Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

“THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG CÓ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC MỘT SỐ CHỦ ĐỀ MÔN TOÁN Ở TRƯỜNG THPT”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.54 MB, 119 trang )

MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Luật giáo dục nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định:
“Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy
sáng tạo của người học; bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý
chí vươn lên” (Luật giáo dục 2005, chương I, điều 4).
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, tư duy sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học;
bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập của HS”
(Luật giáo dục 2005, chương I, điều 24)
Chỉ thị số 58 – CT/TW ngày 17 tháng 10 năm 2000 của Bộ chính trị,
Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam: “Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc
học, ngành học. Phát triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ cho nhu cầu
học tập của toàn xã hội. Đặc biệt tập trung phát triển mạng máy tính phục vụ
cho giáo dục và đào tạo, kết nối Internet tới tất cả các cơ sở giáo dục và đào
tạo”.
Chỉ thị số 29/2001/CT - Bộ GD&ĐT cũng chỉ ra: đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin trong giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, ngành học
theo hướng sử dụng công nghệ thông tin như một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất
cho đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập ở tất các các môn.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là hướng vào việc
tổ chức cho học sinh học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác tích
cực và sáng tạo để chống lại thói quen học tập thụ động.
Đặc biệt, Bộ GD&ĐT đã quyết định chủ đề năm học 2008 – 2009 là
“Năm học ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT)” với mục tiêu: “Đẩy mạnh
1


một cách hợp lý việc triển khai ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp


dạy và học ở từng cấp học. Ở những nơi có điều kiện thiết bị tin học, từng
bước đổi mới phương pháp dạy học thông qua việc thực hiện bài giảng điện
tử, xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử cho học tập từng môn, ứng dụng các phần
mềm mô phỏng thí nghiệm, xây dựng thư viện bài giảng điện tử, hướng tới
triển khai công nghệ học điện tử (e-Learning); tăng cường giao lưu trao đổi
bài soạn qua mạng; phát huy tính tích cực tự học, tự tìm tòi thông tin qua
mạng Internet. Tổ chức “sân chơi” trí tuệ trực tuyến của một số môn học.
Tích cực chuyển sang khai thác, sử dụng và dạy học bằng phần mềm mã
nguồn mở. Xây dựng chương trình giảng dạy CNTT theo các mô-đun kiến
thức để đáp ứng nhu cầu học tập một cách mềm dẻo.” (Trích Chỉ thị số
47/2008/CT-BGDĐT của Bộ GD&ĐT về năm học 2008-2009)
Từ những định hướng trên, chúng ta thấy rằng việc ứng dụng công
nghệ thông tin và các phương pháp dạy học hiện đại vào hoạt động dạy học là
một hướng đang nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và của toàn xã
hội. Việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng trên sẽ góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo, đặc biệt là giáo dục và đào tạo phổ thông.
Với những lý do trên và qua thực tế giảng dạy bộ môn Toán ở trường
THPT, chúng tôi nhận thấy việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy là hết sức cần
thiết. Vì vậy đề tài được chọn là: “THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG CÓ ỨNG
DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC MỘT SỐ CHỦ ĐỀ
MÔN TOÁN Ở TRƯỜNG THPT”
II. Giả thuyết khoa học
Nếu có phương pháp phù hợp để sử dụng CNTT trong thiết kế hoạt
động dạy học môn Toán thì sẽ tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh,
vừa đạt được mục tiêu truyền thụ kiến thức, rèn được kỹ năng, vừa phát triển
tư duy logic cho học sinh, học sinh sẽ cảm thấy hứng thú học tập hơn. Góp
2


phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học Toán ở

trường THPT.
III. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng phương án ứng dụng CNTT vào dạy học một số chủ đề môn
Toán ở trường THPT nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy.
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu lý luận về những quan điểm đổi mới về phương pháp dạy học.
- Tìm hiểu thực trạng việc khai thác CNTT trong dạy học Toán ở
trường THPT
- Thiết kế một số hoạt động dạy học có ứng dụng CNTT ở một số nội
dung cụ thể trong chương trình Toán THPT.
- Kiểm tra hiệu quả bằng thực nghiệm sư phạm.
V. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp điều tra, thăm dò
- Phương pháp thực nghiệm giáo dục
- Phương pháp xử lý dữ liệu.
VI. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Khai thác phần mềm AutoGraph trong dạy học Toán ở trường
THPT

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

3


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. BỐI CẢNH CHUNG VỀ TÁC ĐỘNG TOÀN DIỆN CỦA CNTT
TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI
Trong những năm gần đây, loài người đã được chứng kiến một kỷ
nguyên mới gắn liền sự phát triển với tốc độ phát triển như vũ bão của CNTT
và được thừa hưởng nhiều thành tựu do CNTT mang lại. Thông tin đã thực sự
trở thành tài sản của mỗi cá nhân, mỗi tập thể, mỗi quốc gia và của toàn bộ
loài người.
Những thành tựu của CNTT đã tạo ra một cuộc cách mạng trong hầu
hết các lĩnh vực xã hội, kinh tế,... Sự phát triển Internet và công nghệ truyền
thông đa phương tiện (Multimedia) đã tạo ra nhiều biến đổi lớn lao trong
phạm vi toàn cầu như: Trao đổi thư tín qua mạng Internet: e-mail; Chính phủ
điện tử: e-government; Giáo dục điện tử: e-education; Dạy học qua mạng: elearning; văn hoá số hay văn hoá điện tử: e-culture. Tất cả đều có một đặc
điểm chung là mọi công việc giao dịch được số hoá và thực hiện trên mạng
Internet. Sự thay đổi này kéo theo nhiều sự thay đổi sâu sắc trong xã hội. Có
thể khẳng định máy tính điện tử (MTĐT) đã xâm nhập vào mọi ngóc ngách
của cuộc sống và trở thành một công cụ đắc lực không thể thiếu được trong
cuộc sống hiện đại. Con người tiếp xúc với kho kiến thức khổng lồ của nhân
loại qua màn hình máy tính, và giao tiếp với nhau qua Internet. Như vậy, mọi
cản trở về không gian, thời gian đã trở nên không đáng kể.
Trong bối cảnh chung này, giáo dục không thể là trường hợp ngoại lệ,
sớm hay muộn thì giáo dục cũng phải chịu tác động sâu sắc bởi các thành tựu
của CNTT.

4


1.2. NHÀ TRƯỜNG HIỆN ĐẠI TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN
NHƯ VŨ BÃO CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Nằm trong xu thế chung của thời đại, ngành giáo dục đã có những thay

đổi sâu sắc, toàn diện dưới tác động của CNTT. CNTT và truyền thông ngày
càng được sử dụng rộng rãi trong nhà trường là do những ưu điểm về mặt kỹ
thuật và tiềm năng về mặt sư phạm của nó.
1.2.1. CNTT nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục
Vai trò của CNTT trong việc nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đã
được các chuyên gia về quản lý giáo dục khẳng định, ví dụ:
- CNTT cho phép giảm bớt chi phí đào tạo đến mức độ tối thiểu.
- Việc ứng dụng các thành tựu mới do CNTT mang lại đã giúp các
nước kém phát triển ở tốp sau rút ngắn được khoảng cách về sự tụt hậu so với
nền giáo dục ở các nước phát triển.
- CNTT đã làm tăng hiệu quả và giảm tính quan liêu trong quản lý giáo
dục. Với công cụ xử lý thông tin, các nhà quản lý có thể giải quyết các bài
toán về giáo dục nhanh chóng, hiệu quả và đưa ra các chủ trương, chính sách
đúng đắn.
Như vậy CNTT tạo ra một cuộc cách mạng trong quản lý giáo dục nó
làm thay đổi căn bản phương thức điều hành và quản lý giáo dục. Đó là công
nghệ quản lý giáo dục (Education Management Technology).
1.2.2. CNTT góp phần đổi mới nội dung phương pháp dạy học
Ngay từ khi phát minh ra MTĐT, các chuyên gia về giáo dục đã chú ý
và khai thác thế mạnh của MTĐT trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, ví dụ:
- Năm 1967, công ty Mitre với sản phẩm TICCIT bắt đầu sử dụng máy
tính mini để hỗ trợ giảng dạy.
- Năm 1970 một số nước đã sử dụng rộng rãi các hệ thống hướng dẫn
dạy học PLATO.
5


- Năm 1977 MTĐT đã nhanh chóng được sử dụng trong dạy học ở hầu
hết các cấp học.
- Năm 1980 ngôn ngữ Logo được đưa vào khai thác trong nhà trường,

điều này thúc đẩy nhiều công ty quan tâm đến lĩnh vực PMDH và mở ra một
kỷ nguyên phát triển của các PMDH.
- Năm 1990 việc sử dụng hệ thống đa phương tiện và hệ thống ILS
trong các nhà trường đã thu lại những kết quả khả quan, nó khẳng định vai trò
to lớn trong lĩnh vực giáo dục đào tạo của CNTT.
- Năm 1994, các chuyên gia giáo dục bắt đầu khai thác Internet vào lĩnh
vực giáo dục.
- Năm 2000 trên cơ sở thành tựu của CNTT và truyền thông đã hình
thành và phát triển các hệ thống giáo dục ảo và môi trường giáo dục ảo.
* Những thành tựu của CNTT có thể khai thác trong dạy học
- Kỹ thuật đồ họa 2 chiều, 3 chiều trên máy tính dùng để thiết kế các thí
nghiệm ảo trong vật lý, hoá học, sinh học …
- Công nghệ đa phương tiện (multimedia) với các chuẩn nén dữ liệu
MP3, MP4, các phương pháp xử lý âm thanh, đồ hoạ tiên tiến cho phép tích
hợp nhiều dạng dữ liệu như văn bản, biểu đồ, âm thanh, hình ảnh, video... vào
bài giảng nhằm hỗ trợ tối đa khả năng tiếp thu kiến thức của người học.
-Việc trao đổi thông tin giữa GV với HS, giữa HS với HS được thực
hiện trên mạng máy tính và Internet.
- Sự phát triển của các ngành khoa học trong lĩnh vực tin học như trí
tuệ nhân tạo, hệ chuyên gia, mạng noron, vấn đề xử lý tri thức đã cho phép
chế tạo và điều khiển MTĐT bắt chước suy nghĩ và hành động của con người.
Trong thời gian gần đây việc sử dụng MTĐT trong các công việc đòi hỏi suy
luận như chứng minh các mệnh đề toán học đã trở thành hiện thực.
- Sự phát triển của công nghiệp phần mềm đã cung cấp hàng loạt các
6


PMDH, PMDH thông minh, các phần mềm công cụ với giao diện hết sức
“thân thiện” hỗ trợ GV và HS trong dạy và học.
Tại Hội nghị quốc tế về giáo dục Đại học thế kỷ 21 “Tầm nhìn và hành

động” tại Paris diễn ra từ ngày 5 đến 9 tháng 10 năm 1998 do UNESCO tổ
chức đã đưa ra ba mô hình giáo dục sau:
Mô hình

Vai trò trung tâm

Vai trò người học

Mô hình truyền

GV đóng vai trò

Người học thụ

thống

trung tâm

động

Mô hình thông tin
Mô hình kiến thức

Người học đóng
vai trò trung tâm
Nhóm HS đóng
vai trò trung tâm

Công nghệ sử
dụng

Bảng , tivi, radio

Chủ động

Máy tính điện tử

Thích nghi cao độ

MTĐT và mạng

Trong hệ thống trên, CNTT đóng vai trò quyết định trong việc chuyển từ
mô hình truyền thống sang mô hình thông tin và sự xuất hiện của mạng máy
tính là tác động chính để chuyển từ mô hình thông tin sang mô hình kiến thức.
* CNTT tạo ra một môi trường dạy học mới
CNTT đã tạo ra một môi trường dạy học hoàn toàn mới, khắc phục
được các nhược điểm của môi trường học truyền thống:
- Tài nguyên học tập phong phú hơn: xuất hiện các “Sách giáo khoa”
điện tử dưới dạng CD-ROM, DVD,… với khả năng lưu trữ hầu hết các dạng
thông tin của loài người nhờ công nghệ số hoá.
- CNTT giúp tạo ra những kênh thông tin đa dạng, phong phú tác động
đến tất cả các giác quan của người học nhằm kích thích hứng thú học tập cho
HS. CNTT còn tạo ra một môi trường thuận lợi chưa từng có để tổ chức các
hoạt động học tập hướng vào việc lĩnh hội tri thức và kỹ năng cho HS, trong
đó việc xử lý thông tin một phần được thực hiện nhờ MTĐT, vì vậy công
7


nghệ và MTĐT đã trở thành một bộ phận của bài học.
- MTĐT có thể mô phỏng hầu hết thế giới thực một cách sinh động.
Làm cho HS có một môi trường thuận lợi để phát triển tính sáng tạo, khả năng

tư duy, cách giải quyết vấn đề, phương pháp học tập và cách thức làm việc
hợp tác.
-Với các phần mềm vi thế giới, HS có thể tạo ra, tác động lên các đối
tượng để từ đó tìm tòi, phát hiện ra quy luật của các đối tượng hoặc sử dụng
quan sát các thí nghiệm ảo về sinh vật, hoá học, vật lý ... để rút ra được các
nhận xét, kết luận khoa học. Việc sử dụng CNTT để thực hiện các thí nghiệm
ảo đã giúp nhà trường tránh được những thí nghiệm nguy hiểm, vượt quá hạn
chế về thời gian, không gian hoặc chi phí- Đây là vấn đề khác biệt, vượt trội
so với việc chỉ sử dụng các phương tiện, đồ dùng dạy học truyền thống.
- Sự ra đời của Internet tạo ra một môi trường học tập mới. Việc tương
tác đa chiều giữa giảng viên, học viên, chuyên gia, việc trao đổi thông tin giữa
GV và HS, giữa HS với HS, giữa gia đình và nhà trường... được thực hiện qua
mạng và Internet.
- CNTT cho phép việc cá thể hoá dạy học ở mức độ cao. CNTT đã cho
phép thực hiện việc dạy học một – một mà điều này rất khó thực hiện trong
các môi trường dạy học khác.
- MTĐT là một “thầy giáo” lý tưởng. MTĐT không đưa ra các phê
phán khi HS chưa hoàn thành nhiệm vụ và trái lại có thể đưa ra các lời gợi ý,
chỉ bảo một cách kiên trì cho đến khi HS hoàn thành nhiệm vụ.
Các chuyên gia về giáo dục khẳng định việc ứng dụng CNTT đã tạo ra
khả năng xây dựng môi trường hoạt động lý tưởng cho HS. Trong môi trường
này HS là chủ thể của quá trình dạy học, tự làm việc, tự phát hiện, tự kiểm tra
đánh giá. HS rất hứng thú khi được học tập với MTĐT vì vậy hiệu quả cao
hơn hẳn việc học tập theo phương pháp truyền thống.
8


* CNTT góp phần đổi mới việc dạy
- CNTT hỗ trợ người GV gia tăng giá trị lượng thông tin đến HS, hình
thành nhiều kênh trao đổi thông tin hai chiều giữa GV và HS.

- CNTT đưa ra nhiều lựa chọn để GV chuẩn bị bài giảng và tiến hành
lên lớp sau cho phát huy cao nhất tính tích cực chủ động của HS.
- CNTT cho phép GV thực hiện việc phân hoá cao trong dạy học.
- CNTT không chỉ hỗ trợ GV dạy học trên lớp mà còn đưa ra nhiều
hình thức dạy học mới như dạy học trên cơ sở mạng LAN, mạng WAN và
Internet, dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS từ xa...
* CNTT góp phần đổi mới việc học, đặc biệt chú trọng việc tự học của HS
- CNTT tạo ra môi trường tương tác để người học hoạt động và thích
nghi với môi trường, nó tạo điều kiện cho người học hoạt động độc lập với
mức độ cao.
- Thành tựu của CNTT sẽ dẫn đến khả năng thực hiện phân hoá cao
trong quá trình giáo dục. CNTT đã hỗ trợ tối đa HS vươn lên trong quá trình
học tập. HS nhận được sự giúp đỡ, khuyến khích do MTĐT đưa ra vì vậy có
điều kiện phát triển kịp thời trong mọi thời điểm của cả quá trình học tập.
* CNTT tạo ra các mô hình dạy học mới
Các chuyên gia đã đưa ra một số mô hình dạy học với sự hỗ trợ của
CNTT và truyền thông, ví dụ như:
- Mô hình dạy học hướng dẫn (Instructional)
- Mô hình dạy học phát hiện
- Mô hình dạy học kiểm nghiệm
- Mô hình dạy học trợ giúp
1.2.3. CNTT góp phần đổi mới công tác kiểm tra đánh giá
Ta có thể khai thác CNTT trong các công đoạn: biên soạn đề, kiểm tra
tính đúng đắn của đáp án, tổ chức và đánh giá kết quả kiểm tra…
9


1.2.4. Nhận định chung
Khi đưa CNTT vào quá trình dạy học sẽ có sự thay đổi lớn, nó tạo ra
một cuộc cách mạng trong giáo dục và do đó sẽ tạo ra những thay đổi lớn

trong phương pháp dạy học.
1.3. ỨNG DỤNG CNTT TRONG CÁC NHÀ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
1.3.1. Quan điểm chỉ đạo về việc ứng dụng CNTT trong nhà trường
Nhận thức rõ vai trò to lớn của CNTT, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã
có rất nhiều những văn bản chỉ đạo về phát triển việc ứng dụng CNTT trong
GD&ĐT như đã nêu trong phần lý do chọn đề tài.
1.3.2. Định hướng về việc đưa CNTT vào nhà trường ở Việt Nam
*Dạy tin học như một môn học ở Việt Nam
Từ năm 1985, Bộ GD&ĐT đã cho phép 10 địa phương tiến hành dạy
thử nghiệm chương trình nhập môn tin học cơ sở và đến năm 1990 đã triển
khai việc dạy thí điểm tin học tại 100 trường THPT trên phạm vi toàn quốc.
Từ năm học 1993-1994, trong chương trình thí điểm phân ban THPT,
tin học được giảng dạy chung cho ba ban. Bộ GD&ĐT đã biên soạn sách giáo
khoa tin học thí điểm với 16 modul kiến thức để lựa chọn giảng dạy.
Trong chương trình THPT thí điểm phân ban và chương trình THPT
mới được thực hiện đại trà từ năm học 2006-2007, môn Tin học là môn học
chính khoá. Trong chương trình THCS, môn Tin học được đưa vào giảng dạy
dưới hình thức tự chọn.
* Sử dụng CNTT như công cụ hỗ trợ dạy học ở Việt Nam
- Ngày 11/9/1999, Bộ GD&ĐT đã kết hợp với quỹ Quốc tế IBM (IBM
International Foundation) phối hợp triển khai dự án “Thực hành phát triển
nghiệp vụ” với việc triển khai mô hình dạy học với máy tính (Teaching and
Learning with Computer-TLC) nhằm xây dựng một mô hình dạy và học chất
lượng cao trên cơ sở ứng dụng CNTT.
10


Tại Trung tâm Công nghệ Giáo dục, nhóm nghiên cứu của Đào Thái
Lai và các cộng sự đã thiết kế hàng loạt phần mềm sử dụng trong dạy học bậc
tiểu học và THCS. Một số phần mềm dành cho tiểu học đã được nhóm nghiên

cứu của Vũ Thị Thái và các cộng sự triển khai đại trà tại các trường tiểu học
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên thu được kết quả tốt.
Tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã có nhiều kết quả trong việc
ứng dụng CNTT trong dạy học, ví dụ:
- Nhóm tác giả Phạm Xuân Quế, Nguyễn Xuân Thành khoa vật lý và
các cộng sự đã triển khai ứng dụng CNTT xây dựng trang web hỗ trợ dạy và
học vật lý ở nhà trường phổ thông.
- Nhóm tác giả Nguyễn Đức Chuy, Hà Thị Lan Hương và Lê Trọng
Tín, Nguyễn Cương khoa Hoá đã triển khai tìm hiểu các phần mềm hoá học
có trên thế giới để đưa vào khai thác, sử dụng trong nghiên cứu và giảng dạy
và thiết kế các hệ thống thí nghiệm ảo trong chương trình phổ thông.
- Nhóm tác giả Đặng Văn Đức, Nguyễn Thị Minh Đức, Nguyễn Viết
Thịnh, Nguyễn Trọng Phúc, Kiều Văn Hoan, Phạm Kim Chung, Lâm Quang
Đốc – khoa Địa lý nghiên cứu sử dụng phần mềm địa lý Db-MAP,
ENCARTA ENCYCLOPEDIA 2001, MAPINFO, SPSS, PC.FACT trong dạy
học địa lý và bước đầu nghiên cứu triển khai việc đào tạo trực tuyến trên cơ
sở trang website.
Trần Vui và các cộng sự Đại học Huế đã nghiên cứu việc thiết kế các
môi trường toán tích cực với sự hỗ trợ của CNTT.
Có nhiều mô hình đã triển khai có hiệu quả việc ứng dụng CNTT vào
dạy học như trường Ngôi sao (thành phố Hồ Chí Minh), trường THPT Phụng
Hiệp (tỉnh Hậu Giang), trường Xuyên Mộc (tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu),... Tại
tỉnh Thái Nguyên, từ năm học 1993-1994, nhóm tác giả Trịnh Thanh Hải và
các cộng sự đã triển khai nghiên cứu ứng dụng CNTT trong dạy học.
11


1.4. ỨNG DỤNG CNTT TRONG DẠY HỌC TOÁN
1.4.1. Ứng dụng CNTT trong dạy học toán
* Điều chỉnh quá trình dạy học toán dựa trên thông tin ngược

MTĐT có khả năng cung cấp nhanh và chính xác các thông tin phản
hồi một cách khách quan, những thông tin phản hồi như vậy sẽ giúp GV, HS
một cách hiệu quả trong quá trình dạy học toán.
Trong quá trình dạy và học toán, GV, HS có thể đưa ra các dự đoán, giả
thuyết của riêng mình và nhờ MTĐT thử nghiệm những dự đoán đó. Trên cơ
sở thông tin phản hồi do MTĐT đưa ra ta có thể tiếp tục phát triển hoặc điều
chỉnh, thay đổi những giả thuyết chưa chính xác.
* Sử dụng MTĐT xây dựng các mô hình trực quan để sử dụng trong quá
trình dạy học toán
Để nghiên cứu một đối tượng toán học nào đó trước hết người ta tìm
cách xây dựng một vài mô hình tương ứng với các trường hợp cụ thể. Trên cơ
sở các kết quả làm việc với mô hình sẽ cho phép ta đi đến việc chứng minh
hoặc lời giải trong trường hợp tổng quát. So với các phương tiện đồ dùng dạy
học truyền thống thì MTĐT có khả năng giúp ta thể hiện các đối tượng toán
học trong thế giới thực bởi các mô hình trên giao diện đồ hoạ 2 chiều, 3 chiều.
CNTT là công cụ tự nhiên để diễn tả các mô hình toán học. Ta có thể triển
khai các chương trình thí nghiệm tính toán, thăm dò, dự đoán sau đó sử dụng
phần mềm toán học, phần mềm thống kê và tính toán để phân tích dữ liệu hỗ
trợ cho cho quá trình lập luận, tìm hiểu các mô hình toán học. Máy tính có thể
giúp đỡ HS phát triển ý tưởng, đưa ra cách tiếp cận hướng giải quyết các vấn
đề nảy sinh trong quá trình nghiên cứu các mô hình toán học. Điều này giúp
GV trình bày các vấn đề của toán học rõ ràng, sinh động và khám phá vấn đề
từ những cái phức tạp trong cuộc sống để thu cô đọng lại những gì tinh tế, sâu
sắc rồi kết nối chúng lại để xây dựng các mô hình toán học...
12


* Sử dụng MTĐT và phần mềm toán học để phát hiện các, tính chất, các
mối quan hệ trong toán học
Ngoài việc đưa ra một mô hình trực quan, MTĐT còn hỗ trợ ta quan

sát, khám phá, xử lý các mô hình đó một cách thuận tiện bằng cách cho thay
đổi một vài thành phần và quan sát sự thay đổi trong các thành phần còn lại.
Qua việc quan sát và thu nhận thông tin phản hồi do MTĐT đưa ra sẽ giúp ta
phát hiện ra các tính chất của đối tượng toán học cũng như mối quan hệ giữa
các đại lượng toán học với nhau.
Các chuyên gia về giáo dục đã nhấn mạnh vai trò của CNTT trong việc
hỗ trợ HS tự khám phá và phát hiện vấn đề trong quá trình học toán và thông
qua quá trình này HS có điều kiện rèn luyện phương pháp nghiên cứu trong
học tập, năng lực tư duy sáng tạo.
* Dạy và học toán với các phần mềm động
Trên cơ sở các thành tựu của khoa học tin học, các phần mềm được
thiết kế phục vụ việc dạy học ngày càng hoàn thiện. Người học có thể sử dụng
các phần mềm toán chuyên dụng trên MTĐT để biểu diễn các biểu đồ, hình
vẽ một cách sinh động. Mặt khác, chỉ cần một vài thao tác đơn giản với chuột,
ta có thể có được hình ảnh về đối tượng cần nghiên cứu dưới các góc độ khác
nhau, thậm chí có thể cho một vài yếu tố của đối tượng toán học biến đổi liên
tục một cách tự động. Với các phần mềm động này, người học dễ dàng hình
dung ra các hình hình học một cách trực quan trên cơ sở hình ảnh được máy
tính mô tả. Sử dụng kết hợp các phần mềm đồ họa và số học, GV có thể giải
thích cả hai trạng thái thị giác và số lượng.
* Khai thác mạng Internet trong dạy học toán
Internet là một kho thông tin tích luỹ tri thức toán học của con người từ
xưa đến nay và như vậy đây là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá cho những
người dạy và học toán. Internet cung cấp phương tiện, môi trường để GV, HS
13


trao đổi thông tin với nhau trong quá trình dạy học toán.
* Dạy học toán với máy tính
Trước hết MTĐT là một công cụ đắc lực giúp GV thực hiện việc dạy

toán. MTĐT có thể vừa đóng vai trò GV vừa đóng vai trò học sinh.
Việc nghiên cứu và triển khai ứng dụng CNTT nhằm hỗ trợ quá trình
dạy học toán được nhiều quốc gia và các nhà giáo dục quan tâm. Các chuyên
gia ở trong và ngoài nước đã khẳng định:
- Việc sử dụng CNTT và truyền thông (ICT) trong dạy học toán đã
cung cấp cho học sinh một môi trường học tập nghiên cứu gồm các yếu tố:
thông tin phản hồi; các mô hình; các mối quan hệ; các hình ảnh động để từ đó
khám phá tìm hiểu thông tin và dạy học với sự hỗ trợ của máy tính
- Nếu sử dụng CNTT một cách hợp lý thì sẽ đạt được các kết quả sau:
+ Những đối tượng và quan hệ toán học không còn xa lạ và khó đối với
số đông HS.
+ Khai thác CNTT trong dạy học toán có thể làm tăng tỷ lệ HS khá,
giỏi về toán và giảm tỷ lệ HS yếu so với dạy học truyền thống.
+ GV có điều kiện giúp được hầu hết HS rèn luyện tốt năng lực sáng
tạo, rèn luyện phương pháp nghiên cứu trong học tập.
Đồ hoạ máy tính là công cụ hữu ích trong việc dạy toán, nó có khả
năng biểu diễn các hình hình học. Với sự hỗ trợ của đồ hoạ máy tính, GV có
thể đưa ra những ví dụ khác nhau qua đó khai thác vai trò tích cực của HS
trong quá trình phân tích phát hiện ra vấn đề. Mặt khác sử dụng đồ hoạ còn
cho phép GV phân tích rõ các mối liên kết giữa đại số, hình học.
Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định dạy học toán dưới sự trợ giúp của
CNTT có thể làm thay đổi vai trò của người GV dạy toán truyền thống.
Tuỳ theo sự thay đổi của các mô hình dạy học toán mà CNTT đã đem
lại trong mấy năm gần đây, cấu trúc của toán học sẽ có nhiều điều mới. Sự mô
14


phỏng các đối tượng toán học với trợ giúp của máy tính, mạng và các trang
web đã thực giúp mở rộng tầm nhận thức của GV dạy toán. Từ các mô hình
đồ họa máy tính đưa ra cho GV, HS nhiều cách nhìn mới về thế giới toán học.

1.4.2. Ứng dụng CNTT trong dạy học toán và vấn đề đổi mới trong hệ
thống phương pháp dạy học môn toán
Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là
làm cho HS học tập tích cực, chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Quan điểm chung về đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở nhà trường
phổ thông hiện nay là tổ chức cho HS được học tập trong hoạt động và bằng
hoạt động tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo.
Tỷ lệ lưu trữ thông tin trong trí nhớ người học thông qua các kênh
thông tin khác nhau đã được các chuyên gia tổng kết như sau:
Cách tiếp cận

Sau 3 giờ

Sau 3 ngày

Lời nói

30%

10%

Hình ảnh

60%

20%

Lời nói và hình ảnh

80%


70%

Lời, hình ảnh và hành động

90%

80%

Tự phát hiện

99%

90%

Qua đây ta thấy được hạn chế của các phương pháp dạy học cũ thụ
động, nhồi nhét, máy móc và thấy được vai trò của việc sử dụng hình ảnh
minh họa và tổ chức cho HS học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự
giác, tích cực, chủ động và sáng tạo. Hơn nữa, việc sử dụng hình ảnh và tổ
chức cho HS hoạt động với sự trợ giúp của CNTT sẽ hơn hẳn so với việc sử
dụng các phương tiện dạy học truyền thống.
Một vấn đề quan trọng hàng đầu được các chuyên gia quan tâm là việc
ứng dụng CNTT trong dạy học toán sẽ tác động đến hệ thống phương pháp
dạy học toán như thế nào?
15


Ta sẽ xem xét hệ thống phương pháp dạy học toán dưới từng góc độ để
chỉ ra được những tác động tích cực do ứng dụng CNTT mang lại:
+ Xét về mục đích và nội dung dạy toán: Trong hoạt động toán học, có

những việc đòi hỏi phải tư duy, nhưng cũng có những công việc trung gian chỉ
đòi hỏi hàng loạt các công việc, thao tác đơn điệu, nhàm chán như tính toán, vẽ
hình... các công việc này thường chiếm rất nhiều thời gian học tập của HS
nhưng đôi khi kết quả không chính xác. Như vậy bên cạnh việc chú trọng
không thể giảm nhẹ việc rèn luyện các thao tác tư duy, các kỹ năng dựng hình
cơ bản thì ta có thể sử dụng máy tính và phần mềm để hỗ trợ HS trong các
công đoạn tính toán đơn thuần để tập trung thời gian vào những mục tiêu chính.
Thời gian tiết kiệm được dành cho việc HS tìm tòi, khám phá những vấn đề
tiềm ẩn bên trong hình vẽ, đưa ra dự đoán và kiểm nghiệm dự đoán đó.
Với các phần mềm đồ họa 2D, 3D cho phép GV mô tả chính xác các đồ
thị, hình vẽ và quá trình chuyển động của các đối tượng toán học theo một
quy luật nào đó giúp HS tiếp thu các nội dung khó, có tính trừu tượng cao
trong toán học. Từ những thông tin thu nhận được từ MTĐT, HS phát hiện
được các tính chất, quan hệ toán học phức tạp, điều này khẳng định tính ưu
việt của CNTT với các phương tiện dạy học khác.
Việc sử dụng CNTT đã tạo điều kiện cho HS được tiếp nhận thông tin
dưới rất nhiều hình thức phong phú, sinh động, điều này sẽ giúp cho HS ghi
nhớ bài học một cách nhanh chóng và lâu dài.
+ Xét về việc rèn luyện kỹ năng, củng cố, ôn tập kiến thức cũ: Với sự
phát triển nhanh chóng của công nghệ phần mềm, ngày nay các PMDH đã trở
nên rất phong phú, đa dạng, trong đó có rất nhiều phần mềm có thể khai thác
để rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh. Chẳng hạn với phần mềm
Graph, học sinh có thể rèn luyện các kỹ năng cơ bản về khảo sát hàm số, tính
diện tích của một miền phẳng, xác định góc giữa tiếp tuyến với đồ thị tại một
16


điểm nào đó trên đồ thị... Với phần mềm hình học Eclide học sinh có thể rèn
luyện kỹ năng dựng hình, tìm hiểu các bài toán quỹ tích... một cách rất hiệu
quả. Với phần mềm GeoSpace rèn luyện việc dựng hình, xác định thiết diện,

xác định các khối tròn xoay và rất nhiều nội dung khác trong hình học không
gian. Phần mềm AutoGraph hỗ trợ rất mạnh trong việc dạy và học các bài toán
có chứa tham số, các bài toán về đồ thị, các bài toán về thống kê, hình học
phẳng, hình học không gian. Với các phần mềm trắc nghiệm, HS được cung
cấp một khối lượng câu hỏi phong phú, toàn diện đòi hỏi HS phải thực sự nắm
được kiến thức cơ bản và đạt được kỹ năng thực hành đến một mức độ nhất
định, hơn nữa HS có thể luyện tập và tự kiểm tra đánh giá không hạn chế về
mặt thời gian và nội dung như các phương pháp kiểm tra thông thường.
+ Xét về góc độ rèn luyện, phát triển tư duy toán học: Nhiều người lo
ngại rằng máy tính điện tử hiện đại với các chức năng “trong suốt” đối với
người sử dụng nên học sinh không có sự gắn kết giữa hình tượng tính toán
trong não với thực hiện tính toán trên máy. Một số bước trung gian được máy
tính thực hiện do đó làm mất cảm giác của thuật toán vì các bước thực hiện
vắn tắt và không rõ ràng.
Tại Hội nghiên cứu toán học thế giới lần thứ 3 (TIMSS) đã thảo luận
xung quanh vấn đề nghi ngại trên. Chuyên gia giáo dục học Ann Kitchen
(1998) đã chứng minh rằng trong điều kiện có sử dụng máy tính sẽ học toán
tốt hơn với việc sử dụng các phương tiện khác. Các nhà khoa học đã khẳng
định khi dạy học toán với sự hỗ trợ của MTĐT đã cho phép GV phát triển khả
năng suy luận toán học và tư duy lôgíc, đặc biệt là năng lực quan sát, mô tả,
phân tích so sánh. HS sử dụng MTĐT và phần mềm để tạo ra các đối tượng
toán học sau đó tìm tòi khám phá các thuộc tính ẩn chứa bên trong đối tượng
đó. Chính từ quá trình mò mẫm, dự đoán HS đi đến khái quát hoá, tổng quát
hoá và sử dụng lập luận lô gíc để làm sáng tỏ vấn đề.
17


+ Xét về phương pháp và hình thức dạy học: Khi đưa CNTT vào nhà
trường sẽ tạo nên một môi trường dạy học hoàn toàn mới, hấp dẫn, lôi cuốn
và có tính trợ giúp cao... Vì vậy CNTT tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi

mới phương pháp và hình thức dạy học toán.
Trước hết, CNTT góp phần tăng cường tính tích cực của HS trong học
tập. Trong những năm gần đây, trên cơ sở các thành tựu phát triển của các
phần mềm dạy học (PMDH) cho phép ta tạo ra một môi trường hoạt động hết
sức thuận lợi cho HS. Trong môi trường này, HS là chủ thể hoạt động, tác
động lên các đối tượng và qua đó HS chiếm lĩnh được các tri thức và kỹ năng
mới. Với sự phát triển của công nghệ mạng, Internet và các ứng dụng trên
mạng đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho việc HS tra cứu, tìm kiếm thông
tin trên hệ thống tài nguyên gần như “vô tận” trên các website, trong các thư
viện điện tử. Mặt khác việc tăng cường giao lưu, hợp tác, trao đổi trong học
tập giữa HS với HS, HS với GV đã không còn bị hạn chế về mặt thời gian và
khoảng cách địa lý.
Trong môi trường mới này, GV và sách giáo khoa không còn là nguồn
cung cấp thông tin duy nhất mà HS được đặt vào một nguồn tri thức cho phép
phát triển năng lực hoạt động độc lập của mỗi HS cũng như tăng cường khả
năng hợp tác.
+ Xét về vai trò của người GV trong dạy học toán: Trước hết cần loại
bỏ tư tưởng sai lạc là MTĐT có thể thay thế hoàn toàn người Thầy trong dạy
học toán. Việc dạy học toán luôn luôn đòi hỏi cao vai trò của người Thầy đặc
biệt là đòi hỏi công sức và khả năng sư phạm của người Thầy giáo. Tuy nhiên
vai trò của người Thầy giáo trong điều kiện sử dụng MTĐT và PMDH cũng
có những thay đổi so với truyền thống. Người GV phải là người hướng dẫn,
chỉ đạo HS phát huy được hết khả năng của mình trong hoạt động học tập.
Người GV là người tổ chức, điều khiển, tác động lên HS và đôi khi cả môi
18


trường tin học. Ví dụ, khi dạy định lý Pitago, GV có thể chỉ cho HS biết địa
chỉ các website có trình bày về lịch sử, thân thế nhà bác học Pitago cũng như
nội dung và việc chứng minh định lý Pitago hoặc khi dạy về số Pi, GV có thể

chỉ cho học trò cách tìm kiếm những trang website có nối về lịch sử số Pi từ
thời kỳ xa xưa đến những kết quả mới nhất của các nhà toán học đã tính được
bao bao nhiêu chữ số thập phân...
+ Xét về góc độ thực hiện phân hoá trong dạy học toán: CNTT tạo điều
kiện cho việc thực hiện phân hoá cao trong quá trình dạy học toán. Để thực
hiện được sự phân hoá cao, GV phải nắm bắt được và xử lý kịp thời mọi diễn
biến của hoạt động học tập của từng HS trong lớp. Công việc này rất khó thực
hiện trong môi trường dạy học truyền thống một GV đảm nhận việc lên lớp cho
ba, bốn chục HS. Nếu sử dụng MTĐT và PMDH thì chính MTĐT sẽ kịp thời
thay thế GV trong một thời điểm nào đó để kịp thời đưa ra những hỗ trợ kịp
thời khi HS gặp khó khăn với liều lượng thích hợp đồng thời đưa ra những
chương trình, nội dung công việc tuỳ thuộc vào mức độ nhận thức của mỗi HS.
Theo Đào Thái Lai thì dù cố gắng đến đâu chăng nữa thì trong điều
kiện các đồ dùng, phương tiện dạy học truyền thống thì việc đảm bảo các
nguyên tắc phân hoá trong dạy học toán vẫn bị hạn chế. Với MTĐT và
PMDH, mỗi HS như có được một trợ giảng riêng luôn sẵn sàng giúp đỡ HS
vượt qua các trở ngại tại mọi thời điểm cần thiết. Việc khai thác PMDH và
Internet cũng đã nối dài cánh tay của người Thầy dạy toán đến từng gia đình,
tới từng HS cụ thể và ngoài việc hướng dẫn HS học tập, công tác kiểm tra,
đánh giá cũng được thực hiện ngay tại chỗ.
+ Xét về vai trò hỗ trợ khả năng đi sâu vào các phương pháp học tập,
nghiên cứu phương pháp thực nghiệm toán học: MTĐT với các phần mềm
cho phép GV, HS tạo ra các mô hình, mô tả quá trình diễn biến của các đại
lượng toán học hoặc tổ chức các thực nghiệm toán học. Bằng quan sát các quá
19


trình được máy tính đưa ra, HS đưa ra giả thuyết và sử dụng suy luận có lý để
khẳng định hoặc bác bỏ giả thuyết của mình.
+ Xét về việc áp dụng các hình thức dạy học trong dạy học toán: Các

hình thức dạy học truyền thống như dạy học đồng loạt, dạy học theo nhóm,
dạy học cá thể sẽ có điều kiện kết hợp một cách hiệu quả, linh hoạt hơn nếu
sử dụng, khai thác CNTT. Hơn nữa các hình thức dạy học cũng “mở” hơn,
chẳng hạn khái niệm dạy học đồng loạt không chỉ là hình thức thầy lên lớp tại
giảng đường như hình thức truyền thống mà thầy ở tại một địa điểm nào đó
(chẳng hạn ở tại Hà Nội) có thể lên lớp và truyền trực tiếp lên mạng Internet
và rất đông HS cùng vào mạng để tham dự lớp học này. Hình thức học theo
nhóm được mở rộng bao gồm các HS cùng quan tâm, nghiên cứu và trao đổi
với nhau về một nội dung cụ thể mà không giới hạn về phạm vi bạn bè trong
một lớp, một trường hoặc sinh sống gần nhau mà tất cả đều thông qua mạng
Internet, thậm chí một HS cùng một lúc có thể tham gia nhiều hình thức học
tập hoặc tham gia học tập theo nhiều nhóm khác nhau.
+ Xét về góc độ kiểm soát và đánh giá quá trình học tập của HS: Với
sự trợ giúp của các phần mềm kiểm tra, đánh giá, GV có điều kiện kiểm soát
chặt chẽ toàn bộ quá trình học tập của HS. Việc kiểm tra đánh giá sẽ xảy ra
liên tục, trong mọi thời điểm của quá trình học tập của HS. Với các phần mềm
ghi trên đĩa CD-ROM, hay trên các website cung cấp các đề dạng kiểm tra
trắc nghiệm khách quan, các đề tự luận sẽ giúp GV và HS thực hiện việc đánh
giá một cách nhanh chóng và đơn giản. Mặt khác, với các phần mềm công cụ,
GV dễ dàng có được các nhận định một cách chính xác về kỹ năng tính toán,
khả năng tập trung chú ý, khả năng suy luận lô gíc... Với khả năng lưu trữ và
xử lý gần như “vô tận” của máy tính điện tử, GV có thể lưu lại toàn bộ quá
trình học tập của HS để có những định hướng đúng đắn trong quá trình học
tập của từng HS .
20


+ Xét về việc hình thành phẩm chất, đạo đức, tác phong cho HS trong
quá trình dạy học toán: Về vai trò của MTĐT trong việc hình thành phẩm
chất, đạo đức, tác phong cho HS cũng đã được nhiều chuyên gia khẳng định.

MTĐT không chỉ góp phần đổi mới phương pháp dạy học toán bằng cách đưa
ra các hình ảnh trực quan mà còn cao hơn nữa là hình thành cho HS một
phương pháp nghiên cứu toán học mới, đặc biệt là trong dạy học hình học.
Theo Đào Thái Lai thì việc ứng dụng CNTT sẽ dẫn đến những thay đổi của
hệ thống phương pháp dạy học toán.
CNTT đã góp phần đổi mới phương pháp dạy học toán trong nhà
trường phổ thông với những nội dung cơ bản sau:
- CNTT đã tạo ra môi trường thuận lợi nhất chưa từng có để đạt được
mục đích là HS học toán một cách tích cực, chủ động, trong quá trình tự mình
giải quyết vấn đề, trên cơ sở đó phát triển tư duy sáng tạo và phát triển tự học.
- CNTT đã khắc phục được việc dạy – học đơn thuần là truyền thụ một
chiều, HS thụ động tiếp thu và tái hiện một cách máy móc.
- CNTT đã giúp hướng tới việc khuyến khích HS ngoài việc tích luỹ
kiến thức thì chú trọng đến phát triển năng lực mà chủ yếu là năng lực giải
quyết vấn đề.
- CNTT đã tạo ra các hình thức dạy học phong phú, hiệu quả.
- Việc sử dụng CNTT đã góp phần nâng cao ý thức và hiệu quả của
việc sử dụng phương tiện dạy học.
- Với những dịch vụ phong phú mà CNTT cung cấp, người GV có điều
kiện để lựa chọn phương pháp dạy học theo nội dung, sở trường, đối tượng
HS,... sao cho tối ưu nhất.
1.5. PHẦN MỀM DẠY HỌC (PMDH)
1.5.1. Phần mềm
Các thiết bị điện tử và cơ khí của máy tính điện tử được gọi chung là
21


phần cứng (hardware). Các chương trình chạy trên máy tính điện tử gọi chung
là phần mềm (Software).
Có thể phân chia các phần mềm thành các nhóm: phần mềm hệ thống;

phần mềm nghiệp vụ; phần mềm thời gian thực; phần mềm khoa học và công
nghệ; phần mềm nhúng; phần mềm máy tính cá nhân và phần mềm trí tuệ
nhân tạo.
1.5.2. Phần mềm dạy học
Khi tìm hiểu và khai thác phần mềm hỗ trợ dạy học ta thường phân chia
các phần mềm thành hai nhóm:
* Các phần mềm có thể khai thác để dạy học
Đây là các phần mềm nghiệp vụ viết ra để ứng dụng trong các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, văn hoá... nhưng có thể khai thác được trong dạy học. Các
phần mềm này rất phong phú như Microsof Word; Microsof Excell; Microsof
Access; PowerPoint, FrontPage, Macromedia Flash, Autoware ...
Đặc thù chung của các sản phẩm ứng dụng trong dạy học được thiết kế
từ các phần mềm này là thông tin, dữ liệu đều ở dạng “thô” và khó thể hiện
hết được ý đồ sư phạm của người dạy nên khi sử dụng chúng GV phải có mặt
trực tiếp.
* Nhóm phần mềm chuyên để dạy học (PMDH)
PMDH là phương tiện chứa chương trình để ra lệnh cho máy tính thực
hiện các yêu cầu về nội dung và phương pháp dạy học theo các mục tiêu dạy
học. Một PMDH có rất nhiều chức năng khác nhau nhưng về góc độ biểu diễn
thông tin thì một PMDH bao gồm các chức năng cho phép biểu diễn các dạng
thông tin khác nhau như văn bản, ký hiệu, hình ảnh tĩnh, hình ảnh động, âm
thanh... Như vậy, PMDH là phương tiện xử lý thông tin và đưa ra các thông
tin phản hồi một cách nhanh chóng, chính xác. Căn cứ vào đó có thể biết được
kết quả học tập như kiến thức, kỹ năng mà học sinh đã tiếp nhận được. Thông
22


thường, một PMDH sẽ bao gồm các modul tri thức, các hệ thống bài tập từ đơn
giản đến phức tạp, các hệ thống kiểm tra đánh giá... tất cả được thiết kế nhằm
mục đích hỗ trợ cho việc hoạt động dạy của GV và hoạt động lĩnh hội tri thức

của học sinh. Các thông tin này có thể được lưu trữ trên đĩa mềm, đĩa cứng, đĩa
CD-ROM, đĩa DVD, thẻ nhớ... nên rất dễ dàng nhân bản và bảo quản.
* Các đối tượng chính của PMDH:
Học
sinh
Hỗ trợ dạy

Đề kiểm tra
Tương tác

Ôn luyện

Ngân hàng đề kiểm tra
Giáo
viên

Kiến
thức
Phòng học ảo

* Các công nghệ chính của PMDH:
Công nghệ kiến tạo bài giảng
và sách điện tử

Công nghệ thiết
kế và lưu trữ tài
liệu học tập, mô
hình phòng thí
nghiệm ảo


Công nghệ số
hoá và lưu trữ
động ngân hàng
đề bài kiểm tra
kiến thức

- Công nghệ kiến tạo bài giảng và sách điện tử trong trường hợp sử
dụng các phần mềm có sẵn như: PowerPoint, FrontPage, Dreamweaver, Flash
với công nghệ Hyper Text Mark Languae (HTML), Java, Windows Help,
Math Type... Khi đó ta có thể tương tác trực tiếp để tạo ra các bài giảng điện
tử và sách điện tử (Interactiver Page).

23


- Công nghệ thiết kế và lưu trữ tư liệu học tập, mô hình thí nghiệm ảo
có thể sử dụng các phần mềm công cụ như Microsoft Encarta, Britanica,
Babylon, Crocodile... các phần mềm này đều hỗ trợ rất mạnh cho các công
nghệ xử lý audio, video, flash, database... Mục tiêu là tạo ra các thư viện bài
giảng mẫu, thí nghiệm ảo phục vụ cho dạy học (Virtual Library).
- Với kỹ thuật số hoá ta có thể tạo ra các mô hình ngân hàng câu hỏi và
đề kiểm tra động, mô hình kiểm tra (TEST) trên máy tính và mô hình đánh
giá trực tuyến, cho điểm trực tuyến thông qua hệ thống mạng.
1.5.3. PMDH thông minh
PMDH thông minh là một hệ chuyên gia có thêm các đặc trưng cơ bản sau:
- Quản lý có tính sư phạm việc biểu diễn tri thức
- Lập luận trên tri thức và có cơ chế giải thích các lập luận đó
- Có chức năng hướng dẫn, trợ giúp, điều khiển, phân loại, đánh giá quá
trình học tập của học sinh.
- Cho phép phát triển mô hình tri thức và cập nhật tri thức nhằm thích

nghi và hoàn thiện môdul tri thức của phần mềm
1.6. Quan điểm hoạt động trong dạy học
(Nội dung sau được trình bày theo Nguyễn Bá Kim [10], [11])
Theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học thì PPDH cần hướng vào
việc tổ chức cho người học học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác,
tích cực và sáng tạo. Định hướng này có thể gọi tắt là học tập trong hoạt động
và bằng hoạt động, hay gọn hơn: hoạt động hóa người học.
Mỗi nội dung dạy học đều liên hệ mật thiết với những hoạt động nhất
định. Đó là những hoạt động đã được tiến hành trong quá trình hình thành và
vận dụng nội dung đó. Phát hiện được những hoạt động tiềm tàng trong một
nội dung là vạch được một con đường để người học chiếm lĩnh nội dung đó
và đạt được những mục đích dạy học khác, cũng đồng thời là cụ thể hóa được
24


mục đích dạy học nội dung đó và chỉ ra được cách kiểm tra xem mục đích dạy
học có đạt được hay không đạt được đến mức độ nào. Quan điểm này thể hiện
rõ nét mối liên hệ giữa mục đích, nội dung và phương pháp dạy học. Nó hoàn
toàn phù hợp với luận điểm cơ bản của giáo dục học cho rằng con người phát
triển trong hoạt động và học tập diễn ra trong hoạt động.
Định hướng "hoạt động hóa người học" bao hàm các nội dung sau:
1.6.1. Xác lập vị trí chủ thể của người học, đảm bảo tính tự giác tích cực và
sáng tạo của hoạt động học tập
Người học là chủ thể chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kỹ năng, hình
thành thái độ chứ không phải là nhân vật bị động hoàn toàn làm theo lệnh của
thầy giáo. Với định hướng “hoạt động hóa người học”, vai trò chủ thể của
người học được khẳng định trong quá trình học tập, trong hoạt động và bằng
hoạt động của bản thân mình.
Tính tự giác, tích cực của người học từ lâu đã trở thành một nguyên tắc
của giáo dục học xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này bây giờ không mới, nhưng

vẫn chưa được thực hiện trong cách dạy học thầy nói, trò nghe vẫn còn đang
rất phổ biến hiện nay. Một lần nữa cần phải nhấn mạnh rằng nguyên tắc vẫn
là nguyên tắc. Khi nói “hoạt động hóa người học”, ta hiểu đó là hoạt động tự
giác, tích cực của người học thể hiện ở chỗ HS học tập thông qua những hoạt
động được hướng đích và gợi động cơ để biến nhu cầu của xã hội chuyển hóa
thành nhu cầu nội tại của chính bản thân mình.
Các nhà khoa học nhất là các nhà sư phạm từ lâu đã tâm đắc và tâm
niệm một lời cảnh báo mạnh mẽ của Viện sĩ Kapitxa cho rằng vấn đề thông
minh sáng tạo của tuổi trẻ không kém quan trọng so với vấn đề vũ khí hạt
nhân và chiến tranh, hoà bình. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà nguyên
Thủ tướng Phạm Văn Đồng từ những năm 60 đã nhiều lần căn dặn thầy giáo
phải “gõ vào trí thông minh” của HS và đã tha thiết kêu gọi là “phải nhắc lại
25


×