Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

cong nghe 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 32 trang )

Trêng THPT Th¨ng Long
Líp 10A4 – Tæ 1
Hµ néi th¸ng 11 n¨m 2006
Các thành viên trong tổ

1. Lê Quốc Anh
2. Nguyễn vân anh
3. nguyễn đình chiến
4. hoàng anh dũng
5. nguyễn kim đức
6. đào thị thu giang
7. nguyễn việt hà
8. trần thị thanh hải
9. từ hồng hạnh
10. bùi thu hiền
11. nguyễn phơng ngọc
I. Mét sè bµi viÕt vÒ s©u, bÖnh
1. Dũng sĩ trừ sâu - Khuẩn Thuring (Bacillus thuringiensis)
Trong vương quốc vi sinh vật có rất nhiều dũng sĩ trừ sâu. Hàng trăm ngàn
năm về trước, chúng vẫn âm thầm giúp đỡ con người diệt sâu trừ hại, bảo vệ
ruộng đồng. Những thành tích của chúng chỉ mới được phát hiện khoảng 100
năm gần đây.
Năm 1911, Bernard - người Đức, tìm thấy trong một xưởng
bột mì ở Thuringia, một giống vi khuẩn ký sinh trong cơ thể côn
trùng, có sức trừ sâu rất mạnh, gọi là khuẩn Thuring.
Khuẩn Thuring trông như chiếc gậy gộc, dài chưa đầy
5/1000mm. Khi nó lớn đến một mức nhất định, ở một đầu sẽ
hình thành một nha bào hình trứng để sinh sản, đầu kia sinh ra
một thể kết tinh khối thoi hoặc gần khối vuông. Vì cùng sinh ra
đồng thời với nha bào, người ta gọi là tinh thể bạn, rất độc. Khi
sâu hại phá hoại mùa màng ăn phải khuẩn Thuring, tinh thể bạn


sẽ phá hỏng hệ thống tiêu hóa của sâu, khiến chúng ngừng ăn,
nôn mửa, ỉa chảy; còn nha bào vào máu sẽ gây bệnh thiếu máu
cho sâu, cuối cùng sâu chết.
Phát hiện khuẩn Thuring đã mở ra một triển vọng sáng sủa của biện pháp trừ sâu
sinh học. Hiện nay người ta đã sản xuất khuẩn Thuring quy mô lớn, rồi chế biến thành
các loại thuốc như Thuricide, Biotrol, Bathurin... có tác dụng diệt hàng trăm giống sâu
hại.
2. Dùng côn trùng kiểm soát sâu hại cây trồng
Kiểm soát sâu hại bằng sinh học liên quan tới việc sử dụng các thiên địch (kẻ
thù tự nhiên) của sâu hại để kiểm soát chúng, thay vì sử dụng hoá chất chẳng hạn
như thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ. Nói cách khác, đó là việc dùng côn trùng hữu
ích để kiểm soát côn trùng gây hại.
Laydybeetle đang ăn sâu hại cây trồng
Phần lớn các loài gây hại là thực vật (cỏ) hoặc động vật (đặc biệt là côn trùng).
Chúng xâm lược một môi trường sống mới mà không có các thiên địch đi kèm để
kiểm soát chúng như ở quê hương bản địa. Với hoạt động giao thương và đi lại quốc
tế ngày càng tăng, vấn đề này ngày càng nghiêm trọng.
• Nguy cơ, có hay không?
Giống như các biện pháp kiểm soát sâu hại khác, các thiên địch giúp giảm những loài
không được mong muốn. Tuy nhiên, tác động tới môi trường của biện pháp kiểm soát
sinh học ít hơn so với các phương pháp kiểm soát sâu hại khác do thiên địch không
làm ô nhiễm đất hoặc nước, cũng không để lại dư lượng hoặc mùi vị. Ngoài ra, sâu hại
không kháng lại thiên địch như chúng đã làm đối với thúôc trừ sâu.
Việc kiểm soát mọi loại sâu hại đều có nguy cơ. Ba lo lắng chính khi thả các
thiên địch là:
1) Liệu chúng có áp đảo các thiên địch khác cùng tấn công một loại sâu hại hay
không?
2) Liệu chúng có tấn công các loài hữu ích? và
3) Ngay khi được thả vào môi trường, liệu chúng có trở thành mối phiền toái trong
tương lai? Thật may là hầu hết các thiên địch được thương mại hoá là những loài bản

địa hoặc giống nhập ngoại hữu ích, đã được thử nghiệm để đảm bảo chúng không gây
rắc rối sau này.
Mặc dù một số loài sâu hại có thể được kiểm soát bằng thiên địch song những loài
khác đòi hỏi phải sử dụng nhiều phương pháp và kỹ thuật, trong đó có hoá chất, cơ
học, vệ sinh, canh tác, bẫy và giám sát.
• Ba hình thức kiểm soát sinh học
Kiểm soát sinh học được chia làm ba loại chính: cổ điển, bảo tồn và gia tăng.
Giống như một nền dân chủ, tự nhiên đầy các biện pháp kiểm soát và cân nằng để
điều hoà dân số của các loài. Tuy nhiên, sự cân bằng tự nhiên này có thể bị lật đổ khi
các sinh vật đột nhiên được đưa vào những khu vực nơi chúng không tồn tại trước
đó. Loại kiểm soát sinh học cổ điển lần đầu tiên được sử dụng tại Mỹ vào năm 1888
khi bọ ladybeetle Vedalia (Rodalia cardinalis) được thu thập ở Australia và thả ở
những vườn cam chanh ở California. Những vườn này bị vảy đệm bông - một loài bản
địa ở Australia - tàn phá. Ngay khi Rodalia cardinalis được đưa vào, vảy đệm bông
được kiểm soát trong vòng một vài năm.
Loại duy trì liên quan tới việc thực hiện nhiều bước đề
đảm bảo môi trường sống cung cấp những thứ cơ bản mà
thiên địch cần để phát triển, chẳng hạn thức ăn, nước và
nơi cư ngụ. Trồng cây ra hoa gần vườn ohặc giảm lượng
thuốc trừ sâu là một vài cách bảo tồn dân số hiện có của
các sinh vật hữu ích.
Gia tăng số lượng côn trùng hữu ích có thể giúp phòng ngừa các đợt dịch bệnh
trước khi chúng lan rộng. Loại kiểm soát sinh học này giống việc sử dụng thuốc sâu
nhất song không gây các tác hại như kháng thuốc trừ sâu, dư lượng thuốc trừ sâu hoặc
giảm các loài hữu ích.
• Các thiên địch
Thu thập bọ chét cánh
cứng (trên) và thả chúng
vào cánh đồng để diệt cỏ
dại.

Tiến trình ấu trùng sâu
ngô bị nấm Beauvaria
bassiana tiêu diệt
Có bốn tác nhân được sử dụng trong kiểm soát sinh học. Đó là loài bắt mồi, vật
ký sinh, mầm bệnh và côn trùng ăn cỏ dại. Mầm bệnh bao gồm các loại nấm, vi
khuẩn, virut gây bệnh cũng như các động vật nguyên sinh. Chúng tiêu diệt động vật
chân đốt gây hại bằng cách lây nhiễm. Các loại mầm bệnh ảnh hưởng tới côn trùng
được lựa chọn cẩn thận để tiêu diệt các loài chân đốt song không lây nhiễm cho người.
Một số mầm bệnh có thể được phun lên cây trồng giống như thuốc trừ sâu, chẳng hạn
chế phẩm Bt (Bacillus thuringiensus) và các chế phẩm chứa nấm Beauvaria bassiana.
Các loài bắt mồi bao gồm mọi sinh vật ăn các sinh vật khác, thường yếu hoặc
chậm chạp hơn. Nhện dệt mạng là một ví dụ về loài bắt mồi ăn các côn trùng bay. Các
loài bắt côn trùng, có phạm vi vật chủ hẹp, được coi là hiệu quả nhất trong kiểm soát
sâu bệnh hại cây trồng.
Vật ký sinh thường là ong bắp cày và ruồi ký sinh. Chúng tiêu diệt sâu hại bằng
cách đẻ trứng bên trong hoặc trên một vật chủ, chẳng hạn trứng, ấu trùng, nhộng hoặc
con trưởng thành. Ngay khi trứng của chúng nở, con non sẽ tiêu diệt vật chủ bằng
cách ăn vật chủ đó. Vật ký sinh thường là thiên địch rất hiệu quả bởi vật ký sinh cái có
thể sống ký sinh trên một lượng lớn sâu hại trong một thời gian tương đối ngắn.
Vật ăn cỏ dại thường là côn trùng ăn các loại cỏ dại ngoại lai hoặc gây hại nhất
định. Một ví dụ điển hình là bọ cánh chét cánh cứng ăn cỏ spurge.
II. Mét sè lo¹i s©u, bÖnh h¹i
A. s©u h¹i
1. Rầy chổng cánh
Rầy chổng cánh (trưởng thành) Rầy chổng cánh (sâu non)
Tên khoa học: Diaphorina citri
Là loại rầy nhỏ, trưởng thành dài 2,5- 3mm, có cánh dài màu nâu đậm xen kẽ có
vệt trắng chạy từ đầu đến cuối cánh, khi đậu phần cuối cánh nhô cao hơn đầu (vì vậy
có tên là rầy chổng cánh).
Sâu hại đặc biệt quan trọng vì chúng là môi giới gây truyền bệnh vàng lá gân

xanh (bệnh Greening) rất khó phòng trừ cho các loại cây cam quýt. Trong năm rầy
non có đỉnh cao số lượng trùng với thời điểm ra lộc, đặc biệt là lộc xuân và lộc thu.
Rầy non và trưởng thành thường tập trung trên lộc non của cây.
Biện pháp phòng trừ
Thường xuyên điều tra, theo dõi mật độ rầy chổng cánh trên vườn cam, đặc biệt là
giai đoạn lộc xuân là thời kỳ rầy có nhiều tiềm năng truyền bệnh vàng lá. Tiến hành
phòng trừ rầy bằng thuốc hoá học, ngăn chặn khả năng truyền bệnh của rầy. Sử dụng
một số loại thuốc như Trebon 0,15-0,2%, Sherpa 0,1-0,2%, Sherzol 0,1-0,2%, phun
600-800 lít nước thuốc đã pha /ha vào lúc lộc non mới nhú và 7-10 ngày sau. Đối với
cây mới trồng thường xuyên có lá non, nên cần theo dõi thật kỹ trên vườn quả, tiến
hành phòng trừ sớm hạn chế lây nhiễm bệnh. Tạo tán cây thấp, tỉa cành trong tán, duy
trì kiến vàng.
2. Sâu vẽ bùa
Sâu vẽ bùa (sâu non gây hại trên lá) Sâu vẽ bùa (trưởng thành)
Tên khoa học: Phyllocnistis citrella
Sâu trưởng thành là một loại bướm rất nhỏ, dài khoảng 2mm, cánh có ánh bạc với
màu vàng nhạt và nhiều đốm đen nhỏ. Hại chủ yếu trên cây 1-3 tuổi và trong vườn
ươm.
Biện pháp phòng trừ
Theo dõi chặt chẽ các đợt lộc xuất hiện rộ trên vườn quả, nhất là các đợt lộc xuân,
đợt lộc sau khi mưa, sau khi bón phân và sau khi tưới nước. Sử dụng một số loại thuốc
như Decis 0,2%, Sumicidin 0,2%, Polytrin 0,2%, lượng phun từ 600-800 lít nước đã
pha /ha, tiến hành phòng trừ sớm khi độ dài của lộc đạt 1-2cm hoặc thấy triệu trứng
gây hại đầu tiên của sâu.
3. Sâu bướm phượng
Sâu non bướm phượng Bướm phượng
Tên khoa học: phổ biến là 2 loài:
• Papilio polytes
• Papilio demoleus
Sâu trưởng thành là bướm phượng có màu sắc sặc sỡ, bướm hoạt động ban ngày,

đẻ trứng rời rạc từng quả vào các đọt non. Ấu trùng nở ra, ăn rải rác trên các là non.
Biện pháp phòng trừ
Thường xuyên kiểm tra vườn quả, nếu mật độ thấp có thể bắt bằng tay, mật độ cao
phòng trừ sâu non bằng các thuốc trừ sâu thông thường.
4. Ngài chích hút
Bướm chích hút hại quả
Tên khoa học: Othreis fullonia, Othreis sp.
Trưởng thành là một loại bướm khá to, cánh trước có màu nâu, cánh sau màu vàng
với một đốm đen hình chữ C ở giữa cánh. Đầu có vòi dài xếp lại như những vòng tròn.
Bướm gây hại vào ban đêm ở giai đoạn quả to và bắt đầu chín có màu vàng. Vết
chích của bướm làm cho quả úa vàng, thối dần và rụng.
Biện pháp phòng trừ
• Vào mùa quả chín, ban đêm có thể soi đèn dùng vợt bắt bướm.
• Sử dụng bẫy chua, ngọt 15-20 bẫy/ha, thành phần bẫy gồm nước dứa ép +
Dipterex 1% ban đêm đặt xung quanh vườn cây bẫy bướm gây hại.
• Vệ sinh vườn quả, hạn chế nơi trú ngụ của bướm gây hại
5. Rệp cam
Rệp muội cam Rệp muội cam gây hại trên lá
Tên khoa học: Toxoptera citidus
Là loài côn trùng nhỏ bé, trưởng thành dài khoảng 2mm, mình căng tròn có màu
nâu đen. Rệp sống tập trung chích hút các búp non, lá non. Rệp cam là môi giới truyền
bệnh virus trong đó có bệnh Tristeza rất nguy hiểm cho các vùng trồng cam.
Biện pháp phòng trừ
Thường xuyên thăm vườn, khi thấy mật độ rệp cao cần tiến hành phòng trừ bằng
các loại thuốc hoá học như Sherpa 0,2%, Trebon 0,2%, Sherzol 0,2%. Lượng phun là
600- 800 lít nước thuốc đã pha /ha.
6. Các loại rệp sáp
Rệp sáp gây hại trên cây có quả Rệp sáp hại cây có múi
Là những côn trùng nhỏ bé, kích thước từ 1-4mm. Cơ thể thường có một lớp sáp
hoặc lớp bột phấn bao phủ.

Các loại rệp sáp sống thành tập đoàn, từng đám, bám dính chặt trên các cành non
hoặc quả. Chúng chích hút nhựa cây làm cây sinh trưởng kém. Rệp gây hại trên quả,
làm giảm chất lượng sản phẩm. Ngoài ra rệp sáp cũng là môi giới truyền bệnh virus.
Biện pháp phòng trừ
Sử dụng một số loại thuốc như Sumicidin 0,2%, Supracide 0,15-0,2%, Decis
0,2%. Tiến hành phòng trừ khi mật độ chưa cao. Phun dầu khoáng Caltex, DC Tron
800-1000 lít /ha.
7. Ruồi đục quả
Ruồi đục quả Dòi gây hại trong quả
Tên khoa học: Bactrocera dorsalis
Trưởng thành là một loại ruồi to hơn ruồi nhà, cơ thể có mùa vàng, cánh trong,
khi đậu 2 cánh giang ngang vuông góc với thân.
Ruồi dùng ống đẻ trứng chích sâu vào trong thịt quả, đẻ trứng thành từng ổ ở
những quả chín và bắt đầu chín. Sâu non nở ra phá hoại phần thịt quả, làm quả bị thối,
ủng và rụng.
Biện pháp phòng trừ
• Thu dọn hết quả rụng trên vườn, chôn sâu xuống dưới đất.
• Thu hoạch quả kịp thời.
• Phun phòng trừ trước khi thu hoạch một tháng bằng hỗn hợp 5% bả Protein
+1% Pyrinex 20EC, mỗi cây phun 50ml (tương đương 1m2, thời gian trong
khoảng 5-6 giây) tập trung vào nơi có nhiều lá, tiến hành phun định kỳ tuần 1
lần đến thu hoạch là xong.
8. Nhện đỏ
Nhện đỏ Nhện đỏ gây hại trên lá
Tên khoa học: Panonychus citri
Là loại sâu hại rất nhỏ bé, khó nhìn được bằng mắt thường. Trưởng thành có hình
ô van, dài từ 0,3-0, 5mm màu nâu đỏ.
Nhện đỏ thường tập trung sống, chích hút mặt dưới của lá làm cho các lá mất
màu xanh bóng, chuyển sang màu trắng bạc, bị nặng lá sẽ bị rụng hàng loạt.
Trên quả nhện gây ra các đám sần sùi, làm giảm năng suất và phẩm chất quả.

Nhện đỏ thường phát triển mạnh vào mùa khô hạn và trời nắng ấm. Mùa mưa
bão mật độ nhện giảm rõ rệt.
Biện pháp phòng trừ
Nhện đỏ dễ có khả năng kháng thuốc nên chú ý thường xuyên thay đổi thuốc.
Thường xuyên kiểm tra vườn quả. Cần tiến hành phòng trừ khi mật độ nhện còn
thấp, tránh giết chết thiên địch của nhện.
Một số loại thuốc có hiệu quả phòng trừ nhện như: Pegasus 500 ND 0,1%, Ortus
3 SC 0,1%, lượng phun 800 lít nước thuốc đã pha /ha, phun ướt đẫm lá, đặc biệt là
mặt dưới. Dầu phun trừ sâu Caltex, DC- Tron plus 0,5%, lượng phun 800- 1000 lít
/ha.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×