Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SÁNG KIẾN 2017 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.18 KB, 16 trang )

-1-

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Hiện nay Nhà nước ta rất quan tâm và đầu tư cho giáo dục, bằng
nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.Để xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực thì việc giáo dục ý thức học sinh là một
trong những yếu tố quan trọng và không thể thiếu được. Giáo dục đạo đức cho
học sinh là một trong những giải pháp giáo dục được quan tâm nhất đối với từng
giáo viên trong trường học, trong ngành giáo dục nước nhà. Trong các trường
học hiện nay việc giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là một trong những
nhiệm vụ thiết yếu, nhất là ở trong nhà trường Tiểu học. Vì ở đây không chỉ là
nền móng xây dựng kiến thức mà còn hình thành nhân cách cho các em. Từ thực
tiễn của nhà trường, trong những năm qua bản thân tôi đã từng làm công tác chủ
nhiệm, tôi nhận thấy cần phát huy tinh thần trách nhiệm của mình nhiều hơn, đối
với vai trò của giáo viên chủ nhiệm là không thể xem nhẹ, nhất là trong việc
giáo dục học sinh cá biệt. Với tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp
của mình bằng mọi cách phải giúp các em có được nhận thức đúng đắn trong lao
động, học tập, giao tiếp, phải uốn nắn các em từ người “xấu” trở thành
người “tốt”. Nếu không khéo sẽ làm hỏng cả một tương lai của các em, đồng
thời cũng là một gánh nặng cho gia đình và xã hội. Từ những suy nghĩ đó, tôi
chọn nội dung “Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp Bốn A”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
- Giáo dục, uốn nắn các em từ những học sinh cá biệt thay đổi bản thân,
định hướng được ý nghĩa cuộc sống, điều chỉnh được hành vi, sống hòa nhập với
môi trường giáo dục trở thành người có ích cho xã hội sau này.
- Chia sẻ với đồng nghiệp những biện pháp đã thực hiện để được góp ý,
rút kinh nghiệm nhằm phát huy những mặt mạnh, điều chỉnh, khắc phục những
thiếu sót để có các biện pháp tốt hơn.
- Ghi lại những biện pháp mình đã thực hiện đạt kết quả để chọn lọc và
đúc kết thành kinh nghiệm của bản thân. Nhằm giúp cho công tác giảng dạy của


mình ngày càng hoàn thiện, kết quả ngày càng được nâng cao.


-2-

3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 4 A, trường Tiểu học An Thạnh 1 B.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Trường Tiểu học An Thạnh I B.
5. Thời gian nghiên cứu:
Năm học 2016 - 2017.
6. Tính mới của đề tài:
Trong đề tài này tôi chỉ nghiên cứu về thực trạng của lớp Bốn A trong
những năm qua, đặc biệt là năm học 2016 - 2017 áp dụng cho năm học 2017 2018 và những năm tiếp theo.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập đến học sinh cá biệt.
Với sáng kiến nêu trên, bản thân tôi muốn làm thế nào để giúp cho những
học sinh cá biệt từng bước thay đổi thái độ của mình trong học tập theo hướng
tích cực. Giúp các em biết tự tôn trọng bản thân mình và xác định được việc học
sẽ phục vụ chính bản thân các em và tạo điều kiện để giúp đỡ gia đình, góp phần
xây dựng quê hương, đất nước. Giúp các em thấy được công lao to lớn của các
bậc làm cha, làm mẹ nuôi con ăn học, sự vất vả của các thầy cô trong việc
truyền đạt tri thức và giáo dục nhân cách, kỹ năng sống cho các em. Từ đó các
em biết mình sẽ làm gì để thay những lời tri ân đầy ý nghĩa.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục Tiểu học và giúp học sinh phát triẻn toàn
diện về đức, trí, thể, mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa… Trong sự nghiệp trồng người nội dung chủ
yếu của việc vun đắp cho cái gốc nhân cách là vấn đề đạo đức. Đặc biệt quản lý
giáo dục đạo đức học sinh cá biệt. Đạo đức vốn tồn tại trong một dạng ý thức

hoạt động và giao lưu trong toàn bộ hoạt động, đời sống của con người, chúng ta
khẳng định rằng đạo đức nảy sinh từ cuộc sống hiện thực, cái thiện cái ác nảy
sinh từ quan hệ kinh tế, xã hội và liên quan đến việc phát triển văn hoá giáo dục
thông qua các hoạt động mà đạo đức con người luôn luôn phát triển và hoàn
thiện. Giáo dục học sinh cá biệt không phải một sớm một chiều mà phải trải một


-3-

quá trình nhận thức đạo đức không phải sẵn có mà phải được rèn luyện. Như
Bác Hồ đã nói:
“ Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Nhà trường là nơi có điều kiện giáo dục thế hệ trẻ nên giáo viên phải được
trang bị đầy đủ tri thức về giáo dục đạo đức, giảng dạy có chất lượng, mặt khác
phải cảm hoá được thế hệ trẻ. Giáo viên phải là tấm gương sáng cho học sinh
noi theo.
Xuất phát từ những vấn đề trên nên việc giáo dục học sinh nói chung và
học sinh cá biệt nói riêng trong nhà trường là một yêu cầu với mỗi giáo viên.
Nhiệm vụ giáo dục học sinh cá biệt giúp học sinh lĩnh hội được tư tưởng,
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của xã hội.Giáo dục các em về tình cảm, lòng yêu
thương con người, biết coi trọng mối quan hệ tình cảm, tôn trọng thầy cô, quan hệ
mật thiết với người xung quanh.Từ đó giúp các em có ý thức được việc rèn luyện
tư cách phẩm chất đạo đức của bản thân qua lời nói việc làm…
Bồi dưỡng tình cảm đạo đức tích cực và bền vững, rèn luyện thói quen
hành vi đạo đức làm cho chúng trở thành bản tính tự nhiên của cá nhân và duy
trì lâu bền các thói quen để ứng xử đúng đắn trong mọi hoàn cảnh.Hình thành
nếp sống văn hoá.
Trong công tác giáo dục đạo đức học sinh nói chung và học sinh cá biệt
ở trường Tiểu học có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành nhân cách lối

sống đạo đức cho các em thông qua đó các em ý thức được hành vi đạo đức của
mình và vận dụng kiến thức đạt được để áp dụng vào điều kiện thực tế của đời
sống xã hội và xây dựng mối quan hệ đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong sinh hoạt
và trong học tập.
2. Cơ sở thực tiễn:
Đầu năm học 2016 - 2017, tôi chủ nhiệm lớp Bốn A với 25 học sinh. Tôi
nhận thấy nề nếp học tập, đạo đức của các em không đồng đều, có sự chênh
lệch rất lớn. Cụ thể như sau:
a/ Dạng cá biệt về học tập:
Đây là dạng học sinh lười học tập, không chịu tích cực tham gia các hoạt
động học tập. Thường nghỉ học không phép và kết quả học tập chưa cao. Kết
quả khảo sát đầu năm gồm 06 em, chiếm tỷ lệ là 24%, chi tiết là:


-4-

STT
Họ và tên
Ghi chú
01
Lê Thị Kim Ngân
Đọc chậm, viết sai chính tả.
02
Huỳnh Chí Hải
Tính toán, đọc viết chậm
03
Phạm Thị Anh Thư Tính toán chậm, viết chậm
04
Huỳnh Vân An
Ít tập trung, tính toán chậm

05
Diệc Gia Linh
Nghỉ nhiều,đọc, viết chậm,tính toán chậm
06
Diệc Gia Yến
Đọc, viết chậm, sai nhiều khi tính toán
b/ Dạng cá biệt về đạo đức:
Qua khảo sát đầu năm học 2016 – 2017, có 04 em có phẩm chất chưa đạt,
chiếm tỷ lệ 16%. Hầu hết các em này lười học, nói tục, chưởi thề và rất hay đánh
nhau với bạn bè trong lớp cũng như các lớp khác. Các em thường hay nghỉ học
không phép, hỏi không trả lời, chi tiết là:
STT
01
02
03
04

Họ tên học sinh
Nguyễn Võ Thế Khang
Võ Tấn Tài
Đinh Văn Dương
Dương Mộng Nghi

Ghi chú
Hay đánh nhau với bạn, nói tục, chưởi thề
Hỏi không nói, không biết nghe lời thầy, cô
Hay đánh nhau với bạn, nói tục, chưởi thề
Làm mất trật tự, chọc phá bạn

Nhìn chung những biểu hiện của các em một phần là chưa có sự kết hợp

chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường – xã hội. Trong những năm gần đây thực
trạng học sinh vi phạm nội quy ,quy chế vẫn còn : gây gỗ bạn ,đánh nhau , lười
học, có nhiều nguyên nhân khác gây ra. Từ kết quả trên tôi đã nghiên cứu và tìm
ra một số nguyên nhân:
*Về phía học sinh:
- Các em đi học do gia đình ép buộc.
- Do tác động của xã hội, bị bè bạn không tốt lôi kéo.
- Sự kích động của phim ảnh, các trò trơi bạo lực từ game.
- Chưa có sự quan tâm của cha mẹ đến việc học của con cái.
- Do gia đình khá giả, chỉ biết cung cấp tiền cho con mà không quan tâm
đến kết quả học tập của con mình, dẫn đến tính ỷ lại.
- Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải làm thêm giúp gia đình nên
thường xuyên bỏ học, học lực sa sút.
- Một số học sinh trong bố mẹ luôn sử dụng bạo lực để giải quyết các mối
quan hệ trong gia đình.


-5-

- Do cha mẹ ly hôn, dẫn đến buồn chán.
- Do lớp học có quá nhiều học sinh yếu, kém…
* Về phía giáo viên:
+ Đối với giáo viên bộ môn:
- Do học yếu kém nên giáo viên bộ môn phân biệt trong cư xử.
- Thường xuyên gọi trả bài.
- Cho nhiều điểm kém.
- So sánh giữa học sinh này với học sinh khác.
- Hăm dọa sẽ ở lại lớp … làm cho học sinh mất đi niềm tin dẫn đến chán
chường, không muốn học những môn đó…
+ Đối với giáo viên chủ nhiệm:

- Trong quá trình giáo dục học sinh cá biệt còn sử dụng các phương pháp
không phù hợp và chưa khoa học.
- Xử lý học sinh trong lớp không công bằng.
- Không xây dựng được quy định riêng cho lớp.
- Xử lý không đến nơi, đến chốn.
- Chỉ nhắc nhở mà không có biện pháp cưỡng chế.
- Học sinh vi phạm lỗi nhẹ cũng mời phụ huynh.
- Chưa kết hợp với phụ huynh, chưa thông báo kịp thời với phụ huynh.
- Có thái độ kỳ thị đối với học sinh cá biệt.
- Không thường xuyên theo dõi lớp mà chỉ giao cho lớp trưởng quản lý.
- Bầu Ban cán sự lớp không đủ năng lực.
Từ những nguyên nhân nêu trên, sau một thời gian nghiên cứu tôi đã tiến
hành như sau:
3. Các giải pháp tiến hành giải quyết vấn đề:
Trong công tác chủ nhiệm, nếu làm đúng vai trò trách nhiệm thì người
thầy phải bỏ ra nhiều thời gian, rất vất cả trong việc theo dõi, quản lý lớp. Đối
tượng học simh rất quan trọng trong việc quyết định hiệu quả công tác chủ
nhiệm, cũng như sự lựa chọn phương pháp của giáo viên chủ nhiệm. Do đó


-6-

người giáo viên muốn làm tốt công tác của mình trước hết phải làm tốt công tác
tổ chức lớp, thực hiện một số công việc sau:
* Xếp chỗ ngồi:
Giáo viên chủ nhiệm phải xem trước học bạ của từng học sinh trong năm
học trước để nắm được học lực, hạnh kiểm của từng học sinh. Khi sắp xếp chỗ
ngồi nên chia đều những học sinh có học lực khá, giỏi ngồi xen lẫn với những
học sinh có học lực trung bình, học sinh yếu. Nếu thấy trong lớp có những học
sinh bị ghi trong học bạ là hạnh kiểm chưa tốt hoặc học sinh lưu ban nên xếp

chỗ ngồi cho các em ở những dãy bàn đầu để tiện quan sát, theo dõi. Sau khi xếp
chỗ ngồi xong giáo viên chủ nhiệm lập sơ đồ lớp và dán tại bàn giáo viên để
giáo viên bộ môn tiện theo dõi.
Nếu trong lớp đã có học sinh cá biệt thì không nên cho các em ngồi gần
nhau. Không nên cho các em tùy tiện chọn chỗ ngồi, vì những học sinh ham
chơi, hay đùa giỡn thường thích ngồi gần nhau.
* Bầu Ban cán sự lớp:
Khi giáo viên chủ nhiệm lớp đã nắm được học lực, hạnh kiểm của học
sinh sẽ lựa chọn những học sinh có đủ phẩm chất đạo đức để bầu làm lớp
trưởng, các lớp phó và các tổ trưởng, tổ phó. Đây là vấn đề rất cần thiết để giao
trách nhiệm cho ban cán sự lớp thay mặt giáo viên chủ nhiệm điều hành, quản lý
lớp. Trong quá trình giao nhiệm vụ, nếu thấy trong ban cán sự lớp những học
sinh nào không làm tốt sẽ thay bằng học sinh khác để tiếp tục quản lý lớp.
Tránh trường hợp học sinh không đủ năng lực nhưng giáo viên chủ nhiệm
vẫn bắt buộc phải làm lớp trưởng hoặc lớp phó, từ đó làm ảnh hưởng đến tinh
thần học tập của các em và tạo điều kiện cho những mầm mống học sinh cá biệt
xuất hiện.
* Xây dựng nội quy lớp:
Ngoài việc giáo viên chủ nhiệm phổ biến cho học sinh biết về Nội quy
nhà trường bắt buộc học sinh phải thực hiện bên cạnh giáo viên chủ nhiệm cần
xây dựng Nội quy riêng cho lớp để các em thực hiện. Có thể ở mỗi lớp giáo viên


-7-

chủ nhiệm xây dựng nội quy lớp khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm, tình hình
của lớp.
NỘI QUY LỚP
1. Đến lớp phải đúng giờ quy định.
2. Phải học bài, làm bài đầy đủ trước khi đến lớp.

3. Tổ trực phải vệ sinh phòng học sạch sẽ trước khi vào học.
4.Tác phong: quần, áo, đầu tóc, giày dép, gọn gàng , đúng quy định.
5. Không mang thức ăn đóng hộp, thức uống đựng bằng ly vào phòng học.
6. Giữ gìn vệ sinh phòng học.
7. Không được viết, vẽ trên tường, bàn ghế.
8. Không được đùa giỡn, chọc ghẹo, làm mất trật tự trong giờ học.
9. Nếu nghỉ học phải có xin phép ,có sự xác nhận của phụ huynh học sinh
(bất cứ lý do gì).
10. Học sinh phải thuộc lòng nội quy lớp.
Sau khi xây dựng xong nội quy lớp, giáo viên chủ nhiệm phổ biến trước
lớp cho tất cả học sinh đều biết và thống nhất thực hiện. Sau đó giáo viên chủ
nhiệm phát cho mỗi học sinh một bảng Nội quy và bắt buộc các em phải giữ
bảng Nội quy này và thường xuyên mang theo trong suốt năm học để làm cơ sở
xử lý học sinh vi phạm, nếu học sinh vi phạm nhẹ có thể cho học sinh đọc lại
bảng Nội quy trước lớp.
Nội quy lớp là một công cụ hỗ trợ giáo viên chủ nhiệm xử lý học sinh vi
phạm. Bên cạnh giáo viên chủ nhiệm phải xây dựng thang điểm thi đua của lớp
hàng tuần ứng với nội quy của lớp, trong đó có hình thức biểu dương, khen
thưởng và kỹ luật cụ thể từng trường hợp và được công khai vào buổi sinh hoạt
chủ nhiệm cuối tuần.
Giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc rèn
luyện, giáo dục học sinh, nên trong các buổi 15 phút đầu giờ giáo viên chủ
nhiệm phải thường xuyên đến lớp để theo dõi tình hình. Bên cạnh tác phong của
giáo viên chủ nhiệm cũng rất cần thiết như: đầu tóc, trang phục phải gọn gàng,
lên lớp đúng giờ, những gì nói với học sinh thì phải thực hiện bằng được tránh


-8-

tình trạng dễ giải qua loa, phải xử lý, nhắc nhở học sinh đúng quy định đã đặt ra

dù cho học sinh đó vô tình hay cố ý vi phạm. Từ đó giúp học sinh học hỏi được
phong cách, tác phong trước tiên từ người giáo viên chủ nhiệm lớp, làm các em
càng kính trọng hơn.
* Khảo sát học sinh:
Sau khi làm xong công tác tổ chức lớp, giáo viên chủ nhiệm tiến hành
khảo sát để nắm được những thông tin có liên quan đến hoàn cảnh, đời sống gia
đình của các em. Qua đó giúp giáo viên chủ nhiệm biết được hoàn cảnh từng đối
tượng học sinh, trong số đó dễ dàng nhận ra được những học sinh sẽ rơi vào
trường hợp học sinh cá biệt để kịp thời ngăn chặn, uốn nắn, biết được những học
sinh nào có hoàn cảnh khó khăn dẫn đến nguy cơ bỏ học cao để kịp thời giúp đỡ.
PHIẾU KHẢO SÁT
1. Họ và tên học sinh: …………………………………………
2. Chổ ở hiện nay: …………………………………………….
3. Họ tên cha: …………………….., tuổi…………., nghề nghiệp: …………..
4. Họ tên mẹ: ……………………..., tuổi…………., nghề nghiệp: ………….
5. Gia đình có bao nhiêu anh, chị em; nghề nghiệp của anh, chị ……………..
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
6. Hoàn cảnh sống hiện tại của gia đình em thế nào, ………………………..
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
7. Ước mơ của em sau này làm gì: ……………………………………………
8. Ngoài giờ học em thường làm gì để giúp đỡ gia đình: ……………………
………………………………………………………………………………….
9. Trong học tập và trong cuộc sống em gặp phải khó khăn gì: ……………….
…………………………………………………………………………………
10. Những người bạn thân của em tên gì, học lớp nào: ………………………..
………………………………………………………………………………….



-9-

Sau khi nắm được những thông tin của học sinh, giáo viên chủ nhiệm sẽ
phân luồng đối tượng, xem những học sinh nào có thể dẫn đến sa sút về học tập
và sẽ trở thành học sinh cá biệt sau đó lập sổ để theo dõi dành riêng cho những
đối tượng học sinh này.
SỔ THEO DÕI HỌC SINH CÁ BIỆT

Ảnh học sinh
-Họ và tên học sinh: ……………………………., lớp …................................…..
-Học lực, hạnh kiểm năm học trước: ……………… ................................……….
-Hoàn cảnh gia đình: ………………………………....................................………
…………………………………………….................................…………………
-Những biểu hiện của học sinh: …..................................………………………….
……………………………………………...................................………………
PHẦN THEO DÕI
Thái độ sửa chữa
Tuần

Các hành vi vi phạm

Hình thức xử lý

(Có chấp hành kỹ luật

(Đối chiếu với nội quy lớp) (Ghi hình thức xử lý) hay không, khắc phục
khuyết điểm không)

1
2

3
4
5

Tổng hợp của GVCN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………


-10-

...................................................................................................................................
*Kết hợp với cha mẹ học sinh:
Trong cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm giáo viên chủ nhiệm phải cố
gắng nắm được số điện thoại liên lạc của gia đình, đây là điều kiện thuận lợi
giúp giáo viên chủ nhiệm trao đổi gián tiếp với cha mẹ học sinh khi cần thiết.
Ngoài ra giáo viên chủ nhiệm cần phải tiếp xúc riêng để trao đổi thông tin với
cha mẹ của những học sinh cá biệt, đây là điều rất cần thiết, không thể thiếu đối
với giáo viên làm công tác chủ nhiệm. Thông qua công việc này giúp giáo viên
biết được các thói quen, sở thích, thái độ của học sinh thường biểu hiện ở gia
đình. Qua đó giúp cha mẹ học sinh biết được tình hình học tập, những dấu hiệu
sa sút của các em đồng thời giúp cha mẹ học sinh thấy được sự quan tâm của
nhà trường đối với gia đình từ đó tạo được niềm tin đối với phụ huynh trong
việc giáo dục con cái của họ. Mối quan hệ có tác động hai chiều này nhằm hạn
chế bớt mặc cảm, tự ti ở các em, giúp các em giảm bớt tâm lý lo sợ khi tiếp xúc
với giáo viên chủ nhiệm.
* Tìm hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh:
Ngoài những thông tin mà giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu về học sinh cá
biệt, bên cạnh cần phải tìm hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh đó để biết
những đối tượng mà học sinh này đang chơi chung, họ như thế nào. Có thể giáo

viên chủ nhiệm tìm hiểu thông qua lớp trưởng, các học sinh khác trong lớp,
thông qua phiếu khảo sát… Có những học sinh ít giao tiếp với bạn bè chỉ thích
chơi game mà học tập giảm sút, nên khuyến khích các học sinh khác trong lớp
thường xuyên tiếp xúc để có biện pháp giúp đỡ bạn, giúp các em sống trong môi
trường đoàn kết, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau trong bất kỳ trường hợp nào. Giáo
viên chủ nhiệm có thể giáo dục các em bằng cách nêu gương, điểm hình giúp
các em tự nhận thấy những khuyết điểm của mình để từng bước sửa chữa. Giáo
viên chủ nhiệm nên gặp riêng từng học sinh để trao đổi, giải thích cho các em
hiểu những sai trái của mình để các em có hướng khắc phục, không nên làm các
em cảm thấy mặc cảm trước lớp.
* Tạo sự gần gũi, quan tâm với học sinh:


-11-

Tạo mối quan hệ gần gũi là thể hiện sự quan tâm đối với các em, nhưng
người giaó viên vẫn luôn giữ chuẩn mực, nghiêm khắc. Tiếp xúc tìm hiểu tâm tư
nguyện vọng của các em, nhằm để động viên, khích lệ tạo cho các em có được
chỗ dựa tinh thần vững chắc. Để các em thấy sự quan tâm của người giáo viên
như người cha, người mẹ của các em luôn dìu dắt, nâng đỡ các em khi vấp phải
những khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Khi học sinh nghỉ học, dù có phép hay không phép, dù bất cứ lý do gì
những buổi học sau phải tiếp xúc để thăm hỏi các em, đôi khi cũng có những lý
do khá đặc biệt người giáo viên có thể chia sẻ với các em, làm cho các em cảm
thấy vui hơn khi được thầy cô quan tâm đến mình, từ đó những biểu hiện cá biệt
dần dần biến mất.
* Công tác phối hợp:
Để giáo dục được những học sinh cá biệt, bản thân của mỗi giáo viên chủ
nhiệm cần phải biết phối hợp kịp thời, linh hoạt với các bộ phận trong nhà
trường, để kịp thời hỗ trợ trong việc theo dõi, nhắc nhở và xử lý những vi phạm

của các em. Phối hợp với giáo viên bộ môn, thông qua đó giáo viên có thể theo
dõi thái độ học tập của các em ở từng môn học để có hướng bồi dưỡng, rèn
luyện thêm cho các em về kiến thức.
* Giao nhiệm vụ cho học sinh:
Thường giáo viên chủ nhiệm không giao nhiệm vụ cho những học sinh cá
biệt, vì cho rằng những học sinh này sẽ không làm được gì, coi thường các em
mà chỉ luôn la rầy, nêu tên là chính. Điều đó không khéo dễ làm hỏng các em
hơn.
Cho nên đối với những đối tượng này, giáo viên chủ nhiệm nên tạo cho
các em một cơ hội để các em thấy được vai trò của mình trong tập thể, đồng thời
phát huy tính làm chủ của các em và nhận thấy rằng mình không bị lạc lỏng,
không bị bỏ rơi. Như tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ, tham gia các trò
chơi dân gian, các hoạt động thể thao, tham gia làm báo tường, cắm trại nhân
các ngày lễ hội của trường tổ chức… Khi hoàn thành nhiệm vụ giáo viên chủ
nhiệm phải đánh giá kết quả bằng cách nêu gương trước tập thể lớp .


-12-

* Rèn luyện học sinh tính trung thực:
Phải rèn luyện cho học sinh tính trung thực, tự lập, vượt qua mọi khó
khăn thử thách, không nên ỷ lại. Có được tính trung thực điều đó có nghĩa là các
em đã trưởng thành, phải chịu trách nhiệm trước công việc của mình làm, nếu có
sai phạm phải tự nhận lấy, không đổ lỗi cho người khác. Từ đó giúp các em tự
khẳng định được mình và các em sẽ đắn đo trước những công việc mà mình sắp
làm nhằm hạn chế bớt những sai phạm.
* Sinh hoạt chủ nhiệm:
Trong buổi sinh hoạt cuối tuần, giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò cố vấn,
hướng dẫn các em từng bước tiến hành. Sau đó giáo viên chủ nhiệm sẽ là người
kết luận cuối cùng. Đối với những trường hợp vi phạm cho các em tự báo cáo về

mình dựa theo nội quy của lớp. (từng tổ trưởng báo báo)
Nội dung báo cáo

Ngày

Số lần

vi phạm

vi phạm

1. Đến lớp phải đúng giờ quy định.
2. Phải học bài, làm bài đầy đủ trước khi đến lớp.
3. Tổ trực phải vệ sinh phòng học sạch sẽ trước khi vào
học.
4.Tác phong: quần....., áo …., đầu tóc …, giày dép ….,
5. Không mang thức ăn đóng hộp, thức uống đựng
bằng ly vào phòng.
6. Giữ gìn vệ sinh phòng học. Không được nhả kẹo cao
su xuống nền gạch.
7. Không được viết, vẽ trên tường, bàn ghế.
8. Không được đùa giỡn, chọc ghẹo, làm mất trật tự
trong giờ học.
9. Nếu nghỉ học, ngày sau đi học phải báo cáo với
GVCN…
10. Đi học phải mang theo nội quy lớp.
Sau đó lớp trưởng nhận xét xem còn ai chưa báo cáo, hoặc báo cáo không
chính xác để giáo viên chủ nhiệm xử lý. Trong việc xử lý những học sinh vi



-13-

phạm phải đúng người, đúng tội theo Nội quy đã đề ra. Tránh trường hợp vị nễ,
xử học sinh này nặng, xử học sinh kia nhẹ làm mất đi tính nghiêm khắc, công
minh của người giáo viên. Những học sinh vi phạm phải chấp nhận hành vi vi
phạm của mình. Điều này thông qua sự báo cáo của ban cán sự lớp phải thật sự
chính xác công bằng. Những hình thức kỹ luật đã đưa ra bắt buộc học sinh đó
phải thực hiện, giáo viên chủ nhiệm không bỏ qua với bất cứ trường hợp nào.
Làm được điều đó sẽ giúp cho nề nếp lớp học đi vào khuôn khổ nhất định, rèn
luyện cho các em chấp hành tốt Nội quy trường, lớp như vậy sẽ hạn chế tối đa
trường hợp học sinh có biểu hiện cá biệt tái phạm.
Ngoài việc xử lý học sinh vi phạm, giáo viên chủ nhiệm cần phải có hình
thức biểu dương, khen thưởng. Đây là hình thức rất có ý nghĩa, học sinh cá biệt
thông thường vốn khó tính, khó dạy nếu giáo viên chủ nhiệm thiên vị lập tức sẽ
có sự phản ứng ngược lại. Mỗi khi học sinh cá biệt làm được một việc tốt, đạt
điểm tốt thì phải động viên khuyến khích các em nên tiếp tục phát huy. Nếu các
em sai phạm thì cứ nhẹ nhàng xử lý như những học sinh khác, tránh nóng vội,
kỳ thị để các em tự nhận lỗi và sửa chữa.
Sau khi thực hiện các giải pháp nêu trên, giáo viên chủ nhiệm có thể
kiểm chứng kết quả xem các giải pháp có thể làm thay đổi thái độ học tập của
học sinh cá biệt hay không. Có thể tổng hợp kết quả theo học kỳ và cuối năm
học:
Các biểu
Họ tên HS

hiện đầu
năm

Số lần vi phạm từng tháng


Kết
Số lần khắc

quả

Tháng 1 Tháng 2 Tháng … phục sửa chữa cuối
năm

Học sinh A
Học sinh B
Học sinh C
Tóm lại, các biện pháp trình bày trên đây cần được tiến hành đồng bộ,
thường xuyên và phải biết cách lựa chọn các phương pháp phù hợp cho từng đối
tượng học simh thì kết quả đạt được sẽ rất khả quan. Đồng thời tùy từng đối


-14-

tượng, điều kiện giảng dạy mà giáo viên vận dụng những biện pháp trên một
cách linh hoạt.
4. Kết quả - Bài học kinh nghiệm:
* Kết quả:
Tôi đã áp dụng các biện pháp trên ở lớp 4A năm học 2016 - 2017 với 25
học sinh và thu được kết quả cuối năm như sau:
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
21em/25 HS – 84%
4em/25 HS – 16%
*Bài học kinh nghiệm:


Chưa hoàn thành
Không có

- Để thực hiện tốt những biện pháp trên giáo viên phải luôn quan sát, chú
ý phải ghi lại những điểm thành công trong từng phương pháp đối với từng đối
tượng học sinh cũng như những mặt chưa đạt được để rút kinh nghiệm bổ sung.
- Phải thường xuyên học hỏi để có nhiều kinh nghiệm, sáng tạo.
- Phải nắm được trình độ, tâm lí học sinh, để lựa chọn phương pháp và
hình thức cho phù hợp tạo ra không khí lớp học nhẹ nhàng, vui vẻ, sôi nổi.
- Giáo viên mạnh dạn đổi mới phương pháp bằng nhiều hình thức cho phù
hợp với đặc điểm tình hình lớp mình để đạt hiệu quả cao nhất.
- Quan tâm đến mọi đối tượng học sinh trong lớp nhằm bồi dưỡng cho học
sinh yếu kém và học sinh khá giỏi.
- Giáo viên phải kiên trì, không vội vàng, nôn nóng, luôn tin tưởng vào sự
tiến bộ của học sinh để khuyến khích, động viên các em kịp thời. Đồng thời
cũng phải nghiêm khắc đối với những học sinh có biểu hiện lười và tiêu cực
trong học tập.
- Giáo dục học sinh cá biệt là vấn đề mà giáo viên chủ nhiệm phải thường
xuyên đối mặt. Đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải bình tỉnh, khéo léo xử lí. Phải
làm sao cho các em nhận thức được tình yêu thương, sự quan tâm của thầy, cô,
bạn bè dành cho các em thì mới có thể đưa các em hòa nhập với các thành viên
trong “đại gia đình” được. Có câu nói: “Trong muôn vàn sự vô tình, thì sự vô
tình của nhà giáo là đáng trách nhất, vì nó có thể làm thay đổi tương lai cả một
cuộc đời của một con người”. Thế nên, khi giáo dục học sinh cá biệt người giáo
viên cần có cả tình thương yêu lẫn sự cảm thông và lòng kiên nhẫn.


-15-

Tôi đã áp dụng các biện pháp trên cho năm học: 2016 - 2017 và đang áp

dụng cho năm học 2017 – 2018. Kết quả thu được cũng rất tốt. Tôi sẽ duy trì,
phát huy và không ngừng cải tiến, thực hiện cho những năm học sau để việc hạn
chế đối tượng hoc sinh cá biệt ngày càng tốt hơn.
III. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Tóm lại muốn làm tốt công tác chủ nhiệm trước hết người giáo viên cần
nhận thức được vai trò của mình trong dạy học. Mỗi giáo viên cần trang bị cho
mình những kiến thức sư phạm cần thiết, cần phải học hỏi nhiều hơn nữa về
chuyên môn nghiệp vụ, cải tiến, đổi mới phương pháp. Cần có sự tận tâm, có cái
nhìn thiện cảm đối với những đối tượng học sinh không may mắn về nhiều mặt
như:
Xây dựng nề nếp, phương pháp tự học tự rèn ở học sinh. Duy trì khối
đoàn kết trong lớp học. Giáo dục cho học sinh thấy tầm quan trọng của phong
trào “Xây dựng trường học thân thiện - Học sinh tích cực”.
2. Kiến nghị:
Cuối cùng, tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau đây đối với các giáo viên
đang trăn trở về việc muốn nâng cao chất lượng học tập và giáo dục toàn diện
cho học sinh. Người giáo viên cần phải:
- Làm tốt công tác chủ nhiệm, tìm hiểu học sinh để phát hiện ra nguyên
nhân khiến học sinh chưa có ý thức học tập tốt. Từ đó có kế hoạch cụ thể với
từng đối tượng học sinh: Lập kế hoạch kèm cặp, phụ đạo cụ thể; có sự giúp đỡ
của Ban Giám hiệu nhà trường.
- Mỗi đối tượng học sinh cần có cách khích lệ riêng. Giáo viên phải hết
sức kiên trì, nhẫn nại, hướng dẫn học sinh từng điểm nhỏ, cụ thể, không được
nóng vội muốn có ngay kết quả hoặc yêu cầu tiến bộ nhanh của các em.
- Người giáo viên không những phải có kiến thức vững chắc, phương
pháp giảng dạy hay mà phải luôn quan tâm đến sự tiến bộ cũng như biểu hiện
sút kém của học sinh để uốn nắn kịp thời.



-16-

- Luôn học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp. Trong các buổi
sinh hoạt tổ chuyên môn, nên đưa các đề tài, các kinh nghiệm hay, có giá trị về
công tác chủ nhiệm để cả tổ thảo luận, rút kinh nghiệm.
Người viết
Nhận xét của nhà trường
..........................................
..........................................
..........................................

Đinh Thị Thể

Nhận xét đánh giá của hội đồng xét duyệt
sáng kiến cải tiến kĩ thuật ngành giáo dục
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×