Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

chức năng QLNN về KT. Liên hệ ngành tài chính ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.53 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................................1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CÁC CHỨC NĂNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ..........................2
Với vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, ngành tài chính ngân hàng ở nước ta hiện nay
được trang bị tương đối đầy đủ hệ thống văn bản pháp luật ở mọi hoạt động. Đây cũng là lĩnh vực
có số lượng lớn và được cập nhật nhiều nhất các văn bản pháp luật. Trong 10 năm trở lại đây, nhà
nước đã ban hành trên 400 các Luật, Nghị định, Thông tư và các văn bản hướng dẫn khác liên quan
đến lĩnh vực ngân hàng tài chính, một số văn bản thường gặp có thể kể đến: Luật Ngân hàng nhà
nước Việt Nam số 46/2010/QH2012; Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được sửa đổi và
bổ sung bởi Luật số 17/2017/QH14; Luật bảo hiểm tiền gửi số 06/212/QH13; Nghị định
16/2017/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Nghị định 59/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động của ngân hàng thương mại; Nghị định 07/2009/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ của các
ngân hàng thương mại….........................................................................................................................12
KẾT LUẬN........................................................................................................................................................20
Tài liệu tham khảo:..........................................................................................................................................21


LỜI MỞ ĐẦU
Quản lý kinh tế là chức năng rất quan trọng trong hệ thống các chức năng của
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có tác động đến hầu hết các hoạt
động của nhà nước và đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội.
Trong 30 năm qua, để tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển của kinh tế thị
trường và đáp ứng với yêu cầu, đòi hỏi của sự phát triển đó, vai trò quản lý nhà
nước về kinh tế cũng từng bước được đổi mới. Nhà nước giảm bớt các chỉ tiêu pháp
lệnh, thu hẹp và từng bước xóa bỏ việc quản lý hoạt động sản xuất – kinh doanh
của các doanh nghiệp nhà nước bằng kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp. Thay
vào đó là Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế thông qua pháp luật, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách, các công cụ kinh tế và lực lượng vật chất cần
thiết. Nhà nước cũng là một chủ thể kinh tế trên thị trường, thực hiện vai trò chủ


đạo thông qua hoạt động đầu tư vốn, quản lý tài sản công; tách quyền sở hữu và
quyền quản lý, sử dụng; phân cấp và điều tiết để phát huy tính chủ động, sáng tạo
của địa phương và cơ sở; xóa bỏ các hình thức bao cấp; hạn chế, kiểm soát và xóa
bỏ độc quyền kinh doanh…
Sau hơn 30 năm đổi mới, nhờ thực hiện tốt các chức năng quản lý, đất nước ta
đã bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và tình trạng kém phát triển, đứng
vào hàng ngũ các nước đang phát triển có thu nhập trung bình, phát triển theo
hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng
trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được
hình thành, phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện; nền độc lập, tự chủ của
đất nước được giữ vững trong điều kiện hội nhập.
Trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, tài chính- ngân hàng đóng vai trò cực kỳ
quan trọng, là mạch máu lưu thông tiền tệ, điều phối nguồn lực, cung cấp nguồn
vốn cho nền kinh tế vận hành và phát triển. Do đó, ở bất kỳ quốc gia nào, tài chính
ngân hàng luôn là lĩnh vực được nhà nước đặc biệt quan tâm và quản lý chặt chẽ.
Mặc dù nhận thức được vai trò quan trọng của ngành tài chính ngân hàng trong nền
kinh tế, tuy nhiên ở nước ta hiện nay, vấn đề quản lý kinh tế về tài chính ngân hàng
còn rất nhiều lỗ hổng, nhà nước chưa thực sự phát huy được hết chức năng của
mình trong việc quản lý lĩnh vực này. Xuất phát từ nhận thức của bản thân và trước
những yêu cầu, đòi hỏi của lý luận và thực tiễn, Nhóm 4 thực hiện đề tài : “Các
chức năng của quản lý Nhà nước về kinh tế. Liên hệ vận dụng các chức năng
này trong quản lý nhà nước về tài chính ngân hàng ở nước ta hiện nay”
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích nhận thức rõ hơn về chức năng quản lý
kinh tế của nhà nước trong lĩnh vực tài chính ngân hàng; đánh giá thực trạng, đồng
thời đưa ra những phương hướng, giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao chất
lượng công tác quản lý kinh tế của nhà nước trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ở
nước ta hiện nay.


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CÁC CHỨC NĂNG CỦA QUẢN LÝ

NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
1. Khái niệm về quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức, bằng pháp luật và
thông qua hệ thống các chính sách với các công cụ quản lý kinh tế lên nền kinh tế
nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế đất nước, trên cơ sở sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực trong và ngoài nước trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc
tế.
Quản lý nhà nước về kinh tế là một dạng quản lý xã hội của Nhà nước, đóng
rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước quản
lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên tất cả các ngành kinh tế, các lãnh thổ kinh tế,
các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế hoạt động trong toàn bộ nền kinh tế.
Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân không chỉ trên phạm vi quốc
gia mà còn cả một số hoạt động kinh tế đối ngoại diễn ra ở nước ngoài, như các
doanh nghiệp có vốn đầu tư ở nước ngoài, các hàng hóa xuất nhập khẩu từ nước
ngoài, thẩm định các công nghệ thiết bị nhập khẩu. Quản lý nhà nước về kinh tế là
quản lý ở tầm vĩ mô, giải quyết những quan hệ vĩ mô có liên quan đến toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Nhà nước không
can thiệp, không giải quyết những vấn đề quản lý sản xuất kinh doanh của các chủ
thể kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường (cá nhân, doanh nghiệp, các tập
đoàn kinh tế...).
Trong quản lý nhà nước về kinh tế, Nhà nước sử dụng hệ thống các công cụ
cần thiết để thực hiện chức năng quản lý của mình như công cụ định hướng (kế
hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế ...), công cụ kinh tế, tài chính tiền tệ
(chính sách đầu tư, thuế, chi tiêu ngân sách, hệ thống ngân hàng, lãi suất, tín
dụng...), công cụ pháp lý (pháp luật, các văn bản pháp quy...), các công cụ tổ chức
và giáo dục...
Trước thời kỳ đổi mới ở nước ta, nhà nước ta quản lý nền kinh tế bằng cơ
chế kế hoạch hóa tập trung mang nặng tính hành chính, quan liêu, bao cấp. Cơ chế
quản lý kinh tế này dựa vào mệnh lệnh từ trên xuống và dựa vào quan hệ hành
chính tổ chức trực tiếp gắn liền với quan hệ kinh tế cấp phát - giao nộp. Quản lý

nhà nước về kinh tế được thực hiện bằng phương pháp hành chính đơn thuần thay
cho phương pháp kinh tế và giáo dục. Nhà nước đã bao cấp mọi hoạt động kinh tế
bằng ngân sách của Nhà nước. Cơ chế quản lý này đã đưa đến sự thụ động, trông
chờ, không cần tính toán hiệu quả, phục tùng triệt để những quy định xơ cứng của
cấp trên, thủ tiêu tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới, của các chủ thể kinh tế. Đại
hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) đã chủ trương phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế dựa trên việc sử dụng
phương pháp quản lý bằng kinh tế là chủ yếu. Các đại hội tiếp theo của Đảng tiếp
tục cụ thể hóa đường lối phát triển kinh tế trên, chủ trương phát triển nền kinh tế
nước ta theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Quản lý nhà nước về kinh tế căn bản được đổi mới về chức năng, nội dung và
phương thức quản lý.


Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 (Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI) đã nêu rõ tiếp tục phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật
của mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội. Mọi thành
phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
2. Phân tích các chức năng cơ bản quản lý nhà nước về kinh tế
2.1. Tạo lập khuôn khổ pháp luật về kinh tế
Khái niệm: Pháp luật về kinh tế là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, phát sinh trong quá trình tổ chức
quản lý và sản xuất - kinh doanh giữa các chủ thể kinh tế với nhau và các cơ quan
quản lý nhà nước.
- Vai trò của pháp luật trong nền kinh tế thị trường:
+ Pháp luật kinh tế xác định vị trí pháp lý cho các tổ chức và đơn vị kinh tế
+ Bằng pháp luật kinh tế, nhà nước điều chỉnh hành vi kinh tế trên thị

trường, xác định hành vi nào là hành vi hợp pháp, hành vi nào là hành vi phi pháp.
Luật pháp về kinh tế tạo luật chơi cho các chủ thể trên thị trường
+ Luật pháp về kinh tế là công cụ của nhà nước đối với nền kinh tế quốc
dân. Hệ thống luật pháp phải đáp ứng ba yêu cầu cơ bản: yêu cầu về tính khách
quan, yêu cầu về tính cưỡng chế, yêu cầu về tính hệ thống.
Nền kinh tế thị trường là một hệ thống phức tạp và đầy biến động, các hoạt
động kinh tế đều hướng tới lợi ích cục bộ, vì vậy sự bất ổn, rủi ro và sự xâm phạm
lợi ích lẫn nhau có thể xảy ra bất cứ lúc nào nếu không có những quy tắc đủ mạnh
để điều chỉnh. Từ nhu cầu khách quan đó mà pháp luật trở thành công cụ không thể
thay thế để đảm bảo cho các quan hệ kinh tế diễn ra theo trật tự nhất định. Bằng
cách gián tiếp, Nhà nước tạo ra khung pháp lý cho các chủ thể tự do hoạt động; quy
định tư cách chủ thể; ngăn ngừa các yếu tố tác động xấu đến hoạt động sản xuất
kinh doanh, tạo môi trường để vận hành các quan hệ kinh tế một cách thuận lợi, an
toàn, đồng thời định ra các phương thức nhằm duy trì và đảm bảo trật tự kinh tế.
2.2. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế
Môi trường kinh doanh là tổng thể các yếu tố và điều kiện khách quan, chủ
quanm có mối liên hệ chặt chẵ với nhau tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các
quyết định hoặc hoạt động của các chủ thể kinh tế trên thị trường và quyết định
hiệu quả kinh tế.
+ Nhóm các yếu tố bên ngoài tác động gián tiếp đến các đơn vị kinh doanh:
Môi trường văn hóa-xã hội, kinh tế, pháp lý, vật chất, công nghệ.
+ Nhóm các yếu tố bên ngoài tác động trực tiếp đến các đơn vị kinh doanh:
Khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh, các nhóm quyền lợi trong các cơ sở
kinh tế.


Các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế chỉ có thể hoạt động tốt khi có môi
trường thuận lợi. Bằng quyền lực và sức mạnh kinh tế của mình, Nhà nước có trách
nhiệm chính trong việc xây dựng và bảo đảm môi trường thuận lợi, bình đẳng cho
hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời bảo đảm môi trường phù hợp cho chính

cơ chế mới đang hình thành, phát triển và phát huy tác dụng. Có nhiều loại môi
trường, trong đó bao gồm các môi trường chính như:
+ Xây dựng môi trường chính trị ổn định, thật sự phát huy các nguồn lực và
sức sáng tạo của Nhân dân, của các doanh nghiệp. Xây dựng hệ thống pháp luật ổn
định, thuận lợi, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế, thực thi pháp luật phải nghiêm minh, xây dựng môi trường văn hóa pháp
luật cho mọi công dân, mọi tổ chức...
+ Xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng cho kinh tế vận động và phát triển
thuận lợi. Hệ thống kết cấu hạ tầng có ý nghĩa sống còn với nền kinh tế, bao gồm
nhiều loại như: hệ thống giao thông, đường bộ, đường sắt, đường không, sân bay,
bến cảng, điện, nước, kết cấu hạ tầng văn hóa, xã hội, kết cấu hạ tầng thông tin...
+ Xây dựng môi trường văn hóa xã hội phù hợp với nền kinh tế thị trường,
xã hội ngày càng tôn trọng và tôn vinh nghề kinh doanh và người kinh doanh.
+ Đảm bảo môi trường an ninh trật tự, kỷ luật, kỷ cương, mọi cá nhân và tổ
chức đều phải tuân thủ pháp luật. Nhà nước phải bảo vệ những doanh nghiệp và
doanh nhân hoạt động đúng pháp luật.
+ Xây dựng và hoàn thiện môi trường thông tin. Nhà nước phải là trung tâm
cung cấp thông tin tin cậy nhất cho các doanh nghiệp một cách thường xuyên, kịp
thời và chính xác...
Với chức năng này, nhà nước có vai trò như một bà đỡ giúp cho các cơ sở
sản xuất kinh doanh phát triển, đồng thời bảo đảm các điều kiện tự do, bình đẳng
trong kinh doanh. Nói cách khác, Nhà nước có chức năng tạo ra các dịch vụ công
về môi trường chính trị, pháp lý, an ninh, thủ tục quản lý, điều kiện kinh doanh, an
toàn xã hội,... Trong cơ chế thị trường, muốn có một môi trường sản xuất kinh
doanh ổn định, tiến bộ, cần phải có bàn tay của Nhà nước từ việc ban hành và bảo
đảm thi hành pháp luật đến bảo đảm các điều kiện và nguyên tắc cơ bản như quyền
sở hữu, quyền tự do kinh doanh, xử lý tranh chấp theo pháp luật, bảo đảm một xã
hội phát triển lành mạnh, có văn hóa.
2.3. Đảm bảo cơ sở hạ tầng cho phát triển
- Để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển thuận lợi, nhà nước tất yếu phải có

trách nhiệm cung cấp các dịch vụ hạ tầng cho xã hội theo hai hướng:
+ Cung cấp trực tiếp thông qua các doanh nghiệp hoặc các cơ quan sự nghiệp
của nhà nước
+ Nhà nước trực tiếp khuyến khích tư nhân cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ
tầng như trợ cấp các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hạ tầng, đảm bảo lợi ích cho
các doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ hạ tầng


- Những dịch vụ cơ sở hạ tầng: Giáo dục, giao thông, thông tin, công nghệ,
điện nước…được nhà nước đầu tư và xây dựng. Cơ sở hạ tầng ban đầu là nền tảng
quan trọng đối với mỗi nền kinh tế. Các doanh nghiệp hoặc là không đủ tiềm năng
hoặc là không muốn thực hiện các công trình hạ tầng cho xã hội vì vấn đề lợi
nhuận, do đó bắt buộc nhà nước phải đứng ra để thực hiện. Trong nền kinh tế thị
trường, Nhà nước xây dựng Chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng và Quy hoạch
phát triển kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, trong đó chiến lược phát triển bao gồm
hệ thống những mục tiêu, chính sách và giải pháp cơ bản, có tính chất dài hạn về
phát triển mạng lưới kết cấu hạ tầng; và Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng là cụ
thể hóa chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng: luận chứng, lựa chọn phương án phát
triển và phân bố mạng lưới kết cấu hạ tầng trên các vùng lãnh thổ, các giải pháp và
tổ chức thực hiện, các công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên.
2.4. Hỗ trợ sự phát triển
- Hỗ trợ phát triển là chức năng kinh tế của nhà nước
+ Bảo trợ sản xuất là sự can thiệp của nhà nước vào các ngành kinh tế nhằm
tạo ra những điều kiện thuận lợi cho những ngành đó trong quá trình phát triển
+ Bảo trợ sản xuất là việc làm cần thiết của nhà nước
Nhà nước bảo trợ sản xuất bằng các chính sách ưu đãi đối với từng ngành,
từng vùng, từng lĩnh vực kinh tế. Nhà nước thực hiện ưu tiên phát triển kinh tế
vùng căn cứ vào nguồn nguyên liệu tại chỗ, điều kiện tự nhiên, nhân lực sẵn có của
vùng; phát triển ngành bằng các chính sách ưu đãi về thuế, thuê đất, đơn giản hóa
thủ tục…Nhà nước thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các hình thức như: cho

vay ưu đãi nguồn vốn, cho thuê đất kinh doanh với thời gian dài và chi phí thấp,
giảm thuế đối với 1 số mặt hàng, được hỗ trợ về khoa học – kỹ thuật đặc biệt là đối
với các ngành sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm đầu ra…
Bên cạnh việc hỗ trợ cho doanh nghiệp, nhà nước còn thực hiện các chính sách bảo
vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi trường kinh doanh lành mạnh và tiến bộ để doanh
nghiệp trong và ngoài nước yên tâm đầu tư. Tùy vào từng giai đoạn, từng thời kỳ,
nhà nước thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp phát triển theo đúng định hướng, cơ cấu
kinh tế đảm bảo mục tiêu phát triển lâu dài, bền vững.
2.5 Các chức năng khác
- Định hướng và hướng dẫn phát triển kinh tế thông qua kế hoạch, chính
sách và các công cụ quản lý vĩ mô
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của
Nhà nước, nhà kinh doanh và các tổ chức kinh tế được tự chủ kinh doanh nhưng
không thể nắm được hết tình hình và xu hướng vận động của thị trường, do đó
thường chạy theo thị trường một cách bị động, dễ gây ra thua lỗ, thất bại và đổ vỡ,
gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Hơn nữa, Nhà nước còn phải định hướng nền
kinh tế phát triển theo quỹ đạo và mục tiêu kinh tế - xã hội đã được định ra cho mỗi
giai đoạn. Do đó, Nhà nước có chức năng định hướng phát triển kinh tế và hướng
dẫn các nhà kinh doanh, các tổ chức kinh tế hoạt động hướng đích theo các mục


tiêu chung của đất nước. Nhà nước định hướng và hướng dẫn bằng chiến lược, quy
hoạch, chính sách, kế hoạch, thông tin và các nguồn lực của nhà nước.
Để thực hiện chức năng định hướng, hướng dẫn, Nhà nước không can thiệp
thô bạo bằng mệnh lệnh hành chính vào nền kinh tế thị trường mà chủ yếu sử dụng
cách thức và phương pháp tác động gián tiếp, theo các nguyên tắc của thị trường.
Cách thức tác động gián tiếp mang tính chất mềm dẻo, uyển chuyển, vừa bảo đảm
tính tự chủ các chủ thể kinh tế, vừa thực hiện mục tiêu chung.
- Chức năng tổ chức: Tổ chức sắp xếp lại các đơn vị kinh tế, tái cơ cấu các
ngành, các loại hình kinh doanh cho phù hợp với xu thế mới

Nhà nước phải sắp xếp, tổ chức lại các ngành, các lĩnh vực, các vùng kinh tế
quan trọng, trong đó có sắp xếp, củng cố lại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước,
các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức các khu công nghiệp, khu chế xuất, các đặc
khu hành chính - kinh tế... Đây là những công việc nhằm tạo cơ cấu kinh tế hợp lý.
Nhà nước phải bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế thị trường như cân đối tổng
cung - tổng cầu, cân đối xuất khẩu - nhập khẩu, câu đối thu - chi ngân sách ... bảo
đảm ổn định kinh tế vĩ mô của nền kinh tế thị trường. Nhà nước phải bảo hộ và bảo
vệ cho các chủ thể kinh doanh đúng pháp luật, can thiệp vào nền kinh tế thị trường
khi có những biến động lớn như khủng hoảng, suy thoái kinh tế...
Nhà nước có trách nhiệm tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan quản lý của nhà
nước về kinh tế từ trung ương đến cơ sở, đổi mới thể chế và thủ tục hành chính, đào
tạo và đào tạo lại, sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước và quản lý
doanh nghiệp nhà nước, thiết lập mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ chức
quốc tế...
- Chức năng điều tiết
Nhà nước điều tiết hoạt động của nền kinh tế nghĩa là nhà nước sử dụng
quyền năng chi phối của mình lên các hành vi kinh tế của các chủ thể trong nền
kinh tế thị trường, ngăn chặn các tác động tiêu cực đến quá trình hoạt động kinh tế,
ràng buộc chúng phải tuân thủ các quy tắc hoạt động đã định sẵn nhằm đảm bảo sự
phát triển bình thường của nền kinh tế. Điều hành nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước ta vừa phải tuân thủ và vận dụng các quy luật
khách quan của nền kinh tế thị trường, phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường,
vừa điều tiết chi phối thị trường hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, công bằng và hiệu quả. Nhà nước thực hiện
chức năng điều tiết ở các nội dung chính:
+ Điều tiết các quan hệ sản xuất: nhằm làm cho các quan hệ sản xuất được
thiết lập một cách tối ưu, đem lại hiệu quả.
+ Điều chỉnh quan hệ phân chia lợi ích và quan hệ phân phối thu nhập như
quan hệ trao đổi hàng hóa, quan hệ phân chia lợi tức, lợi nhuận…
+ Điều tiết các quan hệ phân bổ nguồn lực bằng sự chi tiêu tài chính tập

trung như ngân sách nhà nước hay đóng thuế…


Để điều tiết và hướng dẫn thị trường, nhà nước thường sử dụng các biện
pháp bào gồm các chính sách, đòn bẩy kinh tế, công cụ tài chính, tín dụng…tác
động trực tiếp vào các chủ thể trong nền kinh tế.
- Chức năng kiểm tra, giám sát nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt
động kinh tế
Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nhằm thiết lập trật tự, kỷ
cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm
pháp luật, vi phạm chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của các chủ thể
trong nền kinh tế, góp phần tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội.
Kiểm tra giám sát ở đây được hiểu là kiểm tra toàn diện việc thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước trong việc thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế như: kiểm tra việc sử dụng nguồn vốn, ngân sách nhà nước đạt
hiệu quả hay gây thất thoát; kiểm tra việc đảm bảo nguồn nguyên liệu, quy trình
sản xuất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp; kiểm tra việc chấp
hành nghĩa vụ đóng thuế và các khoản phí lệ phí hợp lý; kiểm tra công tác bảo vệ
môi trường và tài nguyên thiên nhiên…Kiểm tra giám sát đi kèm với răn đe, xử
phạt là công cụ để đảm bảo thực hiện công bằng và cạnh tranh lành mạnh trong nền
kinh tế.
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các chức năng của quản lý nhà nước về
kinh tế
Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình không chỉ bằng việc xây dựng
và quản lý khu vực kinh tế nhà nước mà quan trọng hơn là quản lý toàn bộ nền kinh
tế quốc dân bao gồm cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Để quản lý được nền kinh tế quốc dân. Nhà nước phải thực hiện rất nhiều loạ
công việc khác nhau. Những công việc này hình thành nên khái niệm chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế .

Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây
dựng và hoàn hiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà
nước để định hướng và điều tiến nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo
vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính
sách phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.103)
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương hướng
và giai đoạn tác động có chủ đích của Nhà nước tới nền kinh tế quốc dân. Là tập
hợp những nhiệm vụ khác nhau mà Nhà nước phải tiến hành trong quá trình quản lý
nền kinh tế quốc dân. Quản lý nhà nước về kinh tế là quản lý một hệ thống lớn
phức tạp. Đó là tổng thể các nghành kinh tế, các vùng, các địa phương cùng các sở
kinh tế của chúng. Nhà nước quản lý nền kinh tế quốc dân trên quy mô toàn xã hội
việc thực hiện hàng loạt chức năng, có sự phân biệt với chức năng quản lý sản xuất
– kinh doanh của các sơ sở kinh tế.


Như vậy, việc nghiên cứu về chức năng của nhà nước trong quản lý kinh tế
giúp chúng ta hiểu rõ về vai trò, vị trí của nhà nước trong nền kinh tế quốc dân thực
hiện tốt nhiệm vụ vừa tạo ra tiền đề, điều kiện cho nền kinh tế thị trường ra đời,
phát triển, vừa quản lý, điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế, giữ vững ổn
định kinh tế vĩ mô, vừa giữ vững, tăng cường những yếu tố bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CÁC CHỨC NĂNG CỦA QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
1. Khái quát tình hình hoạt động của ngành tài chính ngân hàng ở nước
ta hiện nay
Tài chính ngân hàng là lĩnh vực liên quan đến các dịch vụ giao dịch, luân
chuyển tiền tệ trong nền kinh tế. Hoạt động tài chính ngân hàng hiểu cơ bản là hoạt

động của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng trong thị trường tài chính.
Các hoạt động của ngành tài chính ngân hàng liên quan đến sự vận động của tiền tệ,
cụ thể như: trao đổi tiền tệ, cho vay thương mại, nhận tiền gửi, bảo quản vật có giá
trị, cung cấp các dịch vụ ủy thác, cho vay tiêu dùng, tư vấn tài chính, môi giới đầu
tư…và các dịch vụ khác. Ngành tài chính ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng
trong sự phát triển của nền kinh tế:
- Thứ nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát,
từng bước duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá, góp phần cải thiện kinh tế vĩ
mô, môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh;
- Thứ hai, góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh
doanh và hoạt động xuất nhập khẩu. Đây là kết quả tác động nhiều mặt của đổi mới
hoạt động ngân hàng, nhất là những cố gắng của ngành ngân hàng trong việc huy
động các nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển, trong việc đổi mới chính sách
cho vay và cơ cấu tín dụng theo hướng căn cứ chủ yếu vào tính khả thi và hiệu quả
của từng dự án, từng lĩnh vực ngành nghề để quyết định cho vay. Dịch vụ ngân
hàng cũng phát triển cả về chất lượng và chủng loại, góp phần thúc đẩy sản xuất
kinh doanh;
- Thứ ba, tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự tăng
trưởng kinh tế với nhịp độ cao trong nhiều năm liên tục. Với dư nợ cho vay nền
kinh tế chiếm khoảng 35-37% GDP, mỗi năm hệ thống ngân hàng đóng góp trên
10% tổng mức tăng trưởng kinh tế của cả nước;
- Thứ tư, đã hỗ trợ có hiệu quả trong việc tạo việc làm mới và thu hút lao
động, góp phần cải thiện thu nhập và giảm nghèo bền vững. Thông qua nguồn vốn
tín dụng cho các chương trình và dự án phát triển sản xuất kinh doanh, hàng năm hệ
thống ngân hàng đã góp phần tạo thêm được nhiều việc làm mới, nhất là tại các
vùng nông thôn. Việc sử dụng nguồn vốn ngân hàng cho mục đích này ngày càng
có tính chuyên nghiệp, minh bạch và hiệu quả, nhất là từ khi tín dụng chính sách
được tách bạch với tín dụng thương mại và giao cho Ngân hàng Chính sách xã hội
đảm nhiệm;



- Thứ năm, góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường sinh thái, đảm
bảo phát triển bền vững. Đóng góp này được thể hiện qua công tác thẩm định dự
án, quyết định cho vay vốn ngân hàng cho các dự án và giám sát thực hiện một cách
chặt chẽ sau khi cho vay, các tổ chức tín dụng luôn chú trọng yêu cầu các khách
hàng đảm bảo an toàn và hiệu quả trong việc sử dụng vốn vay, tuân thủ các cam kết
quốc tế và các qui định về bảo vệ môi trường.
Ngành Tài chính ngân hàng ở Việt Nam tuy hình thành và phát triển muộn
hơn các nước trong khu vực nhưng được đánh giá là tiềm năng và có tốc độ phát
triển nhanh so với các nước trong khu vực.


Bảng 1. Số liệu tình hình vốn và tăng trưởng các tổ chức tín dụng
(Số liệu đến 30/4/2019, tốc độ tăng trưởng so với thời điểm cuối năm trước liền kề)
Đơn vị: tỷ đồng, %
Tỷ lệ
Tỷ lệ
vốn
an
ngắn
toàn
Tốc độ
Tốc độ
Tốc độ
hạn
Số tuyệt
Số tuyệt
vốn
tăng
tăng

tăng
cho vay
đối
đối
tối
trưởng
trưởng
trưởng
trung,
thiểu
dài hạn

Tổng tài sản có

Vốn tự có

Vốn điều lệ

(3)

(4)

(5)

(6)

(7)

(8)


(9)

NHTM
4.929.765
Nhà nước

1,37

282.199

5,06

149.001

0,75

9,61

30,99

Ngân hàng
Chính sách 204.785
xã hội

4,55

13.893

0,00


NHTM Cổ
4.629.867
phần

1,64

Loại hình
Số tuyệt
TCTD
đối

(1)

(2)

NH Liên
doanh,
nước ngoài

.124.962
-1,03

352.305

4,18

268.872

0,61


177.037

8,70

116.619

2,

11,10 31,52
6
25,90

-

Công ty tài
chính, cho 173.849
thuê

3,59

36.315

11,52

26.420

0,00

20,91 29,43


Ngân hàng
Hợp tác xã

33.179

2,31

3.939

-0,17

3.027

0,00

19,21 28,56

Quỹ tín
dụng nhân
dân

118.270

4,51

4.548

3,72

582.379


1,05

Toàn hệ
11.214.678
thống

1,36

851.795

5,66

12,19 28,01

Ghi chú: Nguồn số liệu dựa trên Báo cáo cân đối tài khoản kế toán, báo cáo thống
kê tháng 4/2019 của Ngân hàng nhà nước.


Bảng 2. Số liệu chỉ số ROA, ROE của nhóm các tổ chức tín dụng
(Số liệu tính trong quý III/2018)
Đơn vị: %
Loại hình TCTD

ROA

ROE

(1)


(2)

(3)

NHTM Nhà nước

0,52

10,21

Ngân hàng Chính sách xã hội

1,02

5,38

NHTM Cổ phần

0,76

9,88

NH Liên doanh, nước ngoài

0,88

5,70

Công ty tài chính, cho thuê


3,02

13,83

Ngân hàng Hợp tác xã

0,42

3,22

Quỹ tín dụng nhân dân

0,87

12,95

Toàn hệ thống

0,70

9,06

Ghi chú: Nguồn số liệu dựa trên Báo cáo tài chính quý III – 2018 của Ngân hàng
nhà nước.
Khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại đạt mức trung bình của khu
vực Đông Nam Á khi ROA (tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản) và ROE (tỷ suất lợi
nhuận trên vốn chủ sở hữu) tăng gấp đôi so với năm 2011. Cụ thể, ROA bình quân
từ mức 0,56% năm 2011 tăng lên 1% năm 2018, ROE bình quân từ 6% năm 2011
lên 14% năm 2018. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã kiên quyết khống chế tốc độ
tăng trưởng tín dụng ở mức 14% trong năm qua. Điều này chứng tỏ Chính phủ đã

đồng thuận với NHNN về việc ưu tiên tăng trưởng ổn định, bền vững, khắc phục
tình trạng tín dụng phong trào, tín dụng tập trung vào các lĩnh vực rủi ro cao.
Về chính sách tiền tệ, NHNN vẫn thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô,
kiểm soát lạm phát và ổn định hệ thống ngân hàng. Cụ thể, NHNN vẫn phải duy trì
mức cung tiền như năm 2018, và mức tăng trưởng tín dụng cũng bằng năm 2018,
tiếp tục ổn định tỷ giá, ổn định lãi suất như năm 2018. Mặc dù, năm 2019 áp lực tỷ
giá có thể cao hơn, nhất là do những tác động từ bên ngoài: chiến tranh thương mại
Mỹ – Trung, Mỹ tăng lãi suất đồng USD, Trung Quốc thay đổi tỷ giá hối đoái.
Về phía các ngân hàng thương mại cũng đang chuyển biến rất mạnh số hoá
ngân hàng. Đây là tiềm năng giúp ngân hàng tăng thu từ hoạt động phi tín dụng, tiết
kiệm chi phí nhân lực, triển dịch vụ mới, đổi mới giám sát hoạt động, quản lý rủi


ro… Cụ thể, kiểm soát lạm phát bình quân 3,53%; hỗ trợ tăng trưởng kinh tế
6,81%; tăng trưởng tín dụng 18,17% (mục tiêu 18%); đạt mức dự trữ ngoại hối lớn
nhất từ trước đến nay, góp phần giữ ổn định tỷ giá, lãi suất. Các tổ chức tài chính,
ngân hàng được kiểm toán đạt được các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động, kinh
doanh có lãi hoặc chênh lệch thu chi dương, tỷ suất lợi nhuận/vốn đạt mức trên 7%.
Nhìn chung, những năm gần đây, ngành Tài chính ngân hàng đã và đang phát
triển mang lại nhiều hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
2. Vận dụng các chức năng của nhà nước trong lĩnh vực tài chính ngân hàng
ở nước ta hiện nay
2.1. Tạo lập khuôn khổ pháp luật về kinh tế
Với vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, ngành tài chính ngân hàng ở
nước ta hiện nay được trang bị tương đối đầy đủ hệ thống văn bản pháp luật ở mọi
hoạt động. Đây cũng là lĩnh vực có số lượng lớn và được cập nhật nhiều nhất các
văn bản pháp luật. Trong 10 năm trở lại đây, nhà nước đã ban hành trên 400 các
Luật, Nghị định, Thông tư và các văn bản hướng dẫn khác liên quan đến lĩnh vực
ngân hàng tài chính, một số văn bản thường gặp có thể kể đến: Luật Ngân hàng nhà
nước Việt Nam số 46/2010/QH2012; Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12

được sửa đổi và bổ sung bởi Luật số 17/2017/QH14; Luật bảo hiểm tiền gửi số
06/212/QH13; Nghị định 16/2017/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam; Nghị định 59/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân
hàng thương mại; Nghị định 07/2009/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ của
các ngân hàng thương mại…
Pháp luật đã có quy định cụ thể về điều kiện thành lập, vai trò, vị trí của từng
chủ thể tham gia vào lĩnh vực tài chính ngân hàng, có cơ chế xếp loại và đánh giá
việc thực hiện pháp luật của từng ngân hàng, tổ chức tín dụng. Văn bản pháp luật
hiện hành là khung pháp lý quan trọng để cho thị trường tài chính ngân hàng hoạt
động minh bạch và hiệu quả. Thực tế chứng minh, hệ thống văn bản pháp luật được
cập nhật thường xuyên đã tương đối cụ thể, cơ bản tạo được hành lang pháp lý cho
các chủ thể hoạt động.
Ví dụ: Về công tác đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng và tổ chức
tín dụng: Thông tư 52/2018/TT-NHNN ngày Quy định xếp hạng tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ chính thức có hiệu lực thi hành, bãi bỏ Quyết
định số 06/2008/QĐ-NHNN ngày 12/3/2008 sau 11 năm được áp dụng. Xếp hạng
các TCTD theo 5 hạng: Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được
xếp hạng vào Hạng A (Tốt), Hạng B (Khá), Hạng C (Trung bình), Hạng D (Yếu)
hoặc Hạng E (Yếu Kém) căn cứ vào mức điểm xếp hạng được tính toán theo hệ
thống tiêu chí quy định tại Dự thảo Thông tư. Hệ thống tiêu chí xếp hạng gồm 6
tiêu chí theo CAMELS, bao gồm: Vốn (Captital), Chất lượng tài sản (Asset
Quality), Quản trị điều hành (Management), Kết quả hoạt động kinh doanh
(Earnings), Khả năng thanh khoản (Liquidity) và Mức độ nhạy cảm đối với rủi ro
thị trường (Sensitivity to market risk). Đây cũng là hệ thống xếp hạng được nhiều
cơ quan quản lý trên thế giới sử dụng trong đánh giá sức khỏe tài chính và sự lành


mạnh của ngân hàng. Thay đổi phương pháp tính điểm và xếp hạng: Việc tính điểm
dựa trên giá trị các ngưỡng tính điểm, trọng số từng chỉ tiêu và trọng số từng nhóm

chỉ tiêu được xác định trên cơ sở tầm quan trọng của nhóm chỉ tiêu/chỉ tiêu đối với
mức độ lành mạnh hoạt động ngân hàng và yêu cầu của công tác giám sát. Do vậy
các ngưỡng tính điểm và trọng số chi tiết theo từng nhóm đồng hạng sẽ được
NHNN công bố trong từng thời kỳ. Việc công bố hệ thống tiêu chí đánh giá xếp loại
mới dần tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế, tạo cơ sở niềm tin cho người dân và
doanh nghiệp thực hiện các hoạt động tín dụng đối với các ngân hàng trong nước.
Tóm lại, hệ thống văn bản pháp luật cho ngành tài chính - ngân hàng là tương
đối đầy đủ song vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết: có chỗ còn thiếu nhưng có
chỗ lại thừa, còn chồng chéo, một số dịch vụ quốc tế phát sinh chưa có văn bản luật
điều chỉnh…
2.2. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia ngành tài chính
ngân hàng được phát huy tối đa tiềm năng sẵn có. Đối với doanh nghiệp: thực hiện
các gói vay ưu đãi đối với các sản phẩm chủ lực trong thời hạn dài, lãi suất thấp để
khuyến khích phát triển, đặc biệt là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước có
vai trò không thể thiếu trong việc chế tài và giám sát để đảm bảo ngành ngân hàng
hoạt động ổn định, an toàn. Sự can thiệp của Nhà nước sẽ giúp làm giảm các khiếm
khuyết của thị trường như hành vi chống cạnh tranh, gian lận, thông tin không
chính xác. Ngân hàng Nhà nước thực hiện phân loại chất lượng của các ngân hàng,
mở cửa hơn nữa cho sự tham gia của ngân hàng nước ngoài, đặc biệt khi trong hệ
thống đang có một số lượng không nhỏ ngân hàng yếu kém, phải tái cơ cấu.
2.3. Đảm bảo cơ sở hạ tầng cho phát triển
Nhà nước cung cấp cơ sở hạ tầng cho các chủ thể trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng bằng cách cung cấp vốn điều lệ cho 1 số ngân hàng thương mại và tổ
chức tín dụng, xây dựng các dự án về thông tin liên lạc, cơ sở hạ tầng tạo điều kiện
cho ngân hàng thực hiện các hoạt động của mình.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn
ra trên toàn cầu và tác động đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đất nước Việt
Nam và lĩnh vực ngân hàng - tài chính không nằm ngoài vòng ảnh hưởng của cuộc
cách mạng này. Nhà nước đang có chính sách hỗ trợ thực hiện xây dựng mô hình

ngân hàng điện tử, ngân hàng số. Ngân hàng số là mô hình kinh doanh, quản trị,
điều hành ngân hàng trên nền tảng số, có tiềm năng giúp các ngân hàng thích ứng
tốt và phát triển bền vững trong kỷ nguyên số, đem lại lợi ích to lớn cho ngân hàng
về tăng doanh thu, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng sự gắn kết với
khách hàng, đồng thời đem lại lợi ích thiết thực cho khách hàng cá nhân và doanh
nghiệp sử dụng dịch vụ. Hiện nay, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và gia tăng
trải nghiệm khách hàng, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã tỏ ra khá "nhanh nhạy"
với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 khi đang bắt đầu quá trình chuyển đổi số
hướng tới một ngân hàng số đích thực; Triển khai cung ứng một số dịch vụ ngân
hàng đổi mới, sáng tạo...Nhà nước thực hiện chức năng cung cấp một số nền tảng


cơ bản ban đầu về vốn và công nghệ để ngân hàng và các tổ chức tín dụng thực
hiện chuyển đồi dần sang mô hình điện tử, bắt kịp với xu hướng của thời đại.
2.4. Hỗ trợ cho sự phát triển
Thông qua hoạt động của Ngân hàng trung ương, Chính phủ thực hiện hỗ trợ
tối đan về đảm bảo kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho ngành ngân hàng tài chính hoạt
động và phát triển. Cụ thể:
- NHNN đã thực hiện đồng bộ, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để ổn
định thị trường tiền tệ, ngoại hối, góp phần kiểm soát lạm phát ở mức 3,54% (là
năm thứ 5 liên tiếp lạm phát được kiểm soát ở mức dưới 4%) và hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế đạt 7,08% - cao nhất trong 11 năm trở lại đây. Đến cuối năm 2018, tổng
phương tiện thanh toán tăng khoảng 12,5% so với cuối năm 2017.
- Mặt bằng lãi suất được duy trì ổn định trong bối cảnh lãi suất thị trường quốc
tế gia tăng. Theo đó, NHNN đã điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ
mô và tiền tệ; tập trung điều tiết và đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản cho các
TCTD, duy trì lãi suất thị trường liên ngân hàng ở mức hợp lý; điều chỉnh giảm lãi
suất chào mua OMO từ 5%/năm xuống còn 4,75%/năm để góp phần giảm chi phí
vốn cho TCTD; chỉ đạo các TCTD tiếp tục rà soát và cân đối khả năng tài chính để
áp dụng mức lãi suất cho vay hợp lý nhằm chia sẻ khó khăn với khách hàng và đảm

bảo an toàn tài chính trong hoạt động. Mặt bằng lãi suất của các TCTD năm 2018
về cơ bản ổn định; lãi suất cho vay phổ biến khoảng 6-9%/năm đối với ngắn hạn,
trung-dài hạn khoảng 9-11%/năm.
- Tỷ giá và thị trường ngoại tệ ổn định, thông suốt, NHNN tiếp tục mua được
ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước. Trong năm 2018, NHNN đã chủ động
và linh hoạt điều tiết thị trường ngoại hối, điều hành tỷ giá trung tâm linh hoạt, phối
hợp đồng bộ các công cụ CSTT, điều tiết thanh khoản, lãi suất tiền VND hợp lý để
ổn định thị trường, có điều kiện bổ sung dự trữ ngoại hối, góp phần kiểm soát lạm
phát. Nhờ đó, tỷ giá và thị trường ngoại tệ ổn định, thanh khoản đảm bảo, các giao
dịch ngoại tệ diễn ra thông suốt, nhu cầu mua-bán ngoại tệ hợp pháp của nền kinh
tế được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Thị trường vàng trong nước tiếp tục diễn biến ổn
định và dao động trong biên độ hẹp trong bối cảnh giá vàng quốc tế diễn biến phức
tạp.
- Trong công tác tái cơ cấu hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu, mặc dù
thời gian triển khai chưa dài nhưng Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ
xấu và Quyết định 1058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức
tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020 (Quyết định 1058) đã đi vào
cuộc sống, tạo được nhiều chuyển biến tích cực. Có thể khẳng định Nghị quyết 42
và Quyết định 1058 thể hiện sự thống nhất về quan điểm, sự quan tâm của Đảng,
Quốc hội, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước nhằm tháo gỡ khó khăn trong tái cơ
cấu hệ thống tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa hệ thống, qua đó góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Công tác đảm bảo chất lượng, an toàn, thông suốt các giao dịch ATM và hệ
thống thanh toán, đảm bảo nhu cầu tiền mặt dịp cuối năm được NHNN đặc biệt


quan tâm. NHNN thường xuyên theo dõi, giám sát để kịp thời chỉ đạo các NHTM
về chất lượng dịch vụ, an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán, hoạt động của
hệ thống ATM.
2.5. Các chức năng khác

- Chức năng định hướng phát triển:
Ngày 8/8/2018, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 986/QĐ-TTg về Chiến
lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm
2030. Chiến lược nêu rõ quan điểm của Chính phủ coi hệ thống tiền tệ, ngân hàng
và hoạt động của các tổ chức tín dụng là huyết mạch của nền kinh tế, tiếp tục giữ
vai trò trọng yếu trong tổng thể hệ thống tài chính Việt Nam... Các định hướng,
mục tiêu của ngành tài chính ngân hàng trong thời gian tới bao gồm:
+ Thứ nhất, tăng dần tính độc lập, chủ động và trách nhiệm giải trình của
NHNN về thực hiện mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát ở
mức phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, hỗ trợ
ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững. Giảm dần tỷ
lệ tín dụng ngoại tệ/tổng tín dụng, phấn đấu tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện
thanh toán đạt mức dưới 7,5% vào năm 2020 và mức 5% vào năm 2030; tiến tới
ngừng cho vay ngoại tệ để chậm nhất đến năm 2030 cơ bản khắc phục tình trạng đô
la hóa trong nền kinh tế.
+ Thứ hai, tăng cường năng lực thể chế, hiệu lực, hiệu quả thanh tra, giám sát
ngân hàng của NHNN; Mở rộng phạm vi thanh tra, giám sát đến các tập đoàn tài
chính dưới hình thức công ty mẹ - con, trong đó công ty mẹ là tổ chức tín dụng.
Đến cuối năm 2025, thanh tra, giám sát ngân hàng tuân thủ phần lớn các nguyên tắc
giám sát ngân hàng hiệu quả theo Basel.
+ Thứ ba, đẩy mạnh phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, tối ưu hóa
mạng lưới ATM và POS. Đến cuối năm 2020, tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương
tiện thanh toán ở mức dưới 10%; đến cuối năm 2025, tỷ trọng tiền mặt trên tổng
phương tiện thanh toán ở mức dưới 8%.
+ Thứ tư, tăng số lượng doanh nghiệp và người dân tiếp cận với các dịch vụ
tài chính, ngân hàng do các tổ chức tín dụng cung ứng. Tập trung phát triển các loại
hình dịch vụ phù hợp phục vụ các nhóm dân cư chưa hoặc ít được tiếp cận với dịch
vụ ngân hàng truyền thống ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn.
+ Thứ năm, phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng phù hợp với điều kiện

kinh tế - xã hội và thực trạng của hệ thống qua từng giai đoạn, cụ thể: Giai đoạn
2018 - 2020, tập trung cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng theo các nội dung
đã được phê duyệt tại Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý
nợ xấu giai đoạn 2016-2020 ban hành kèm theo Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày
19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ; Giai đoạn 2021-2025, nâng cao hơn nữa năng
lực cạnh tranh, tăng sự minh bạch và tuân thủ các chuẩn mực, thông lệ quốc tế tốt
trong quản trị và trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.


+ Thứ sáu, tăng hiệu quả phân bổ nguồn vốn tín dụng phục vụ yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội; Thúc đẩy phát triển “tín dụng xanh”, “ngân hàng xanh” để
góp phần chuyển đổi nền kinh tế sang hướng tăng trưởng xanh, phát thải các bon
thấp, thích ứng với biến đổi khí hậu; Tăng tỷ trọng vốn tín dụng ngân hàng đầu tư
vào năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, các ngành sản xuất và tiêu dùng ít các
bon. Lồng ghép các nội dung về phát triển bền vững, biến đổi khí hậu và tăng
trưởng xanh trong các chương trình, dự án vay vốn tín dụng.
+ Thứ bảy, từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam tại các diễn đàn, tổ chức
quốc tế về tiền tệ ngân hàng, phục vụ cho phát triển ngành Ngân hàng, phù hợp với
yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Chức năng tổ chức:
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 254/QĐ/TTg ngày 1/3/2012
phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015. Theo đó đã
căn bản hoàn thành cổ phần hóa các ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước (đã
hoàn thành cổ phần hóa 4 trên tổng số 5 NHTM nhà nước là NHTM cổ phần ngoại
thương Việt Nam, NHTM cổ phần Công thương Việt Nam, NHTM cổ phần Đầu tư
và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long với tỷ
lệ nắm giữ cổ phần của Nhà nước lần lượt là 77%, 65%, 96% và 91%. Tuy nhiên,
theo Quyết định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 thì tỷ lệ nắm giữ của Nhà
nước đối với các NHTM cổ phần nhà nước sẽ từ 65% đến 75% tổng số cổ phần tại
các ngân hàng, tổ chức tài chính. Hiện chỉ còn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn chưa thực hiện cổ phần hóa và đang cơ cấu lại 8 NHTM cổ phần
thông qua sáp nhập còn 4 ngân hàng là NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội, NHTM
cổ phần Sài Gòn, NHTM cổ phần Đại chúng Việt Nam, NHTM Phát triển nhà thành
phố Hồ Chí Minh. Các ngân hàng sau khi sáp nhập đã dần đi vào ổn định và trả hết
nợ vay tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Quỹ Tín dụng Nhân dân
Trung ương cũng được chuyển thành Ngân hàng Hợp tác xã. Các NHTM cổ phần
và các TCTD đã và đang triển khai cơ cấu lại theo hướng quản trị hiện đại, phù hợp
với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng, về chiến lược, tổ chức bộ
máy, nhân lực, tài chính, quản trị và điều hành... nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về
các dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế. Không để xảy ra đổ vỡ và mất an
toàn hoạt động tín dụng, ngân hàng; đảm bảo chi trả đầy đủ và kịp thời cho người
gửi tiền; giảm thiểu tổn thất, chi phí xử lý những vấn đề rủi ro phát sinh của hệ
thống các TCTD. Ngoài ra, việc rà soát, xác định mức độ sở hữu chéo tại các TCTD
cũng đang được đẩy mạnh.
- Chức năng điều tiết:
Nhà nước can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động của thị trường tài
chính ngân hàng để điều tiết sự hoạt động. Các hình thức tác động để điều tiết thị
trường tài chính ngân hàng bao gồm:
+ Tái cấp vốn: Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHNN nhằm cung
ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho TCTD. NHNN quy định và thực
hiện việc tái cấp vốn cho TCTD theo các hình thức như cho vay có bảo đảm bằng
cầm cố giấy tờ có giá; chiết khấu giấy tờ có giá; các hình thức tái cấp vốn khác.


+ Lãi suất: NHNN công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi
suất khác để điều hành CSTT, chống cho vay nặng lãi. Trong trường hợp thị trường
tiền tệ có diễn biến bất thường, NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng
trong quan hệ giữa các TCTD với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng
khác, quy định lãi suất trần và lãi suất sàn để điều tiết hoạt động trên thị trường tiền
tệ.

+ Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ
sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. NHNN công bố
tỷ giá hối đoái, quyết định chế độ tỷ giá, cơ chế điều hành tỷ giá.
+ Dự trữ bắt buộc: NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại
hình TCTD và từng loại tiền gửi tại TCTD nhằm thực hiện CSTT quốc gia. NHNN
quy định việc trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc, tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc
của từng loại hình TCTD đối với từng loại tiền gửi.
- Chức năng kiểm tra giám sát:
Chính phủ và NHNN rất quan tâm đến công tác quản lý, thanh tra, giám sát
trong thị trường tài chính ngân hàng. Nhiều giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả
công tác này đã được triển khai bao gồm: hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về hoạt
động ngân hàng theo hướng phù hợp với nguyên tắc thị trường, tạo môi trường
thuận lợi cho hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả; từng bước chuyển
sang áp dụng phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro kết hợp với thanh
tra, giám sát chấp hành pháp luật; hệ thống các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn
và xử lý rủi ro ở tầm vi mô và vĩ mô từng bước được hình thành; hệ thống bộ máy
thanh tra, giám sát ngân hàng từng bước được kiện toàn theo hướng tập trung,
thống nhất và phù hợp hơn với yêu cầu ứng dụng các nguyên tắc, chuẩn mực quốc
tế về thanh tra, giám sát ngân hàng.
Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã được thành lập với các nhiệm vụ
chủ yếu là: thanh tra, giám sát; phòng, chống rửa tiền; xây dựng quy chế an toàn;
quản lý và cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng; phòng, chống tham nhũng,
tội phạm; giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thực tế cho thấy, công tác quản lý, thanh tra, giám sát ngân hàng đã đạt được
nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm cho hệ thống ngân hàng
liên tục phát triển và hoạt động an toàn, hiệu quả, từ đó góp phần vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Hàng năm, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và
NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố tiến hành hàng trăm cuộc thanh tra, kiểm tra. Qua
đó, nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật đã được phát hiện và xử
lý nghiêm, kể cả chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra nhằm bảo đảm trật tự, kỷ

cương trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. Năm 2012, công tác thanh tra, giám sát
ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá thực trạng của các tổ chức
tín dụng (TCTD) để từ đó có biện pháp cơ cấu lại phù hợp với mức độ yếu kém, rủi
ro của từng TCTD. Theo đó, NHNN tập trung thanh tra toàn diện đối với pháp nhân
(hội sở chính và các chi nhánh), đồng thời chú trọng đánh giá thực trạng tài chính,
mức độ đủ vốn và rủi ro của TCTD. Trong nội dung tái cơ cấu ngân hàng, việc đổi
mới các chính sách an toàn hỗ trợ cho việc triển khai các giải pháp tái cơ cấu và


bảo đảm hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh trên cơ sở các chuẩn
mực an toàn cao hơn.
3. Tồn tại, hạn chế
- Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngành tài chính ngân hàng chưa
hoàn thiện và còn nhiều lỗ hổng, luật pháp điều chỉnh hoạt động Ngân hàng nói chung
phần nào còn mang nhiều dấu ấn của cơ chế mệnh lệnh hành chính và cơ chế xin cho. Văn bản luật còn tình trạng chồng chéo giữa các ban, ngành và các địa phương
với nhau, chưa bắt kịp đúng với sự phát triển thực tế của thị trường tạo điều kiện cho
một số đối tượng lợi dụng kẽ hở để trục lợi, gây thất thoát ngân sách nhà nước và lãng
phí nguồn lực của xã hội.
- Hoạt động của Ngân hàng nhà nước còn bị thu hút nhiều vào nhiệm vụ quản
lý Nhà nước và chịu tác động của nhiều bên dẫn đến giảm vai trò chủ động trong việc
điều hành thị trường tài chính.
- Công tác tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thực hiện còn chậm và chưa đạt

hiệu quả cao. Các Ngân hàng và tổ chức tín dụng của Việt Nam hiện tại vẫn bị đánh
giá là kém phát triển và chậm hội nhập, do hạn chế về công nghệ, tài chính, vốn và
trình độ quản lý. Đến nay, cả 5 NHTMNN với tổng số vốn thuộc sở hữu nhà nước
cũng chỉ đạt khoảng 19.400 tỷ đồng, hệ số an toàn bình quân toàn hệ thống chỉ đạt
dưới 5%, trong khi tỷ lệ tương ứng theo thông lệ quốc tế phải đạt tối thiểu 8%. Mặt
khác, hoạt động của các NHTMNN lại chịu không ít rủi ro bởi có tới 70% vốn huy
động là vốn ngắn hạn, nguồn vốn có kỳ hạn trên 5 năm chỉ chiếm khoảng 7%, nhưng

các NH hiện nay đang phải sử dụng tới 30-35% vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn.
Chất lượng tài sản thấp, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng giảm nhưng vẫn còn ở tỷ lệ cao. Hệ
thống báo cáo chưa minh bạch, khả năng sinh lời thấp, chi phí quản lý cao...
- Công tác công khai, minh bạch hóa thông tin trên thị trường tài chính còn

chưa được quan tâm đúng mức, các thông tin như: Tình hình tài chính, hoạt động,
chiến lược, mục tiêu kinh doanh, các cổ đông lớn, các yếu tố rủi ro chưa được công
bố đầy đủ và kịp thời.
- Công tác kiểm tra giám sát còn hạn chế, chưa đáp ứng được sự phát triển
nhanh chóng về quy mô vốn, quyền sở hữu, rồi sở hữu chéo, cho vay nội bộ, cho vay
những người có liên quan…Cùng với đó, một số ngân hàng có nợ xấu quá lớn không
thu hồi được, đặc biệt những rủi ro cho vay nội bộ gây thất thoát tài sản của ngân sách
hàng nghìn tỷ đồng.
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VẬN DỤNG HIỆU QUẢ CHỨC
NĂNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRONG NGÀNH TÀI CHÍNH
NGÂN HÀNG
Dựa trên những phân tích trên về thực trạng thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về lĩnh vực ngân hàng tài chính, nhóm 4 đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng việc áp dụng các chức năng của quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng như sau:
Một là, cần thường xuyên tổ chức đánh giá lại việc thực thi của các văn bản
pháp luật, để từ đó sớm nhận diện các vướng mắc, lỗ hổng của luật. Ngành Tài


chính ngân hàng luôn luôn biến chuyển không ngừng và chịu ảnh hưởng nhiều từ
yếu tố quốc tế dẫn đến dễ tạo ra nhiều lỗ hổng của pháp luật. Do đó, cần tập trung
xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cho ngành đầy đủ, chặt chẽ, tạo
thuận lợi cho các chủ thể tham gia thực hiện. Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng
một đội ngũ chuyên gia làm công tác dự báo rủi ro về luật và chính sách. Có những
tham mưu kịp thời để Ngân hàng Nhà nước có những thay đổi trong luật và chính

sách điều hành phù hợp...
Hai là, thực hiện công khai, minh bạch hóa thông tin trên thị trường tài chính
ngân hàng, tiếp tục củng cố cơ sở dữ liệu của trung tâm thông tin tín dụng quốc gia
cả về độ sâu và tính chính xác của số liệu làm cơ sở cho hoạch định và điều hành
chính sách tiền tệ cũng như cung cấp các thông tin cần thiết cho các ngân hàng
thương mại và tổ chức tín dụng trong việc phòng ngừa rủi ro tín dụng.
Ba là, nâng cao vai trò của NHNN trong thị trường ngân hàng tài chính, hạn
chế đến mức thấp nhất sự can thiệp quá sâu của chính phủ các cơ quan, tổ chức đối
với các hoạt động của NHNN. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ điều hành chính
sách tiền tệ theo hướng chuyển từ kiểm soát trực tiếp sang gián tiếp. Mở rộng thành
viên tham gia giao dịch trên thị trường cho tất cả các TCTD kể cả các chi nhánh lớn
của các NHTM quốc doanh, NHCP, NHLD chi nhánh NH nước ngoài đều có thể
tham gia bình đẳng trên thị trường liên NH. Bổ sung và đa dạng hóa các công cụ tài
chính giao dịch trên thị trường như tín phiếu kho bạc nhà nước, chứng chỉ tiền gửi,
thương phiếu nhằm từng bước tạo tiền đề thuận lợi cho các NHTM khai thác vốn
trên thị trường tiền tệ nhanh chóng và hiệu quả giải quyết tình trạng thiếu hụt vốn
nhằm đáp ứng nhu cầu cân đối nguồn vốn để cho vay.
Bốn là, tiếp tục cơ cấu lại hệ thống ngân hàng tài chính theo hướng tinh gọn,
hiệu quả. Các NH tiếp tục đẩy mạnh việc chấn chỉnh củng cố hệ thống ngân hàng,
kiện toàn các NHTM NN, sắp xếp lại các NHTMCP và tổ chức tín dụng theo đề án
của Chính phủ và NHNN Việt Nam.
Năm là, xây dựng thí điểm và đưa vào áp dụng mô hình tổ chức NHTM hiện
đại theo tiêu chuẩn quốc tế. Tiến hành cơ cấu tổ chức lại và quản lý các NHTM
theo nhóm khách hàng và loại dịch vụ của một NH đa năng, thay thế dần cho việc
quản lý theo chức năng và nghiệp vụ hiện nay, đồng thời nâng cao trình độ quản lý
rủi ro, quản lý tài sản nợ - tài sản có, và kiểm soát nội bộ, nhằm để tạo tiền đề xây
dựng một số tập đoàn tài chính mạnh, có khả năng hoạt động như một NH quốc tế.
Nhà nước hỗ trợ các NHTM trong việc thực hiện xây dựng ngân hàng số, ngân
hàng điện tử.
Sáu là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của thị

trường tài chính. Tăng cường các biện pháp giám sát, đôn đốc, kiểm tra xử lý thực
hiện các quyết định, kết luận về thanh tra; định kỳ yêu cầu các đối tượng thanh tra
báo cáo kết quả thực hiện kết luận thanh tra và có biện pháp chấn chỉnh các đối
tượng thực hiện không đúng hoặc chưa thực hiện các kết luận, kiến nghị thanh tra.


KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy nhà nước thực hiện các chức năng quản lý kinh tế trong
lĩnh vực tài chính ngân hàng là tương đối đầy đủ và bắt kịp thời đại. Về cơ bản, thị
trường tài chính ngân hàng Việt Nam dưới sự quản lý và điều hành của nhà nước thông
qua hoạt động của Ngân hàng Trung ương được hình thành và hoạt động trong khung
pháp lý tương đối hoàn thiện, phát triển tương đối nhanh và mang lại nhiều kết quả
cho xã hội. Bên cạnh đó, vẫn còn một số vấn đề về công tác quản lý như: hệ thống văn
bản pháp luật còn nhiều lỗ hổng, cơ chế kiểm tra giám sát chưa chặt chẽ và chưa đủ
tính răn đe dẫn đến còn nhiều “đại án” trong lĩnh vực ngân hàng tài chính gây thất
thoát về tài sản và mất niềm tin của người dân và doanh nghiệp; công tác tái cấu trúc
hệ thống ngân hàng diễn ra còn chậm so với mục tiêu đề ra; vấn đề nợ xấu vẫn còn
nhiều; vấn đề minh bạch hóa thị trường, tạo điều kiện lành mạnh cho thị trường tài
chính ngân hàng phát triển vẫn còn chưa thực hiện được…


Chúng ta tin tưởng rằng, với xu hướng phát triển như hiện nay cùng sự nỗ lực
của nhà nước trong việc thực hiện các chức năng quản lý kinh tế trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng; thời gian tới Việt Nam sẽ có một thị trường tài chính ngân hàng
trong sạch, lành mạnh, phát huy tối đa được tiềm năng, hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội.

Tài liệu tham khảo:
1. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2010, phần I, tr.21, 20, 53, 41;

2. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội, 2016, tr. 108;
3. Thời Báo Ngân hàng thời đại của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.




×