18

%
51,4

Kĩ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc

Biết tự ứng phó với căng Chưa biết tự ứng phó với căng thẳng và
thẳng và cảm xúc
SL
%
17
48,6

cảm xúc
SL
18

%
51,4


Tổng

số

học sinh
35

Tổng

số

học sinh

phù hợp.
SL

17

%
48,6

SL
18

%
51,4

Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm
Biết cách đảm nhận trách Chưa tự tin, chủ độngvà ý thức cùng
nhiệm khá phù hợp.

chia sẻ với các thành viên khác trong
nhóm
SL
18

35
Tổng

số

học sinh
35
Tổng

số


học sinh
35

Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Biết cách ứng xử hài hòa, khá Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi.

SL
%
%
17
48,6
51,4
Kĩ năng quản lí thời gian
Biết cách quản lí thời gian khá Ghưa biết cách sắp xếp thời gian phù
phù hợp.
hợp theo thứ tự ưutieen.
SL
%
SL
%
17
48,6
18
51,4
Kĩ năng tìm kiếm và xữ lí thông tin
Biết cách tìm kiếm và xữ lí Tìm kiếm và xữ lí thông tin chưa phù
thông tin khá phù hợp.
SL
%

17
48,6

hợp.
SL
18

%
51,4

Kết quả trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt còn ít và số học sinh có kĩ năng
chưa tốt còn nhiều. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là vấn đề cần
quan tâm. Muốn làm tốt công tác này chúng ta cần phải làm gì? Nhất là những người
làm công tác giáo dục vì nhà trường là nơi tốt nhất để hình thành nhân cách cho học
sinh. Đây cũng chính là câu hỏi mà bản thân cần phải tìm tòi nghiên cứu. Từ những
thực trạng trên thôi thúc bản thân tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng “Học sinh
chưa có kĩ năng sống” là do đâu? để từ đó tìm ra biện pháp rèn kĩ năng sống cho học
sinh đạt hiệu quả.
* Nguyên nhân
Lứa tuổi các em đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham
hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn


thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động.... Đặc biệt là trong bối cảnh hội
nhậpquốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan
xen của những yếu tố tiêu cực và tích cực, luôn phải đặt vào hoàn cảnh phải lựa
chọnnhững giá trị phải đương đầu với những khó khăn, thách thức , những áp lực
tiêu cực. Nều không được giáo dục kĩ năng sông, thiếu giáo dục kĩ năng sống, các em
dễ bị lôi cuốn vào hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sốn ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ
bị phát triển lạch lạcvề nhân cách. Một trong những nguyên nhân dẫn đến các hiện

tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ thông trong thời gian vừa quanh:
nghiện hút, bạo lực học đường, đua xe máy, ăn chơi sa đọa...chính là do các em thiếu
kĩ năng sống cần thiết như: Kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên
định, kĩ năng giải quyết mâu thuẩn, kĩ năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp. Hiện
tượng trẻ em ngu ngơ khi phải xử lí những tình huống của cuộc sống thực, thiếu tự
tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng kiến và dễ nản chí
ngày càng nhiều. Nguyên nhân do đâu? Phải khẳng định rằng, trước hết do giáo dục.
Nhiều vấn đề của xã hội hiện đại tác động đến trẻ chưa được cập nhật, bổ sung vào
chương trình giáo dục nhà trường. Việc định hướng sai các giá trị là nguyên nhân gây
ra những hiện tượng đáng tiếc trong ứng xử của trẻ. Phương pháp giáo dục nhồi nhét,
lí thuyết suông, không tạo được cho trẻ khả năng tư duy, óc phân tích, suy xét, phán
đoán, không tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm những vấn đề thực trong cuộc sống hiện
đại…Qua nhiều năm thực tế giảng dạy ở trường, bản thân nhận thấy kĩ năng sống
học sinh chưa tốt là do những nguyên nhân sau:
- Giáo viên và người lớn chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh.
- Việc rèn kĩ năng sống qua việc tích hợp vào các môn học còn hạn chế.
- Rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi còn
chưa sâu sát.
- Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinh còn ít.
- Công tác tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện dạy các em các kĩ năng sống
cơ bản chưa nhiều.


Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kĩ năng sống do sự hạn chế của giáo dục
gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân trực tiếp
khiến học sinh gặp khó khăn trong xử với tình huống thực của cuộc sống

2.2. Các giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học là rất cần thiết, giúp các em rèn
luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp

các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng
mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an
toán, hài hòa và lành mạnh. Giáo dục kĩ năng sốngcho học sinh được giáo dục ở nhà
và ở trường. Kĩ năng sống được giáo dục trong các môn học chính khóa và ngoại
khóa. Giáo dục kĩ năng sống cần bắt đầu từ nhỏ, từ từng hành vi cá nhân đơn giản
nhất, theo đó hình thành tính cách và nhân cách. Cụ thể cần phải áp dụng một số biện
pháp sau:
Giải pháp 1: Nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kĩ năng sống cho học sinh.
Đầu năm học, tôi học tập nghiên cứu chuyên đề rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu
học, về thực trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh bậc
học tiểu học do Bộ Giáo dục- Đào tạo phát động; qua đó giúp tôi hiểu được rằng
chương trình học chính khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn hoá
trong suốt năm học, còn thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận một
cách cân bằng, biết cách phát triển các kĩ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội. Vì thế,
khi trẻ tiếp thu được những kĩ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng
xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung
vào việc học văn hoá một cách tốt nhất. Bản thân tôi luôn chịu khó gần gũi chuyện
trò với học sinh, trả lời những câu hỏi vụn vặt của các em, không la mắng, giải quyết
hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các em học sinh trong lớp. Trong
giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn, Mạnh dạn, tự tin
điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao
đổi thường xuyên với cha mẹ các em. Hiệu quả lớn nhất là nhà trường đã huy động


được sự tham gia của cha mẹ các em, của các tổ chức, các lực lượng xã hội trong
việc giáo dục văn hóa,truyền thống cho học sinh, đồng thời đây là những cơ hội vàng
dạy trẻ kỹ năng sống.
Giải pháp 2: Xác định những kĩ năng sống cơ bản và cụ thể hóa nội dung của
những kĩ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy trẻ ở lứa tuổi tiểu học.
Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kĩ năng quan trọng mà trẻ cần

phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là trẻ em độ tuổi lớp1. Thực tế
kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kĩ năng quan trọng nhất trẻ phải học
vào thời gian đầu của năm học chính là những kĩ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm
soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểuvà giao tiếp. Việc xác định được các
kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung
trọng tâm để dạy trẻ.
Các nội dung của kĩ năng cơ bản mà người giáo viên cần dạy cho trẻ là:
-Kĩ năng sống tự tin : Một trong những kĩ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là
phát triển sự tự tin, có niềm tin vào bản thân, tự hài lòng với bản thân, tin rằng mình
có thẻ trở thành một người có ích và tích cực, có niềm tinvề tương lai, cảm thấy có
nghị lực để hoàn thành các nhiệm vụ, giúp các em có suy nghĩ tích cực và lạc quan
trong cuộc sống. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như
trong mối quan hệ với những người khác. Kĩ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự
tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
- Kĩ năng sống hợp tác: Giáo dục các em biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và
cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm.Bằng các trò chơi,
câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một
công việc không nhỏ đối với các em học sinh lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp
các em biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn, thông qua kĩ năng hợp tác giúp
các em sống hài hòa và tránh xung đột trong quan hệ với người khác. -Kĩ năng thích
tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kĩ năng quan trọng


nhất cần có ở các em vào giai đoạn này là sự khát khao được học. Người giáo viên
cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khơi gợi tính tò mò tự nhiên của
các em. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư
liệu mang tính chất khác lạ thường khơi gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể
đoán trước được.
- Kĩ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân biết dung hòa đối với
mong đợi với những người khác, có cách ứng xữ phù hợp khi làm việc cùng và ở

cùng với những người khác trong một môi trường tập thể và diễn đạt ý tưởng của
mình cho người khác hiểu, học sinh cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong
thế giới xung quanh nó. Đây là một kĩ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó
có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kĩ năng khác như đọc, viết, làm toán và
nghiên cứu khoa học. Nếu các em cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay
chính kiến nào đó, các em sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy
nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp học sinh sẳn sàng học mọi thứ. Ngoài
ra, ở nhà trường giáo viên cần dạy học sinh nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó
dạy các em kĩ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ
trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng
trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ
không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau
khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp,
ngồi ngay ngắn, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
Giải pháp 3: Xác định nhiệm vụ cơ bản và phân công trách nhiệm trong việc
dạy:
Giáo viên có thể làm được gì để dạy kĩ năng sống cho trẻ? Cần tích cực đổi mới
phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của học sinh ,
cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi học sinh . Vì
mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học sinh như thế nào để các em
cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. Cần thường xuyên tổ chức


các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục các em một cách thích hợp tuân theo một
số quan điểm: Giúp các em phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ,
nhận thức, tình cảm- xã hội và thẫm mĩ. Phát huy tính tích cực của các em, giúp các
em hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kĩ năng vào
việc giải quyết các tinh huống khác nhau. Cần giúp các em có được những mối liên
kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, các em biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần
phải học về cách hành xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi

vào trong các nhóm học sinh khác nhau, giúp các em luôn cảm thấy tự tin khi tiếp
nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc các em có cảm thấy thoải mái, tự
tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh
chấp nhận đứa học sinh đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho học sinh sự tự tin, thoải
mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ
vì những hành vi không đẹp của các em. Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp
thời nắm tình hình của các em, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp
chăm sóc và giáo dục các em tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp
phải.
Giải pháp 4: Tạo mối thân thiện và tạo môi trường thực hiện nhiệm vụ giáo
dục trẻ kĩ năng sống với học sinh.
Đầu tiên, sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo
viên chủ nhiệm, bản thân sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về
mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ
tương lai cũng như mong muốn của mình với các em. Đây là hoạt động giúp cô trò
hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện “Trường học thật sự trở
thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia
đình". Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của
học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo
viên luôn gò bó và áp đặt. Tiếp theo trong tuần đầu, bản thân cho học sinh tự do lựa
chọn vị trí ngồi của mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các
em: mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay không


thích...Và tiếp tục qua những tuần học sau, bản thân chú ý quan sát những biểu hiện
về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có
điều chỉnh phù hợp. Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và học sinh tăng cường đọc
sách, tôi đã tham mưu với hiệu trưởng đã trang bị, sách thư viện , sách Bác Hồ, Sách
Lịch sử , và các loại sách trang trí đẹp với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề : “tủ
sách Bác Hồ ”; “tủ sách lịch sử ”; “câu đố vui ”; “những con vật đáng yêu”;

“hoa trái bốn mùa”; …thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cở,
vừa tầm các em.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc nào, giờ
học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu quả cao tiếp
tục qua biện pháp tiếp theo.
Giải pháp 5: Rèn kĩ năng sống thông qua giáo dục những phẩm chất đạo đức
cho học sinh.
Giáo dục cho các em những chuẩn mực đạo đức về hành vi, thái độ đối với bạn
bè, thầy cô, bản thân mình. Ghi nhớ năm điều Bác Hồ dạy cho học sinh, học tập nội
quy của nhà trường, của đội, của lớp. Thường xuyên nêu gương người tốt, việc tốt
cho các thành viên khác để học tập , phấn đấu.
Động viên, khuyến khích, tuyên dương kịp thời những học sinh có sự cố gắng
vươn lên trong học tập và rèn luyện.
Kết hợp với hoạt động Đội, Sao thường xuyên phát động thi đua cùng với các
chủ đề khác nhau để học sinh rèn luyện học sinh như: “ Em làm kế hoạch nhỏ”, ‘
’Em làm công tác đền ơn đáp nghĩa’’, “ Đàn gà khăn quàng đỏ”, “ Áo ấm
đếntrường”, “ Tổ chức sinh hoạt dưới cờ ”...... Từ đó giáo dục truyền thống hào hùng
của dân tộc ta một cách sâu rộng đến từng em. Để các em noi gương học tập và rèn
luyện trở thành con ngoan, trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ.
Giải pháp 6: Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học.
Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả bản thân đã vận dụng vào
các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học; An toàn
giao thông .... để những giờ học sao cho các em được làm để học, được trải nghiệm
như trong cuộc sống thực.


Trong chương trình lớp 5, Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp
luật xã hội trở thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Giáo viên
phải sử dụng phương pháp dạy học đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh. Tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập

phong phú, đa dạng như: kể chuyện theo tranh; quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu
phẩm; phân tích, xử lí tình huống; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ,
vẽ tranh,…Sử dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: học theo
nhóm, theo dự án, đóng vai, trò chơi,…Và chính thông qua việc sử dụng các phương
pháp, kĩ thuật dạy học tích cực đó, học sinh đã được tạo cơ hội để thực
hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Hình thành cho
các em kĩ năng giao tiếp như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, nói lời yêu , đề nghị,
bày tỏ sự thông cảm và chia sẻ.... Kĩ năng tự nhận thức như biết xác định và đánh giá
bản thân. Kĩ năng xác định giá trị đó là có tình cảm và niềm tin vào các chuẩn mực,
hành vi đạo đức đã học. kĩ năng ra quyết định giải quyết vấn đề đó là bước đầu biết
lựa chọn và thực hiện cách ứng xử phù hợp với một số tình hình đạo đức đơn giản,
phổ biến trong cuộc sống hàng ngày. Kĩ năng tư duy phê phán là biết nhận xét đánh
giá các ý kiến, hành động, lời nói, việc làm, các hiện tượng trong đời sống hằng ngày
đối chiếu với các chuẩn mực đạo đức hằng ngày. Kĩ năng từ chối , học sinh biết từ
chối khi bị rủ rê lôi kéo làm những điều sai trái.Kĩ năng hợp tác đó là biết cách hợp
tác với bạn bè và mọi người xung quanh thực hiện các hoạt động tập thể, hoạt động
cộng đồng. Kĩ năng đặt mục tiêu, học sinh biết lập kế hoạch học tập, rèn luyện các
chuẩn mực đã học. Kĩ năng tìm kiếm và xữ lý thông tinh về các vấn đề, hiện tượng
trong đời sống thực tiển có liên quan đế các chuẩn mực đạo đức, pháp luất đã học. Kĩ
năng đảm nhận trách nhiệm, học sinh biết nhận và thực hiện trách nhiệm của bản
thân. Từ những kĩ năng đó học sinh có lối sống lành mạnh, các hành vi ứng xử phù
hợp với nền văn minh xã hội. Lối sống, hành vi như gọn gàng, ngăn nắp, nói lời đẹp,
chăm sóc bố mẹ, ông bà, hợp tác, giúp đỡ, chia sẻ với bạn…
Ví dụ: Khi dạy: “Hợp tác với người xung quanh” bản thân tổ chức cho các
em, khám phá bài học dựa vào các câu hỏi để học sinh cùng suy nghĩ và trả lời sau


đó giúp học sinh kết nối thông qua các hoạt động tìm hiểu bản chất của hợp tác. Hoạt
động ích lợi của việc hợp tác và cuối cùng là tìm hiểu các yêu câu trong hợp tác,. Sau
vài lời khuyến khích đầu tiên, bản thân tổ chức cho các em đứng thành vòng tròn

đóng vai, thảo luận, tổ chức các trò chơi,… Lúc đầu các em rất ái ngại không tự tin
khi đóng vai, thảo luận bày tỏ ý kiến trước lớp nhưng bản thân đã kịp thời nhắc nhở
các em những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi trường hòa
đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không còn những cái nhìn ái ngại. Thay vào
đó là những cánh tay tự tin cùng những câu nói rõ ràng, chắc
gọn, mạnh dạn hơn. Thông qua bài học học sinh có được kĩ năng biết hợp tác với bạ
bè và mọi người xung quanh trong công việc chung. Các em có kĩ năng đảm
nhận trách nhiệm hoàn tất nhiệm vụ khi hợp tác với bạn bè và người khác. Ngoài ra
các em còn có kĩ năng tư duy phê phán, biết phê phán những quan niệm sai, các hành
vi thiếu tinh thần hợp tác và kĩ năng biết ra uyết định đúng để biết hợp tác có hiệu
qủa. Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu là những bài
học như khám phá, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội. Bản thân
luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo điều kiện cho
các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn qua việc học.
Ở môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em, đó
là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Luyện tập làm báo cáo thống kê. Luyện tập làm
đơn. Luyện tập thuyết trình, tranh luận. Luyện tập viết đoạn đối thoại; phân vai, đọc
diễn màn kịch. Luyện tập làm biên bản cuộc họp( Môn tập làm văn). Kể chuyện
được chứng kiến hoặc tham gia. Kể chuyện lớp trưởng lớp tôi .... được lồng cụ thể
qua các tình huống giao tiếp, ứng xử phù hợp, tư duy sáng tạo, lắng nghe phản hồi
tích cực và kĩ năng hợp tác. Bản thân chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách
tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Bên cạnh đó, nhiều bài Luyện từ và câu có
nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài Tập đọc giới thiệu những văn bản
mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số kĩ năng giao tiếp cộng đồng , kĩ năng xác
định giá trị và thể hiện rõ xác định giá trị, thể hiện sự thông cảm hoặc phản hồi lắng


nghe tích cực,…hoặc cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra
những nội dung rèn kĩ năng sống. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng

nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như:
thực hành giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương
pháp tổ chức hoạt động nhóm, phương pháp hỏi đáp,...Thông qua các hoạt động trò
chơi học tập, được phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân,
đóng vai,…học sinh có được cơ hội rèn
luyện, thực hành nhiều kĩ năng sống cần thiết.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Lập chương trình hoạt động” môn Tập làm văn: bản thân
cho học sinh chuẩn bị kế hoạch hoạt động: Phân công chuẩn bị và chương trình cụ
thể vào cuối tiết. Nhóm nào lập được chương trình hoạt động , phân công cụ thể nhất
sẽ được tuyên dương. Không những vậy bản thân tổ chức cho các em trao đổi :
“Muốn tổ chức một hoạt động liên quan đế nhiều người đạt được kết quả tốt, các em
cần lập chương trình hoạt động như thế nào? ”... qua đó các em sẽ bộc lộ những suy
nghĩ của mình. Qua bài học các em có những kĩ năng sống đó là: Đảm nhận trách
nhiệm, có khả năng tổ chức lập kế hoạch và phối hợp hoạt động. Các em hợp tác có
hiệu quả, thuyết trình tự tin.
Rèn kĩ năng sống có hiệu quả còn được bản thân vận dụng khá nhiều trong trong các
môn học thông qua xử lí tình huống hay các trò chơi học tập có nội dung gần gũi với
cuộc sống hằng ngày của các em.
Ở môn Khoa học: Chương “Con người và sức khỏe”các bài: “Con người cần
gì để sống? Vai trò của các chất dinh dưỡng có trong thức ăn; Phòng một số bệnh do
thiếu chất dinh dưỡng; Phòng bệnh béo phì; Phòng tránh tai nạn đuối nước;...” giáo
dục các em hiểu rằng ăn uống đủ chất và hợp lí giúp cho chúng ta khoẻ mạnh, biết
phòng tránh một số bệnh lây qua đường tiêu hóa, biết những việc nên làm và không
nên làm để phòng tránh tai nạn đuối nước, có ý thức tự giác làm vệ sinh cá nhân hằng
ngày, tự giác thực hiện nếp sống vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho sức


khoẻ. Học sinh có kĩ năng phân tích và đối chiếu các đặc điểm.Biết tham gia các
hoạt động và nghỉ ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt.
Ngoài ra để các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông và các thương

tích khác, bản thân đã giáo dục các em thông qua các tiết: An toàn giao thông, Khoa
học, thi Giao thông thông minh trên Internet, hướng dẫn các em phòng chống tai nạn
giao thông và các thương tích khác bằng cách đưa ra những tình huống cho các em
xử lí.
Chẳng hạn: “Trẻ em dưới 7 tuổi phải đi cùng với ai khi đi trên đường và khi
qua đường? Đi bộ qua đường em phải đi ở đâu?”; “Khi đi bộ em đi ở đâu? Em có nên
chơi đùa trên đưòng làng không? Vì sao?”; “Khi ngồi trên xe máy em phải như thế
nào? Em hãy nêu cách đội mũ bảo hiểm? Nêu sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm?”;
“Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao tai nạn xảy
ra?”;...
Giáo dục cho các em tránh các tai nạn trên đường: không được chạy lao ra
đường, không được bám bên ngoài ô tô, không được thò tay, chân, đầu ra ngoài khi
đi trên tàu, xe, ghe, đò,...Như vậy, các em có thể tự lập, xử lí được những vấn đề đơn
giản khi gặp phải. Các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói,
suy nghĩ của mình với bạn bè, với thầy cô một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện
các kĩ năng này đã tạo ra được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia
một cách chủ động tích cực vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia sẻ
những kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó.
Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số chính
xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức, thái độ khác
với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi nói năng... đó
chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo nhóm tạo môi trường
làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua các hoạt động
trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp bầu không khí
học tập, lao động trở nên sôi động hơn. Tham gia sinh hoạt theo nhóm giúp các em


học sinh hưng phấn hơn trong học tập và tạo nên cách ứng xử hợp lý trong mọi tình
huống. Khi sinh hoạt nhóm phải luôn đưa ra nhiều tình huống tạo sự phát triển tư duy
cho các em. Đó cũng là cách tạo sự gần gũi giữa các em với nhau.

Ngoài ra, bản thân còn chú ý rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ
năng phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác qua các môn học: Ai
cũng biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quí báu của mỗi con người. Học tập tốt,
đạo đức tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện sức khỏe tốt cho học
sinh là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có được một sức khỏe tốt và bảo
vệ được nó thì thật không dễ. Dù vậy không có nghĩa là không làm được, nhiều khi
sức khỏe của các em phụ thuộc vào những điều rất giản dị. Đó chính là giáo dục một
lối sống khoa học.
Giải pháp 7: Giáo dục kĩ năng sống thông qua lao động hướng nghiệp.
- Lứa tuổi các em chưa yêu cầu ở mức độ công việc nặng. Bước đầu giáo viên giúp
các em làm quen với những buổi trực nhật, vệ sinh, chăm sóc hoa và đặc biệt là chú
trọng vệ sinh cá nhân hằng ngày.
- Lên lịch trực nhật cho từng tổ rõ ràng, cụ thể. Hướng dẫn tổ trưởng điều khiển,
quản lý việc trực nhật của các tổ viên.
- Cuối tuần có đánh giá, tuyên dương tổ, cá nhân có ý thức trực nhật tốt. Kết quả các
em rất thích công việc trực nhật, chăm sóc hoa.
Giải pháp 8: Công tác Đội Thiếu niên Tiền phong và tổ chức các hoạt động
vui chơi, rèn luyện thể lực bảo về sức khỏe.
Bao giờ tôi cũng xem mình là một người chị phụ trách Đội để chỉ đạo các hoạt
động trong lớp một cách thường xuyên nhịp nhàng.
Ví dụ: Trong các buổi sinh hoạt Đội, tôi luôn luôn kết hợp với giáo viên tổng
phụ trách Đội để nắm bắt chủ đề, chủ điểm hoạt động nhằm hướng dẫn lớp mình xây
dựng, thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua.
Tham mưu chặt chẽ với Ban chỉ huy Liên đội tuyên dương những em có thành tích
cao trong học tập, lao động vào Đội.


Triển khai kịp thời các phong trào, hoạt động của trường, Đội cho học sinh của lớp
mình như: phong trào mua tăm tre cho hội người mù huyện Lệ Thủy, ủng hộ bạn
nghèo, “áo ấm đến trường”….

Trong các buổi sinh hoạt để xây dựng ý thức tự quản, tính mạnh dạn tựn tin cho
học sinh bao giờ tôi cũng để mình điều khiển, hướng dẫn còn các em tự tổ chức các
hoạt động bằng năng lực, sự sáng tạo của mình.
Nề nếp sinh hoạt đầu giờ, giữa buổi các em đều nắm bắt rõ và thực hiện tốt.
Đặc biệt, việc bố trí ban chỉ huy chi đội hoạt động theo dõi hằng ngày khá đều
tay. Các phân đội trưởng có ý thức chăm lo đến chất lượng, kết quả của chi đội
mình. Để động viên khích lệ các em tôi thường tuyên dương, khen ngợi những phân
đội, những cá nhân tham gia tốt các hoạt động của Đội nên các em rất thích hoạt
động này.
- Thông qua những tiết học thể dục tôi luôn cho học sinh hiểu được tầm quan trọng
của việc rèn luyện thể dục thể thao.
- Tổ chức cho các em tập luyện các động tác thể dục trong chương trình và tập múa
các bài hát của Đội. Nhìn chung các em rất hào hứng.
- Luôn tạo không khí vui tươi thoải mái trong các tiết học bằng các trò chơi mà các
em yêu thích.
Giải pháp 9: Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động
giáo dục, vui chơi.
Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, bản thân đã phát động các
phong trào: “Nói lời hay làm việc tốt” qua cách ứng xử lễ phép như biết đi thưa về
trình, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cảm ơn khi
được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè, lễ phép với thầy cô và những người lớn
tuổi,... và tổng kết vào các tiết sinh hoạt lớp. Bản thân học cách lắng nghe, tìm hiểu
nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng những tình cảm, cử chỉ yêu thương của
mình khi yêu cầu điều gì đó với học sinh. Tránh nói nặng lời để các em bớt đi tính
hung hăng đối với những học sinh nghịch ngợm, mắc lỗi.


Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả bản thân còn vận dụng thông qua các hoạt
động ngoài giờ học. Đó là qua các buổi ngoại khóa của trường, lớp.
Ví dụ: Nhân ngày lễ Chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20-11. Đội đã phát

động phong trào thi làm báo tường giữa các chi đội trong toàn trường. Bản thân đã
hướng dẫn các em cùng sưu tầm bài và viết bài, vẽ và trang trí báo. Qua hoạt động
này rèn cho các em nhiều kĩ năng như: trình bày, trang trí,…các em rất nhiệt tình,
đoàn kết và hợp tác nhau rất tốt.
Ngoài ra, những buổi chào cờ, bản thân luôn khuyến khích các em xung phong
trả lời những câu hỏi mà thầy Tổng phụ trách hay hỏi. Luôn lắng nghe các nội dung,
hoạt động cần làm trong tuần. Nhờ vậy các em mạnh dạn dần và thực hiện tốt các
phong trào
Giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của các em.
Vì đối với học sinh bậc học tiểu học trò chơi có một vai trò rất quan trọng
trong việc rèn kĩ năng sống cho các em. Các em lớn lên, học hành và khám phá
thông qua trò chơi. Các hành động chơi đòi hỏi các em phải suy nghĩ, giải quyết các
vấn đề, thực hành các ý tưởng.

Không những thế, bản thân còn khuyến khích các

em cùng chia sẻ những cảm nhận, những suy nghĩ, những quan sát của mình với cô
với bạn một cách thoải mái, tự nhiên không gò bó, áp đặt.
Ngoài ra, ban thư viện cần tranh thủ đọc sách cho các em nghe trong mọi tình
huống như những lúc sinh hoạt đầu giờ, hoặc đọc sách các em nghe trong giờ sinh
hoạt lớp.Tăng cường kể cho các em nghe các câu chuyện cổ tích, câu chuyện trong
bài tập đọc, bài thơ,…để qua đó rèn luyện đạo đức cho các em, giúp các em hoàn
thiện mình, dạy các em yêu thương bạn bè, yêu thương con người.Tạo hứng thú cho
các em qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi,
phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
Giúp trẻ phát triển các kĩ năng sống qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui
tươi, lành mạnh trong nhà trừơng Phối hợp với chính quyền nhà trường tổ chức các
hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ



động, tự giác của học sinh. Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi
giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh. Căn cứ vào nội dung trên, tôi
đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt động một cách thiết thực, khuyến
khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ. Cụ thể như sau: Phát động học sinh làm
đồ chơi dân gian; sưu tầm các bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho học sinh theo phù
hợp theo từng lứa tuổi . Năm học này, khi có chỉ đạo thực hiện nội dung tăng cường
tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực
khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh tiểu học . Duy trì việc sinh hoạt ngoài giờ lên
lớp theo chủ điểm để học sinh được học được chơi. Phối hợp với Tổng phụ trách tổ
chức các cuộc thi trò chơi dân gian trong dịp đầu xuân như: Ô ăn quan Đập heo, Lò
cò, Cướp cờ, hội thi Vai điệu tuổi hồng, hội thi Vẽ những điều em mơ ước. Đồng thời
hàng tuần vào tiết chào cờ sáng thứ hai cho các em “Kể chuyện Bác Hồ”; Trò chơi Ai
nhanh? Ai đúng?
Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang trí lớp học
xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, bản thân đã hướng dẫn các
em trồng cây xanh và chăm sóc cây xanh trong lớp hàng ngày.
Một điều không thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các em
có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng bản thân luôn chú ý đến công tác động
viên, khen thưởng học sinh.
Giải pháp10: Động viên, khen thưởng học sinh.
Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng,
ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học bản thân đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các
em lớp mình phụ trách. Trao đổi với Ban chấp hành hội phụ huynh cùng phối hợp và
dành một khoản riêng để khen thưởng kịp thời động viên các em để tạo cho các em
có một động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện. Bản thân theo dõi hằng ngày, các em
có biểu hiện tốt thì ghi vào sổ tay, trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn
những bạn thực hiện tốt sẽ được một bông hoa điểm mười. Vì vậy, các em thi đua


nhau “ nói lời hay, làm việc tốt” và cuối tuần nào cũng có rất nhiều em được bông

hoa điểm mười.
Mỗi học kì, bản thân tổng kết một lần để khen thưởng những em đã đạt nhiều
hoa điểm mười bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi được tặng
những bông hoa điểm tốt và những món quà của cô giáo tặng. Vì thế các em không
ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông hoa mà cô giáo
thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em
sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn
trong cuộc sống.
Giải pháp 11: Giáo viên tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện dạy các em các
kĩ năng sống cơ bản
Tôi thấy gia đình ảnh hưởng rất lớn đối với trẻ về mọi mặt. Do đó tôi thường xuyên
gặp gỡ phụ huynh hoặc trao đổi cùng phụ huynh thông qua các buổi họp, thông qua
phiếu liên lạc để các bậc phụ huynh hiểu rõ mục đích nội dung giáo dục.Trong quá
trình trao đổi bao giờ tôi cũng giúp các bậc phụ huynh nắm chắc những ưu điểm,
nhược điểm của con em, động viên cha mẹ quan tâm đến con mình. Hơn nữa để tạo
mối quan hệ khăng khít thường xuyên giữ nhà trường và phụ huynh ngay từ buổi họp
đầu tiên của các cha mẹ. Giáo viên cũng đề nghị thành lập chi hội phụ huynh lớp để
các bậc cha mẹ truyền đạt lại những kế hoạch chung của trường, lớp nhằm giúp các
bậc phụ huynh khác hiểu rõ hơn.
Trong quá trình giáo dục kĩ năng sống kết hợp với phụ huynh thì phụ huynh phải
gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với các em và đảm bảo an toàn
cho các em. Tạo điều kiện tốt nhất cho các em vui chơi. Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến
khích các em nói lên quan điểm của mình, nói chuyện với các thành viên trong lớp,
trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình, cần giúp các em hiểu
rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn, cố gắng không chỉ trích các quyết định
của các em. Việc này sẽ hình thành kĩ năng tự kiểm soát bản thân, rèn
luyện tính tự tin cho các em khi tham gia các hoạt động và các buổi thảo luận tại



×