Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua dạy học môn tiếng việt lớp 4 trong chương trình VNEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.2 KB, 16 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 4
TRONG CHƯƠNG TRÌNH VNEN

Lệ Thuỷ, tháng 10 năm 2016


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 4
TRONG CHƯƠNG TRÌNH VNEN

Họ và tên: Lê Thị Mĩ Lệ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Phú Thủy

Lệ Thuỷ, tháng 10 năm 2016


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn sáng kiến:


“Giáo dục một người là đào luyện họ có thể đối đầu với mọi hoàn cảnh”
(Danh ngôn khuyết danh). Cuộc sống xô bồ và trẻ em thì như một tờ giấy mỏng
manh, nếu không bồi đắp cho chúng thêm cứng cáp thì sợ rằng chúng sẽ tan chảy
giữa dòng đời này. Đó là điều mà mỗi một giáo viên luôn phải tự nhắc nhở mình.
Bởi vậy, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, đặc biệt học sinh Tiểu học là rất thiết
yếu.
Trước đây, nền giáo dục của Việt Nam chỉ tập trung vào việc truyền thụ kiến
thức cho học sinh. Học chỉ để làm giàu thêm vốn kiến thức cho bản thân mình.
Còn lại kĩ năng sống thì tự bản thân các em phải tiếp xúc với kho kiến thức vô hạn
đó là cuộc sống. Anh nào tích luỹ được nhiều kĩ năng thì thích ứng tốt với cuộc
sông. Anh nào không giác ngộ cho mình được kĩ năng nào thì chới với khi các tình
huống trong cuộc sống xả ra.
Trong những năm trở lại đây, nhờ có tiếp xúc nhiều với các nền giáo dục
khác, giáo dục của ta đã có nhiều kế hoạch để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh,
sinh viên nói chung và học sinh Tiểu học nói riêng. Vì vậy, có nhiều đề tài cũng đã
nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, hầu như các tài liệu đó đều nói về giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh Tiểu học nói chung và ở nhiều môn học. Nhưng giáo dục
kĩ năng sống qua môn Tiếng Việt có nhiều thuận lợi vì bản thân nội dung bài học
đã buộc học sinh phải vận dụng rất nhiều kĩ năng( Tư duy sáng tạo, xúc cảm, trình
bày suy nghĩ, vấn đáp, giải quyết vấn đề,...)
Thêm vào đó kĩ năng sống thì phụ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh sống.
Có những phương pháp thì phù hợp với học sinh ở vùng miền này, nhưng cũng có
những phương pháp không áp dụng được cho vùng miền khác. Chính vì vậy, với
sự trăn trở của một nhà giáo ở vùng quê bán sơn địa đã thôi thúc tôi tìm hiểu và
nghiên cứu về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Qua một năm thử nghiệm có
hiệu quả, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến: Một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh thông qua dạy học môn Tiếng Việt lớp 4 trong chương trình
VNEN.
Điểm mới của đề tài chính là đi sâu vào một môn học mà ở đây là môn Tiếng
Việt lớp 4 chứ không phải tràn lan ra ở nhiều môn. Một điểm khác biệt nữa là sáng

kiến này áp dụng cho chương trình giảng dạy theo mô hình VNEN. Bởi vậy mà tuy
thời gian triển khai đề tài chưa nhiều nhưng cũng đã đem lại một số kết quả đáng
kể:


Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói
quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm ; nâng cao tính tự lực tự quản của
các em.
Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn
giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác. Chấm dứt việc nô đùa nguy
hiểm.
Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo
lực và các tệ nạn xã hội. Chấm dứt các vi phạm tụ tập đánh nhau .
2. Phạm vi áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến “Một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông
qua dạy học môn Tiếng Việt lớp 4 trong chương trình VNEN.” được áp dụng đối
với học sinh lớp 4. Đặc biệt là học sinh ở vùng nông thôn.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng của vấn đề mà sáng kiến cần giải quyết:
1. Thực trạng
Tại nhiều nước Tây phương, thanh thiếu niên đã được học những kỹ năng
sống về những tình huống sẽ xảy ra trong cuộc sống, cách đối diện và đương đầu
với những khó khăn, và cách vượt qua những khó khăn đó cũng như cách tránh
những mâu thuẫn, xung đột, bạo lực giữa người và người. Tại Hàn Quốc, học sinh
tiểu học được học cách đối phó thích ứng với các tai nạn như cháy, động đất, thiên
tai... tại Trung tâm điều hành tình trạng khẩn cấp Seoul
Tại Việt Nam, kỹ năng sống đang được quan tâm, tuy nhiên trong nhà
trường chủ yếu học sinh chỉ được dạy kỹ năng học tập và chính trị, còn việc giáo
dục kỹ năng sống chưa được quan tâm nhiều. Theo chuyên viên tâm lý Huỳnh Văn
Sơn, cố vấn Trung tâm chăm sóc tinh thần Ý tưởng Việt: "hiện nay, thuật ngữ kỹ

năng sống được sử dụng khá phổ biến nhưng có phần bị "lạm dụng" khi chính
những người huấn luyện hay tổ chức và các bậc cha mẹ cũng chưa thật hiểu gì về
nó".
Hiện nay kĩ năng sống đã có giáo trình riêng nhưng không phải cứ dạy ở
trong giáo trình với số tiết ít ỏi là có thể giáo dục được kĩ năng sống cho học sinh.
Mà hơn thế nữa, giáo dục kĩ năng sống phải được tích hợp trong tất cả các môn
học. Một thức trạng hiện nay cho thấy nhiều người nhầm kĩ năng sống là dũng
cảm, kiên trì,... Đây chỉ là các phẩm chất đạo đức, nó góp phần cho việc thực hiện
các kĩ năng sống chứ không phải chúng là các kĩ năng sống. Chính vì thế các em
học sinh đều chưa tích luỹ được cho mình các kĩ năng sống cần thiết. Chúng mới
chỉ có các kĩ năng sống theo bản năng mà thôi.
Mặc dù, ở một số môn học, các hoạt động ngoại khoá, giáo dục kĩ năng sống
đã được đề cập đến, tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải


chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao,
hơn nữa, ngành giáo dục vẫn chưa có một chương trình, quy định cụ thể về đưa
giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường.
Các chuyên gia cho rằng một khiếm khuyết rất lớn trong giáo dục và đào tạo
học sinh là “ Chúng ta mới chỉ nghiêng về đào tạo mà coi nhẹ phần giáo dục toàn
diện cho học sinh.
Qua thực tế giảng dạy ở lớp 4, tôi thấy kĩ năng sống của học sinh chưa cao.
Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có
nhận xét đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô
chuẩn mực.
Qua tiến hành khảo sát lớp 4A đầu năm học với nội dung “kĩ năng của em”
có kết quả như sau:
Tổng số học
sinh
28


Kĩ năng tốt
SL
%
5
17.9

Có hình thành kĩ năng
SL
%
13
46.4

Kĩ năng chưa tốt
SL
%
10
35.7

Thực hành thảo luận nhóm
Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra
Tổng số Biết cách lắng nghe, hợp tác
khỏi nhóm
học sinh
SL
%
SL
%
28
12

42.9
17
60.7
Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Biết cách ứng xử hài hòa, khá
Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi.
phù hợp.

Tổng số
học sinh
28

SL

%

SL

%

15

53.6

13

46.4

Về tổng hợp năng lực, phẩm chất và kiến thức đầu năm như sau:
Tổng

số học
sinh

Năng lực

Phẩm chất

Kiến thức

Đạt

Chưa đạt

Đạt

Chưa đạt

Hoàn thành

Chưa hoàn
thành

28

24

4

25


3

23

5

- Học sinh thể hiện kĩ năng còn đại khái, chưa mạnh dạn thể hiện kĩ năng
bản thân. Học sinh ngại nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tòi của học sinh còn
hạn chế. Chính vì thế khả năng tiếp thu và lĩnh hội kiến thức còn chậm.


2. Nguyên nhân:
Những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế - xã hội đã và đang tác động mạnh mẽ
đến đời sống của con người. nếu như trong xã hội truyền thống, các giá trị xã hội
được coi trọng và được các cá nhân tuân thủ một cách nghiêm túc thì nay đang dần
bị mờ nhạt và thay vào đó là những giá trị mới được hình thành trên cơ sở giao
thoa giữa các nền văn hoá, văn minh khác nhau. Việt Nam không nằm ngoài quy
luật đó, đặc biệt là các địa phương có tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá nhanh
chóng.
Những thay đổi nói trên còn ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục con cái của
gia đình cũng có những biến đổi nhất định. Cha mẹ ít có thời gian quan tâm đến
con cái hơn là một thực tế không thể phủ nhận, thay vào đó là các hoạt động kinh
tế, tìm kiếm thu nhập. Trong nhà trường, hiện tượng quá tải với các môn học cũng
đang gây nhiều áp lựcđối với người học. Cùng với đó là những tác động nhiều
chiều của các nguồn thông tin khác nhau từ xã hội khiến cho giới trẻ đặc biệt là
học sinh và sinh viên đang đứng trước nhiều thách thức khi hoà nhập xã hội. Các
kĩ năng sống đã xem nhẹ trong một thời gian dài.
- Sự hướng dẫn của thầy cô giáo, nhà trường về kĩ năng sống cho học sinh
chưa thật cụ thể, chưa dễ hiểu.
- Giáo viên chưa chuẩn bị chu đáo, hướng dẫn học sinh thực hành rèn kĩ

năng sống chưa kĩ.
- Học sinh thiếu sự quan tâm, ít trau dồi về kĩ năng sống.
Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không ít đến quá trình hình thành kĩ
năng sống cho học sinh.
II.

Các giải pháp:

1. Giải pháp:
Để đạt được hiệu quả tối đa các nội dung giáo dục đó, tôi mạnh dạn đưa ra
một số giải pháp sau:
Giải pháp 1: Nắm vững khái niệm về kĩ năng sống và các nội dung tích
hợp trong môn Tiếng Việt.
Trước hết để giáo dục kĩ năng sống thì bản thân chúng ta phải hiểu rõ kĩ
năng sống là gì?
Tổ chức Y tế Thế giới WHO định nghĩa kỹ năng sống là "khả năng thích
nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu
cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày". Trong giáo dục tiểu học và giáo
dục trung học, kỹ năng sống có thể là một tập hợp những khả năng được rèn luyện
và đáp ứng các nhu cầu cụ thể của cuộc sống hiện đại hóa; ví dụ cuộc sống bao


gồm quản lý tài chính (cá nhân), chuẩn bị thức ăn, vệ sinh, cách diễn đạt, và kỹ
năng tổ chức. Đôi khi kỹ năng sống, nhưng không phải luôn luôn, khác biệt với các
kỹ năng nghiệp vụ (trong nghề nghiệp).
Kĩ năng sống thực sự bao gồm:
Kỹ năng thoát hiểm: Trong tai nạn hay tình huống nguy hiểm xảy ra, nếu
giỏi văn, giỏi toán mà không biết cách thoát hiểm thì cái giỏi kia trở nên công cốc.
Lúc bấy giờ, việc cần làm là phải biết cách thoát ra khỏi nơi nguy hiểm một cách
an toàn và hiệu quả. Những kỹ năng này bao gồm: thoát khỏi hỏa hoạn, ngập lụt,

động đất, tai nạn thương tích, xâm hại hay bắt cóc. Đây là những kỹ năng vô cùng
quan trọng mà khi đối mặt với hiểm nguy ta mới thấy việc hiểu biết về nó thật sự là
tài sản quý giá nhất trong kho tàng hiểu biết của mỗi cá nhân.
Kỹ năng ứng phó, ứng biến: Nhiều tình huống không phải là nguy hiểm
nhưng tiềm tàng mối hiểm nguy, nếu biết cách ứng xử phù hợp thì thiệt hại sẽ là
nhỏ nhất.
Kỹ năng sử dụng các vật dụng (mọi vật dụng và đặc biệt là vật dụng nguy
hiểm): Những vật dụng này có khả năng gây sát thương nhưng lại không thể thiếu
trong cuộc sống của chúng ta như: Dao, kéo, kim, búa, đinh, điện... Sử dụng những
vật dụng này một cách an toàn là đích mà ai cũng muốn học.
Kỹ năng khám phá cuộc sống một cách an toàn và hiệu quả: Một cháu bé
xem máy tính rất "cao thủ", thông tin gì cũng biết nhưng không biết các nguyên tắc
nghiên cứu an toàn. Dĩ nhiên, nguy cơ tai nạn sẽ là rất cao. Nếu vậy thì làm sao bé
tìm hiểu được khoa học. Biết cách tìm hiểu và khám phá một cách an toàn, hiệu
quả là việc phải học ngay. Chỉ có tự khám phá mới nâng cao liên tục những hiểu
biết trong trí não trẻ.
Kỹ năng quản lý thời gian, tiền bạc: Trong cuộc sống, kiếm tiền thật sự rất
khó khăn. Vì thế, tiêu pha tiền bạc làm sao cho hiệu quả mà vẫn tiết kiệm là bài
toán mà ngay cả người lớn cũng gặp khó. Nếu được học cách tính toán để chi tiêu
hợp lý, chắc chắn sẽ giúp trẻ rất nhiều trong cuộc sống hiện tại và tương lai.
Nhiều bạn trẻ bây giờ gặp khó khăn khi thời gian trôi qua hoang phí vì hiệu
suất học hành và lao động không cao. Để sắp xếp cuộc sống ổn thỏa chắc chắn trẻ
cần những kỹ năng quản lý thời gian hiệu quả.
Kỹ năng xác định phương hướng, đường đi: Trong cuộc đời mỗi con người,
chúng ta di chuyển trên đường với các phương tiện giao thông chiếm rất nhiều thời
gian. Xác định phương hướng chính xác, nhanh chóng tìm được đường đi là một
kỹ năng hiệu quả vừa để tiết kiệm thời gian và tiền bạc, vừa giúp chúng ta hình
dung công việc dễ dàng hơn.
Kỹ năng thể hiện và thuyết phục người khác: Đây là kỹ năng giao tiếp, trình
bày một vấn đề nào đó. Kỹ năng này thực ra rất dễ thực hiện nếu như ta đã có toàn



bộ những kỹ năng ở trên. Bởi khi trong đầu chúng ta là một biển kiến thức và kinh
nghiệm sống, việc tham gia vào một cuộc đàm đạo sẽ không khiến ta quá lo âu và
lúng túng. Vì vậy, giờ chỉ có học cách nói năng cho lưu loát và tự tin là xong.
Hy sinh bản thân vì tập thể: Đôi khi trong cuộc sống, hy sinh cái tôi của
chính mình sẽ đem lại lợi ích to lớn cho tập thể và cộng đồng. Nếu trẻ nhỏ hiểu
được điều này, không những trẻ đóng góp được nhiều công sức cho đất nước mà
còn giúp xác định được lý tưởng sống và xây dựng khát vọng sống.
Có kế hoạch về toàn bộ nội dung giáo dục kĩ năng sống tích luỹ trong
chương trình môn Tiếng Việt.
Cụ thể như sau:
BÀI

1

2

3

4

5
6

NỘI DUNG BÀI

CÁC KĨ NĂNG SỐNG CẦN ĐẠT
-Thể hiện thông cảm
Dế mèn bệnh vực kẻ yếu

- Xác định giá trị
- Tự nhận thức về bản thân
- Thể hiện thông cảm
Mẹ ốm
- Xác định giá trị
- Tự nhận thức về bản thân
- Thể hiện thông cảm
Dế mèn bệnh vực kẻ yếu (tt) - Xác định giá trị
- Tự nhận thức về bản thân
Tả ngoại hình của nhân vật
- Tìm kiếm và xử lí thông tin
trong bài văn kể chuyện
- Tư duy sáng tạo
- Giao tiếp ứng xử lịch trong giao tiếp
- Thể hiện sự cảm thông
Thư thăm bạn
- Xác định giá trị
- Tư duy sáng tạo
- Giao tiếp ứng xử lịch trong giao tiếp
Viết thư
- Tìm kiếm và xử lí thông tin
- Tư duy sáng tạo
- Giao tiếp ứng xử lịch trong giao tiếp
Người ăn xin
- Thể hiện sự cảm thông
- Xác định giá trị
- Xác định giá trị
Một người chính trực
- Tự nhận thức về bản thân
- Tư duy phê phán

- Xác định giá trị
Những hạt thóc giống
- Tự nhận thức về bản thân
- Tư duy phê phán
Nỗi dằn vặt của An –đrây -ca - Ứng xử lịch sự trong giao tiếp
- Thể hiện sự cảm thông
- Xác định giá trị


7

8

9

11

12

13

14

- Ứng xử lịch sự trong giao tiếp
- Thể hiện sự cảm thông
Chị em tôi
- Xác định giá trị
-Lắng nghe tích cực
- Xác định giá trị
Trung thu độc lập

- Đảm nhận trách nhiệm (xác định nhiệm vụ
của bản thân)
- Tư duy sáng tạo, phân tích, phán đoán
LT phát triển câu chuyện
- Thể hiện sự tự tin
- Hợp tác
- Tư duy sáng tạo, phân tích, phán đoán
LT phát triển câu chuyện
- Thể hiện sự tự tin
- Xác định gía trị
-Lắng nghe tích cực
Thưa chuyện với mẹ
- Giao tiếp
- Thương lượng
- Thể hiện sự tự tin
KC được chứng kiến hoặc
-Lắng nghe tích cực
tham gia
- Đặt mục tiêu
- Kiên định
- Thể hiện sự tự tin
LT trao đổi ý kiến với người -Lắng nghe tích cực
thân
- Thương lượng
- Đặt mục tiêu, kiên định
- Xác định gía trị
Có chí thì nên
- Tự nhận thức về bản thân
-Lắng nghe tích cực
- Thể hiện sự tự tin

LT trao đổi ý kiến với người -Lắng nghe tích cực
thân
- Giao tiếp
- Thể hiện sự cảm thông
- Xác định gía trị
Vua tàu thuỷ Bạch Thái Bưởi - Tự nhận thức về bản thân
- Đặt mục tiêu
- Xác định gía trị
- Tự nhận thức về bản thân
Văn hay chữ tốt
- Đặt mục tiêu
- Kiên định
- Thể hiện sự tự tin
Kể chuyện được chứng kiến
- Tư duy sáng tạo
hoặc tham gia
-Lắng nghe tích cực
Chú Đất nung
- Xác định gía trị
- Tự nhận thức về bản thân
- Thể hiện sự tự tin


15
16

19

20


21

23

24

25

- Xác định gía trị
Chú Đất nung (TT)
- Tự nhận thức về bản thân
- Thể hiện sự tự tin
Dùng câu hỏi vào mục dích
- Thể hiện thái độ lịch sự trong giao tiếp
khác
-Lắng nghe tích cực
Giữ phép lịch sự khi đặt câu - Thể hiện thái độ lịch sự trong giao tiếp
hỏi
-Lắng nghe tích cực
- Tìm kiếm và xử lí thông tin
LT giới thiệu địa phương
- Thể hiện sự tự tin
- Giao tiếp
- Tự nhận thức, xác định giá trị bản thân
Bốn anh tài
- Hợp tác
- Đảm nhận trách nhiệm
- Tự nhận thức, xác định giá trị bản thân
Bốn anh tài (TT)
- Hợp tác

- Đảm nhận trách nhiệm
- Thu thập, xử lí thông tin( về địa phương
cần giới thiêu)
LT giới thiệu địa phương
- Thể hiện sự tự tin
- Lắng nghe tích cực, cảm nhận, chia sẻ,
bình luận ( về bài giới thiệu)
- Tự nhận thức, xác định giá trị bản thân
Anh hùng Trần Đại Nghĩa
- Tư duy sáng tạo
- Giao tiếp
KC được chứng kiến hoặc
- Thể hiện sự tự tin
tham gia
- Ra quyết định
- Tư duy sáng tạo
- Giao tiếp
Khúc hát ru những em bé trên - Đảm nhận trách nhiệmphù hợp với lứa
lưng mẹ
tuổi
- Lắng nghe tích cực
- Tự nhận thức, xác định giá trị bản thân
Vẽ về cuộc sống an toàn
- Tư duy sáng tạo
- Đảm nhận trách nhiệm
- Giao tiếp
Kể chuyện được chứng kiến - Thể hiện sự tự tin
hoặc tham gia
- Ra quyết định
- Tư duy sáng tạo

- Tìm kiếm vad xử lí thông tin, phân tích,
Tóm tắt tin tức
đối chiếu
- Đảm nhận trách nhiệm
Khuất phục tên cướp biển
- Tự nhận thức: xác định giá trị bản thân
- Ra quyết định
- Ứng phó, thương lượng


LT tóm tắt tin tức

26

Thắng biển

Ga-vrốt ngoài chiến luỹ
27
Kể chuyện được chứng kiến
hoặc tham gia
Luyện tập tóm tắt tin tức
29

30

Giữ phép lịch sự khi yêu cầu
đề nghị
Hơn một nghìn ngày vòng
quanh trái đất
Điền vào giấy tờ in sẵn


31

Kể chuyện được chứng kiến
hoặc thamgia

32

Khát vọng sống

34

Tiếng cuời là liều thuốc bổ

-Tư duy sáng tạo: bình luận, phân tích
- Tìm kiếm và xử lí thông tin, phân tích, đối
chiếu
- Ra quyết định: tìm kiếm các lựa chọn
- đảm nhận trách nhiệm
- Giao tiếp: thể hiếnự cảm thông
- Ra quyết định. ứng phó
- Đảm nhận trách nhiệm
- Tự nhận thức: xác định giá trị bản thân
- Đảm nhận trách nhiệm
- Ra quyết định
- Giao tiếp: trình bày suy nghĩ, ý tưởng
- Tự nhận thức, đánh giá
- Ra quyết định: tìm kiếm các lựa chọn
- Làm chủ bản thân: đảm nhận trách nhiệm
- Tìm và xử lí thông tin, phân tích, dối chiếu

-Đảm nhận trách nhiệm
- Giao tiếp: ứng phó, thể hiện sự cảm thông
-Thương lượng
-Đặt mục tiêu
- Tự nhận thức, xác định giá trị bản thân
- Giao tiếp: trình bày suy nghĩ, ý tưởng
- Thu thập, xử lí thông tin
- Đảm nhận trách nhiệm công dân
- Giao tiếp: trình bày suy nghĩ, ý tưởng
- Tự nhận thức, đánh giá
- Ra quyết định: tìm kiếm các lựa chọn
-Làm chủ bản thân: đảm nhận trách nhiệm
- Tự nhận thức, xác định giá trị bản thân
- Tư duy sáng tạo: bình luận nhận xét
- Làm chủ bản thân: đảm nhận trách nhiệm
- Kiểm soát
- Ra quyết định: tìm kiếm các lựa chọn
- Tư duy sáng tạo: nhận xét, bình luận

Giải pháp 2 : Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh
Đầu tiên, sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và
giáo viên chủ nhiệm, bản thân sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu
về mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước
mơ tương lai cũng như mong muốn của mình với các em. Đây là hoạt động giúp cô
trò hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện “Trường học thật


sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân
trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả năng
giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi

trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt.
Tiếp theo trong tuần đầu, bản thân cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi
của mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn
hay nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay không thích...Và tiếp tục
qua những tuần học sau, bản thân chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học
tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh
phù hợp.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc
nào, giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu quả
cao tiếp tục qua biện pháp tiếp theo.
Giải pháp 3: Chọn những kĩ năng cần thiết phù hợp địa phương:
* Chọn những kĩ năng phù hợp, gần gũi với học sinh. Các em có khả năng trực
tiếp thực hành kĩ năng sau khi tiếp cận.
Ví dụ: Thực hành kĩ năng: Giao tiếp, ứng xử lịch sự, xưng hô đúng mực
trong giao tiếp với bạn.
* Học sinh dự đoán các kĩ năng, yêu cầu của các kĩ năng cần đạt được sau khi
học xong tiết học này:
Đây là khâu chuẩn bị rất quan trọng đối với giáo viên và học sinh.
Học sinh đọc nội dung bài học, yêu cầu bài.
* Gọi những học sinh nêu các kĩ năng thông qua bài học:
Giáo viên cho học sinh nêu các yêu cầu, kĩ năng sau khi đọc trước bài học
* Hướng dẫn học sinh nắm được mục tiêu cần đạt sau khi học. Từ đó xác định
các kĩ năng cần đạt:
Tạo ra hứng thú, cảm xúc, lưu ý đó phải là cảm xúc riêng, thật, phải có sự
liên tưởng từ đó xác định những yêu cầu của kĩ năng cần đạt.
* Giáo viên chuẩn bị các câu hỏi gợị ý hướng dẫn học sinh tự xác định các kĩ
năng sống cần đạt
VD: Nêu mục tiêu cần đạt của bài?
Theo em cần làm gì để đạt được điều đó?
Sau khi học xong bài này em rút ra điều gì?

Em sẽ ứng dụng như thế nào, làm gì trong cuộc sống hàng ngày khi gặp
trường hợp như trong bài?
* Giáo viên cần chuẩn bị một giáo án lồng ghép các kỹ năng cần thiết ( có
nêu ra cụ thể các kĩ năng học sinhcần đạt sau khi học bài này; các kĩ thuật dạy học
sử dụng trong bài dạy; các phương tiện cần thiết phục vụ cho tiết dạy…)


Giải pháp 4: Tổ chức cho học sinh thực hành kĩ năng sống vừa được học
Tuỳ theo bài, giáo viên tổ chức cho các em hoạt động nay tại lớp với tình
huống tương tự bài học để học sinh tự tìm ra hướng giải quyết vấn đề, sau đó học
sinh tự nêu các kĩ năng mà em đã ứng dụng để giải quyết vấn đề đó.
Ví dụ: Ở bài 3B: Tiết 1: Đọc- hiểu bài Người ăn xin. Sau khi tìm hiểu xong
nội dung bài, tôi cho học sinh đóng vai thể hiện lại nội dung bài. Việc làm này vừa
giúp học sinh nắm được nội dung bài, vừa cho các em thực hành ứng xử khi gặp
những người có hoàn cảnh khó khăn.
Giải pháp 5: Tổ chức hoạt động với nhiều phương pháp tạo sự hứng thú
cho học sinh như: đóng vai, trò chơi,…
Một khi nội dung học được kết hợp vào trò chơi, đóng vai thường gây được
sự thích thú với học sinh. Các em được thể hiện bản thân mình một cách rõ rệt. Từ
đó, sử dụng nhiều biện pháp hỗ trợ kịp thời giúp học sinh phát huy tối đa các kĩ
năng mình có.
Ví dụ: Khi dạy Tập làm văn các bài: “Luyện tập trao đổi ý kiến với người
thân”, “Luyện tập giới thiệu địa phương, … bản thân tổ chức cho các em, đóng
vai, chơi trò chơi. Sau vài lời khuyến khích đầu tiên, bản thân tổ chức cho các em
đứng thành vòng tròn đóng vai, giới thiệu, bày tỏ ý kiến,… Lúc đầu các em rất ái
ngại không tự tin khi đóng vai, bày tỏ ý kiến trước lớp nhưng bản thân đã kịp thời
nhắc nhở các em những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi
trường hòa đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không còn những cái nhìn ái
ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng những câu nói rõ ràng, chắc gọn,
mạnh dạn hơn.

Trong bài 29: “Giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị”: bản thân cho
học sinh chuẩn bị những hộp thư: Yêu cầu, đề nghị và tổng kết lại vào cuối tiết.
Em nào nêu được nhiều câu yêu cầu, đề nghị lịch sự nhất sẽ được tuyên dương.
Không những vậy bản thân tổ chức cho các em trao đổi : “Theo em, như thể nào là
lịch sự khi yêu cầu, đề nghị?” “Em đã lịch sự khi yêu cầu đề nghị chưa?”... qua đó
các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình.
Nếu không thể tổ chức thực hành được thì giáo viên hướng dẫn học sinh tự
tìm hiểu các tình huống tương tự mà các em đã gặp ở cuộc sống thường ngày, ghi
chép lại và nêu cách giải quyết của bản thân để hôm sau trình bày trong nhóm cho
các bạn nghe và bổ sung chọn cách giải quyết tốt nhất.
Giải pháp 5: Động viên khen thưởng
Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ
năng sống. Tôi theo dõi hằng ngày các em có biểu hiện tốt ghi vào sổ, trong tiết
sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được một
bông hoa thật ý nghĩa để dành tặng mẹ và cô giáo của mình. Vì thế các em không


ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông hoa mà cô giáo
thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em
sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn
trong cuộc sống.
2. Kết quả:
Qua khảo sát lần 2 ở lớp 4A ( cuối năm) với chủ đề “ Kĩ năng của em”; kết
quả so với đầu năm thì các em tiến bộ rất nhiều. Cụ thể như sau:
Tổng số học
sinh
28

Kĩ năng tốt
SL

%
17
60.7

Có hình thành kĩ năng
SL
%
11
39.3

Kĩ năng chưa tốt
SL
%
0
0

Thực hành thảo luận nhóm
Chưa biết cách lắng nghe, hay tách
Biết cách lắng nghe, hợp tác
ra khỏi nhóm
SL
%
SL
%
28
100
0
0

Tổng số

học sinh
28

Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Biết cách ứng xử hài hòa, khá
Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi
phù hợp.
chơi.
SL
%
SL
%
28
100
0
0

Tổng số
học sinh
28

Về tổng hợp năng lực, phẩm chất và kiến thức đầu năm như sau:
Tổng
Năng lực
Phẩm chất
Kiến thức
số học Đạt
Chưa đạt
Đạt
Chưa đạt

Hoàn thành
Chưa hoàn
sinh
thành
28

28

0

28

0

28

0

Qua việc thực hiện các biện pháp trên, bản thân nhận thấy các em có tiến bộ
rõ rệt. Đa số các em đều có ý thức tốt trong việc rèn luyện các kĩ năng, được thể
hiện rõ qua: Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp, trong nhiều nghi thức lời nói, các
em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào thực tế, những lời chào, cảm ơn hay
xin lỗi, những yêu cầu, đề nghị lịch sự,... đã trở thành thói quen được các em vận
dụng hằng ngày. Các em rất hăng hái phát biểu trong tiết học và luôn được nhận cờ
luân lưu trong tuần. Phụ huynh học sinh rất vui mừng phấn khởi với kết quả này
của lớp.
C. PHẦN KẾT LUẬN


I. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của sáng kiến:

Như vậy bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố gắng rèn cho học
sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh
trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí
trong mọi trường hợp.
Muốn vậy, giáo viên cần phải nắm được các phương pháp đặc trưng việc
giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh, biết lựa chọn phương pháp, kĩ
thuật dạy học phù hợp, kết hợp hình thức dạy học hợp lí nhằm phát huy tính chủ
động của học sinh sẽ giúp các em phát huycao độ trí tuệ, cảm xúc, năng động, sáng
tạo trong học tập và giao tiếp.
Một trong những yêu cầu quan trọng để thực hiện việc lồng ghép giáo dục kĩ
năng sống vào bài học trên lớp là giáo viên phải tìm ra được mối liên hệ giữa các
kĩ thuật dạy học với nội dung rèn luyện kĩ năng sống. Chẳng hạn, với học sinh tiểu
học, để hình thành nhóm kĩ năng nhận thức bao gồm: nhận thức bản thân, xây
dựng kế hoạch, xác định điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, khắc phục khó khăn
để đạt mục tiêu, tư duy tích cực và tư duy sáng tạo ….Giáo viên cần sáng tạo rất
nhiều tình huống trong bài học để học sinh qua đó tự hình thành các kĩ năng này.
Để làm tốt nhiệm vụ này, đòi hỏi ở Giáo viên một tinh thần trách nhiệm và
khả năng sáng tạo rất cao.
"Không thể trồng cây ở những nơi thiếu ánh sáng, cũng không thể nuôi
dạy trẻ với chút ít nhiệt tình ." ( Can Jung )
Vì vậy, giáo dục kĩ năng sống chỉ thất sự có hiệu quả khi người thầy có tâm
huyết, sự kiên nhẫn và nhất là phải có thời gian. Giáo dục kĩ năng sống không phải
chỉ là công việc của giáo viên, nhà trường mà của cả xã hội , cộng đồng. Phải kết
hợp cả gia đình, nhà trườngvà xã hội mới mong đào tạo đượặonhngx học sinh phát
triển toàn diện.
II. Những kiến nghị, đề xuất.
Là giáo viên, bản thân hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng người. Vì
thế, bản thân luôn cố gắng trau dồi sách vở, học hỏi từ đồng nghiệp cũng như đúc
kết kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên môn. Bản
thân đã luôn tôn trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các em được nói, được

diễn đạt, bày tỏ thoải mái ở mọi nơi mọi lúc để các em có cơ hội phát triển một
cách toàn diện.
Về phía nhà trường: Hiện nay đã có giáo trình dạy Kĩ năng sống cho học
sinh, nhưng thiết nghĩ như vậy vẫn chưa đủ. Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên
môn, Nhà trường và phụ trách chuyên môn cần quán triệt về nội dung tích hợp kĩ
năng sống trong quá trình dạy học tất cả các môn nói chung và môn Tiếng Việt nói
riêng.
Về phía phụ huynh: Trước hết là cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc rèn
luyện kĩ năng sống cho con em, tạo một chỗ dựa vững chắc để trẻ chia sẻ, bày tỏ,
luôn phối kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các em, theo
dõi mọi biểu hiện của trẻ để có sự giáo dục cho phù hợp.


Trên đây là những suy nghĩ của bản thân về việc nghiên cứu một số biện
pháp giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua dạy học môn
Tiếng Việt chương trình VNEN.
Bản thân đã cố gắng áp dụng những kinh nghiệm, sáng tạo thêm những
phương pháp mới nhằm nâng cao nhiều kĩ năng sống tốt cho học sinh từ môi
trường giáo dục ở nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực tốt, lối
sống lành mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại niềm
vui, hạnh phúc cho các em, gia đình và xã hội. Rất mong được nhận sự giúp đỡ.
Góp ý bổ sung của Ban giám hiệu nhà trường, các cấp quản lý giáo dục và giáo
viên đồng nghiệp để bản sáng kiến của bản thân có được những kinh nghiệm bổ
ích có thể áp dụng cho các năm học sau.
Xin chân thành cảm ơn !



×