Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 159 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VIỆT KHOA

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VIỆT KHOA

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 9 38 01 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS PHAN TRUNG LÝ


HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá
nhân tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận án này bảo đảm độ chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học trong luận án là kết quả nghiên cứu của
tác giả, chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học
nào khác.
Tác giả Luận án


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................ 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài luận án ........................................... 8
1.2. Nhận xét tình hình nghiên cứu đề tài luận án ...........................................23
1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu. Giả thuyết nghiên cứu và
câu hỏi nghiên cứu ...........................................................................................29
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP
PHÁP LÝ THEO PHÁP LUẬT ........................................................................33
2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý ...................33
2.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức hoạt động trợ giúp pháp lý .......51
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý ..............63
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM .................................................................................72
3.1. Thực trạng pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam ..............................72
3.2. Thực tiễn thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam .....90
3.3. Đánh giá chung về thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật

Việt Nam ........................................................................................................104
Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN NAY ........................................................................................................113
4.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật
Việt Nam hiện nay .........................................................................................113
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật
Việt Nam hiện nay .........................................................................................119
KẾT LUẬN .......................................................................................................144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC
GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ...............................................................146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................147


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CTV

: Cộng tác viên

QPPL

: Quy phạm pháp luật

NNPQ

: Nhà nước pháp quyền

TGPL


: Trợ giúp pháp lý

TGVPL

: Trợ giúp viên pháp lý

TTHS

: Tố tụng hình sự

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một loại hình dịch vụ công trong xã hội hiện đại, trợ giúp pháp lý
(TGPL) là trách nhiệm của nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho
các nhóm đối tượng nhất định nhằm hỗ trợ họ tiếp cận công lý và bình đẳng
trước pháp luật, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đối với
các quốc gia công nghiệp phát triển trên thế giới, dịch vụ TGPL đã tồn tại từ
ngay sau thế chiến thứ II và được triển khai với các mô hình khác nhau, tương
đối đa dạng. Ở Việt Nam, hệ thống TGPL được xây dựng từ năm 1997, chính
thức từ sau Quyết định số 734/1997/TTg ngày 6/9/1997 của Thủ tướng Chính
phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng

chính sách. Sau nhiều năm thực hiện công tác TGPL, chúng ta đã từng bước đưa
hoạt động TGPL vào nề nếp, hướng tới thể hiện rõ tính nhân văn của một xã hội
văn minh. Trên phương diện thể chế, Việt Nam đã ban hành Luật Trợ giúp pháp
lý năm 2006 và Luật trợ giúp pháp lý năm 2017 (có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/2018) cùng với các văn bản cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành 2 luật nói trên.
Trên cơ sở đó, về mặt tổ chức, hệ thống cơ quan TGPL của nhà nước đã được
hình thành từ trung ương (Cục trợ giúp pháp lý, Bộ Tư Pháp) đến các địa
phương (Trung tâm trợ giúp pháp lý thuộc Sở Tư Pháp các tỉnh, thành). Về mặt
hoạt động, chất lượng hoạt động tư pháp nói chung, chất lượng hoạt động TGPL
nói riêng đã đạt được những thành tựu quan trọng. Các tổ chức trợ giúp pháp lý
đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong việc giúp đỡ pháp lý cho đông
đảo người nghèo, các đối tượng chính sách và một số đối tượng khác, đồng thời
trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống pháp luật của xã hội.
nhằm đáp ứng yêu cầu được tư vấn, giúp đỡ về pháp luật miễn phí cho các đối
tượng có hoàn cảnh khó khăn, các đối tượng chính sách và các đối tượng thuộc
nhóm dễ bị tổn thương. Qua đó, hoạt động TGPL đã có đóng góp quan trọng vào
sự phát triển và trưởng thành của ngành Tư pháp và sự nghiệp đổi mới của đất

1


nước, góp phần đưa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đi vào
cuộc sống, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội
nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, hoạt động TGPL còn bộc lộ nhiều vướng mắc cả
về nội dung thể chế và thực tiễn áp dụng thể chế. Một số quy định pháp luật về
TGPL chưa thực sự phù hợp, các chủ trương, chính sách TGPL chưa thực sự đi
vào đời sống, các hình thức và phương pháp TGPL chưa đạt hiệu quả cao, các
quyền con người và khả năng tiếp cận công lý, bình đẳng trước pháp luật của các

đối tượng được TGPL chưa được bảo đảm như kỳ vọng của xã hội. Đặc biệt, từ
năm 2010 do các nguồn hỗ trợ từ các Dự án bị cắt giảm nên tại các địa phương,
hoạt động trợ giúp pháp lý gặp rất nhiều khó khăn, nhất là đối với các hình thức
TGPL lưu động, tập huấn truyền thông, sinh hoạt Câu lạc bộ….
Điều này – đến lượt nó, lại có nguyên nhân từ những bất cập trong nhận
thức lý luận và những lúng túng chưa được tháo gỡ trong xây dựng pháp luật và
thực tiễn triển khai các hoạt động TGPL cụ thể. Cho đến nay, một số vấn đề liên
quan đến phạm vi đối tượng TGPL, phạm vi dịch vụ TGPL, cách thức tổ chức hệ
thống TGPL, khả năng và mức độ xã hội hóa hoạt động TGPL, các hình thức và
phương pháp TGPL, huy động nguồn lực cho TGPL …làm sao cho tối ưu nhất
với điều kiện cụ thể của Việt Nam vẫn luôn là những chủ đề còn nhiều dư địa để
nghiên cứu, trao đổi, tranh luận và đào sâu thêm nhằm đem lại hiệu quả và tác
động tích cực nhất cho hoạt động TGPL.
Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống cả khía
cạnh nhận thức lý luận, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi hoạt
động TGPL nhằm tạo lập luận cứ khoa học cho các giải pháp hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả vận hành hệ thống TGPL ở Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết,
có tính thời sự cấp bách. Đây chính là nhận thức xuất phát điểm cho việc nghiên
cứu sinh lựa chọn đề tài “ Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
hiện nay” và triển khai thực hiện đề tài trong quy mô luận án tiến sĩ luật học.

2


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án có mục tiêu tổng quát là xây dựng luận cứ khoa học cho các giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm sáng tỏ nhận thức lý luận về hoạt động TGPL và yêu cầu

điều chỉnh pháp luật về hoạt động TGPL hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng pháp luật về hoạt động TGPL và thực tiễn
hoạt động TGPL ở Việt Nam hiện nay. Chỉ rõ những ưu điểm, thành công, hạn
chế, vướng mắc và nguyên nhân của thực trạng.
- Nhận diện những vấn đề pháp lý và thực tiễn đang đặt ra đối với hoạt
động TGPL ở Việt Nam hiện nay.
- Xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
TGPL theo pháp luật Việt Nam phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người,
chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước ta và tiến trình cải cách tư pháp ở Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quan điểm khoa học về hoạt động TGPL.
- Quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam.
- Thực tiễn tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam.
- Kinh nghiệm của một số quốc gia trong xây dựng mô hình TGPL và triển
khai hoạt động TGPL.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung:
Theo nghĩa rộng, việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho các đối tượng
trong xã hội nhằm hỗ trợ, giúp đỡ họ tiếp cận công lý, bảo đảm công bằng xã hội
có thể được tiến hành bởi nhiều chủ thể đối với nhiều loại đối tượng và thông
qua những loại hình, nội dung, phương thức triển khai đa dạng. Căn cứ vào mục
tiêu và tính chất miễn phí cho đối tượng thụ hưởng dịch vụ thì hoạt động thiện

3


nguyện trong cung cấp dịch vụ pháp lý cho các đối tượng trong xã hội với đặc
trưng là người thực hiện dịch vụ có năng lực thực hiện sự hỗ trợ, giúp đỡ miễn

phí về mặt pháp lý nhưng bản thân họ không được hưởng bất cứ khoản thù lao
nào cũng có thể được xem là một loại hình của TGPL.
Tuy nhiên, theo nghĩa hẹp, TGPL chủ yếu là trách nhiệm của nhà nước
trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho các đối tượng thuộc chính sách
hỗ trợ của nhà nước và được tiến hành bởi các chủ thể, nội dung, hình thức và
phương pháp theo luật định. Theo nghĩa này, nhà nước có thể chuyển giao một
số hoạt động TGPL cho xã hội thực hiện (xã hội hóa TGPL) nhưng trách nhiệm
bảo đảm nguồn tài chính chi trả cho việc cung cấp các dịch vụ pháp lý cho
những người phải đối mặt với pháp luật nhưng không có khả năng trả phí dịch
vụ vẫn chủ yếu thuộc về nhà nước. Gánh nặng ngân sách nhà nước trong chi trả
cho hoạt động TGPL có thể được giảm thiểu bởi khả năng huy động và tự
nguyện bảo đảm nguồn kinh phí cung cấp dịch vụ pháp lý của các tổ chức xã hội
tham gia hoạt động TGPL.
TGPL bao gồm cả phương diện hệ thống tổ chức TGPL và phương diện các
hoạt động TGPL cụ thể. Vì vậy, có thể tiếp cận nghiên cứu tổng thể, đồng thời về tổ
chức và hoạt động TGPL, hoặc cũng có thể đi sâu nghiên cứu từng mảng vấn đề về
tổ chức hay về hoạt động TGPL và đặt chúng trong mối liên hệ với nhau.
Trong khuôn khổ của luận án tiến sĩ luật học, luận án triển khai nghiên cứu
TGPL theo nghĩa hẹp, tập trung làm rõ các khía cạnh lý luận, pháp luật và thực
tiễn về TGPL do chủ thể là các cơ quan nhà nước tiến hành. Ở mức độ nhất định,
luận án đề cập vấn đề xã hội hóa TGPL như một xu hướng và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Luận án –
như chủ đề đã xác định - sẽ dành phần lớn dung lượng để làm sáng tỏ khía cạnh
hoạt động TGPL theo pháp luật Việt Nam. Hệ thống tổ chức TGPL và công tác
quản lý nhà nước về TGPL cũng sẽ được đề cập trong luận án trong phạm vi
những khía cạnh có liên quan đến hoạt động TGPL nhưng không thuộc đối
tượng nghiên cứu chính của luận án.

4



- Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu dựa trên số liệu, thông tin phản ánh
thực trạng hoạt động TGPL trên địa bàn cả nước, đồng thời có chú trọng nghiên cứu
điển hình tại một số địa bàn thuộc vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
- Phạm vi thời gian: Luận án nghiên cứu hoạt động TGPL từ khi ban hành
Quyết định số 734/TTg về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối
tượng chính sách đến nay và dựa trên số liệu khảo sát thực tế trong khoảng thời
gian 10 năm trở lại đây.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
TGPL là một trong những vấn đề xã hội - pháp lý rất quan trọng và phức
tạp của đời sống xã hội hiện đại. Vì vậy, để đảm bảo tính khoa học và tính chính
trị - xã hội của kết quả nghiên cứu, luận án được triển khai dựa trên phương pháp
luận sau:
- Các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền lực nhân dân, quyền
con người, về nhà nước và pháp luật và về mối quan hệ giữa nhà nước, cá nhân,
xã hội trong các thể chế chính trị khác nhau.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, nhân quyền và về tính chất phục vụ
của nhà nước, đặc biệt là các quan điểm của Người trong xây dựng và hoàn thiện
pháp luật dân chủ, đảm bảo an sinh xã hội, đảm bảo đoàn kết dân tộc trong xây
dựng và phát triển đất nước.
- Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện cách
nhìn nhận các vấn đề liên quan đến quyền con người và quyền công dân, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển bền vững đất nước.
- Nguyên lý phổ biến về chủ quyền nhân dân, quyền con người, xã hội công
dân, mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân (Học thuyết Khế ước xã hội, Học
thuyết Quyền con người, Học thuyết Nhà nước phúc lợi chung,....)
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng bao quát trong tất cả các
chương, mục của luận án để phát hiện, luận giải thuyết phục về các nội dung liên

quan đến chủ đề luận án.

5


- Phương pháp cấu trúc hệ thống: được sử dụng chủ yếu trong chương 2 và
3 của luận án nhằm nhận diện và đánh giá sự vận hành của các yếu tố thuộc mô
hình hoạt động TGPL ở Việt Nam.
- Phương pháp luật học so sánh: được sử dụng chủ yếu trong chương 2 và 4
của luận án để làm sáng tỏ các mô hình pháp lý về hoạt động TGPL ở các quốc
gia trên thế giới và những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
- Phương pháp thống kê: được sử dụng trong chương 1 và 3 của luận án
nhằm tập hợp, đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và thực trạng
hoạt động TGPL ở Việt Nam.
- Phương pháp xã hội học: được sử dụng trong chương 2, 3, 4 của luận án
nhằm tìm hiểu mối liên hệ nền tảng của mô hình hoạt động TGPL ở Việt Nam.
- Phương pháp lịch sử: được sử dụng chủ yếu trong chương 3 nhằm nhận
diện các đặc điểm và các bước tiến trong nhận thức và hiện trạng của hoạt động
TGPL ở Việt Nam.
- Phương pháp dự báo khoa học: được sử dụng chủ yếu trong chương 4 nhằm
dự báo về các yêu cầu và xu hướng hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án dựa trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của một số công trình
khoa học về cùng chủ đề đã được thực hiện trong thời gian vừa qua ở trong nước
và nước ngoài, đồng thời luận án có những phát hiện, luận giải và đóng góp mới
về mặt khoa học, thể hiện trên những điểm sau:
- Hệ thống hóa các quan điểm nghiên cứu về hoạt động TGPL theo pháp
luật. Trên cơ sở đó, luận án phát hiện những vấn đề lý luận, thực tiễn về hoạt
động TGPL cần tiếp tục nghiên cứu, chỉ rõ hướng đề xuất các giải pháp tiếp tục
hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL ở Việt Nam hiện nay.

- Đưa ra quan niệm về TGPL và hoạt động TGPL, xác định các đặc điểm
của TGPL, nêu và luận giải vai trò của hoạt động TGPL
- Phân tích đầy đủ, toàn diện các khía cạnh lý luận và nhu cầu điều chỉnh
pháp luật về chủ thể, đối tượng, nội dung, các hình thức hoạt động TGPL.

6


- Làm rõ nội dung và khả năng ảnh hưởng của một số yếu tố đến hiệu quả
hoạt động TGPL.
- Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam và thực tiễn triển khai các hoạt
động TGPL theo pháp luật Việt Nam. Đánh giá các ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân của ưu điểm, hạn chế trong hoạt động TGPL ở Việt Nam hiện nay.
- Xác định các quan điểm mang tính chất định hướng và đề xuất một số giải
pháp nhằm hiện thực hóa các quan điểm nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL theo
pháp luật Việt Nam. Các giải pháp liên quan đến nâng cao nhận thức, hoàn thiện
pháp luật và triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý 2017, điều chỉnh mô hình
TGPL, xây dựng nguồn nhân lực TGPL, xã hội hóa hoạt động TGPL, phát hiện nhu
cầu TGPL và nâng cao ý thức pháp luật của người dân … đều có tính mới và khả thi.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần chuẩn hóa nhận thức lý luận về hoạt động TGPL, tạo nền
tảng tiếp tục hoàn thiện pháp luật về TGPL, nâng cao trách nhiệm của nhà nước
và xã hội trong thực hiện dịch vụ pháp lý, thúc đẩy các hoạt động TGPL, qua đó
củng cố những giá trị nhân văn của xã hội Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được áp dụng trong xây dựng các
phương án lập pháp liên quan đến TGPL ở Việt Nam, ứng dụng trong tổ chức và
hoạt động của hệ thống tổ chức TGPL từ trung ương đến địa phương. Luận án có
thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và đào tạo thuộc lĩnh
vực khoa học pháp lý và khoa học quyền con người.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
án được kết cấu thành 04 chương:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra về đề
tài luận án
Chƣơng 2: Những vấn đề lý luận về hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật
Chƣơng 3: Thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
Chƣơng 4: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp
pháp lý theo pháp luật Việt Nam hiện nay

7


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài luận án
TGPL là một trong những chính sách xã hội hết sức quan trọng của Đảng
và Nhà nước ta cũng như của các quốc gia trên thế giới, gắn liền với nhận thức
ngày càng đầy đủ, rõ nét hơn về dân chủ, nhân quyền trong xã hội đương đại.
Điều này tạo ra niềm hứng khởi cho nhiều nhà nghiên cứu khi lựa chọn chủ đề
nghiên cứu. Theo đó, đã có hàng trăm công trình nghiên cứu với các quy mô lớn,
nhỏ đã được triển khai và công bố dưới các hình thức ấn phẩm có liên quan ở các
mức độ khác nhau đến đề tài luận án Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật
Việt Nam hiện nay.
Về cơ bản, có thể tìm hiểu nội dung các công trình nghiên cứu trên các khía
cạnh sau:
1.1.1. Tình hình nghiên cứu những vấn đề lý luận của đề tài luận án
Hầu như trong tất cả các công trình liên quan đến chủ đề TGPL đều dành
một nội dung quan trọng để làm sáng tỏ một số khía cạnh lý luận về TGPL và điều
chỉnh pháp luật về TGPL, xem đó là tiền đề nhận thức để đánh giá thực trạng tổ

chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam, cũng như đưa ra các kiến nghị nhằm tiếp tục
nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL, bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở
Việt Nam hiện nay.
Ở trong nước, có thể điểm danh một số công trình tiêu biểu như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (2004), Luận cứ khoa học và thực tiễn xây
dựng pháp lệnh trợ giúp pháp lý do Viện nghiên cứu khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp)
phối hợp với Cục Trợ giúp pháp lý (Bộ Tư Pháp) thực hiện. Đây gần như là công
trình nghiên cứu đầu tiên có quy mô lớn, nội dung phong phú, đề cập nhiều vấn đề,
được thực hiện bởi đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm, hướng trực diện vào việc
phục vụ xây dựng Pháp lệnh về TGPL ở Việt Nam. Trong Báo cáo phúc trình, đề tài

8


đã dành một phần quan trọng để làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc xây dựng Pháp
lệnh TGPL. Nhiều vấn đề đã được đặt ra phân tích như: quan niệm về TGPL; nhu
cầu TGPL; đặc điểm cơ bản về tổ chức và hoạt động TGPL; nhu cầu điều chỉnh pháp
luật và tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Pháp lệnh TGPL ở Việt Nam hiện
nay... Như vậy, mặc dù phúc đáp mục tiêu luận giải cho sự cần thiết ban hành một
văn bản pháp điển cụ thể về TGPL ở Việt Nam nhưng đề tài đã mở rộng phạm vi
nghiên cứu, đạt được thành công trong việc bước đầu cung cấp cách hiểu cơ bản nhất
về TGPL và điều chỉnh pháp luật về TGPL tương thích với điều kiện cụ thể của Việt
Nam những năm đầu thế kỷ 21.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (2015), Luận cứ khoa học và thực tiễn sửa
đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý, do Viện nghiên cứu khoa học Pháp lý (Bộ Tư
pháp) là cơ quan chủ trì và Cục Trợ giúp pháp lý (Bộ Tư Pháp) là đơn vị thực hiện.
Đề tài triển khai trong bối cảnh Luật Trợ giúp pháp lý (2006) đã bộc lộ những bất
cập chỉ sau gần 10 năm triển khai và xuất hiện những yêu cầu mới của việc tăng
cường bảo đảm quyền con người, nâng cao trách nhiệm của Nhà nước theo tinh
thần Hiến pháp năm 2013. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế, bất

cập của Luật Trợ giúp pháp lý 2006 là do vào thời điểm ban hành Luật, chúng ta
chưa có được nhận thức rõ về bản chất, yêu cầu của hoạt động TGPL, vì vậy
chưa nhận diện đầy đủ về phạm vi, phương pháp điều chỉnh pháp luật đối với tổ
chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam. Nhằm khắc phục những khiếm khuyết đó,
Đề tài đã dành một dung lượng đáng kể trong phần 1 của Báo cáo Tổng hợp để trở
lại làm rõ những vấn đề như: Lịch sử hình thành và phát triển TGPL; bản chất, khái
niệm TGPL; quyền được TGPL và người được TGPL; yêu cầu điều chỉnh pháp luật
đối với tổ chức và hoạt động TGPL và trách nhiệm của nhà nước trong xây dựng
pháp luật, triển khai hoạt động TGPL. Có thể nói, những khía cạnh lý luận được đề
cập trong đề tài này là một bước tiến đáng kể cả về phạm vi nội dung cũng như chiều
sâu của nhận thức so với đề tài cấp Bộ về cùng chủ đề này và do chính cơ quan chủ
trì và cơ quan thực hiện tiến hành vào năm 2004.

9


- Đề án cấp Bộ (2014) Nghiên cứu mô hình trợ giúp pháp lý trong xu hướng
xã hội hóa dịch vụ công, do TS. Dương Thanh Mai – chuyên gia cao cấp của Bộ
Tư pháp làm chủ nhiệm. Đề án có mục tiêu tìm kiếm phương án xây dựng mô
hình TGPL trong bối cảnh xã hội hóa dịch vụ công, vì vậy khía cạnh lý luận của
đề án hướng trọng tâm vào việc đưa ra quan niệm về TGPL, xem xét nhu cầu xã
hội hóa dịch vụ công, tính tất yếu cần chuyển đổi mô hình TGPL theo hướng xã
hội hóa hoạt động TGPL, nghiên cứu xu hướng vận động và mô hình các yếu tố
xã hội hóa TGPL của một số quốc gia trên thế giới, bối cảnh ở Việt Nam tác
động đến mô hình TGPL theo hướng xã hội hóa.... Như vậy, nội dung nghiên
cứu lý luận của Đề án gắn sát với định hướng hoạt động TGPL ở Việt Nam và
tạo cơ sở nền tảng cho việc thay đổi mô hình điều chỉnh pháp luật về hoạt động
TGPL ở Việt Nam hiện nay.
- Sách “Quyền con người“ do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, xuất bản năm
2011. Đây là cuốn sách trình bày một cách hệ thống những kiến thức cơ bản nhất về

quyền con người. Ngoài những vấn đề chung về lý luận và lịch sử quyền con người,
cuốn sách bàn sâu về trách nhiệm của Nhà nước và cơ chế pháp lý bảo đảm, bảo vệ,
thúc đẩy quyền con người, đặc biệt trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền của nhóm
người dễ bị tổn thương.
- Sách “ Luật Quốc tế về quyền của các nhóm dễ bị tổn thương“ do Khoa
Luật Đại học Quốc gia biên soạn và xuất bản năm 2011. Cuốn sách tập trung làm
sáng tỏ các định chế pháp luật và cơ chế quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy quyền của
một nhóm dễ bị tổn thương. Mặc dù không trực tiếp đề cập tới hoạt động TGPL và
cũng chưa luận bàn về pháp luật quốc gia nhưng trên bình diện tổng thể, cuốn sách
đã đưa ra cách hiểu về nhóm dễ bị tổn thương, luận giải về nhu cầu được bảo đảm,
bảo vệ và trợ giúp đối với việc thực hiện quyền của các nhóm dễ bị tổn thương.
- Sách “Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại: Lý luận và thực tiễn“ do
PGS.TS Thái Vĩnh Thắng công bố ( bản tái bản năm 2010 tại NXB Tư pháp).
Cuốn sách đề cập nhiều vấn đề liên quan đến chức năng của Nhà nước và pháp
luật tư sản đương đại, trong đó có dành Chương XII trình bày về Nghề luật sư và

10


Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của một số nhà nước Tư sản. Tại chương này,
vai trò và phạm vi hoạt động của luật sư trong lĩnh vực TGPL được tác giả
nghiên cứu như một kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho Việt Nam. Mục tiêu
đó được tác giả khởi đầu bằng việc nhận diện một số khía cạnh lý luận có liên
quan đến khái niệm TGPL, đặc thù hoạt động của luật sư trong lĩnh vực TGPL.
- Báo cáo Nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài về trợ giúp pháp lý do nhóm
chuyên gia của Bộ Tư pháp thực hiện năm 2015. Trong quá trình khảo sát hoạt
động TGPL ở một số nước, Báo cáo đã tập hợp một số khái niệm về TGPL của
các Tổ chức quốc tế (Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, Cơ quan phòng chống tội
phạm và ma túy của Liên Hợp Quốc – UNODC), của các quốc gia (Hàn Quốc,
Trung Quốc, Hà Lan...) và của một số cá nhân các nhà hoạt động nhân quyền,

các nhà nghiên cứu luật học... Báo cáo cũng đã nhận diện nhiều khái niệm liên
quan như: dịch vụ pháp lý miễn phí, người được TGPL, người thực hiện TGPL,
các mô hình TGPL, hình thức và lĩnh vực TGPL....Đây là những nội dung nghiên
cứu có đóng góp rất quan trọng trong bối cảnh nhận thức lý luận về TGPL ở Việt
Nam đang có nhiều khoảng trống khi tiến hành xây dựng mô hình điều chỉnh pháp
luật về tổ chức và hoạt động TGPL.
- Trong thời gian vừa qua, có một số lượng đáng kể các bài báo khoa học
được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành đã tập trung giải mã một hoặc một
vài vấn đề lý luận về TGPL nói chung, điều chỉnh pháp luật về TGPL nói riêng.
Có thể kể đến một số bài báo của tác giả Tạ Thị Minh Lý như: Bàn về khái niệm
trợ giúp pháp lý, Tạp chí nhà nước và pháp luật (2005); Khái niệm trợ giúp pháp
lý một số vấn đề cần bàn thêm, Đặc san Trợ giúp pháp lý, 2006; Bảo đảm quyền
con người cho người nghèo trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, Tạp chí nghiên cứu
lập pháp (2009); Bài báo của tác giả Phan Thị Thu Hà, Trợ giúp pháp lý – quan
niệm và mô hình ở một số nước trên thế giới, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số
5/2006; bài báo của tác giả Lê Quang Kiêm, Xã hội hóa hoạt động TGPL cho
người nghèo và đối tượng chính sách, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên
đề tháng 11/2010…Ngoài ra, một số bài báo khoa học đi theo hướng tìm hiểu

11


kinh nghiệm nước ngoài về TGPL như: bài viết“Kinh nghiệm đảm bảo chất
lượng trợ giúp pháp lý ở Vương quốc Anh” của tác giả Dương Quang Long công
bố trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng 10/2009; một số bài
viết công bố trên Cổng thông tin của Cục trợ giúp pháp lý – Bộ Tư pháp :“Trợ
giúp pháp lý ở Canada: Luật sư công làm việc hiệu quả hơn”; “Trợ giúp pháp lý
ở Phần Lan”; “Trợ giúp pháp lý ở ISRAEL”; “Trợ giúp pháp lý ở Phần Lan”…
Từ kết quả nghiên cứu, các bài viết này đã cho thấy sự đa dạng trong quan niệm
về TGPL, người được TGPL, người thực hiện TGPL, mô hình thực hiện TGPL

và nhu cầu điều chỉnh pháp luật về TGPL.
- Các luận án tiến sĩ tiếp cận từ góc độ của khoa học pháp lý có chủ đề đa
dạng gắn với lĩnh vực TGPL, tuy có đối tượng và phạm vi nghiên cứu khác nhau
nhưng đều dành một nội dung quan trọng luận bàn một số vấn đề lý luận liên
quan đến hoạt động TGPL. Đáng lưu ý là: Luận án tiến sỹ Luật học của Tạ Thị
Minh Lý (bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội, 2008) với chủ đề: Điều chỉnh pháp
luật về Trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới. Bản luận án dành
chương 1 tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận của điều chỉnh pháp luật về TGPL ở
Việt Nam. Tại chương này, luận án đã đưa ra quan niệm về TGPL, phân tích các
đặc điểm, vai trò, yêu cầu của TGPL, phạm vi nội dung và hình thức của điều
chỉnh pháp luật về TGPL. Ở mức độ nhất định, luận án cũng đề cập các yếu tố
tác động đến điều chỉnh pháp luật về TGPL và các tiêu chí xác định mức độ
hoàn thiện của điều chỉnh pháp luật về TGPL trong điều kiện đổi mới ở Việt
Nam; Luận án tiến sỹ Luật học của Nguyễn Văn Tùng (Bảo vệ tại Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2007) với chủ đề Quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay.
Trong luận án, tác giả đã dành dung lượng cần thiết cho việc làm sáng tỏ khái
niệm TGPL, các phương diện của hoạt động TGPL và nhu cầu sử dụng pháp luật
để quản lý nhà nước đối với hoạt động TGPL; Luận án tiến sỹ Luật học của
Nguyễn Huỳnh Huyện (Bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh năm 2012), với chủ đề Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý trong

12


điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Hướng tới mục tiêu khảo
sát và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về TGPL, luận án đi từ việc trình
bày quan điểm của tác giả về cấu trúc nội hàm khái niệm TGPL, đưa ra định
nghĩa về TGPL và thực hiện pháp luật về TGPL, phân tích đặc điểm, hình thức và
các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật TGPL trong điều kiện xây dựng Nhà

nước pháp quyền ở Việt Nam. Trong luận án, nhiều quan điểm khoa học liên quan
đến các vấn đề nói trên đã được tổng hợp và luận bàn, giúp hình dung được bức
tranh tổng quan về trạng thái nhận thức lý luận về TGPL ở giai đoạn trước khi Luật
Trợ giúp pháp lý được sửa đổi, bổ sung.
- Trong thời gian gần đây, hướng nghiên cứu ứng dụng trong điều chỉnh
pháp luật đối với hoạt động TGPL được nhiều học viên cao học triển khai tại các
không gian nghiên cứu hoặc đối tượng nghiên cứu cụ thể. Mặc dù trọng tâm
chính của các bản luận văn là phát hiện những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn để đề
xuất các giải pháp đổi mới tổ chức, mở rộng phạm vi xã hội hóa và nâng cao
hiệu quả hoạt động TGPL …nhưng ở các mức độ khác nhau, các luận văn đều
xuất phát từ việc hệ thống các quan điểm lý luận về TGPL, đưa ra cách hiểu về
TGPL, phân tích nội dung hoạt động TGPL, xác định vai trò chế định hóa của
pháp luật và làm rõ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách quan đối với
hoạt động TGPL. Trong số đó, có thể kể đến Luận văn thạc sĩ luật học Hoạt
động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo của Lê Thị Thúy tại
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012,; Luận văn thạc sỹ luật học Pháp
luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội
khác của Hoàng Thị Liên tại Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; Luận
văn thạc sĩ luật học Trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng của Hồ Minh
Hải tại Học viện Khoa học xã hội, 2014; Luận văn thạc sĩ luật học Tổ chức và
hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Gia Lai của Nguyễn
Thị Mộng Điệp tại Học viện Khoa học xã hội, 2017; Luận văn thạc sĩ luật học
Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận của Ngô
Văn Phát tại Học viện Khoa học xã hội, 2017;

13


Ở nước ngoài, phương diện nghiên cứu lý luận về hoạt động TGPL được
đẩy mạnh ở một số quốc gia có TGPL phát triển (Anh, Đức, Ấn Độ, Hà Lan,

Singapore...), chiếm một dung lượng lớn trong những công trình nghiên cứu
chuyên khảo như: Các phương thức đa dạng trong cung ứng dịch vụ pháp luật
và Trợ giúp pháp lý ở Hồng Kông do Hội đồng dịch vụ trợ giúp pháp lý xuất bản
năm 2006; Vấn đề đói nghèo và trợ giúp pháp lý – Tiếp cận công lý Tư pháp
hình sự của TS. S.Muralidhar (Ấn Độ); Lý luận và thực tiễn về chế độ trợ giúp
pháp lý ở Trung Quốc của GS.Nghiêm Quốc Hưng (Trung Quốc)….Ngoài ra,
nghiên cứu lý luận về TGPL còn được tiến hành lồng ghép trong một số công
trình mang tính giải thích cho một số văn bản chính trị - pháp lý như: Dự thảo
Luật mẫu về trợ giúp pháp lý trong hệ thống tư pháp hình sự do Cơ quan phòng
chống tội phạm và ma túy của Liên Hợp quốc (UNODC) chủ trì soạn thảo. Thậm
chí, nhiều khía cạnh lý luận về TGPL như: khái niệm TGPL, bản chất của TGPL,
các hình thức TGPL, người được TGPL, người thực hiện TGPL, tiêu chuẩn chuyên
môn, nghiệp vụ của TGPL, tính chất miễn phí và mức độ huy động nguồn lực xã hội
cho hoạt động TGPL...còn được làm sáng tỏ trong các công trình bình luận, giải thích
các văn bản pháp luật ở nhiều nước trên thế giới (Luật TGPL Slovenia năm 2001; Luật
TGPL Hàn Quốc; Điều lệ Tổng công ty TGPL Hàn Quốc; Luật TGPL Phần Lan năm
2002; Luật Trợ pháp lý của Nhà nước của Cộng hoà Lít-va năm 2005).
1.1.2. Tình hình nghiên cứu những vấn đề thực tiễn của đề tài luận án
Ở trong nước, từ góc tiếp cận của khoa học pháp lý, khía cạnh thực tiễn
của hoạt động TGPL thường được nhìn nhận và triển khai nghiên cứu trên hai
bình diện: (1) Thực trạng điều chỉnh pháp luật về TGPL ở Việt Nam và (2) Thực
tiễn thực hiện hoạt động TGPL ở Việt Nam. Điều này dễ nhận thấy trong hầu hết
các công trình nghiên cứu liên quan đến chủ đề TGPL ở Việt Nam:
- Trước hết, hai đề tài cấp Bộ đã nêu ở trên do Viện Khoa học pháp lý – Bộ
tư pháp chủ trì, Cục Trợ giúp pháp lý – Bộ tư pháp thực hiện (năm 2004 và năm
2015) đều dành phần 2 trong Báo cáo phúc trình để tổng kết thực tiễn điều chỉnh
pháp luật và thực tiễn thực hiện hoạt động TGPL. Những vấn đề được đề cập

14



bao gồm: quá trình hình thành và phát triển hệ thống pháp luật về TGPL; thực
trạng pháp luật thực định về TGPL hiện nay; thực tiễn áp dụng pháp luật về
TGPL; và trên cơ sở đó đưa ra đánh giá chung về những kết quả và hạn chế
trong thực tiễn áp dụng pháp luật về TGPL trong thời gian qua. Đáng lưu ý hơn,
đề tài cấp Bộ Luận cứ khoa học và thực tiễn sửa đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý
(2015) đã đi sâu vào mô tả, phân tích toàn diện thực trạng tổ chức và hoạt động
TGPL trong giai đoạn từ khi ban hành Luật trợ giúp pháp lý (2006) theo 07 nội
dung: (1) thực trạng tổ chức thực hiện TGPL; (2) thực trạng hoạt động TGPL lý;
(3) hiệu quả công việc của đội ngũ người thực hiện TGPL; (4)cơ quan quản lý về
TGPL; (5) người được TGPL; (6) quy trình thực hiện TGPL; (7) kinh phí thực
hiện TGPL theo Luật trợ giúp pháp lý năm 2006. Đề tài đưa ra được một số nhận
định rất khách quan và mang tính thuyết phục về các vấn đề như: hạn chế, bất
cập của Luật Trợ giúp pháp lý hiện hành và các văn bản hướng dẫn; thực tiễn
triển khai công tác TGPL rong xã hội hiện nay nhất là ở các vùng sâu, vùng xa,
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn... Cùng với nhận thức mới về lý
luận, kết quả nghiên cứu của đề tài trên phương diện thực tiễn đã được Cục Trợ
giúp pháp lý – Bộ Tư pháp ứng dụng ngay vào quá trình đề xuất sửa đổi, bổ sung
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 theo các vấn đề như: sửa đổi khái niệm TGPL,
mô hình tổ chức TGPL, quy định về người thực hiện TGPL; bổ sung nguyên tắc
hoạt động TGPL; về người được TGPL; quy trình thực hiện TGPL,…
- Tiếp cận từ góc độ xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý, Đề án cấp Bộ
Nghiên cứu mô hình trợ giúp pháp lý trong xu hướng xã hội hóa dịch vụ công do TS.
Dương Thanh Mai làm chủ nhiệm đã đưa ra những thông tin có được do kết quả khảo
sát về mặt thực tiễn trên các bình diện: (1) Thực trạng nhu cầu TGPL của các đối
tượng thuộc diện được hưởng TGPL; (2) Thực trạng các tổ chức thực hiện TGPL
của nhà nước; (3) Thực trạng đội ngũ người thực hiện TGPL; (4) Kết quả hoạt
động TGPL miễn phí của nhà nước; (5) Kinh phí thực hiện TGPL miễn phí của
nhà nước; (6) Thực trạng hoạt động TGPL của các chủ thể ngoài nhà nước
(TGPL xã hội) và quan hệ với xã hội hóa hoạt động TGPL nhà nước.


15


- Thực trạng pháp luật về TGPL ở Việt Nam được trình bày tập trung hơn
trong Báo cáo tổng hợp Trợ giúp pháp lý ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng
hoàn thiện do nhóm nghiên cứu thực hiện dưới sự chủ trì của TS. Ngô Đức Mạnh và
sự hỗ trợ kỹ thuật của UNDP tài trợ cho Bộ Tư pháp trong khuôn khổ Dự án
VIE/02/2015 (Hỗ trợ thực thi chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010). Báo cáo nghiên cứu này đã xem xét một cách đồng bộ các mặt được và
chưa được trong khuôn khổ chính sách và hệ thống các văn bản pháp luật về TGPL
cũng như các quy định khác có liên quan. Kế tiếp hướng đánh giá này, những hạn
chế, bất cập của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 tiếp tục được nhấn mạnh trong
Báo cáo tổng kết 08 năm thi hành Luật Trợ giúp pháp lý của Bộ Tư pháp.
- Thực tiễn thực hiện pháp luật về TGPL được tổng kết tương đối đầy đủ
trong công trình nghiên cứu chuyên khảo Báo cáo tổng kết 08 năm thi hành Luật
Trợ giúp pháp lý do Bộ Tư pháp thực hiện vào tháng 6/2016 (Báo cáo số
158/BC/BTP ngày 30/6/2016). Mặc dù được thực hiện trong quy mô Báo cáo
nhưng công trình này thực sự chứa đựng hàm lượng khoa học cao, cho phép hình
dung bức tranh thực trạng đa chiều, nhiều màu sắc, nhiều khoảng sáng, tối về
TGPL. Báo cáo đưa ra những thông tin về kết quả đạt được liên quan đến công
tác xây dựng và hoàn thiện thể chế để triển khai thi hành Luật; thực tiễn tổ chức
quán triệt, truyền thông để nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về pháp
luật TGPL; thực trạng tổ chức thực hiện rõ nét và người thực hiện rõ nét; thực
trạng công tác tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực
hiện rõ nét; chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân
tham gia thực hiện, đóng góp, hỗ trợ hoạt động rõ nét. Báo cáo cũng cung cấp
các số liệu cụ thể về kết quả thực hiện các vụ việc TGPL; công tác phối hợp
trong TGPL; công tác hợp tác quốc tế về TGPL. Báo cáo đặc biệt chú ý phát
hiện những hạn chế bất cập trong quy định của Luật và trong triển khai thi hành

Luật Trợ giúp pháp lý, đồng thời chỉ ra các nguyên nhân của hạn chế, bất cập
trong 8 năm triển khai Luật Trợ giúp pháp lý, bao gồm các nguyên nhân khách

16


quan và các nguyên nhân chủ quan. Ở mức độ nhất định, Báo cáo cũng chỉ ra
một số kinh nghiệm trong điều chỉnh và thi hành Luật Trợ giúp pháp lý 2006.
- Trong hầu hết các công trình nghiên cứu về TGPL được công bố dưới
hình thức ấn phẩm là sách chuyên khảo đều bao gồm một nội dung quan trọng
nghiên cứu thực tiễn tổ chức và hoạt động về TGPL ở Việt Nam hiện nay. Bên
cạnh đó, một số sách chuyên khảo xác định mục tiêu chủ đạo là yêu cầu nghiên
cứu trực diện các vấn đề thực tiễn TGPL ở Việt Nam. Điển hình là: Cuốn 10
năm hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hướng phát triển do Cục Trợ giúp
pháp lý – Bộ Tư pháp ấn hành năm 2008; Cuốn: Cẩm nang tổ chức thực hiện
Trợ giúp pháp lý do Cục Trợ giúp pháp lý- Bộ Tư pháp biên soạn năm 2009;...
- Nghiên cứu thực tiễn tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học trong những nghiên cứu đơn lẻ và thường
được công bố dưới hình thức là các bài báo khoa học. Phạm vi và đối tượng
nghiên cứu theo hướng này rất đa dạng và cụ thể với giá trị ứng dụng cao. Điều
này có thể nhận thấy qua sự thống kê sơ lược, mang tính điển hình sau: Trợ giúp
pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Hòa Bình của Đinh Thị Oanh, Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật số 8/2008; Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của công
dân của TS. Hoàng Văn Nghĩa, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 15, tháng
8/2009; Chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý của TS. Tạ Thị Minh Lý, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp số 13, tháng 7/2009; Xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp
lý cho người nghèo và đối tượng chính sách của Lê Quang Kiêm, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng 11/2010; Hòa giải trong hoạt động trợ giúp
pháp lý của Nguyễn Huỳnh Huyện, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề
về trợ giúp pháp lý năm 2010; Khi luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý với hình

thức tham gia tố tụng của Lê Nguyễn Kim Hoàng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật số chuyên đề tháng 6/2011; Hình thức tư vấn pháp luật trong trợ giúp pháp
lý” của tác giả Đào Thị Anh Tuyết, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề
tháng 6/2011; Sau năm năm thực hiện Luật trợ giúp pháp lý ở Quảng Bình của
Trần Tiến Hải, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng 3/2012;…

17


Ngoài ra, có nhiều bài viết cung cấp các thông tin về thực tiễn hoạt động
TGPL ở Việt Nam, được trình bầy trong kỷ yếu của nhiều cuộc Hội thảo khoa
học do Cục Trợ giúp pháp lý – Bộ Tư pháp tổ chức như: Hội thảo Sơ kết 05 năm
thi hành Luật Trợ giúp pháp lý (2011); Hội thảo Lấy ý kiến góp ý Dự thảo Nghị
định sửa đổi, bổ sung Nghị định 07/2007/NĐ-CP (2012); Hội thảo Về định hướng
đổi mới công tác TGPL (2013); Hội nghị Tổng kết 08 năm thi hành Luật TGPL
(2015); Hội thảo định hướng xây dựng Luật Trợ giúp pháp lý

sửa đổi

(2015)….Mặc dù chưa được công bố chính thức trên các Tạp chí chuyên ngành
nhưng lượng thông tin do các bài viết nói trên phản ánh hàm lượng khoa học đậm
đặc và là nguồn tư liệu vật chất rất quan trọng cần được tham khảo khi triển khai
các nghiên cứu tiếp theo về hoạt động TGPL theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
- Trong thời gian gần đây, các luận án, luận văn trong lĩnh vực khoa học
pháp lý thường lựa chọn chủ đề gắn với thực tiễn để tăng cường tính ứng dụng
của công trình nghiên cứu. Theo đó, các luận án nghiên cứu về TGPL ở Việt
Nam đều dành chương 2 hoặc chương 3 để luận bàn về khía cạnh thực tiễn
TGPL (thực tiễn pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật) với những mức độ
khảo sát và đánh giá khác nhau. Chuyên sâu theo hướng này phải kể đến: Luận
án Tiến sỹ Luật học Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong

điều kiện đổi mới của Tạ Thị Minh Lý thực hiện năm 2008 trong đó tác giả dành
chương 2 để phân tích các đặc điểm và yêu cầu TGPL đặc thù của Việt Nam, mô
tả, đánh giá quá trình xây dựng và thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với TGPL
ở Việt Nam, chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành; Luận án Tiến
sỹ Luật học Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam của Nguyễn Huỳnh Huyện thực hiện năm
2012, với điểm nhấn thuộc về chương 3 bao quát nội dung thực trạng pháp luật
về TGPL và đi sâu phân tích thực tiễn triển khai các hình thức, nội dung thực
hiện pháp luật về TGPL ở Việt Nam.
Như đã nêu ở trên, phần lớn các luận văn về TGPL đều lựa chọn nghiên
cứu trong một không gian xác định hay một đối tượng cụ thể. Thống kê cho thấy

18


có khoảng 20 luận văn thạc sĩ (được bảo vệ tập trung ở Học viện Khoa học xã
hội, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội và Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh) đi theo định hướng này. Do vậy, khối lượng thông tin và những ý kiến
nhận xét xuất phát từ góc nhìn thực tiễn rất phong phú và đa chiều. Khía cạnh
này chiếm dung lượng chủ đạo trong các luận văn sau: Luận văn thạc sĩ luật học
Phát triển trợ giúp pháp lý ở cơ sở của Đặng Thị Loan tại khoa Luật trường Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2009; Luận văn thạc sĩ luật học Trợ giúp pháp lý từ thực
tiễn tỉnh Sóc Trăng của Hồ Minh Hải tại Học viện Khoa học xã hội, 2014; Luận
văn thạc sĩ luật học Tổ chức và hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý từ
thực tiễn tỉnh Bắc Ninh của Nguyễn Việt Khoa tại Học viện Khoa học xã hội,
2016; Luận văn thạc sĩ luật học Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp
pháp lý từ thực tiễn tỉnh Gia Lai của Nguyễn Thị Mộng Điệp tại Học viện Khoa
học xã hội, 2017; Luận văn thạc sĩ luật học Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp
lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận của Ngô Văn Phát tại Học viện Khoa học xã hội,
2017; Luận văn thạc sĩ luật học Chất lượng hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt

Nam của Phạm Quang Đại.…
- Gắn với nghiên cứu về thực tiễn TGPL ở trong nước, để phục vụ cho quá
trình hoàn thiện pháp luật về TGPL, Bộ Tư pháp đã chủ trì một hướng nghiên
cứu thực tiễn TGPL ở nước ngoài nhằm tìm kiếm kinh nghiệm điều chỉnh pháp
luật và tổ chức thực hiện pháp luật về TGPL ở những quốc gia có hoạt động
TGPL thành công. Kết quả của hướng nghiên cứu này được trình bày tập trung
trong Báo cáo Nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài về trợ giúp pháp lý do nhóm
chuyên gia của Bộ Tư pháp thực hiện năm 2015 thông qua sự khảo sát thực tiễn
của nhiều nước. Ngoài ra có thể kể đến một số Báo cáo được thực hiện riêng rẽ
trong khoảng thời gian từ năm 1998 đến năm 2015 như: Báo cáo kết quả khảo
sát tại Philippines năm 1998; Báo cáo kết quả khảo sát tại Lít-va năm 2004; Báo
cáo kết quả khảo sát tại Trung Quốc năm 2004; Báo cáo kết quả khảo sát tại
Ailen (2013); Báo cáo kết quả khảo sát tại Hàn Quốc (2013); Báo cáo kết quả
khảo sát tại bang Victoria (Úc) (2014); Báo cáo kết quả khảo sát tại Mỹ (2014),

19


Báo cáo kết quả khảo sát tại Nhật Bản (2015), Báo cáo kết quả khảo sát tại
Argentina (2015)…
Ở nước ngoài, mặc dù những vấn đề thực tiễn về hoạt động TGPL ở Việt
Nam được triển khai nghiên cứu rất sôi động ở trong nước, nhưng có khá ít công
trình do người nước ngoài triển khai nghiên cứu hoặc được tổ chức nghiên cứu
trong không gian nước ngoài. Khảo sát của nghiên cứu sinh cho thấy, các nhà
nghiên cứu ở nước ngoài chỉ tiếp cận thực tiễn Việt Nam thông qua việc tài trợ
dự án hoặc tham gia với tư cách chuyên gia trong các hoạt động điều tra để
khuyến nghị về hoạt động TGPL cho những đối tượng cụ thể ở Việt Nam. Trong
trường hợp này, thao tác điều tra và ý kiến nhận xét của chuyên gia về TGPL ở
Việt Nam cũng giúp nhận diện rõ hơn các khía cạnh thực tiễn của hoạt động
TGPL ở Việt Nam, tạo lập được nguồn tư liệu vật chất rất cần thiết cho việc triển

khai nghiên cứu toàn diện về TGPL ở Việt Nam. Một trong những công trình
điển hình theo hướng này là Báo cáo dự thảo nghiên cứu ngắn hạn về Hỗ trợ
vấn đề trợ giúp pháp lý cho trẻ em và người chưa thành niên ở Việt Nam do Tổ
chức hỗ trợ trẻ em Thụy Điển chủ trì thực hiện năm 2002).
Tình hình thiếu vắng các công trình nghiên cứu chuyên khảo do cá nhân
các nhà nghiên cứu nước ngoài thực hiện về thực tiễn hoạt động TGPL ở Việt
Nam có thể được giải thích bởi mục tiêu ứng dụng của hoạt động nghiên cứu
hướng tới phục vụ trực tiếp cho quá trình sửa đổi, hoàn thiện pháp luật Việt Nam
hoặc đề xuất mô hình TGPL áp dụng cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu và luận giải về các đề xuất, kiến nghị của
đề tài luận án
Các nghiên cứu về TGPL ở Việt Nam đều xuất phát từ yêu cầu tìm kiếm
mô hình TGPL phù hợp, hoàn thiện pháp luật về TGPL, nâng cao chất lượng
hoạt động TGPL nhằm phát huy vai trò của nhà nước và xã hội trong bảo đảm
quyền con người, quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương. Chính vì vậy, kết
quả nghiên cứu của hầu hết các công trình nghiên cứu ở các quy mô khác nhau

20


×